Từ bao năm nay tôi có một cái lệ cho riêng mình: sáng đi làm nghe đài radio Mỹ, chiều về nghe đài Việt Nam. Làm hoài thành thói quen, rồi lâu ngày trở thành chuyện tự nhiên, cho tới gần đây tôi mới tự thắc mắc tìm hiểu lý do. Và tôi nghiệm ra rằng mỗi ngày từ khi lùi xe ra khỏi garage là tôi đã chuẩn bị tư thế ứng phó với việc làm. Những câu hỏi đến từ cấp trên và cấp dưới, từ văn phòng cùng dãy tới phía bên kia địa cầu; những buổi họp với người gặp hàng ngày và qua internet với người chưa bao giờ biết mặt; những khúc mắc giải quyết được trong năm phút hay những vấn đề có thể làm công việc khựng lại cả tháng …. chuyện gì cũng có thể xảy ra trong ngày.
Sáng sớm khi nghe những tin tức nóng hổi và
gắn liền với đời sống chung quanh từ đài radio Mỹ, đối với tôi, giống như người
thợ vô dầu mỗi sáng trước khi đề máy. Còn buổi chiều khi công việc đã xong, tôi
chọn tiếng Việt để đồng hành với tôi trở về nơi bình an đang chờ đón. Có những
ngày đầu óc mệt mỏi, không cần chú ý lắng tai, tiếng Việt thân thương nghe sơ
vẫn hiểu, câu nhạc quen thuộc dù bật lên nửa chừng cũng vẫn đầy âm điệu thân
mến, du dương…
Một hôm sửa đường, kẹt xe quá sức. Ngồi trên xe nhích
nhích, cứ mười phút radio lại báo “quãng xa lộ 237 West dẫn vào Santa Clara vẫn
còn kẹt cứng như bãi đậu”, tôi hết muốn nghe. Vói tay nhấn nút chuyển qua đài
Việt Nam, bỗng cái gì đó chụp lấy sự chú ý của tôi. Một giọng nói. Không phải
là giọng của xướng ngôn viên chuyên nghiệp mà là một giọng nói địa phương miền
Trung.
Nghe tiếp tôi mới biết đó là trích đoạn phỏng vấn một giáo
dân tại Cồn Dầu, một giáo xứ nhỏ bé ven sông Hàn, Đà Nẵng. Thêm một chuyện công
an và chính quyền địa phương thừa lệnh những thế lực bí mật trên cao ngang
nhiên đánh dân tới chết để bật gốc họ khỏi khu đất có vị trí đẹp. Người ta muốn
biến những mảnh đất đẹp đó thành khu “sinh thái”, thành đô thị thượng lưu, nơi
một căn biệt thự trị giá hơn tài sản của hàng chục thế hệ người dân đã đổ mồ
hôi nước mắt khai phá và xây dựng chính khu đất đó. Chuyện Việt Nam bao giờ
cũng làm tôi đau lòng, suy nghĩ, nhưng lần đó giọng nói mới là điều đưa tư
tưởng của tôi đi xa. Giọng Đà Nẵng tình cờ gặp giữa SanJose sao thân thương
quá! Cách phát âm đặc biệt, lâu lắm mới được nghe một cách chân chất, không
chút sửa sang, gợi lên cái gì nao lòng bàng bạc mà chính tôi cũng không gọi tên
được.
Giống như cảm giác chợt nghe một bài dân ca ở thành phố
Berkeley, hơn hai mươi năm trước.
Đêm, gió lớn và trời rất lạnh. Mười một giờ thư viện đóng
cửa, tôi lầm lũi ra xe đi về. Đi ngang một quán cà phê nhỏ, bụi bặm, tôi chợt
khựng chân. Rõ ràng là bài Lý Chim Quyên của Việt Nam thổi bằng sáo! Tôi đứng
lặng. Gió thổi rung các cành cây, cả con phố dài chỉ còn bóng tôi quẩy cái ba
lô to hơn nửa người, đổ dài dưới ánh đèn đường vàng vọt. Nhưng tôi vẫn thấy ấm
cúng và vui. Tôi lẩm nhẩm hát theo “Chim quyên quầy, quen trái quây… Nhãn lồng
… Nhãn lồng ….” Và sực nhớ hôm đó là 29 Tết.
Hồi còn nhỏ ở Sài gòn, thời chiến tranh, Bố Mẹ tôi là nhà
giáo nên đủ cơm ăn áo mặc là vui rồi, chẳng dư dả cho con “học đàn, học
địch”. Vì theo quan niệm xưa nên Bố Mẹ tôi chỉ muốn chúng tôi học, học, học,
chứ không cổ súy chuyện “văn nghệ, văn gừng”. Thỉnh thoảng Bố tôi mới cho nghe
nhạc từ vài cái đĩa nhựa qúy. Những bài hòa tấu như Nocturne in C sharp Minor
của Chopin, MoonLight Sonata của Bethoveen, Air on G string của Bach đã mê hoặc
tôi. Trong trí óc còn non của tôi thời bấy giờ, chỉ có nhạc bán cổ điển Tây
phương là hay, là mẫu mực của âm nhạc. Còn mấy bài dân ca “Ví dầu cầu ván đóng
đinh…” , mấy bài Lý thỉnh thoảng nghe trên TiVi thì cũng dễ thương nhưng thường
quá! Con nít Việt Nam thời đó, có lẽ ít nhiều đều mang tâm trạng “nỗi buồn
nhược tiểu”(*). Nói về cô gái đẹp thì phải “đẹp như lai”, nói về lịch sự thì
phải “sang như Tây”, còn nét tiểu thư lãng mạn thì phải giống Hàn Ni mong manh
bên phím dương cầm trong phim Mùa Thu Lá Bay của Hồng Kông thì mới đủ “quý
phái”.
Rồi tôi qua Mỹ, may mắn học được bao nhiêu điều, và càng
học tôi càng thấy nước Mỹ là cường quốc thế giới cũng vì họ biết gom cái hay
cái đẹp. Từ thời lập quốc, nước Mỹ đã là nơi gặp gỡ của kinh nghiệm và kiến
thức đến từ khắp mọi nơi. Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ hiểu rõ hơn ai hết rằng khi
những nét văn hóa cộng lại với nhau thì kết quả là một xã hội sinh động, mạnh
mẽ, và nhạy bén với mọi thay đổi. Gắn liền với mỗi dân tộc là một gia sản
văn hóa độc đáo, vì thế những gì thuần chất là rất quý. Những điều đó, sống ở
Mỹ, tôi cảm thấy và hiểu rõ nhưng vẫn chưa in sâu vào óc tôi…
Cho đến một hôm…
Tôi tham dự buổi trình diễn hôm đó vì cháu David con cô em
đánh đàn piano rất giỏi. Hôm đó cháu đại diện cho trường trong một buổi trình
diễn tài năng học sinh. Ở Mỹ, con nít quả thật là sướng, hầu như gia đình trung
lưu nào cũng cố gắng cho con học ít nhất một nhạc cụ. Chương trình chỉ gồm học
sinh trung học trong một học khu mà rất các cháu chơi xuất sắc từ những bài cổ
điển tới những tấu khúc nổi tiếng đương thời. Cháu David trổ tài chạy ngón bằng
bài Nostaliga vũ bão của Yanni, nhìn tay cháu bay trên phím đàn mà tôi ngẩn ngơ
thán phục. Nhưng thú thật, toàn là piano với vài bài violin, tới khoảng tiết
mục thứ mười lăm là đầu óc tôi bắt đầu rón rén “đi hoang”. Và, ngay lúc
đó, người điều khiển chương trình giới thiệu hai chị em họ Nguyễn song tấu bài
Hòn Vọng Phu bằng đàn tranh và đàn bầu.
Cây đàn mười sáu giây đi với cây đàn một giây. Hầu như mọi
người đều ngồi thẳng lên, lắng nghe vì tò mò về hai cây đàn lạ. Bây giờ kể lại
thì … mắc cỡ nhưng hôm đó ngồi nghe mà tôi muốn khóc. Muốn khóc vì bài nhạc
Việt Nam nghe không thua gì những bài nổi tiếng nãy giờ, vì cách trình diễn say
mê và trang trọng của hai cháu làm tôi thấy quá tự hào. Tới lúc đó tôi mới nhận
thấy rằng trên thế giới không có một nhạc cụ nào có thể chơi những câu “Nơi man
khê còn tung gió bụi mịt mùng, Nơi tiêu tương còn thương tiếc ai ngàn trùng,
Người đi ngoài vạn lý xa xăm, Người trông chồng còn đứng …muôn năm” ngọt ngào,
tình tự hơn tiếng đàn bầu. Tiếng nhạc như bóp vào tim. Khi hai cháu chấm dứt,
cả hội trường vỗ tay rào rào. Không phải chỉ mình tôi với nỗi niềm người Việt,
mà mọi người đều thấy màn trình diễn này độc đáo nhất.
Tôi để ý nghe dân ca và các nhạc cụ thuần Việt hơn, từ đó.
Và tôi thấy rằng mỗi loại nhạc đều có chỗ đứng riêng giống như cội nguồn của
chúng là những phần khác nhau trên thế giới. Ngẫm nghĩ cho cùng, cây đàn
bầu làm bằng một khúc cây với một sợi dây duy nhất mà vang lên những thanh âm
uyển chuyển gần nhất với tiếng người mới quả thật là tuyệt diệu.
Mỗi năm hội người Việt trong hãng Intel đều tổ chức tiệc
tất niên. Không chỉ họp mặt ăn uống mà còn trình diễn văn nghệ giúp vui. Toàn
“cây nhà lá vườn” nhưng chương trình có đầy đủ ca, vũ, nhạc, kịch và năm nào
cũng có ít nhất là một bài múa thuần túy Việt Nam.
Năm đó, để chương trình thêm gần với văn hóa Việt, chúng
tôi có một màn dân ca ba miền. Tôi “điếc không sợ súng”, xung phong làm ca sĩ.
Chuyện phân chia bài hát cũng đơn giản, nhẹ nhàng. Chị M người xứ Quảng nhưng
làm dâu gia đình Bắc Ninh hơn ba mươi năm, rất rành các bài hát quê chồng nên
dĩ nhiên chị đảm nhận bài quan họ miền Bắc. Chị P thích một bài có âm hưởng
Nghệ An nên hát phần miền Trung, và tôi lãnh vai cô gái miền Nam. Dù hàng ngày
nói giọng Bắc nhưng tôi thấy không có chi đáng lo. Ít gì tôi cũng sinh ra ở Tân
Định, uống nước từ nguồn sông Đồng Nai mà lớn, nghe cải lương từ bé, và biết
nói giọng Sài Gòn. Hát dân ca miền Nam chỉ là chuyện nhỏ, tôi nghĩ vậy.
Vì công việc hãng bận rộn nên chúng tôi đồng ý phần ai nấy
tập, cuối cùng mới ráp lại với nhau. Tôi về nhà, lên Internet chọn bài có nhạc
sẵn để tập theo. Nghe Bạch Yến hát Lý Ngựa Ô, thích lắm, nhưng hì hục tập rồi
tôi mới thấy khó. Âm điệu ngựa ô đi lóc cóc, dồn dập, hát phải thật vững nhịp
và trình diễn bài hát vui nhộn này cần phải dạn sân khấu, diễn tả thật linh
động, duyên dáng. Lần đầu làm ca sĩ mà phải vừa hát vừa diễn, chắc chắn tôi
không đủ sức làm Bạch Yến. Kiếm bài mùi có lẽ chắc ăn hơn…
Nghĩ vậy nhưng bao nhiêu chuyện bận rộn dồn dập, tôi chẳng
có nhiều giờ tìm. Tới khi chỉ còn gần hai tuần tôi mới chọn được bài Lý Cái
Mơn. Tất tả chạy lên thương xá Grand Century mua một đĩa Karaoke, tôi hối hả
tập. Cũng may, bài này không khó. Sau mấy lần tập luyện, ra vô đúng nhịp và hát
không sai một note nào, tôi nghĩ sắp xong rồi. Giờ nghỉ trưa tôi hay vào phòng
họp, đóng kín cửa, bật nhạc lên vừa ăn vừa nghe Phượng Mai ca thánh thót. Tôi
muốn nghe cho nhập tâm, lúc lên sân khấu lỡ có run quá thì còn hát theo… phản
xạ.
Một ngày kia, tôi nhờ một người bạn rành về dân ca nghe tôi
hát thử. Anh ta lắng nghe rồi góp ý “Hát bài này muốn hay cần láy cho thiệt mùi
và phát âm giọng miền Nam thiệt ngọt… Người miền Nam dễ tính, xuề xòa ngay
trong cả giọng nói. Họ phát âm lơi lơi, không cần uốn miệng nhiều. Chữ â, chữ ô
đớt đớt, nhè nhẹ chứ không rõ ràng như Khôi An nói…” Mấy ngày sau đó, giờ
ăn trưa tôi đi dạo trong một bãi đậu xe rộng, ít người qua lại. Nắng đầu Xuân
hưng hửng dịu dàng, tôi vừa đi vừa tập hát cho đúng giọng Bến Tre. Trên cành
cây, những chú chim ríu rít rồi bay vút lên, lòng tôi cũng bay cao theo câu hát
Đôi bờ dẫn nghe chim nhạn tìm nhaaao…
Áp dụng đúng tiêu chuẩn làm việc ở Intel, trước ngày trình
diễn chúng tôi phải cho chương trình chạy thử. Màn dân ca ba miền dợt trước năm
sáu khán giả, trong đó có một anh từng sinh hoạt văn nghệ lâu năm. Anh nói với
tôi “Khôi An hát được rồi nhưng cần diễn tả thêm. Chỗ như tóc em bay theo lòng
thủy chung câu hẹn ngày xưa... em phải hát mềm mại chứ đừng căng thẳng vậy. Em
làm được mà! Ráng chút nữa thôi!” Tới đây thì bắt tôi đầu lo. Hát dân ca miền
Nam lần đầu mà bảo không được căng thẳng, coi bộ anh này nghĩ sau mấy lần vừa
ăn trưa vừa tập hát tôi đã hóa thân thành “kỹ sư-ca sĩ”.
Còn hai hôm nữa là tới ngày trình diễn. Áo bà ba đã mượn
xong, ngày hôm đó chị H đem cho tôi cái nón lá, thế là đủ bộ. Chiều hôm đó, tôi
muốn ráng tập thêm một lần. Đã hơn sáu giờ, phòng lab chỉ còn vài người, nhưng
tự nhiên đứng hát thì cũng kỳ. Nhưng nếu bây giờ tôi làm không được với hai
người bạn thì làm sao cuối tuần tôi làm được trước hai trăm người? Thế là tôi
cắp nón vào phòng lab, mời hai người bạn nghe tôi hát Lý dân ca. Trước hai khán
giả mặc lab coat, giữa đám máy móc, tôi mặc quần jean, cầm nón lá, bắt đầu “Đàn
cò bay, về nơi thương nhớ…” Tôi tưởng tượng mình là cô thôn nữ hát dưới hàng
dừa xanh, trên con đò xuôi trên dòng Cái Mơn. Tôi gởi lòng qua đuôi mắt khi
nhắn nhủ thiết tha có sang sông thì chim sáo hát câu hẹn hò làm cô bạn phá lên
cười “Coi đưa đẩy ác liệt chưa kìa! Tới lắm!”
Buổi tiệc thành công, ai cũng khen các màn trình diễn. Và
tôi tin rằng nếu chúng tôi có quá run mà vấp váp chút đỉnh cũng chẳng ai chấp
nhất. Điều quan trọng hơn cả, ai cũng thấy, là các “nghệ sĩ” không chuyên
nghiệp đã trình diễn hết sức, hết lòng.
Tôi thật sự không nhớ mình có hát thật đúng giọng miền Nam
hay không, không nhớ mình có mỉm cười, liếc mắt khi hát câu hẹn hò hay không,
nhưng tôi thấy vui. Vi tôi đã hát dân ca cho mọi người nghe, đã dùng hết khả
năng của tôi để nhắn nhủ với bạn Intel rằng dân ca Việt Nam là gia sản quý báu,
là một phần làm âm nhạc Việt Nam đáng nhớ trong muôn ngàn thanh âm trên thế
giới.
Mới đây tôi nghe cháu David kể lại rằng cô chị đánh đàn bầu
trong buổi trình diễn năm ấy được nhận vào Stanford. Tôi tin rằng khả năng xử
dụng cây đàn độc đáo của cô bé có ảnh hưởng phần nào tới thành quả rực rỡ mà cô
đạt được. Bởi vì tất cả các chuyên viên cố vấn cho học sinh (counselors) và các
cha mẹ đã trải qua con đường đưa con vào đại học đều đồng ý rằng ở những trường
nổi tiếng, cách lựa chọn giữa hàng chục ngàn học sinh xuất sắc là tìm những học
sinh có năng khiếu hay thành tích xã hội đặc biệt. Đối với tôi và mọi người
được xem hai cô bé biểu diễn, điều cô sinh ra trên đất Mỹ mà xử dụng nhuần
nhuyễn một nhạc cụ thuần túy từ quê cha, mà trân trọng nhạc của quê mẹ, đó là
một điều hết sức đẹp đẽ và đặc biệt.
Hơn hai mươi năm làm công dân Hoa Kỳ, tôi không còn xem đất
nước này là nơi tạm dung hay nơi tôi phải ở vì không có lựa chọn khác. Tôi cảm
thấy tôi là một phần của đất nước này, và tôi chia sẻ niềm tự hào, niềm tin Hoa
Kỳ - đã từng được chứng minh và lập lại nhiều lần: hoàn thành những sứ mạng khó
khăn gần như không tưởng là đặc trưng của đất nước Mỹ, là truyền thống của
người dân Mỹ. Tại sao người Mỹ làm được như vậy? Bởi vì họ gom sức mạnh từ các
nơi, bởi vì họ hiểu, quý trọng, và phát huy từng cái đặc biệt, từng cái hay của
mỗi sắc dân. Ngay từ còn nhỏ, nhà trường đã dạy học sinh tôn trọng sự khác biệt
và học hỏi từ người khác bằng những buổi thảo luận, những ngày Diveristy Day.
Người Việt lưu vong như “những phấn hoa tản khắp phương
trời” (**). Ở Mỹ, phấn hoa đã rơi xuống mảnh đất vô cùng màu mỡ. Nở thành một
nhánh hoa đẹp đẽ, độc đáo hay một bông hoa giông giống các bông hoa khác trong
vườn, là tuỳ theo mỗi người. Riêng tôi, tôi mong đó vẫn là những nhánh hoa đầy
sắc thái Việt Nam.
Khôi An
(*) Nỗi Buồn Nhược Tiểu: tên bản dịch một tác phẩm của
Pearl Buck, nữ văn sĩ Hoa Kỳ được giải Nobel Văn chương năm 1938
(**) Những Phấn Hoa Tản Khắp Phương Trời: tựa bài viết năm
2000 về giải thưởng VVNM của cố nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh (1921 –
2012)
No comments:
Post a Comment