An lớn lên bên cạnh mẹ từ tấm bé, đến
khi có trí khôn hiểu biết em cũng chỉ thấy có mẹ. Em không thắc mắc dù trên
khai sinh của em tên cha là vô danh. Một đôi lần hiếm hoi lúc mẹ con gần khít
bên nhau, rảnh rang như đi hè, ngồi trên bãi biển, trời cao gió mát, biển mênh
mông, An vô tình hỏi mẹ vô danh là gì? Mẹ trả lời là không có tên, rồi mẹ cũng
giải thích thêm là, ba đi buôn bán xa, tận ngoài Bắc hay đâu đó, bên Tàu bên
Tây, đi lâu quá là lâu rồi, cũng quên liên lạc về nhà nên phải khai như vậy, đặng
con có giấy khai sinh đi học.
Thời gian qua An học xong Tiểu Học, lên
Trung Học cũng không thấy ba em về, em đã quen và không hề nhắc tới, cũng không
nhớ tới cái ông vô danh đó nữa. Ngoài mẹ ra, An còn có bà ngoại và cậu mợ Ba là
em má và hai em trai, con của cậu mợ. Gia đình gồm bảy người, cũng khá đông
vui.
Căn nhà mẹ con An ở sát một bên nhà cậu
mợ và ngoại, đi qua đi lại như chung một gia đình. Hai em trai, Tuấn và Tú học
chung trường Tiểu Học với An suốt sáu năm. Lên Trung Học thì phải học riêng,
hai em vào trường nam, còn An thi đậu vào trường nữ Gia Long. Tuy nhiên cuối tuần
và ngày hè, má vẫn mướn một gia sư về dạy kèm thêm cho An và Tuấn, Tú, những
môn học chính như Toán, Lý, Hóa. Riêng Anh và Pháp văn, má An tự đích thân dạy
kèm con và cháu. Bà có vốn kiến thức và ngoại ngữ rất khá An cũng chẳng biết bà
học hành tới đâu, nhưng từ lúc nào đã thấy bà bươn chải đi làm viêc ở cái công
sở, tư sở mang tiền về nuôi gia đình một cách vững vàng sung túc. Bà là mẫu người
hoạt bát, năng động ngoài xã hội hơn là loanh quanh trong nhà. Vào những năm
1965-1970, khi thấy đồng lương kém cỏi so với giá cả sinh hoạt đời sống xã hội,
bà đi học để bổ túc thêm ngoại ngữ một thời gian ở hội Việt Mỹ, rồi xin việc
làm trong các cơ sở ngoại quốc.
Bà thành công trong việc kiếm tiền nhất
là thời gian xin được vô làm cho Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở đại lộ Thống Nhất, bà khá
lanh lẹ, hỏi làm gì trong đó? Bà nói bà làm thoại chương viên điện toán các hồ
sơ. Càng kiếm ra tiền, mẹ An càng bận rộn với công việc làm. Bà cũng ít khi
giao tiếp bạn bè, việc nhà, kể cả áo quần, đồ gia dụng, đồ trang sức riêng, những
tiện nghi vật chất thời thượng bà cũng ít quan tâm đến, gần như nhờ vả cậu mợ
Ba mua sắm giùm. Kể cả đồ ăn uống đã có ngoại lo.
Những người bên cạnh lo cho má An và An
rất chu đáo, nên đi ra ngoài, lúc nào mẹ cũng tươm tất, đoan trang và lịch sự,
bà khá xinh xắn. Cái gì mẹ cũng đầy đủ, tính tình mẹ khá quyết đoán và hơi lạnh
lùng. Bà rất một mình, buổi sáng ra đi một mình, buổi chiều tối cũng về lại một
mình. Bà không có một người bạn thân, nữ hay nam, bà lủi thủi kể từ khi đi làm
sở ngoại kiều. Bà cũng không có một người bạn Mỹ nào.
Lúc nhỏ An không để ý, nhưng khi dần dà
khôn lớn lên, An thương mẹ, cho là mẹ rất chung tình với ba, nên không có lấy một
ý trung nhân trong suốt một quãng thời gian dài, nhưng không thấy bà buồn, thản
hoặc, nhìn mưa rơi bà thở dài kín đáo rất nhè nhẹ. Vậy thôi, rồi lại lo vào
công việc lo kiếm tiền. Chẳng vậy mà má An mua được ba bốn căn nhà giáp liền với
khu nhà của ngoại vẫn ở từ đời nào.
An không có ba ở bên, nhưng ăn học không
hề thiếu thốn, phải nói là đầy đủ đến có phần vương giả, thầy, sách, vở, áo quần
phủ phê. Xe nhà trường đến tận cửa đưa rước hàng ngày. Gia đình An sống cứ yên
bình như thế hàng bao năm ở đường Trương Minh Giảng, nhìn lên phía trước là cầu,
xế bên là đường Trương Tấn Bửu. Nhưng rồi những năm 1965-1970 Saigon rộn ràng
chao đảo nhiều hơn những tin chiến sự, cộng quân liên kết với mặt trận phía nam
áp lực ngày càng nặng. Việt Cộng pháo kích bừa bãi vào các trường học ở các tỉnh
và pháo kích luôn cả vô thành phố Saigon. Nhà An phải làm hầm.
Ngay tại thủ đô, các thế lực tôn giáo,
giới sinh viên học sinh, các đảng phái chống chính phủ, rồi những tư tưởng phản
chiến bị Việt Cộng trà trộn cũng lan tràn khó kiểm soát, Saigon những năm cuối
của tự do đầy hỗn độn đầy chao đảo, vừa bị tấn công vừa bị lợi dụng. Tội nghiệp
Saigon.
Gần đến tháng 3, tháng 4 năm 1975, nói
chung là sau hòa đàm Paris, nhiều gia đình có bề thế có tiền của đã rục rịch di
cư ra ngoại quốc. An thấy mẹ, ngoại và cậu mợ ba bàn soạn với nhau nên đi đâu,
đi thế nào, sang Singapore hay sang Mỹ. Mẹ cô có chút thế lực ở sở và có tiền,
nên từ đầu năm 1975 cả đại gia đình đã có đủ giấy tờ xuất cảnh. Dự trù là họ sẽ
lên máy bay vào cuối tháng Hai.
Nhưng phút chót ấy, mẹ An tiễn gia đình
đi trước. Mẹ tình nguyện ở lại đi chuyến cuối, sẽ đi cùng sở làm. Mẹ có hỏi ý
An muốn đi với cả nhà hay ưng ở lại chờ mẹ. Dĩ nhiên là cô quyết định ở lại, để
được sẽ đi với mẹ. Vì cái quyết định không ngờ này mà An gặp lại ba.
Tại sao mẹ không giải thích trước thì có
trời mà hiểu. Chỉ biết ngày 10-5-1975 bà mừng rỡ đón chồng gõ cửa rồi vào nhà.
Em vẫn chờ anh. An cảm động được biết ông là ba cô, nhìn vội trong tấm kiếng lớn
trong phòng khách, An thấy mình giống cha khá đậm nét, khuôn mặt trái xoan hơi
vuông, cặp lông mày khá dài.
Hai tuần lễ đầu tiên, nhà ba mẹ thật
vui. Mẹ không đi làm và có thì giờ ở nhà lo toan, thăm hỏi ba, cả hai người đã
kể cho nhau nghe nhiều điều và đã nói với nhau khá nhiều bà dặn ông sáng sáng
có lên cơ quan, thì về ăn cơm chiều. Họ cũng có lúc thì thầm nhắc lại kỷ niệm
cũ xưa rồi dắt nhau đi mua sắm cho ông. Bà mua cho ông khá nhiều, đồng hồ tự động,
bút máy hiệu Parker, kiếng lão, kiếng râm là những thứ cần thiết. Bà cũng may
cho ông một mớ áo quần mới, mà ông rụt rè không dám mặc ngay. Ông nói sợ các đồng
chí ở cơ quan cười ông là bị hủ hóa, mất lập trường.
Chữ hủ hóa, và chữ mất lập trường, ông lặp
đi lặp lại hai ba lần, sau cùng bà như nổi cáu, bà bảo: “Thôi sợ hủ hóa sợ mất
lập trường… thì cứ lấy mấy cái áo quần cũ me cũ mét ấy ra mà bận!” Đúng như An
đã nhận xét về mẹ, mẹ cô cho là tư tưởng, ý nghĩ trong đầu mới là quan trọng,
chứ cái vỏ ngoài bề mặt thì không kể, nhưng ông chồng mới về, lại cho là cái bề
ngoài nó thể hiện cái chiều sâu méo xẹo “ngụy quân ngụy quyền” bên trong. Hai
người cố né, mỗi người né về phía cực đoan của mình, vậy mà cũng có lúc đụng chạm.
Má hỏi ba:
“Méo xẹo ngụy quân ngụy quyền là cái gì
ông nói rõ tôi coi”.
“Thì đi theo Mỹ đó!”
“Ý cha, vậy phe ông Bắc kỳ đi theo Tàu,
theo Nga bộ hay ho hơn tụi tôi sao?”
Ba An làm hòa, nói ở ngoài kia, họ dùng
xe đạp đi khắp nơi, tiện lợi, không phải mua xăng dầu và thành phố không ô nhiễm,
không ồn ào náo động. Mẹ bảo là, toàn là thành phố đều đi xe đạp, lạ nhỉ, mẹ
không thể tưởng tượng ra một thành phố ai ai cũng đạp xe. Rồi bà nói thêm, theo
ý bà phải có đủ loại xe, xe máy, xe hơi, xe Honda, mới đẹp. Đi xe đạp, đạp lâu
quá, mất thì giờ, mẹ không chịu được.
Rồi ở bên nhau lâu ngày hơn, nửa tháng,
một tháng… Người bên này, kẻ bên kia, cả hai cùng có ấn tượng mạnh trong đầu,
nói nhiều về quan điểm riêng tư, có lúc đụng độ đến bất hòa. Mẹ An cho là bà bị
đàn áp chứ bà có thua ai bao giờ, ba An cho là bà có nhiều lấn cấn trong tư tưởng
mà ông phải giải thích! Nhưng bà không theo. Có lúc họ cũng tương đắc, vì chiến
tranh lâu quá, giờ cần tái lập lại hòa bình, nhưng hòa bình hiểu như đem tất cả
dâng biếu cho nhà nước là má của An không đồng ý, bà lặp lại nhiều lần và rất
nhiều lúc với ông chồng là, nhà cửa, cơ ngơi này, bà cong lưng làm việc gần 20
năm mới tạo ra, chứ có ai cho không bà một viên gạch nào đâu? Bắt đầu những mâu
thuẫn bực mình.
Ấy tại vì ở bên nhau lâu, lâu ngày,
thành sinh ra bất hòa, đấu khẩu, cứ kể mà họ ít gặp nhau lại hay hơn. An nghĩ
là nếu đừng bao giờ gặp lại khỏi mất công cãi lộn. Có lần họ đứng bên nhau uống
trà trong hiên nhà, tưởng là tương đắc lắm, nhưng tự nhiên ông bà lại đưa ra nhận
xét riêng tư:
“Nhà này rộng rãi quá, có hai mẹ con, cộng
thêm bà ngoại và cậu mợ Ba ở, thì phí quá, như ngoài đó, cả mười gia đình ở được
đấy!”
“Nhà ai nấy ở chớ! Ở chung vậy sao tiện?
Vả lại em thích mai này, nếu con gái có gia đình khi cần về đây ở luôn… Mẹ con
quây quần”.
“Ờ, tư sản là vậy, anh nói vậy thôi…”
Áo quần bà sắm cho ông khá bộn, ông
không ưng mặc ngay, mà ông có ý mang theo ít bộ, bà cũng đồng ý, ba cái lẻ tẻ,
bà không quan tâm, vì có đáng gì đâu. Nhưng rồi một lần khác quan trọng hơn là
lúc hai người đang đứng trong khuôn viên cửa trước, trồng đầy bông hồng đủ màu,
đang đua nở, gió đưa hương thơm ngào ngạt, bà cứ nghĩ là ông đang thưởng ngoạn,
nhưng mà bất ngờ, ông đưa ra một nhận xét rất cộng sản:
“Cứ ba cái luống đất trồng cây trồng
bông hoa này, mà để trồng bắp hay khoai, thì ăn mệt không hết. Bông bắp lên
cũng đẹp mà lại có ăn, kể có lúc khỏi đi mua lương thực!”
“Bộ ông không thấy bông hoa tươi đẹp
sao? Lúc nào cũng nghĩ tới chuyện ăn. Chán quá!”
“Mà rồi em coi, bây giờ em không còn đi
làm sở này sở nọ, ở nhà phải trồng tỉa thôi, củ để ăn, rau nhợ ta nuôi heo”.
“Ô, heo, ông thích nuôi thì ông nuôi.
Khoai lang, bắp, khoai mì, ông muốn trồng ông trồng. Ba thứ đó, ghê quá, dơ hầy,
tôi không có kham nổi. Ông điên hả?”
“Đồng chí Liên, đồng chí ấy làm được tất
đấy! Hay ta cho đồng chí Liên một góc nhà và một góc vườn, đồng chí ấy sẽ sản
xuất”.
“Đồng chí Liên là ai mà ông đòi cho một
góc nhà này?” Má trợn tròn hai mắt.
“À, đồng chí ấy công tác ở chung cơ quan
kiểm tra văn hóa và sách giáo khoa với tôi. Họ mới vô, chưa xin được chỗ ở
riêng”.
“Không được, ông điên nặng lắm rồi, nhà
tôi, tôi ở một mình, không thể cho ai vô ở chung”.
“Mình cũng không thể giữ được cho một
mình nhà này đâu”.
Ba còn nhỏ nhẹ giảng, khuyên nhủ theo
kinh nghiệm riêng tư mới mang theo vô Nam, nhưng má của An, bà chán nản, bực bội
và thất vọng, thêm nghi ngờ tràn ngập. Bà nhắc lại với An, lúc ông đã đi khỏi,
bà kể lể với con gái, giọng điệu đầy uất ức:
“Ổng khoe đồng chí Liên của ổng sản xuất
được ngay, cô ta đa năng đa hiệu, ối, tụi nó toàn hết thảy là đồ ăn cướp. Có mà
đa bặm đa trợn thì có”.
Ít bữa sau, vào tháng Bảy, bà đề nghị với
ông Ba là ông lên cơ quan ở đỡ vài ba tuần lễ, vì má bận công chuyện, phải về
Long Xuyên khui hụi góp hụi lần cuối. Má hứa hão là góp được hụi bà về lại nhà
ngay. Ba thu xếp đi rồi, má khóa trái cửa nhà và cửa cổng vườn trước, hai mẹ
con theo cửa sau nhỏ hẹp ra vô kín đáo. Việc đầu tiên là bà khóc, khóc đã nư,
bà đề nghị An lên cơ quan, đường Bà Huyện Thanh Quan của ba, gặp ba đòi nợ giùm
má.
***
“Ba à, ba cho má xin lại đồng hồ, radio
và bút máy đi, má nói má cần xài”.
“Ủa, sao lạ lùng vậy? Cho rồi giờ đòi lại
là sao?”
“Đúng vậy, má xin lại tất cả đồ… cả áo
quần mà má đã mua sắm cho ba”.
“Rồi ba lấy gì ba dùng?”
“Thì hồi xưa ba dùng những cái gì, thì
nay ba lại xài cái đó”.
“Thiệt là mấy tuần trước, ba có cái gì
đâu, có mà toàn đồ hư cũ không à, khi má con sắm cho lô đồ mới, thì ba đã liệng
bỏ đồ cũ đi rồi còn đâu”.
“Con cũng không biết tính sao, mà má nói
ba phải trả đồ lại cho má, má đã nói chắc như vậy”.
“Trời, vậy con không thương ba sao?”
“Ơ mà, dễ mà, đồ trên người ba, ba tháo
ra trả cho má, không thôi bà lên giằng co kỳ lắm. Má con từ hồi nào, bà chắc chắn
lắm, ba à”.
“Tại sao khi không lại đòi?”
“Tự là má về quê, rồi bị bệnh, má cần tiền
uống thuốc hay đi bác sĩ”.
“Con có tiền riêng không?”
“Con không có một xu, bị là từ hồi nào tới
giờ, má lo mua bán tất cả. Thôi ba, thương con, thì ba trả đồ cho má con đi!
Không thôi, mất công má bắt con đi tới đi lui theo ba hoài để đòi, mệt quá!”
An phải đi đòi nợ cho mẹ như thế tới đâu
năm, bảy lần. Nhưng ba cô có đời nào trả lại. Ông cứ khất lần, khất lần, tuần
sau, rồi tuần sau, tuần sau nữa. Má khuyên An cứ kiên nhẫn theo tìm ông mà đòi
nợ, để cho ông né tránh và đừng tìm cách trở về nhà của má An. Cứ nói với ba là
má còn đau dưới quê, chưa lên Saigon lại. Như vậy má sẽ có rộng thì giờ, đi tìm
đường tìm nẻo, mà mẹ và con ra đi thoát, theo ngoại và cậu mợ ba. Má An rất hối
hận đã ở lại, trong danh sách ra đi di tản sau cùng của sở, ai cũng ngạc nhiên
tại sao tên của bà lại bị bôi đen, xóa đi.
Đúng thế, má ân hận đã quyết định sai lầm,
đã ở lại chờ đợi một người chồng kỳ quặc, không thể nào giải thích được. Một
người chồng cộng sản. Nhưng bà không còn tâm trí nào để khóc lóc như đã khóc mấy
bữa đầu. An ôm mẹ và chỉ nghe mẹ lặp đi lặp lại nhiều lần trong bóng tối: “Ba
con hết xài được rồi. Ổng chết rồi.”
Rồi bốn tuần lễ sau, mẹ đã lo xong công
chuyện, mẹ để lại giấy tờ nhà cửa, mẹ lo luôn hộ khẩu cho một người bà con từ
miền Trung chạy giạt vô Nam. Lần chót, để tránh gặp mặt ba, mẹ lại sai An lên
đòi nợ, như để cho cha con vĩnh biệt từ giã. Vẫn giọng điệu ỉ ôi năn nỉ cũ: “Ba
ơi, ba có thương con thì ba trả lại đồ cho má con đi.” Nói xong, An để nhẹ vào
tay ba một tờ giấy 100 đồng tiền mới rồi nhẹ nhàng đi thoát ra cửa cantine. Ba
của An ngạc nhiên, vừa đứng lên đi tới vài bước chân, thì con bé đã khuất bóng
sau bờ tường, bờ tường đường Bà Huyện Thanh Quan, bên đối diện vẫn là trường nữ
Trung Học Gia Long, trường đang reng chuông báo hiệu giờ ra chơi… ra chơi…
Chúc Thanh
(Paris, Mai 2023)
No comments:
Post a Comment