Saturday, August 23, 2025

Bão: Đàn Ông Và Đàn Bà


Trên thế giới, chỉ có Việt Nam là gọi bão theo số, còn toàn cầu đều đặt tên bão theo các danh từ mỹ miều và thơ mộng vẫn dùng để gọi các cô gái dịu dàng và xinh đẹp.

Đã nhiều lần tổ chức bảo vệ nhân quyền kêu ca về vấn đề này, và các quốc gia cũng thử sửa chữa. Nhưng than ôi, hễ đặt tên bão khác đi, thì hoặc nó không đến, hoặc tệ hơn nó đến mà hổng ai đề phòng, gây hậu quả thảm khốc.
Gần đây, các nhà khoa học đã tổ chức hội thảo, xem xét sự giống nhau và khác nhau giữa 1 cơn bão và 1 “quý cô”. Cuối cùng họ đã đưa ra kết luận như sau:


A- SỰ GIỐNG NHAU VÀ KHÁC NHAU GIỮA BÃO VÀ PHỤ NỮ

I/ SỰ GIỐNG NHAU
1 – Bão và phụ nữ đều hình thành từ những vùng bí hiểm và từ những nguyên nhân bí hiểm.
2 – Đường đi của bão và phụ nữ đều không thể đoán trước.
3 – Cả phụ nữ và bão đều có thể bất ngờ mạnh lên.
4 – Cả 2 đều có kèm theo mưa.
5 – Cả hai đều có thể gây hư hại cho cây cối, nhà cửa và hoa màu.
6 – Trước khi bão tới và trước khi phụ nữ nổi giận, trời rất đẹp.
7 – Vật thổi tung trước tiên thường là quần áo.
8 – Phương pháp đề phòng tốt nhất là đóng cửa ngồi im trong nhà,
9 – Có nhiều tiếng nấc mạnh.
10 – Muốn tồn tại đều phải biết sống chung.


II/ SỰ KHÁC NHAU
1 – Bão nổi lên theo mùa, phụ nữ nổi lên quanh năm
2 – Bão tàn phá lung tung, phụ nữ nhiều lúc chỉ tàn phá 1 chỗ
3 – Bão càng ngày càng yếu đi, phụ nữ càng ngày càng mạnh lên
4 – Bão ồn ào mới đáng sợ, phụ nữ yên lặng mới đáng sợ hơn.
5 – Trời nổi bão khi khí lạnh về, phụ nữ nổi bão khi quý ông không về.
6 – Bão mạnh khi nó to, phụ nữ mạnh khi họ nhỏ
7 – Muốn an toàn ta phải chạy xa bão, muốn an toàn ta phải lại gần phụ nữ.
8 – Bão làm đắm thuyền, phụ nữ làm đắm mình.
9 – Bão cần mây tan, phụ nữ chẳng cần mây gì hết.
Sau khi kết luận này đưa ra, chị em phản đối kịch liệt, đến mức các nhà khoa học phát hoảng, phải triệu tập khẩn cấp một cuộc họp so sánh bão với đàn ông và đưa ra bảng tổng kết là:


B - SỰ GIỐNG NHAU VÀ KHÁC NHAU GIỮA BÃO VÀ ĐÀN ÔNG

I/ SỰ KHÁC NHAU
1. Bão kèm theo sấm chớp, đàn ông chỉ kèm theo những lời hứa suông.
2. Bão hay đổ bộ vào vùng quen. Đàn ông hay đổ bộ vào vùng lạ.
3. Bão đôi khi không chịu vào bờ, đàn ông đôi khi không chịu xa bờ.

II/ SỰ GIỐNG NHAU
1. Cả hai càng đi xa càng yếu đi
2. Cả hai nhiều lúc đều đe dọa rất cao rồi chả làm gì cả.
3. Cả hai khi tàn đều làm ướt cảnh vật.
4. Cả hai đôi khi chỉ được thiên hạ nhớ đến do sức tàn phá mà thôi.

 

Sưu tầm

Bên Sông Thạch Hãn - Điệp Mỹ Linh

Sông Thạch Hãn - Trao trả tù binh (1973)


Sau khi nghiệm ra, chiến tranh không những đã hủy hoại một phần thân xác của chàng mà chiến tranh còn khiến cho tâm hồn nhạy cảm của chàng trở nên yếu đuối lạ lùng, Mạnh thường “chìm” vào cơn say để quên đi nỗi đau thầm kín của chàng!


Nỗi đau của Mạnh khơi nguồn từ ngày mà những người trai miền Nam miệt mài trong cuộc chiến do Bắc quân chủ xướng đều mong đợi. Đó là ngày đình chiến 27-01-1973. Mạnh và đồng đội đều hiểu hiệp định ngưng bắn “da beo” là phi lý, đầy áp lực đối với quân nhân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và chỉ có lợi cho “phía bên kia”; nhưng dù sao, trong một thời gian, giảm thiểu số thương vong cho cả hai phía, cũng là một điều tốt. 

Đối với đa số quân nhân miền Nam khi xung trận, tâm trạng của họ như thế nào Mạnh không thể hiểu được. Nhưng riêng Mạnh, chàng xã thân ngoài trận địa do bổn phận và trách nhiệm thôi thúc chứ không phải được hun đúc bằng lòng thù hận như Bắc quân, khắc vào người “sinh Bắc tử Nam” hay là “gào” lên mỗi khi chào cờ “thề phanh thây uống máu quân thù”! Sở dĩ Mạnh không nuôi lòng thù hận những người bên kia chiến tuyến vì, trong đoàn quân xâm lăng từ phương Bắc thế nào cũng có Tuất – đứa em duy nhất mà Mạnh đã lìa xa khi Mạnh còn mang “tên cúng cơm” là Mùi.

Mạnh nhớ rõ, năm 1954, Mùi đã khóc sưng cả mắt nhưng Mẹ vẫn quyết định ở lại vì Mẹ ngại ông bà Nội và ông bà Ngoại không biết nương tựa vào ai lúc tuổi già! Lý do Thân – Bố của Mùi và Tuất – để Tuất ở lại vì ông bà Nội sợ sau khi ông bà Nội qua đời không ai để tang, không ai nhang khói!

 

Từ ngày rời Hải-Phòng đến ngày hưu chiến cũng gần 20 năm, Mạnh không biết ông bà Nội, ông bà Ngoại còn sống hay đã về tiên cảnh và Tuất có được dịp chít vành khăn tang cho Ông Bà hay không; nhưng Mạnh biết chắc chắn một điều là không thể nào Tuất được ở lại làng để lo nhang khói cho Ông Bà; vì ngoài Bắc không có đạo luật như miền Nam: Miễn dịch cho những người con trai duy nhất còn lại trong gia đình. Mạnh nghĩ, Tuất, hoặc đã chết trên đường mòn Hồ-Chí-Minh, hoặc đang có mặt trong đoàn quân vượt vùng phi quân sự để vào đến bờ sông Thạch-Hãn này. Vì nghĩ như vậy, cho nên, mỗi khi lính bắt được tù binh, Mạnh thầm mong tù binh là Tuất để Mạnh biết Tuất còn sống và có ngày Tuất sẽ được trao đổi tù binh chiến tranh. Cũng có khi Mạnh mong tù binh không phải là Tuất để Mạnh tránh được cảnh đau lòng khi thấy em vào tù mà chàng không thể can thiệp. Nghĩ quanh quẩn một lúc, Mạnh cười lớn; bởi vì, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, làm thế nào Mạnh có thể nhận diện được Tuất khi mà anh em xa nhau đến gần 20 năm!

Lệnh ngưng bắn chỉ vừa truyền đi trên đài phát thanh được vài phút, Mạnh nghe nhiều tiếng reo hò, rồi một giọng Bắc nghe rất rõ: “Ngưng bắn dzồi, anh em ơi!” Câu ấy được lập lại từ nhiều hướng khác nhau khiến Mạnh nhận định được rằng đơn vị của chàng đang ở vào thế “cài răng lược” với đơn vị địch. Mạnh rất yên lòng, vì “con cái” của chàng đều im lặng, giữ nguyên vị trí.

Không gian quanh bờ sông Thạch-Hãn trở nên tịch mịch, căn thẳng đến...rợn người! Bỗng một giọng Bắc lại vang lên: “Các anh Quốc-Gia ơi! Ngưng bắn d…z…ồ…i… Thích quá!” Đơn vị của Mạnh cũng vẫn im lặng. Một lúc sau lại có tiếng từ hướng khác: “Các anh Quốc-Gia ơi! Thèm thuốc quá! Cho một điếu.” Sau nhiều lần lập đi lập lại những câu ấy mà cũng vẫn không được đơn vị lính Cộng Hòa đáp ứng, Bắc quân im lặng.

Khi ánh nắng mai vừa tỏa sáng cuối chân trời, những lời kêu gọi như lúc khuya lại vang lên. Bất ngờ Mạnh nghe giọng Nam, sắc và gọn: “Đứng lại!” Mạnh chụp ống liên hợp, chưa kịp bấm nút để liên lạc kiểm soát tình hình thì đã thấy – cao khỏi những đọt tranh còn lóng lánh sương mai – lố nhố nhiều nón cối! Ngay tức khắc, Mạnh và hiệu thính viên chụp vũ khí cá nhân. Vừa khi ấy Mạnh nghe nhiều tiếng “đứng lại!” vang lên từ nhiều phía. Mạnh đứng bật dậy.

Thấy Mạnh đứng lên, cả đơn vị của Mạnh cũng đứng lên, sẵn sàng trong tư thế cận chiến. Nhưng, đồng loạt, Bắc quân đưa cao tay vẫy vẫy: “Ngưng bắn dzồi. Anh em cả. Chúng tôi đâu có khí giới đâu. Đói và thèm thuốc quá, các anh ủng hộ tý.” Những người lính miền Nam chất phát, đưa mắt nhìn nhau, khó xử. Bắc quân vừa từ từ bước đến gần vừa cười cười: “Các anh biết không? Mấy hôm nay đói meo, mỗi ‘nần’ các anh ăn, mùi đồ hộp thơm ‘nừng’, tụi này thèm quá!” Thấy quả thật địch quân không mang súng, người lính miền Nam cả tin, hạ nòng súng, ùa đến bắt tay Bắc quân.

Sau vài phút vui mừng, lính miền Nam lấy thức ăn và thuốc hút trong ba-lô tặng lính miền Bắc. Lính miền Bắc cười, “khoe” hàm răng hô, rồi “hồ hởi” khui, ăn ngay tại chỗ. Có người hút hết điếu quân tiếp vụ do lính miền Nam tặng rồi mới thong thả khui thức ăn, ăn. Vừa ăn lính miền Bắc vừa nhìn từng đôi giày “sô” sờn gót, từng chiếc đồng hồ cũ kỷ hoặc cặp kính mát được dắt hờ vào túi áo rằn ri của người lính Thủy-Quân Lục-Chiến rồi trầm trồ một cách thèm thuồng: “Ôi Giời! Đồ đạc của các anh hiện đại quá! Cho sờ tý.” Lúc này người lính miền Bắc trông ngây ngô, vui thích và hiền lành như đàn cừu vừa tìm được cánh đồng cỏ non.


Bất ngờ một tiếng “sát!” vang lên! Nhanh và “ăn khớp” nhau như đã được thực tập nhuần nhuyển, những con cừu hiền lành ấy bỗng biến thành đàn hổ đói vừa ngửi được mùi thịt tươi! Bắc quân phùng mang, trợn mắt, vung dao găm, đâm túi bụi vào chính những người vừa cho chúng ăn! Nhiều thây người gục xuống. Mũ xanh, nón sắt rơi ơ hờ cạnh gốc tranh câm nín. Máu đỏ vẽ thêm những đường kỷ hà trên quân phục rằn ri!

Vài tiếng súng rời rạc vang lên trước khi Mạnh đủ sức quay sang hiệu thính viên, có ý dùng ống liên hợp ra lệnh đừng bắn. Một tay ôm vết thương nơi lồng ngực bên trái, một tay Mạnh cố sức hất thân người của hiệu thính viên – đã bị tử thương do đạn của Bắc quân – sang một bên để Mạnh xử dụng máy truyền tin. Vừa khi ấy, một “anh nón cối” chạy ngang qua. Nghe tiếng máy truyền tin “rè rè, rẹt rẹt”, “anh nón cối” dừng lại. Thấy Mạnh nằm nghiêng, đang áp tai vào ống liên hợp trong tư thế liên lạc, “anh nón cối” hươi dao găm lên, tính đâm vào lưng của Mạnh. Nhưng, bất ngờ Mạnh quay ra sau, ánh mắt đầy thảng thốt. Khi ấy “anh nón cối” cũng vừa thấy trên vai của Mạnh mỗi bên hai gạch trắng lớn dính sát vào một vòng tròn nhỏ cũng màu trắng và một vùng máu đỏ đang nhuộm thắm phần trên của túi áo, nơi có bảng tên Nguyễn Văn Mạnh.

Lần đầu tiên trực diện với sĩ quan quân đội miền Nam, “anh nón cối” hơi lúng túng. Nhưng thấy Mạnh bị thương, “anh nón cối” lấy lại bình tĩnh ngay. “Anh nón cối” đá ngược vào mặt Mạnh làm Mạnh bật ngửa ra. Ngay lúc đó “anh nón cối” đâm vào vùng bụng dưới của Mạnh và tiện tay, hắn xoay lưỡi dao! Mạnh quặn người, nghiến răng, dồn hết tàn lực vào đôi tay, chụp cánh tay của “anh nón cối”, bóp chặt. “Anh nón cối” bậm bờ môi thâm sì, dùng tay trái trợ lực, ấn dao găm sâu xuống, sâu xuống nữa! Trong nỗi đau tột cùng, Mạnh nhìn “anh nón cối” bằng ánh mắt ngỡ ngàng đến khó hiểu rồi buông tay, khép mắt!

Mạnh tỉnh lại khi chiếc trựa thăng mang dấu hồng thập tự “là đà”, sắp đáp xuống. Mạnh cảm thấy ươn ướt nơi bờ môi. Mở mắt, Mạnh thấy y-tá đang dùng bông gòn thấm nước, “rà” quanh bờ môi khô nứt của chàng. Thấy Mạnh tỉnh lại, y-tá dừng tay, giọng reo vui: “Ông Thầy! Ráng đi ông Thầy! Trực thăng tản thương tới rồi, ông Thầy.” Mạnh thều thào: “Con cái của tao bị nặng không?” Y-tá lắc đầu, tỏ vẻ thiểu não: “Tơi bời hoa lá, ông Thầy!” Mạnh thở dài. Trước khi chìm lại vào hôn mê, Mạnh còn nghe giọng bực tức của Cao, một hạ sĩ rất gan lỳ của đơn vị – cũng bị thương – hỏi một tên thương binh cộng sản: “Đã có lệnh ngưng bắn, tại sao các anh còn tấn công chúng tôi?” Vì thấy có sự hiện diện của vài tên Tiệp-Khắc trong ủy ban liên hợp bốn bên, tên Việt cộng biết tính mạng của anh ta sẽ không đến nỗi nào và cũng vì bản chất gian manh của người cộng sản, anh ta phát ngôn không ngượng miệng: “Chúng tối tấn công các anh bao giờ? Vết thương nơi chân tôi ‘nà’ do đạn M16 của các anh bắn chứ có ai nghe hoặc thấy súng của chúng tôi nổ chưa? Các anh bắt tôi ‘nà’ các anh vi phạm hiệp định ‘Ba-Nê’. Chúng tôi sẽ ‘chanh’ đấu để đưa sự kiện này ‘nên’ ủy ban ‘niên’ hợp bốn bên.”  Một quân nhân thều thào: “Cao! Đang không, đ. m., sao mày dở nắp ống cống lên chi vậy?”

Bao nhiêu năm rồi, nhưng mỗi khi nhớ lại câu nói đầy ý nghĩa của một thuộc cấp, Mạnh cũng vẫn phải cười vì sự thâm thúy của chàng “lính thủy đánh bộ”.

******

Chiếc phản lực của hãng hàng không Northwest càng bay xa lục địa Hoa-Kỳ bao nhiêu Mạnh càng cảm thấy bồi hồi bấy nhiêu. Mối tình cảm này tương tự như tâm trạng của Mạnh, năm 1982, khi Mạnh được phóng thích khỏi trại cải tạo, ngoài Bắc, đáp xe lửa về Nam.

Khi chuyến xe lửa vừa qua khỏi cầu Bến-Hải, nỗi buồn sâu kín không biết từ đâu “ùa” đến, phủ ngập cả hồn chàng! Nghĩ ngợi một lúc Mạnh mới tìm ra nguyên nhân gợi buồn là chiếc cầu Hiền-Lương! Ranh giới phân chia đất nước đã được xóa trên bản đồ, cũng như hai vết sẹo nhăn nhúm trên cơ thể của Mạnh đã lành lặn; nhưng biết đến bao giờ dòng sông đẩm máu này mới thoát khỏi tính chất oan nghiệt của nó; cũng như biết đến khi nào những tế bào nơi hai vết sẹo của Mạnh mới trở lại trạng thái bình thường!

Khi xe lửa qua khỏi ga Tuy-Hòa một chốc, Mạnh khóc lúc nào Mạnh cũng không hay! Nước mắt của Mạnh bây giờ chỉ âm thầm lăn dài trên hai gò má trũng sâu chứ không tuôn trào cùng tiếng thét gào điên loạn của thằng Mùi trong một đêm hãi hùng cách nay xa lắm.

Đêm hãi hùng đó, trên chuyến tàu từ Tuy-Hòa về Nha-Trang, Mùi ngồi cạnh Bố, nhớ lại hương vị của biển và những món ăn tuyệt vời mà người bạn gái của Bố ở Tuy-Hòa nấu đãi hai Bố con nhân dịp Mùi thi đậu trung học đệ nhất cấp. Tội nghiệp Bố và người đàn bà đang muốn chiếm vị thế của Mẹ! Bao nhiêu tiền dành giụm Bố và bà ấy đều vui thích và hãnh diện đưa Mùi đi may áo quần, mua sách vở, dày dép, chuẩn bị cho Mùi làm “cậu tú”, vì Mùi quyết định “học nhảy” lớp đệ tam. Nghĩ đến sách vở và quần áo mới, Mùi cảm thấy thương Bố quá, vỗ nhẹ vào vai Bố: “Bố! Mai mốt học xong con cũng đi Biệt-Động-Quân giống Bố, nha, Bố!” Thân giật mình: “Bố mày! Cho mày ăn học để mày làm ông kia ông nọ chứ bộ để đi lính giống tao à?” Mùi ngây thơ: “Thế Bố muốn sau này con làm gì?” Có lẽ đã “nuôi” ước vọng này từ lâu, Thân đáp ngay: “Làm bác sĩ, kỹ sư, luật sư, thiếu gì nghề danh giá, con.” Mùi lắc đầu: “Nhưng con muốn đi lính cơ! Đi lính như Bố oai thấy mồ, ai thấy cũng phải chào.” Thân chấm dứt ước mơ của Mùi: “Thôi, về lo học hành, đừng nói nhảm!”

Hai Bố con im lặng được một chốc, bỗng xe lửa hãm nhanh tốc lực. Nhiều tiếng “lao xao” từ nhóm người đi buôn: “Rồi! Tụi nó chận đường nữa rồi!” Thấy vẻ hốt hoảng hiện lên mặt mọi người nhưng Mùi chẳng biết chuyện gì đang xảy ra. Bỗng Thân chụp cái xắc có bộ quân phục giấu kín trong ấy, liệng qua cửa sổ toa xe, trước đôi mắt ngơ ngác của Mùi. Thân nắm chặt tay Mùi, giọng lo âu, nói vào tai Mùi: “Coi chừng chúng nó bắt thanh niên đi theo chúng nó. Có gì con cố chạy thoát, đừng để chúng nó bắt, nghe chưa?” Lúc này Mùi mới lờ mờ hiểu và sợ.

Xe lửa dừng hẳn. Những người ngồi gần cửa bắt đầu rời xe với thái độ rất sợ hãi. Những người ngồi bên trong cũng tuần tự đi ra. Tất cả đứng gom lại nơi thửa ruộng khô. Mấy người mặc đồ bà ba đen, tay xách đèn lồng – không biết xuất hiện từ đâu – bắt đàn bà, người già và trẻ con đứng riêng; đàn ông đứng riêng, rồi “đồng chí chính trị viên” bắt đầu tuyên truyền.

Giữa lúc tinh thần mọi người bị chi phối và căng thẳng đến tột độ, một tiếng hô “nghi…ê…m…” vang lên. Phản ứng tự nhiên của những người lính chuyên nghiệp, Thân – cũng như những quân nhân khác đang mặc thường phục – vội đứng thẳng, cụp hai chân vào nhau trong thế nghiêm thì nhóm Việt-Cộng nhận ra ngay ai là lính miền Nam. Việt-Cộng nhào đến, bắt ngay những người lính không vũ khí ấy đứng riêng ra!

Trong khi Mùi run sợ, chỉ biết nhìn Thân lủi thủi tuân lệnh Việt-Cộng thì “đồng chí chính trị viên” điểm điểm ngón tay trỏ vào toán lính V.N.C.H., mặt hắn xoay về nhóm thường dân, lên án: “Đồng bào thấy rõ, đây là những tên phản động, tay sai của đế quốc Mỹ, mang tâm liếm gót giày bọn ‘sen đầm’ quốc tế, phản lại dân tộc. Chúng nó đáng tội chết! Chúng nó phải đền tội trước nhân dân!”

Nghe “chính trị viên” phát biểu, toán lính V.N.C.H. đưa mắt nhìn nhau, ngầm hiểu rằng cuộc đời của họ chắn chắn sẽ kết liểu tại đây! Đã vậy thì liều! Thân hô lớn “Biệt-Động-Quân! Sát!” Như nghe một mệnh lệnh khi xuất quân, những người lính V.N.C.H. vừa chồm tới, chưa kịp thực hiện chiến thuật cận chiến với toán Việt-Cộng thì khẩu đại liên – không ai biết Việt-Cộng đặt trên mui xe lửa từ lúc nào – quạt từng loạt đạn vào toán lính V.N.C.H. không khí giới, trước sự kinh hoàng của mọi người!

Mùi hét lên “Bố! Bố ơi! Bố!” và dợm người muốn chạy đến ôm xác của Thân; nhưng một phụ nữ kéo Mùi lại: “Im! Mày muốn tụi nó giết mày luôn hả?” Mùi hãi quá, nín thinh. Đến khi mấy người mặc đồ bà ba đen thổi tắt mấy ngọn đèn lồng và biến vào bóng đêm, mọi người mới ùa đến bên các nạn nhân. Mùi gục đầu lên xác của Thân và kêu khóc thảm thiết. Người phụ nữ lúc nãy lại đến, ai ủi, dỗ dành Mùi. Nhưng Mùi vẫn cứ khóc cho đến khi khan cả tiếng mới chịu lặng yên. Mùi ngồi giậy, khoanh tay vòng hai đầu gối rồi gục đầu lên, thút thít. Thỉnh thoảng Mùi nhìn xác thân bê bết máu của Bố rồi quẹt nước mắt!

Sau bao nhiêu biến thiên của cuộc sống, Mùi tưởng Mùi đã quên được đêm kinh hoàng đó, nhưng không! Mỗi khi nhớ lại Mùi vẫn còn xúc động, lặng lẽ lau nước mắt. Mùi thở dài! Từ một thằng Mùi côi cút, Mùi lăn xả vào đời với tên mới – Mạnh – như ngầm nhắc nhở mình luôn luôn hướng về tương lai với tinh thần cứng rắn và niềm tự tin trong một cơ thể tráng kiện.

Nhưng, sau lần bị thương vào ngày ngưng chiến để người vợ trẻ của chàng lặng lẻ ra đi – vì hình hài của Mạnh đã mất khả năng thiên bẩm của người đàn ông – Mạnh tự biết rằng lòng tự tin trong chàng không còn nữa! Và giờ đây, sau bao nhiêu năm tù đầy ngoài Bắc-Việt, cơ thể chàng còm cỏi, tâm hồn chàng rã rời, mất hết sức phấn đấu, Mạnh không hiểu chàng còn lý do gì để hướng vế ngày mai! Vì nghĩ như vậy, Mạnh nhận biết rằng, lẫn trong những dòng nước mắt khóc Cha lần này còn có những giọt lệ Mạnh khóc cho chính cuộc đời của chàng!

Để lòng bớt ngậm ngùi với quá khứ, Mạnh đứng lên, chồm ra cửa sổ, hít vào buồng phổi luồng gió trong lành của Vịnh Đại-Lãnh im lìm. Xe càng xa xứ “nẫu” bao nhiêu thì nỗi buồn càng lui xa trong lòng Mạnh bấy nhiêu. Và cuối cùng là khối tình cảm bồi hồi, xúc động âm ỷ nổi lên trong lòng Mạnh. Đến khi xe lửa dừng tại ga Nha-Trang, khối tình cảm ấy mới biến thành sự lạc lõng, sự cô đơn như dạo nào chàng và Bố vừa rời tàu “há mồm” sau nhiều ngày rời bến Hải-Phòng!

Ra khỏi ga xe lửa, Mạnh ngơ ngác, không biết về đâu; vì Mạnh lớn lên và khởi sự binh nghiệp từ trường Thiếu-Sinh-Quân! Thấy nhiều kẻ ăn xin bám theo hành khách, Mạnh chạnh lòng, nhưng chợt nhớ số tiền quá ít trong túi, Mạnh lắc đầu, nhìn lơ chỗ khác. Bất ngờ Mạnh chú ý đến tấm thẻ nhựa nhỏ được gắn nơi ngực của một hành khất mù đang ngồi im lặng cạnh mấy chiếc xích-lô, tay đưa gáo dừa ra xin. Nhìn kỷ, Mạnh giật mình. Tấm thẻ nhựa ấy là thẻ căn cước quân nhân V.N.C.H! Mạnh bước đến, hỏi nhỏ: “Sao anh dám đeo căn cước quân nhân? Anh không sợ à?” Người hành khất đáp: “Tôi còn gì để họ đầy ải nữa đâu mà sợ!” Mạnh lấy trong túi quần ít tiền, khom người, nhét nhanh vào tay người ăn xin: “Anh cầm tạm. Tôi không có nhiều.” Ngay lúc đó, một người ngồi trên Honda hỏi Mạnh: “Mới được thả về hả? Muốn về đâu?” Mạnh ngạc nhiên, đứng lên: “Anh hỏi tôi, phải không?” Người ngồi trên Honda cười: “Chứ hỏi ai nữa bây giờ! Anh nhìn quanh đây xem ai giống anh không thì biết hà!” Mạnh ngần ngừ: “Tôi không có nơi nào để về cả. Số tiền còn lại trong túi tôi chắc chắn không thể nào đủ trả cho cuốc xe từ đây ra nghĩa trang Phật-Giáo.” Người ngồi trên Honda cười lớn: “Bộ không có chỗ nào về rồi ra nghĩa trang ngủ nhờ sao, cha nội?” Mạnh cũng cười: “Tôi muốn thăm mộ của Bố tôi.” Người ngồi trên Honda cho xe nổ máy, thúc: “Trời đất! Thôi, lên lẹ đi, cha.” Trong khi cho xe chạy ra cầu Hà-Ra, người lái tự giới thiệu là Vũ, cựu Mũ Nâu. Sau những chuyến xe thồ thường nhật, trước khi về nghỉ, Vũ thích ghé ga xe lửa đón tù cải tạo mới được tha, đưa họ về với gia đình mà không nhận thù lao. Trường hợp của Mạnh, vì thấy nghĩa cử của Mạnh đối với người hành khất và hiểu hoàn cảnh của Mạnh, Vũ xúc động, đề nghị Mạnh về ở tạm nhà Vũ, Vũ sẽ tìm người cho Mạnh dạy kèm Anh văn, kiếm tiền…

Dòng ý tưởng của Mạnh vừa đến đây, bất chợt giọng nhỏ nhẹ của cô tiếp viên hàng không đưa Mạnh trở về thực tại:

- Thưa ông, ông dùng loại nước giải khát nào ạ?

Mạnh cười và xin một ly Sprite. Vị ngòn ngọt, chua chua và cảm giác mát lạnh của vài ngụm Sprite đem đến cho Mạnh sự dễ chịu và thoải mái. Nhìn ra cửa sổ phi cơ, thấy từng áng mây trắng xóa, Mạnh có cảm tưởng như chiếc phi cơ bay rất chậm. Đôi lúc Mạnh tưởng như phi cơ đứng yên và mây trôi lặng lờ. Mạnh nhận ra rằng, thân phi cơ, cũng như thân xác của chàng, so ra rất nhỏ bé trong không gian bao la này.

Phi cơ lên cao, lên cao nữa và vượt khỏi nhiều tầng mây để Mạnh thấy, phía trên phi cơ, bầu trời trong xanh như biển của những ngày sóng lặng; và dưới lườn phi cơ, mây trắng kết liền nhau, trông như cánh đồng tuyết. Cuối tầm mắt, bầu trời xanh và “cánh đồng tuyết” tiếp giáp nhau trông như vòng chân trời mà Mạnh thường thấy vào những chiều lang thang trên bờ biển ở trại tỵ nạn Ga-Lăng.

Thời gian ở trại Ga-Lăng, tuy thiếu thốn, cô đơn, buồn nản nhưng Mạnh không phải lo bị mất việc, không tiền trả bills; Mạnh cũng không phải làm quần quật như từ ngày đến Mỹ.

Ở Việt-Nam, trình độ Anh ngữ của Mạnh được kể là khá, dạy kèm học sinh để kiếm sống và để dành tiền vượt biên. Vì vậy, Mạnh cứ hy vọng khi đến Mỹ, Mạnh sẽ tìm được việc làm tương đối nhẹ nhàng và lương khá. Không ngờ, khi đến Mỹ, Mạnh chỉ tìm được việc làm ở một body shop.

Khi một người bạn về Bắc thăm nhà, Mạnh nhờ người ấy tìm cách liên lạc về làng xưa, tìm Mẹ và Tuất; vì năm 1954 ra đi, Mạnh còn quá nhỏ, không thể nhớ địa chỉ. Cũng vì lý do đó, khi bị cộng-sản Việt-Nam (csVN) giải ra Bắc, Mạnh không thể liên lạc về gia đình.

Sau khi người bạn giúp liên lạc được với bà Thân và Tuất, Mạnh phải làm thêm việc giữ an ninh cho một nhà kho, vào cuối tuần, để có phương tiện giúp Mẹ và Tuất. Lúc này Tuất đã có ba người con trai; đứa lớn tử trận khi bị csVN đưa sang Cao-Miên làm “nghĩa vụ quân sự”.

Suốt thời gian liên lạc được với Mạnh, bà Thân và Tuất chưa bao giờ cho Mạnh biết sự thật về những cái chết đau thương của ông bà Nội/Ngọai. Và Mạnh cũng chưa dám cho bà Thân và Tuất biết csVN đã dùng thủ đoạn đê hèn để giết ông Thân – vì ngại thơ bị kiểm duyệt và “nhà nước” sẽ gây khổ nạn cho bà Thân.

Đến khi Mạnh về làng xưa, lần đầu tiên chỉ có ba Mẹ con ăn cơm với nhau, tại nhà Tuất, bà Thân mới bùi ngùi kể lại cho Mạnh nghe về sự “ra đi” của ông bà Nội/Ngoại và Mạnh cũng có cơ hội thuật lại cái chết đầy bi thương của ông Thân!

Cái chết của ông Thân đã khắc sâu vào tâm khảm của Mạnh. Giờ đây lại biết sự thật về bốn đại tang, Mạnh bàng hoàng, đau xót vô cùng! Giữa khi gia đình đang đau buồn, bất ngờ một công an phường xuất hiện, đưa giấy, bảo Mạnh sáng mai phải đến phường “làm việc”.  Mạnh sững sờ nhìn anh công an bằng đôi mắt mở lớn, đầy ngỡ ngàng/hoảng hốt...

Thấy ánh mắt của Mạnh, Tuất giật mình. Ánh mắt ấy như dội vào tâm thức để Tuất phải bận tâm, phải nghĩ ngợi!

Đêm đó, sau khi anh em nằm bên nhau trên chiếc phản, hàn huyên cho đến gần sáng, Mạnh rơi vào giấc ngủ một cách dễ dàng. Riêng Tuất cứ trằn trọc mãi, không ngủ được, vì bị ánh mắt khó hiểu của Mạnh lúc chiều ám ảnh. Tuất cố vận dụng trí nhớ để xem Tuất đã thấy ánh mắt ấy ở đâu, vào dịp nào, nhưng đành chịu! Rồi Tuất hồi tưởng lại những cuộc đụng độ dữ dội với quân miền Nam xem những nạn nhân của nòng súng, lựu đạn và mũi dao/mã tấu của Tuất chết như thế nào và động tác của mỗi nạn nhân trước khi chết ra làm sao! Nhưng vì giết nhiều “kẻ thù” quá, Tuất không thể nhớ được “kẻ thù” nào có ánh mắt lạ lùng đó!

Khi Tuất thiu thiu ngủ, ánh mắt ấy lại hiện về. Tuất không dám mở mắt, cố tập trung tư tưởng vì ngại ánh mắt ấy sẽ biến đi. Tuất thấy sau đôi mắt dường như thấp thoáng loại quân phục có tích cách ngụy trang của lính miền Nam. Tuất vận dụng tâm trí nhiều hơn nữa và từ từ nhận ra những đường kỷ hà màu xanh, nâu, đen và trắng chen lẫn nhau. Đúng rồi! Quân phục của Lính Thủy Đánh Bộ! Ô, lạ không! Tại sao lại có vết máu tươi nơi ngực trái và ống liên hợp kêu “rè rè, rẹt rẹt”…Người Tuất toát mồ hôi. Đúng là ánh mắt hoảng hốt/ngỡ ngàng của “tên” sĩ quan “Ngụy” bị Tuất đâm chết cạnh máy truyền tin, bên kia bờ sông Thạch-Hãn, vào hôm có lệnh hưu chiến!...

Vừa khi ấy, Mạnh thức giấc, than nóng và đèn sáng Mạnh khó ngủ. Tuất tăng tốc độ quạt máy và khuyên Mạnh nên cởi áo thun để ngủ cho mát. Tuất đến công tắc điện, có ý đợi Mạnh cởi áo thun xong rồi mới tắt đèn. Nhưng, khi chiếc áo thun trắng vừa vuột qua khỏi vai của Mạnh, Tuất nhíu mày vì thấy vết sẹo nơi ngực trái của Mạnh. Tuất hỏi:

- Anh “nàm” gì mà có vết sẹo dài thế?

Như suốt mấy ngày qua, với dụng ý không muốn nhắc đến quá khứ, Mạnh đùa:

- Anh có cả…ngàn vết sẹo chứ phải một đâu, chú!

 Biết Mạnh đùa, Tuất cũng đùa theo:

 - Người có cả ngàn vết sẹo thì… “cái ấy” cũng mang sẹo rồi!

Hai anh em cười vang. Trong phút giây vui với đứa em mấy mươi năm xa cách, Mạnh cảm thấy trẻ lại như ngày nào hai anh em ở truồng tắm sông, cho nên quên giữ ý:

- Không phải ngay “cái ấy” mà gần gần thôi.

Tuất cũng vô tình, muốn kéo dài niềm vui:

- Đâu, đưa em xem nào!

Mạnh trật lưng quần đùi ra. Thấy vết sẹo màu nâu nổi cộm ở vùng bụng dưới của Mạnh, Tuất hoảng kinh, đứng sững! Đầu óc của Tuất xoay vòng, muốn nổ tung! Ánh mắt lúc chiều, vết sẹo bên trái của lồng ngực và vết sẹo ở bụng dưới…Lẽ nào! Tuất khổ sở, lắc đầu nhiều lần rồi nghiêm giọng:

-Anh Mùi! (Tuy biết Mùi đã đổi tên, nhưng bà Thân cũng như Tuất, đều muốn gọi Mạnh là Mùi; vì tên Mùi nghe gần gủi, thân thiết hơn.) Hồi trước anh là Lính Thủy Đánh Bộ, đúng không?

- Anh đã dặn chú hoài. Tìm hiểu làm chi những chuyện ấy?

- Thôi được. Em chỉ yêu cầu anh trả lời cho em một chữ “có” hay “không” mà thôi. Chịu không?

Mạnh quen miệng “Okay”. Tuất hỏi:

- Ngày đình chiến, đơn vị của anh có đóng ở bên kia sông Thạch-Hãn hay không?

Mạnh hơi hoang mang về sự tò mò của Tuất, đành đáp “hàng hai”:

- Nếu chú cho anh biết lý do gì chú hỏi anh câu ấy thì anh sẽ trả lời.

Tuất không trả lời, vội tắt đèn và hấp tấp mở cửa trước:

- Thôi, gần sáng rồi. Anh nằm nghỉ. Em đi có tý việc. Em sẽ về ngay.

******

Sau khi nghe Tuất kể rõ câu chuyện, bà Thân lặng người một lúc rồi thở dài:

- Tuất à! Bất cứ điều gì xảy ra trên đời đều do “duyên” và “nghiệp” cả. Trường hợp của con và anh Mùi cũng chỉ là một trong muôn vàn cảnh oái ăm trên đất nước điêu linh này. Con biết hối và biết thương anh Mùi, thế là đủ.

- Nhưng làm thế nào con có thể sống với sự ray rức này, Mợ?

- Ý con muốn như thế nào?

- Con muốn nói thật với anh Mùi.

- Không nên, con à! Có bao giờ anh Mùi muốn nhắc chuyện cũ đâu. Vả lại, bây giờ chỉ con và Mợ biết chuyện, Mẹ con mình đau lòng; nếu anh Mùi biết nữa, chỉ thêm một người nữa đau lòng chứ có giải quyết được gì đâu, con!

- Nhưng con cũng có nhiều chuyện ấm ức, con muốn nói với anh Mùi.

Nhờ những lá thư ngày trườc Tuất thường gửi tay từ trong Nam về cho Bà, bà Thân hiểu tâm trạng của Tuất. Bà đáp:

- Con có thể nói với anh Mùi những chuyện ấm ức đó. Nhưng, Mợ nghĩ, con không  cần phải nói với anh Mùi về lỗi lầm của con ở bên kia sông Thạch-Hãn, vào hôm ngưng chiến!

- Vâng. Con hiểu.

******

Trên chuyến xe lửa Thống Nhất, Mạnh và Tuất ngồi uống bia nơi toa hàng ăn vào lúc xế trưa, vắng khách. Nhìn quanh không thấy ai khác, ngoài người ngồi xa xa sau quày tính tiền, Tuất tiếp, giọng vẫn nhỏ và đều:

- Trong hàng ngũ bộ đội, biết bao nhiêu thằng như em, nhưng chỉ sợ gia đình bị trả thù cho nên ít đứa dám ra hồi chánh; bởi thế, anh đừng tưởng ai ở ngoài Bắc cũng đều là cộng-sản cả đâu.

- Nếu anh nghĩ như thế, anh đã không về.

Ngưng một chốc, Mạnh tiếp:

- Dù sao thì họ cũng là kẻ đã thắng.

- Thắng mẹ gì! Hồi đó nếu Mỹ cho B52 “rải thảm” thêm một hai trận nữa là bọn chúng đầu hàng vô điều kiện, cũng giống như Nhật hồi thế chiến thứ hai rồi!

- Thế Tuất không hãnh diện được có mặt trong đoàn quân chiến thắng à?

- Hãnh diện gì! Thời chiến, ngoại trừ con cháu bọn “chóp bu”, thằng thanh niên miền Bắc nào khỏi vào bộ đội? Khi đã xung trận thì giết hoặc bị giết chứ có ai muốn thế đâu, anh!

Mạnh cười cười, liếc chỗ xâm bốn chữ “sinh Bắc tử Nam” trên tay Tuất. Hiểu Mạnh nghĩ gì, Tuất xòe bàn tay, nhìn vào rồi bưng chai bia, “tu” một hơi, tiếp:

- Anh đã thấy những thằng bộ đội bị xích chân vào xe tăng, vào thân cây hoặc vào trọng pháo chưa? Đấy, vô nhân đạo thế ấy mà tụi bộ đội vẫn phải để cho xích, huống chi xâm bốn chữ định mệnh này!

Mạnh bóp nhẹ tay Tuất. Tuất xoay ngược bàn tay, nắm tay Mạnh rất lâu. Hai anh em đều yên lặng. Không phải đến bây giờ Tuất mới cảm nhận được tình anh em ruột thịt nơi Mạnh; nhưng quả thật bây giờ Tuất mới cảm thấy nhẹ nơi lồng ngực, vì Tuất đã nói ra được phần nào những điều ray rức trong lòng chàng!

Tuất đứng lên, đến bên cửa sổ, nhìn mong ra vùng không gian bát ngát. Cánh đồng xa xa lúa đã chín vàng. Từ lúc đó, trên chuyến tàu Thống-Nhất theo Mạnh về Nam để cải táng hài cốt của ông Thân, lòng Tuất thanh thản như những áng mây cuối trời./.

ĐIỆP MỸ LINH

http://www.diepmylinh.com/

Biểu Diễn Nhào Lộn Thần Sầu


 
Mời click vào  vuông để mở lớn màn hình

Friday, August 22, 2025

Chưa Hẳn Thuận Duyên Sẽ Mang Lại Hạnh Phúc, Nghịch Duyên Sẽ Mang Lại Khổ Đau

Trên những đoạn khúc khuỷu của đường đời, chúng ta thường dễ trượt ngã và oán trách số phận: “Sao đời lại bất công như thế?”. Nhưng với người Ấn Độ, họ luôn dùng kim chỉ nam là 4 quy tắc tâm linh đầy sâu sắc dưới đây để đi qua những cơn sóng của niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống.

1. “Bất cứ người nào bạn gặp cũng đúng là người mà bạn cần gặp”

Không ai ngẫu nhiên bước vào cuộc đời bạn mà không mang một ý nghĩa nào đó. Tất cả những người chúng ta gặp trên đường đời đều là những người “thầy” vô giá. Dù họ yêu thương bạn, bỏ rơi bạn, giúp đỡ bạn hay tranh đấu với bạn, tất cả chỉ để dạy bạn cách sống, cách yêu thương, cách bao dung và nhẫn nhường. Số phận luôn sắp đặt đúng người vào đúng thời điểm để tôi luyện ý chí và phẩm cách con người bạn, để bạn nhận ra đâu là giá trị cuộc sống và giá trị của bản thân mình.

Vậy nên, nếu bạn chỉ biết ơn những người trao cho bạn cơ hội mới, những người tặng bạn những khoảnh khắc ngọt ngào, và thù ghét những người để lại vết thương lòng trong bạn thì bạn mới chỉ hiểu một nửa thông điệp của tạo hóa.

2. “Bất cứ điều gì xảy thì đó chính là điều nên xảy ra”

Có thể bạn sẽ cảm thấy khó chịu khi kẹt cứng trên một tuyến đường vì phương tiện giao thông quá tải, trong khi có một cuộc phỏng vấn đang chờ. Bạn cũng sẽ thấy dằn vặt, đau thương và tiếc nuối ra sao khi mất mát đi một người thương yêu mình. Nhưng bạn có thể không ngờ rằng, nếu bạn đi nhanh hơn thì một chiếc ô tô lao vun vút trên con đường khác có thể cướp đi mạng sống của bạn, và một nửa đích thực của bạn sẽ không có cơ hội được tìm thấy nếu bạn cứ ôm giữ hình bóng của quá khứ.

Không có điều gì chúng ta trải nghiệm lại nên khác đi và đừng tốn thời gian để hối tiếc về những chuyện đã qua. Mỗi chuyện xảy ra đều là một mảnh ghép hoàn hảo trong một bức tranh to lớn của cuộc đời.

3. “Chuyện gì đến, nó sẽ đến”

Chúng ta không thể ngăn chặn những điều mình không thể đoán trước xảy ra. Việc lo sợ vào một ngày chuyện tồi tệ ập đến sẽ khiến bạn quên đi những giây phút đáng quý của hiện tại. Dù là niềm vui hay nỗi buồn, hãy học cách dũng cảm đón nhận nó. Bạn không thể kiểm soát thế giới xung quanh. Chuyện gì phải đến cũng sẽ đến vì sống trên đời không phải để thỏa mãn tất cả những nhu cầu của bản thân, mà để học cách bình thản đối diện với những chuyện bất ngờ xảy ra.

Đôi khi, chúng ta phải chờ đợi rất lâu và trải qua rất nhiều những “chuyện sẽ đến” chỉ để hiểu hết ý nghĩa của thời điểm. Thời điểm luôn là món quà mà Thượng Đế trao cho những ai biết nhẫn nại, kiên trì và quyết tâm.

4. “Những gì đã qua, hãy cho qua”

Quy tắc này rất đơn giản: Khi điều gì đó trong cuộc sống của chúng ta kết thúc, thì có nghĩa là nó đã đi hết nhiệm vụ của mình. Mối duyên phận của chúng ta với điều đó đã chấm dứt, để nhường một mối nhân duyên khác hội tụ. Đó là lý do tại sao, để làm phong phú thêm trải nghiệm của mình, chúng ta hãy buông bỏ và tiếp tục cuộc hành trình mà không nên ôm mãi những phiền muộn hay ký ức của quá khứ.

Với người Ấn Độ, để có được một cuộc đời thanh thản, bình yên và vững chắc, mỗi người đều nên biết sống tùy duyên và thuận theo tự nhiên. Có người từng nói:

“Ta thường gọi nhân duyên tốt là thuận duyên, và nhân duyên xấu là nghịch duyên, tức là những điều kiện có lợi và bất lợi cho ta. Bản chất của nhân duyên thì không có thuận nghịch, tốt xấu. Nó chỉ hội tụ hay tan rã theo sự thích ứng giữa các tần số năng lượng phát ra từ mọi cá thể mà thôi. Ấy vậy mà thói quen của hầu hết chúng ta khi đón nhận thuận duyên thì luôn cảm thấy sung sướng và rất muốn duy trì mãi nhân duyên ấy, còn khi gặp phải nghịch duyên thì luôn cảm thấy khó chịu và tìm cách tránh né hay loại trừ.

Nhưng chưa hẳn thuận duyên sẽ đem lại giá trị hạnh phúc hay nghịch duyên sẽ mang tới khổ đau, bởi có khi nghịch duyên đưa tới sự trưởng thành, còn thuận duyên sẽ khiến ta yếu đuối. Và nhiều khi thuận duyên ban đầu nhưng lại biến thành nghịch duyên sau này, có khi nghịch duyên bây giờ nhưng lại biến thành thuận duyên trong tương lai. Tất cả đều tùy thuộc vào bản lĩnh và thái độ sống của ta”.

Hãy cứ sống như người Ấn Độ, để sinh mệnh mình trôi theo dòng chảy của vũ trụ, hòa cùng với những quy luật, đặc tính thiêng liêng và những mối nhân duyên đầy ý nghĩa. Bạn sẽ nhận ra rằng mỗi phút giây trên cuộc đời đều thật đáng quý tuyệt vời.


Theo VanDieuHay

Tháng Bảy Mưa Ngâu - Đỗ Công Luận

Nếu Như Ngày Ấy…- Sỏi Ngọc



Tôi nhớ lúc đó chúng tôi đứa nào cũng mới lập gia đình được vài ba năm, bọn con gái ở lứa tuổi 27, 28, tứ tán khắp nơi trên thế giới, ngày đó ai cũng dắt chồng đi cùng trong những buổi họp lớp cũ.

Từ ngoài cửa bước vào, Yến với dáng người mảnh khảnh, tầm thước, khuôn mặt sáng, cặp mắt to thông minh, tôi đã nghe tiếng cô ta nói với chồng khá to:

-Anh cất cặp mắt kiếng này vào ví dùm em nghe, trời hết nắng rồi.

Nhìn ra phía sau, Tân chồng Yến đang xách ví dùm vợ, lật đật đón cặp mắt kiếng của vợ đưa ra sau, ngoan ngoãn mở ví cất vào trong.

Vừa đến cửa nhà Hà, Yến đã cười tươi rộn rã:

-Hello! Các bạn đông vui quá, để mình xem có nhận ra tất cả các bạn không nghe, đã 15 năm rồi mình không gặp nhau!… Có phải Hạnh, Tâm, Thảo, Vi… Thật là cái duyên gặp gỡ hôm nay, phải nói là tìm nhau như thể tìm … chim.

Rồi Yến tiếp theo cảm hứng vừa đặt vài câu thơ vừa ngâm:

–Tìm nhau như thể tìm chim

Em đi mãi vẫn là người lạ

Cứ ngỡ gần, hóa ra muôn ngả

Tìm nhau hoài-giọng hát cũng bay xa…

Hà chạy đến, giang hai tay ôm Yến:

-Nhỏ Yến này vẫn như xưa, lúc nào cũng vui vẻ hát hò hết, mi vẫn vậy không thay đổi sau 15 năm đó nhe, chỉ có khác mái tóc cắt ngắn thôi; tìm nhà có khó không? Sao không thấy mi giới thiệu chàng mà đứng đó ngâm nga gì đó!

-Chàng của ta hả? mọi người sẽ biết thôi… Người nào ít nói nhất, ưa làm và yêu vợ nhất… là chàng đấy!

Tân đứng sau lưng Yến, nhoẻn cười như câu chào mở đầu với mọi người, ngại ngần lùi lại phía sau, tìm cái ghế trong góc ngồi xuống, bọn con gái chúng tôi lại ùa vang:

-Anh Tân ơi, chắc ở nhà con Yến nó nói hết rồi, không cho anh chút thì giờ nào nói nên cứ phải yên lặng phải không? …Nhỏ Yến này lanh quá đi thôi, tụi mi đã có baby chưa?

-Dĩ nhiên là xong xuôi rồi, tụi này làm sớm nghỉ sớm mà!

-Một đứa thôi hả? trai hay gái?

-…Hai chứ! Đều là con gái hết. Tụi này fermer boutique (ngưng) rồi!

-Hai con gái! Sao nhanh thế? Trông tụi mi như cặp vợ chồng son, tung tăng hạnh phúc bên nhau, vậy ai trông cháu cho hai anh chị đi chơi đây?

-Thật ra mà nói tụi này làm liền tù tì hai đứa, tụi nó cách nhau một tuổi rưỡi thôi, làm luôn một lúc để nghỉ sớm; ông bà nội canh cháu thành ra tụi này chỉ lo kiếm tiền thôi… Ở nhà có ông bà nên đỡ lắm, chiều đi làm về là có cơm nước hết, các cháu cũng được tắm rửa thơm tho, mình chỉ chơi với cháu một lúc là cho tụi nó lên giường ngủ rồi…. Còn Hà và Tuấn thì sao?

-Tụi này chỉ có một cậu con trai bốn tuổi, cháu đang ở với ông bà ngoại hôm nay vì biết tụi mình bận rộn với bạn bè nên anh Tuấn đã gởi cháu đến ông bà từ ban sáng rồi, chúng mình mặc sức đùa giỡn cả đêm… Một đứa thôi thấy cũng đủ lắm luôn vì nuôi con bên này bao nhiêu là trách nhiệm.

Bọn con gái chúng tôi quấn lấy nhau nói chuyện, hỏi han tâm sự cho bõ công đi máy bay thật xa để gặp; lúc ngồi vào bàn ăn, Tân gắp đồ ăn vào bát cho vợ, Yến không muốn ăn, nên gắp trở lại bỏ vào bát của Tân, tôi thấy Tân ngồi cặm cụi bóc vỏ tôm cho Yến, cắt nhỏ miếng thịt gà, cẩn thận lấy canh cho Yến, còn cô nàng cứ tỉnh bơ nói cười, còn ai có phước hơn Yến trên đời này nữa; những mẩu chuyện nàng kể rất có duyên, chọc cho cả bọn cười ròn rã, no cả bụng!

Các bạn trong buổi tiệc hôm ấy, ai cũng công nhận Tân-Yến là cặp vợ chồng hạnh phúc gương mẫu, các ông chồng phải noi theo, ít nói, làm nhiều, biết săn sóc và yêu thương vợ như thế; cứ vợ ở đâu là chồng theo đấy!

Sáng hôm sau, đúng 8:30 chúng tôi đã lên xe đò Hoàng mà Hà -Tuấn đã đặt, đi chơi chung với nhau ba ngày ở Las Vegas, Hà-Tuấn đã đặt sẵn một căn nhà rộng gồm ba phòng nhỏ, có bếp, phòng khách và hai buồng tắm. Mười lăm năm, nhóm nhỏ Couvent Des Oiseaux, chỉ những nữ sinh mới họp lại nên đứa nào cũng muốn ở bên nhau lâu nhất có thể, chắc gì sau này có dịp gặp nhau nữa; nhắc lại bao chuyện xưa kia vẫn chưa hết, nhất là bây giờ đứa nào cũng có chồng con, chúng tôi trải bầy tâm sự suốt đêm vẫn chưa thấy đủ, sáng lên xe ai nấy cũng cầm trên tay một ly café đen mà miệng ngáp muốn trẹo quai hàm.

Gần đến giờ xe chạy, ông tài xế đi kiểm một lượt, nói vọng lên:

-Hình như mình thiếu một cặp phải không?… tôi đếm đi đếm lại sao thấy có 14 người vậy cô Hà?

-Vậy hả, đâu để tôi điểm danh xem ai vắng mặt thì biết liền chứ gì!

Khi gọi đến tên :
-Yến-Tân!
-…
-Yến -Tân có mặt không?
-…
-Ủa sao giờ này gần 9:00 rồi mà cô nàng cũng chưa ra vậy ta! Chả lẽ còn ngủ sao chứ? Hôm qua Yến ngủ cùng giường với Thảo mà?

Thảo giải thích :
-Sáng khi Thảo dậy thì đã không thấy Yến rồi, tối qua tụi này nói chuyện mà không biết bao giờ ngủ luôn nữa vì miệng cứ nói mà mắt thì nhắm tịt!

Cả xe cười ầm với lời giải thích của Thảo. Bỗng từ đàng xa thấy Tân tay xách nách mang túi, giỏ treo từ trên cổ đến hai vai, còn hai tay thì cầm nào là mấy khay nước mía và cả bịch những đĩa bột chiên chồng lên nhau, hớt hơ hớt hãi chạy vội đến :

-Xin lỗi quý vị đã chờ nhen, tại…cô hàng nước mía chỉ mở cửa lúc 9:00 mà thôi đó!

-Ủa còn Yến đâu?

Nàng Yến lững thững hiện ra sau bụi cây hoa giấy màu tím đỏ, nàng đang tự selfie, nhoẻn cười chữa thẹn, như lời xin lỗi :

-Quý vị biết không, mình phải hy sinh dậy sớm đi mua cho mỗi cặp một ly nước mía Viễn Tây để mình nhớ lại mùi vị nước mía hồi xưa mình uống ở trước cổng trường đó, còn bắt anh Tân chạy qua quán đối diện gần đó mua bánh bột chiên với trứng gà để cho những bạn từ bên Tây và Canada thưởng thức, thấy tụi này dễ thương chưa, vậy đừng trách tại sao trễ giờ nhe.

Tiếng Vi vừa cười vừa trêu Yến :

-Đã trễ rồi mà ai còn đứng làm điệu bên khóm hoa giấy đấy?

-…Euh… hoa giấy đẹp thế này, bên Thụy Sĩ không tìm ra đâu nhé, mình phải thừa cơ hội làm vài « bô » chứ!

Cả bọn con gái nhao nhao lên như cái chợ :

-Từ ngày hôm qua đến giờ chúng mình chưa chụp hình người đẹp Yến với chàng hoàng tử Tân để cám ơn lòng tốt của hai vị, tụi mình sẽ không bao giờ quên buổi họp mặt vui và dễ thương của ngày hôm nay suốt đời này!… Hai bạn ra đứng đây cho tụi này chụp một cái đi!

Rất tự nhiên, Yến và Tân đứng sát rạt, hai má kề vào, hai cánh tay choàng vào vai nhau, đứng giữa lòng xe ngay lối đi của chiếc xe đò, làm dáng cho chúng tôi chụp họ một cái.

***
Hai mươi lăm năm vụt qua kể từ ngày họp bạn, chúng tôi không hề gặp lại, mỗi người một con đường, bận rộn công việc, cuộc sống, gia đình, nhưng trong mỗi đứa đều nghĩ rằng các bạn của mình đều vui vẻ, hạnh phúc, hanh thông như những tiếng cười ròn rã của ngày đáng nhớ ấy.

Con cái đã lớn, ra riêng, chúng tôi xấp xỉ tuổi hưu 60, kẻ còn đi làm, người lấy hưu non để hưởng cuộc đời sau bao nhiêu năm cống hiến cho xã hội nơi mình cư ngụ.

Hôm nay ngồi xếp lại sách vở, tấm hình Yến-Tân chợt rơi ra, vẫn nụ cười rạng rỡ ấy, hai mái đầu tựa vào nhau, tôi chợt nhoẻn cười với tấm hình, nghĩ đến kỷ niệm xa xưa, mong cho bạn mình vẫn mãi bình an, hạnh phúc như ngày nào.

Tại sao tấm hình ấy lại rơi ra khỏi tập album mà không phải là tấm nào khác? Như một điềm báo trước; một người bạn học cũ, Như Hạnh bỗng tìm lại tôi trên facebook, sau những lời thăm hỏi, nhắc lại buổi họp mặt cách đây 25 năm tại nhà Hà-Tuấn, Như Hạnh nói với tôi:

-Ngọc có tin của ai trong mấy đứa tụi nó kể từ ngày đó không?

-Không Hạnh, mình đi làm rồi lo cho gia đình, cuộc sống bộn bề nên không có thì giờ nói chuyện với ai cả, nhưng theo mình thì chắc mọi người đều khỏe mạnh và bận việc như tụi mình thôi.

-Bây giờ về hưu rồi nên mình mới có chút thì giờ nói chuyện với Hà tuần vừa qua, Hà sắp về hưu rồi, nàng kể về cặp Yến-Tân, mình nghe mà không ngờ đó là sự thật luôn đó!

Tôi tò mò :

-Ủa chuyện gì mà có vẻ bí mật vậy?…

-Sau chuyến đi chơi họp mặt hồi đó, Yến có bầu một đứa bé trai, ba mẹ chồng mừng vui lắm, nhưng cậu bé này rất khó nuôi, bệnh hoạn hoài, mẹ chồng mới khuyên Yến nghỉ làm, ở nhà trông con, để mình Tân và ba chồng đi làm nuôi cả nhà cũng được.

-Vậy rồi có đủ tài chánh cho cả nhà 7 người không? Bác trai đã lớn tuổi, chỉ làm lương minimum thôi, cái gì cũng dựa vào mình Tân, sao gánh hết nổi?

-Cho nên từ đó bắt đầu sinh ra cãi nhau, thiếu thốn làm con người ta mất nụ cười, mặt mày ủ sầu, quạu cọ, bữa cơm gia đình không còn vui nữa; Tân buồn chán, ra ngoài uống rượu, gặp bạn xấu, từ đó gia đình bất hòa. Tân trong một lần say, đã tâm sự với cô chủ quán rượu, cô này trẻ hơn Yến, xinh đẹp và rất có bản lãnh, hai người đồng cảm rồi tiến đến yêu nhau.

Sáu tháng sau, Tân về nói chuyện ly dị với Yến, nàng khóc hết nước mắt, đau đớn như những vết dao cứa vào tim, Yến không ngờ người chồng mình hết mực yêu thương, tin tưởng lại có thể bỏ nàng khi các con còn nhỏ, cần sự chở che của người cha; Tân còn phũ phàng nói Yến vừa già, xấu, không biết sửa soạn như ai đó để làm cho người đàn ông hãnh diện khi ra ngoài…

Yến cố nài nỉ chồng ở lại chờ các con lớn một chút rồi cô sẽ ra đi, nhưng Tân không chịu, ba mẹ Tân cũng buồn lắm, khuyên Tân rất nhiều, nhưng cũng không lay chuyển được ý Tân, Yến đau khổ, chán ngán ôm ba đứa con ra khỏi nhà ba mẹ chồng!

Tôi bực tức dùm hoàn cảnh bạn, cắt ngang lời của Như Hạnh:

-Gì kỳ vậy! Rồi bây giờ Yến sống một mình tần ấy năm với ba đứa con hả? Thật thương cho số phận của Yến quá, nhìn cô ta mình không thể nào nghĩ hậu vận của cô sẽ khổ như vậy, một người con gái lúc nào cũng tươi vui, cặp mắt sáng, thông minh, đem đến cho mọi người xung quanh sự ngọt ngào ấm áp, làm sao có thể khổ được, mình không thể nào tin được đó!… Nếu là người phụ nữ không nhan sắc, không biết cư xử, ăn nói vô duyên… thì còn có thể nói là hậu vận xám ngoét, đàng này Yến rất biết cách cư xử, chìu bạn bè, chắc chắn phải là người vợ tốt, người mẹ tuyệt vời, chỉ trách Tân có mới nới cũ, phụ tình người con gái mà hắn đã từng theo đuổi cả mấy năm trời khi còn học ở phổ thông; vả lại cuộc đời còn dài, chắc gì Tân mãi hạnh phúc bên cô chủ tiệm rượu!

-Đừng vội tội nghiệp cho Yến nhé, ông Trời nhìn thấy tất cả nên đã run rủi cho cuộc đời của Yến rất sáng sủa, nghe tiếp nè:

-Yến đau khổ sau khi đem ba con nhỏ ra ngoài sống, ba mẹ chồng cũng tìm cách giúp đỡ Yến và các cháu buổi ban đầu nên cũng không đến nỗi cơ cực lắm. Dĩ nhiên là rất bận rộn vì chỉ có một mình Yến đi làm, nuôi con, dắt thằng cu bé đi nhà trẻ, đứa lớn đi học, bếp núc… Cuộc sống trôi qua tối mắt tối mũi như thế làm nàng mạnh mẽ trưởng thành hơn, không còn thì giờ nhớ chuyện xưa mà buồn nữa, Tân cũng đến thăm con mỗi hai tuần, chàng tỏ vẻ hối hận muốn trở lại với vợ con vài năm sau đó, nhưng Yến nhất định không mở lòng.

Cho đến khi hai cô bé lớn 16,17 tuổi, tức là 10 năm sau, trong lúc Yến ngồi chờ hai con gái bên ngoài nhà của người bạn làm tiệc sinh nhật, để đón về thì tình cờ nàng thấy một người đàn ông khoảng 70 tuổi, đang ngồi ở ghế đối diện trong một công viên gần đó bỗng nhiên lăn đùng xỉu ngay trước mặt, sợ hãi và lo lắng, nàng hốt hoảng chạy tới gọi và lay mãi, không thấy ông cử động, nàng đã bấm gọi ambulance đến cấp cứu… Ông bị bệnh tiểu đường, bữa hôm đó vì chỉ số đường xuống quá thấp nên ông đã ngất xỉu, may là nhờ Yến gọi cấp cứu kịp thời, chứ không thì cái mạng ông không còn nữa.

Theo lời Hà kể thì vợ ông Dzũng mất đã khá lâu, ông vẫn ở vậy vì trong lòng hình bóng người vợ vẫn ngự trị. Khi gặp Yến, ông rất mến Yến qua cách cư xử chân tình, từ từ tình cảm của ông đối với nàng càng thêm sâu đậm; mỗi lần đến nhà Yến ăn cơm chung gia đình với các cháu nhỏ, ông cảm thấy rất vui như sống lại tình gia đình nồng ấm hồi xưa khi vợ ông còn sinh tiền, rồi ông đã bất ngờ ngỏ lời cầu hôn Yến!

Việc này xảy ra quá nhanh làm Yến ngỡ ngàng, nhưng suy đi nghĩ lại cảnh một mình nuôi con thật cực nhọc, nàng thực sự cần một bờ vai, người chia sẻ những ngọt bùi của cuộc sống, nàng nói chuyện với các con, và đã chấp thuận lời cầu hôn của ông Dzũng.

-Vậy tốt quá rồi, đúng là happy ending; chắc Yến có cuộc sống hạnh phúc đủ đầy hả Như Hạnh, xin chia vui cùng hạnh phúc của nàng!

-Tuy có lớn tuổi hơn Yến đến một con giáp nhưng bề ngoài ông không già lắm, ông là một thương gia nên khá chải chuốt, lại là chủ của một dẫy nhà hàng ở Florida, người ta nói ông là nhà triệu phú… Nàng Yến nhà mình đã hết cơ cực, từ con bé lọ lem, một nách ba con, bước lên thành bà chủ của dẫy nhà hàng nổi tiếng!

-Wow, chuyện như chỉ có trong tiểu thuyết ấy, chúng mình gặp lại nhau cách đây 25 năm, đứa nào cũng vui vẻ, hạnh phúc, không ngờ bẵng đi một thời gian, tất cả thay đổi một cách chóng mặt, kẻ lên voi, đứa xuống chó… Cũng mừng cho Yến có cuộc sống yên phận bên người chồng đại gia!

-Chưa hết đâu…

-Ủa còn chuyện gì nữa? Mình tưởng Yến sống an phận bên chồng giàu có là xong rồi chứ!

-Còn Tân bây giờ mới thấy rõ bộ mặt thật nè!

-Vậy sao, đã ly dị rồi đâu còn mắc mớ gì nữa đến nàng Yến?

-Nói như mi thì trên đời này đâu có cần luật sư hay tòa án làm gì. Mi biết không, Tân sau khi lấy cô chủ tiệm rượu, mới thấy mình không hợp chút nào, vì Tân là người ít nói, mà ra tiệm làm giúp người yêu thì phải « nói » chứ mang khuôn mặt lầm lì thì làm sao có khách! Bị khách chê mấy lần với cô chủ tiệm, cô này thấy tiệm không khá vào những ngày Tân đứng quầy, tình cảm không còn đậm đà nữa vì chẳng lợi dụng gì được nơi Tân, hai người mau chán nhau, tan rã; Yến không chấp nhận sự hối lỗi quay về của Tân, thất vọng, chàng bỏ xứ, đi làm ăn xa ở Mexico, nghe nói cùng với người ta trồng …cỏ gì đó cho mau giàu, rồi bị cảnh sát bắt cả đường dây, bây giờ ngồi bóc lịch!

-Trời ơi, đang có một gia đình thật đẹp mà ai cũng ngưỡng mộ, bỗng nhiên lại thành kẻ tù tội, trắng tay! Chắc chàng ta hối hận lắm há!… Có ai học được chữ ngờ há, ông Trời làm khó con người quá!

-Ông Trời cho mình trăm năm để sống, Ông muốn xem mình cư xử ra sao, làm những gì, có ích, hay có hại cho xã hội và những người chung quanh, Ông thấy hết đó, Ông sẽ trừng phạt mình nếu thấy mình làm những điều xấu, ban đầu cho mình vài bài học tiêu cực, nếu mình không biết quay lại con đường chính nghĩa thì Ông sẽ thẳng tay ra đòn, chứ chả cần chờ đến kiếp sau cho lâu nữa!

-Hahaha mi nói cứ như là… cố vấn của ông Trời sai xuống vậy đó!

-Ta nói thật, mi xem cuộc đời của Yến-Tân đấy thôi, nếu có gì trắc trở khó khăn trong cuộc sống thì phải cùng nhau vượt qua chứ, tại sao thấy khó là bỏ nhau, là đạp đổ để một mình đi trên thảm đỏ, hưởng sung sướng mà bỏ bạn? Nếu Tân đối xử tốt với Yến, vẫn cùng nhau vượt qua cái vận mệnh gập ghềnh lúc ấy thì bây giờ cả hai có thể có một gia đình đẹp với ba con đã lớn, vào đại học làm rạng danh cha mẹ rồi.

-Cuộc đời bao giờ cũng có chữ Nếu là vậy mà… Hôm nay hai đứa mình sao tám chuyện thiên hạ ghê nơi. Hổng biết nhỏ Yến có hắt xì không há!… Còn mi thì sao nè, không thấy nói?

-Ôi, ta … ngày nào cũng như ngày nấy, mỗi ngày tìm một niềm vui …

Sáng ra thở nhẹ một hơi,
Biết ta còn sống giữa đời là may.
Không mong thắng, chẳng cần hay,
Lặng nghe từng khúc mây bay giữa trời.

Chuyện gì đến, cứ để trôi,
Giữ tâm như nước, chẳng vơi chẳng đầy.
Tùy duyên – hạt nắng trên tay,
Cũng là đủ ấm tháng ngày thong dong.


(Montreal, June’25)

 Sỏi Ngọc