Monday, April 29, 2024

Khi Kẻ Thắng Sợ Người Thua - Huy Phương


Hơn bốn mươi năm sau khi nhờ làm lính đánh thuê, tay sai bán nước cho bọn ngoại bang Tàu-Nga mà may mắn ăn cướp được Miền Nam Việt Nam ngày 30 Tháng Tư, 1975, thực tế cho thấy rõ ràng bọn phỉ quyền Hà Nội chỉ may mắn chiếm được lãnh thổ Miền Nam nhờ súng đạn viện trợ của bọn quan thầy Tàu-Nga, chứ KHÔNG BAO GIỜ chiếm được lòng người từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam. KHÔNG BAO GIỜ VÀ SẼ KHÔNG BAO GIỜ.


Nhiều trăm ngàn người đã chấp nhận, kể cả cái chết, bỏ làng mạc, quê cha đất tổ, tài sản để ra đi, kể cả những người lớn lên ở miền bắc, khi vào Miền Nam sau 30/ 04/ 1975, đã thấy rõ sự thật ở Miền Nam Tự Do và từ đó nhìn ra bộ mặt dối trá ghê tởm của chế độ cộng phỉ hà khắc, độc tài, tàn ác, toàn trị mà lâu nay họ phải chịu đựng.

Dân chúng, và ngay cả những tên cán bộ cộng phỉ nằm trong gan ruột đảng đã tỏ thái độ bất bình, trở thành những cá nhân hay những thế lực chống đối, điều khiến cho Việt Nam ngày nay có nhiều nhà tù giam giữ những người bất đồng chính kiến, dù họ là những người, hay tập thể chủ trương bất bạo động, không hề có vũ khí trong tay.

Khi không chiếm được lòng dân, thì chính thể cai trị phải sợ lòng dân, như người đi đêm sợ bóng ma. Những bóng ma đó được bọn phỉ quyền Hà Nội vốn tiểu nhân, đê tiện, hèn hạ và yếu bóng vía đặt tên là “thế lực thù địch,” “diễn tiến hòa bình,” “gián điệp nước ngoài.”, nhưng chính bọn phỉ quyền Hà Nội mới đúng là “thế lực thờ địch” và cái-gọi-là “diễn biến hòa bình” lại đang xảy ra ngay trong nội bộ của bọn chúng vốn dĩ luôn tranh ăn các gói vay, các gói thầu và tranh giành quyền lực, sẵn sàng bè phái, lợi ích nhóm, cắn xé và triệt hạ lẫn nhau với cái trò hề “đốt lò” lố bịch, nhảm nhí của tên chúa đảng cướp xảo quyệt, tham quyền cố vị.

Lực lượng tay sai là bọn công an vô giáo dục, với khẩu hiệu “còn đảng, còn mình,” theo Giáo Sư Carl Thayer của Học Viện Quốc Phòng Úc, Việt Nam có lực lượng an ninh ít nhất là 6.9 triệu tên. So sánh với tổng cộng những người đi làm khoảng chừng 43 triệu, thì cứ sáu người thì có một người làm chó săn, tay sai cho các cơ quan an ninh. (Sài Gòn trong tôi/ Huy Phương)

Trang web chính thức của bộ công an cộng phỉ trích lời tên đồ tể Lê Duẩn, cố tổng bí thư đảng cộng phỉ Việt Nam, có câu châm ngôn vuốt ve, dụ ngọt cho bọn công an tay sai “Đảng lựa chọn công an trong những người trung thành nhất với đảng, những người chỉ biết sống chết với đảng, chỉ biết còn đảng thì còn mình!”

Phải chăng bọn cộng phỉ Việt Nam luôn luôn sợ thay đổi, sợ bị lật đổ nên trong xã hội này, nhân viên y tế, thầy cô giáo thì thiếu nhưng công an, chìm, nổi, dân phòng, trật tự khu phố, thì đứng đầy đường để quấy rối và làm tiền người dân.


Ngay khi mới vào Sài Gòn một ngày, bọn cộng phỉ bắc việt hèn hạ và đê tiện đã bắt đầu biết sợ. Sợ người sống, khi họ còn súng đạn trong tay đã đành, bọn cộng phỉ bắc việt còn sợ cả những người đã chết.

Không sợ người chết, cớ sao lại tiểu nhân hèn hạ giật sập bức tượng “Tiếc Thương” và chở đem đi vứt chỗ khác, mồ mả người lính miền Nam thì được rào chắn vây quanh như trại tù, gọi là “Khu Quân Sự” không ai được vào, mà cũng không ai được đem xương cốt ra.

Không sợ người chết, tại sao trong khi tro cốt của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được để ở chùa Quảng Hương Già Lam, Gò Vấp, lại bị bọn phỉ quyền mọi rợ vô nhân tính bắt phải di đời đi nơi khác, vì sợ đồng bào đến hương khói, chiêm bái, và thờ cúng. (Sài Gòn trong tôi/ Huy Phương)

Không những hèn hạ sợ người chết mà bọn chúng vốn dĩ bất nhân và đê tiện còn sợ cả cái tên người chết, dưới thời cộng phỉ, sau khi thân nhân dời mộ cố Tổng Thống Ngô Đình Điệm và bào đệ của ông là ông Ngô Đình Nhu về Nghĩa Trang Gò Vấp, khi lập bia mộ, bọn cộng phỉ chỉ cho phép được đề “Huynh” và “Đệ,” mà không được phép đề tên thật của hai ông. Qủa thật là không ai tiểu nhân, đê tiện và hèn hạ cho bằng bọn phỉ quyền Hà Nội.

Bọn phỉ quyền Hà Nội còn không biết nhục vì hèn hạ mà còn dám trơ trẽn và lố bịch nói láo rằng đây là ý kiến của thân nhân Việt Kiều về xây mộ, nhưng thử hỏi ai lại muốn bia mộ của thân nhân mình không tên, không tuổi.

Kẻ thắng sợ cả người thương binh bên thua trận, nếu không những lần phát quà, giúp đỡ cho thương binh VNCH ở chùa Liên Trì, nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn, vì sao lại bị bọn công an chó săn, chặn đường, quấy nhiễu và cuối cùng phải chấm dứt công việc đầy tính nhân đạo này.


Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, sinh viên phản chiến biểu tình đã trương lá cờ của bọn thổ phỉ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mà chính quyền Mỹ chưa sợ, sao ngày nay cộng phỉ bắc việt lại khiếp sợ lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của VNCH trong khi chiến tranh qua đã lâu và cuộc đối đầu không còn nữa.

Rõ ràng, bởi bọn cộng phỉ bắc việt không hề có chính nghĩa trong cuộc chiến tranh xâm lăng ăn cướp Miền Nam Việt Nam nên lúc nào cũng sợ Sự Thật và sợ Chính Nghĩa Việt Nam Cộng Hòa. (Sài Gòn trong tôi/ Huy Phương)

Phỉ quyền Hà Nội đê tiện hèn hạ sợ luôn cả những bộ quân phục rằn ri của Người Lính Miền Nam. Bởi nếu không hèn hạ và sợ sự thật thì làm sao lại có vụ kết án Nguyễn Viết Dũng, bị 12 tháng tù vì tội “gây rối trật tự công cộng” trong khi Dũng chỉ tham gia cùng với người dân ở Hà Nội phản đối việc chặt cây xanh, mà chỉ riêng mình anh bị bắt và đưa ra tòa đơn giản chỉ vì Dũng mặc đồ rằn ri hôm đó.

Bọn phỉ quyền Hà Nội vốn có bản chất tiểu nhân, đê tiện, lưu manh và gian xảo nên luôn luôn sợ những người có ảnh hưởng đến quần chúng, có đám đông hỗ trợ, tức là bọn phỉ quyền Hà Nội luôn lo sợ bị lật đổ. Do vậy các vị lãnh đạo tôn giáo của Cao Đài, Hòa Hảo, Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành luôn luôn bị bọn chúng cho những con chó săn theo dõi và cô lập, gây khó dễ trong cuộc sống.


Không những bọn phỉ quyền Hà Nội vốn không có chính nghĩa nên không bao giờ được lòng dân mà luôn luôn đứng đối lập với dân, coi dân như kẻ thù, thậm chí coi dân như con cháu trong nhà, hoàn toàn láo xược và trái ngược với cái khẩu hiệu lố bịch và nhố nhăng “đảng là đầy tớ của dân,” như cái giọng khinh bạc của tên phỉ cái vô giáo dục Tôn Nữ Thị Ninh:

“Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi.” Phải chăng là theo cách đàn áp, bịt miệng, khủng bố tinh thần, bắt bớ tù đày.

Hồ Chí Minh vốn là một tay lưu manh, điếm đàng, xảo trá, quỷ quyệt, tàn ác, mị dân đã từng nói “Nước lấy dân làm gốc,” nhưng thực sự bọn phỉ quyền Hà Nội đã hy sinh hạnh phúc của toàn dân cho sự tồn vong của đảng cướp của bọn chúng. (Sài Gòn trong tôi/ Huy Phương)

Xưa Nguyễn Trãi từng nói: “Đẩy thuyền đi là dân mà lật thuyền cũng là dân!” Ngày nay, dưới chế độ man rợ và tàn bạo của bọn phỉ quyền Hà Nội, người dân đã hết sợ kẻ cai trị dân rồi, nhưng bọn phỉ quyền Hà Nội này đã bắt đầu run sợ trước những cơn sóng ngầm chống đối của người dân đang chỉ chờ có cơ hội là bùng nổ và tiêu diệt bọn chúng.

Một thể chế mà lúc nào cũng run sợ người dân trước sau gì cũng sẽ đi đến chỗ bị tan rã và bị diệt vong bởi xưa nay chưa bao giờ có chế độ nào tồn tại mãi với thời gian; kể cả những tên bạo chúa một thời hung ác như Tần Thủy Hoàng, Hitler, Benito Mussolini, Saddam Hussein, Muammar Gaddafi, ......

Ngày nay, tuy bọn phỉ quyền Hà Nội – vốn bản chất chỉ là một lũ tay sai, lính đánh thuê cho bọn đàn anh là bọn cộng sản quốc tế Tàu-Nga – đã may mắn nhờ được bọn chúng chi viện, hỗ trợ mà ăn cướp được Miền Nam Việt Nam, và thống trị được toàn bộ Việt Nam, nhưng trên thế giới ngày nay, lá cờ đỏ sao vàng bẩn thỉu và tanh tưởi vốn xuất phát từ Trung Quốc của bọn chúng chỉ thấy được treo, hay dám treo trước cổng tòa đại sứ cộng phỉ Việt Nam ở các nước, mà lá cờ này không dám và không thể treo bất kỳ ở đâu, dù ở một xó xỉnh nào.


Bọn phỉ quyền Hà Nội sợ hãi cả những người thua trận, ngày nay đã bỏ nước ra đi. Ở thủ đô Hoa Kỳ Washington DC, đám nhân viên tòa đại sứ cộng phỉ hèn hạ đến mức không bao giờ dám dùng xe ngoại giao (mang bảng số CD) đi vào khu Eden, hay khi về Orange County, bọn chúng chưa dám công khai đi uống cà phê hay ăn phở ở khu Bolsa.

Người ta còn nhớ, ngày Thứ Bảy, 23 Tháng Sáu, 2007, tên Nguyễn Minh Triết khi tham dự một cuộc họp tại thành phố Dana Point, miền Nam California, đã phải hèn hạ và nhục nhã vào phòng họp bằng… cửa sau.

Vào ngày 17 Tháng Ba, 2015, tên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng được mời đến Quốc Hội New South Wales để dự họp, nhưng không dám dùng cửa trước vì sợ trứng thối, cà chua, cũng đành hèn hạ nhục nhã phải nhờ cảnh sát dẫn đi cửa sau.


Còn vô số những sự việc khác nói lên sự sợ hãi của bọn phỉ quyền Hà Nội trước những biểu tượng của Chính Thể Việt Nam Cộng Hòa như Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của Dân Tộc, những bộ quân phục rằn ri của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH), những bản nhạc ca ngợi Người Lính VNCH, các tác phẩm văn học nghệ thuật của Miền Nam Việt Nam, và ngay cả đến những kiến trúc xưa, dấu tích của Miền Nam Việt Nam như bùng binh Cây Liễu, các tượng đài, và cả đến việc đổi tên đường các danh nhân lịch sử dân tộc bằng tên của những tên khủng bố khát máu cộng phỉ, ....

Vậy những chuyện này không gọi bằng “sợ”, “hèn hạ”, “tiểu nhân”, thì nên gọi bằng gì nhỉ ? – 


(Sài Gòn trong tôi/ Huy Phương)

Những Cảm Xúc Khi Nhìn Lại Hình Ảnh!…- Phieu Le

Người Tù, cái gọi là "cải tạo" được trở về sau 13 năm bị giam cầm hành hạ!...


Sau khi hai miền Nam và Bắc của đất nước đã thống nhất, hoàn toàn ngưng tiếng súng, chi còn nghe thấy tiếng pháo nổ reo hò mừng vui mỗi hằng năm của phe thắng cuộc, bên cạnh hằng bao nổi đau thương khốn khổ tận Trời xanh bị vùi chôn và bỏ quên...

Những tinh hoa của miền Nam văn minh, nhân ái, nhân bản một thời đã trở thành như thế này đây ! và còn rất nhiều nữa ... Dù đau đớn tận đáy lòng nhưng trong sâu thẳm tôi vẫn còn có cái nhìn khác, sự ngưỡng mộ và niềm hãnh diện... Một hình hài vóc dáng vẫn còn rất đẹp, nét đẹp tinh thần của người quân tử hào hùng ở tấm lòng nhân ái vị tha tình thương yêu nhân thế, vòng tay ôm và đôi mắt chùng xuống nhìn người vợ yêu dấu anh như muốn nói “Ta không màng cuộc đời ta bị doạ dày, chỉ xót xa cho bao thân phận đã vì thương ta mà chịu khổ!” Trân quý quá nụ cười người vợ một thời son sắc nay đã tàn tạ sau 13 năm chờ đợi “Em vẫn rất vui, sung sướng vẫn còn có thời gian chặng cuối đời được bên anh!".  Hai người con trai tóc cũng đã hoa râm do thời cuộc, đứa lau nước mắt mừng giây phút trùng phùng, đứa vẫn chưa tin được cha tôi là đây sao !? Vì ai và do đâu mà ra nông nỗi!?

Chưa đặt vấn đề đúng sai của cuộc chiến, chỉ nói đến tình người nhất là cùng chung tiếng nói cội nguồn. Chỉ có những ai vô cảm , đầu óc hẹp hòi kém cỏi quen lối sống rừng rú, bàn tay từng nhúng máu tanh mới có lối hành xử này sau khi đất nước đã tàn cuộc chiến “ nồi da xáo thịt “... Rất mong và hy vọng các thế hệ sau nhận ra sự thật!


PHIEU LE

Học Cách Làm Người Sao Cho Chuẩn - Youtube Phan Ngọc Thuận

Hàn Gắn Vết Thương 30/04/1975 - Điệp Mỹ Linh


Chỉ còn vài ngày nữa là đến Ngày Quốc Hận 30 tháng Tư!


 Trong khi nhiều bài viết về Ngày Quốc Hận được bạn hữu chuyển đến tôi, tôi không dám đọc thì làm thế nào tôi đủ can đảm viết về 30/04/1975 để tự đào sâu vào vết thương không bao giờ lành trong trái tim mang nhiều thương tổn của tôi?


Rất nhiều người trong tập thể người Việt tỵ nạn và những người thoát khỏi ngục tù cộng sản Việt Nam (csVN) theo diện H.O. (Humanization Organization, tổ chức nhân đạo) hay diện Đoàn Tụ O.D.P. (Orderly Departure Program) cũng mang trái tim nhiều thương tổn như tôi. Nhưng, không hiểu tại sao tôi lại nghĩ rằng: Quý vị tỵ nạn theo điện H.O./O.D.P. được may mắn hơn chúng tôi – lớp người tỵ nạn đầu tiên được Hoa Kỳ và các nước Tự Do tiếp nhận.

Thật vậy, khi quý vị H.O./O.D.P. đến Hoa Kỳ hoặc các nước Tự Do khác thì những khó khăn và nhục nhằn mà chúng tôi phải gánh chịu lúc ban đầu đã được “hóa giải” rất nhiều.

Sự “hóa giải” đó là: Ngay sau khi rời bất cứ phi trường nào tại Hoa Kỳ, quý vị H.O./O.D.P. cũng có thể thoải mái vào chợ Việt Nam hoặc chợ Á Đông, mua chai nước mắm; vào tiệm phở gọi tô phở. Quý vị học lái xe hay bất cứ nghề gì hoặc cần liên lạc với văn phòng di trú/tòa đô chính/trường học, v.v... đều gặp được nhân viên người Việt hướng dẫn. Quý vị bị bệnh, cần bác sĩ/nha sĩ hoặc phải vào bệnh viện cũng có y tá/bác sĩ/nha sĩ người Việt...


Tôi vẫn nhớ, cuối thập niên 70, vài tờ báo ở California và Houston đã nhận xét rằng: Đa số người Việt tỵ nạn đầu tiên được xem là thành phần ưu tú của miền Nam Việt Nam. Nhớ lại, trong những lúc sắp hàng lãnh thức ăn tại trại tỵ nạn hoặc lên xe “bus” chuyển trại, quả thật, tôi đã gặp/thấy rất nhiều nhân vật ưu tú của miền Nam Việt Nam.

 tTheo tôi hiểu, đa số thành phần ưu tú của miền Nam Việt Nam thường xuất thân từ trường Pháp. Đã học chương trình Pháp mà còn mang trong lòng niềm tự trọng lớn lao của một công dân dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH),  cho nên, đa số người tỵ nạn đầu tiên đều phải chấp nhận làm bất cứ ngành/nghề nào lương thiện, miễn có tiền nuôi gia đình bên này và gửi – qua ngã Canada và Pháp – nhờ chuyển về thân nhân còn “kẹt” bên Việt Nam chứ không hề “mánh mung” để xin tiền trợ cấp của chính phủ Hoa Kỳ.

Nhờ sự hy sinh vô bờ của những người tỵ nạn đầu tiên mà thế hệ người Việt di tản thứ II mới vươn lên, tạo được nhiều thành quả tốt đẹp!

Trong khi những người Việt tỵ nạn đầu tiên chưa kịp vui với thành quả ngoạn mục do thế hệ di dân thứ II tạo nên thì những người Việt tỵ nạn đầu tiên đã bị csVN sĩ nhục bằng những câu đầy xấc xược và vô giáo dục: “Bọn ‘niếm’ gót giày đế quốc Mỹ” / “‘Nũ’  phản động ‘đu càng’ theo bọn sen đầm quốc tế”/ “Bọn ‘nính’ ‘đánh thuê’” / “Bọn ‘Ngụy’ Saigon” / “Bọn ‘ba que’”...

Thế mà, khi Việt Nam gặp thiên tai, người csVN lại không biết ngượng, gọi người Việt tỵ nạn là “khúc ruột ngàn dặm”!

Nếu người Việt tỵ nạn thực hiện được khẩu hiệu Tam Vô – vô gia đình/vô Tổ Quốc/vô tôn giáo – như người csVN thì làm thế nào toàn nước Việt Nam “qua” được những cơn thiên tai và thời “bao cấp”?

Đến thập niên 90, nhận ra sự vươn lên rực rỡ của người Việt ty nạn, người csVN kêu gọi “Việt kiều” về Việt Nam góp sức xây dựng đất nước.

Tôi không rõ có bao nhiêu người Việt đã tin lời csVN, trở về Việt Nam giúp xây dựng quê hương. Nhưng tôi nhớ nhân vật Trịnh Vĩnh Bình – “vua chả giò” tại Hà Lan đã cùng gia đình vượt biên đến Hà Lan, năm 1976 – lại bán hãng chả giò, đem tài sản về Việt Nam đầu tư.

Chỉ sau một thời gian không dài, tin Trịnh Vĩnh Bình bị csVN bắt, nhốt tù, tài sản bị csVN tịch thu được loan truyền. Chính quyền Hà Lan phải can thiệp, Trịnh Vĩnh Bình mới được tại ngoại.


Tôi chưa kịp vui khi đọc tin Trịnh Vĩnh Bình được tại ngoại thì con tôi cho biết con tôi sắp về Việt Nam dạy tại đại học Kinh Tế trong ba tháng Hè!

Tôi hoảng hốt tột độ! Minh – Bố của các con tôi và cũng là cựu Hải Quân trung tá – và tôi đều hết lời khuyên ngăn; nhưng con tôi cũng vẫn không thay đổi quyết định! Tôi than:

-Con biết rồi, ông Ngoại đã bị Việt Minh – tiền thân của csVN – chiêu dụ, đi theo kháng chiến chống Tây. Sau khi csVN chiếm được miền Nam Việt Nam, ông Ngoại và các Cậu của con bị csVN nhốt tù; bà Ngoại, các Dì và cậu Út bị đuổi đi kinh tế mới; nhà/đất của ông bà Ngoại bị csVN tịch thu. Cậu Út và các Dì không được đi học; vì ông Ngoại là Phó Thị Trưởng Nội An thị xã Cam Ranh! Con đã về Việt Nam, đi ngang ngôi nhà của ông bà Ngoại và con cũng đã ghé nhà của mình ở Thị Nghè, con thấy ai ở trong đó rồi. Như vậy chưa đủ hay sao mà bây giờ con lại muốn quay về giúp những người đã cướp đoạt tất cả rồi đưa gia đình ông bà Ngoại đến đường cùng?

-Theo luật đào thải của thiên nhiên, thế hệ của người csVN đã tàn phá quê hương Việt Nam sẽ không còn. Con chỉ nghĩ đến những thế hệ người Việt kế tiếp. Mình nên tiếp xúc và hướng những thế hệ kế tiếp xa dần cái ác.

Minh và tôi chỉ biết đi chùa/cầu nguyện cho con tôi.

Hai mùa Hè, con tôi rời Hoa Kỳ và trở về bình an và đúng hẹn.

Mùa Hè thứ ba, lớp học chỉ mới bắt đầu được vài tuần, con tôi đột ngột trở về Mỹ và cho biết, sẽ không về Việt Nam dạy nữa.

Tôi mừng quá! Trong bữa cơm sum họp gia đình, con tôi kể lại:

-Sáng hôm đó, con đang giảng bài và sinh viên đang chăm chú nghe giảng bình thường như mọi ngày. Bất ngờ, một nhóm người mặc sắc phục công an xông vào, không nói năng gì cả, đi vòng quanh lớp, lục tung mọi thứ. Con bảo: “Đây là lớp tôi đang dạy, tôi chịu trách nhiệm. Các Bác/các Chú cần gì, phải cho tôi biết, trước khi các Bác các Chú hành động.” Một ông trả lời: “Cô dạy thì cô cứ dạy; kiểm soát là bổn phận của chúng tôi.” Con đáp: “Các Bác/các Chú vui lòng chờ một tý để tôi liên lạc với ông Hiệu Trưởng.” Nói xong con rời lớp, đến văn phòng Hiệu Trưởng, trình bày sự việc. Ông Hiệu Trưởng đáp: “Cô chờ cho nhân viên công quyền thi hành bổn phận xong rồi cô dạy cũng được, có sao đâu.” Con đáp: “Bao nhiêu năm dạy học tại một nước văn minh, tiên tiến nhất thế giới, chưa bao giờ tôi gặp trường hợp nào tương tự như trường hợp này. Tôi sẽ không dạy tại trường này nữa. Bye!”

Kể đến đây, con tôi nhìn tôi, đùa:

-“Bà Già” hết lo chưa?

Tôi cười vui. Minh hỏi:

-Con có biết tại sao công an bất ngờ vào lớp con đang dạy để lục tung mọi thứ như vậy hay không?

-Dạ, không.

Minh tiếp:

-Con có hiểu tại sao khi hay tin con nhận lời về Việt Nam dạy học Măng đã hoảng hốt/lo sợ hay không?

-Dạ, bây giờ thì con hiểu!

-Con hiểu như thế nào?

-Dạ, vì Ba từng là một sĩ quan cao cấp và Măng viết báo, có thể csVN sẽ không để con yên!

Trên đây là hai câu chuyện thật về những người Việt tỵ nạn đã tin theo lời kêu gọi của người csVN để trở về Việt Nam xây dựng lại quê hương; còn bao nhiêu người tỵ nạn khác bị csVN lừa, tôi không biết, tôi không viết.

Gần đây, bạn hữu chuyển đến tôi Quyết Định số 1334-QĐ-TTg, ký tại Hà Nội ngày 10 thang 11 năm 2023, nhưng tôi không đọc; vì tôi không muốn bị csVN lừa.

Viết đến đây, tôi chợt nghĩ, có thể người csVN – sau thời gian dài tiếp xúc với nền văn minh Tây phương – đã bớt xảo trá. Thế là tôi đọc Quyết Định 1334.

Đọc xong Quyết Định số 1334 của csVN, tôi cười mỉm, lắc đầu! Tổng thể của Quyết Định số 1334 gồm gần 5,000 – năm ngàn – chữ, tôi không thấy được dòng nào nhắc đến nỗi bi thương/sầu thảm/uất hận của người Việt tỵ nạn trong giai đoạn đầu khi phải lìa xa quê hương, đi làm với đồng lương tối thiểu $2.10 đô la một giờ! Chưa có ai trong chúng tôi có được chiếc xe hơi “cà tàng”! Đi làm, có người phải đi bộ/đi xe “bus”/đi xe đạp “mượn”, như Minh và tôi.

Tôi cũng không thấy Quyết Đinh 1334 đề cập đến số tài sản khổng lồ của người miền Nam Việt Nam mà người csVN đã tịch thu và chiếm ngụ.

Số tài sản này tuy vô cùng lớn lao và quý giá, nhưng, tôi không tiếc bằng sức khỏe/kiến thức/tuổi thanh xuân/và cuộc đời của không biết bao nhiêu trí thức và tinh hoa của miền Nam Việt Nam phải bị hao mòn/tàn tạ/hủy hoại dưới bàn tay sắt máu của người csVN trong các trại tù trá hình, gọi là trại cải tạo!

Tôi cũng không thấy Quyết Định 1334 nhắc lại lời csVN kêu gọi “Ngụy quân/Ngụy quyền” trình diện “học tập” đem theo tiền ăn cho 10 ngày!

Năm 1975, người csVN xâm phạm Hiệp Ước đình chiến, vượt vĩ tuyến 17 giết hại chúng tôi; chúng tôi đã “bỏ của chạy lấy người”. Nhờ Hải Quân VNCH cứu và chúng tôi trở thành người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Người csVN dùng nhiều danh từ rất hạ cấp để mạc xác chúng tôi.

Gần nửa thế kỷ sau, năm 2024, con cháu của người Việt tỵ nạn thành đạt; chúng tôi đang nhàn hạ hưởng già, thì, một lần nữa, người csVN lại dồn toàn lực với ý đồ cưỡng đoạt tất cả tài sản vật chất và tài sản trí tuệ mà chúng tôi đã đổ mồ hôi và nước mắt để tạo dựng nên!

Sự tham tàn của người csVN được ghi rõ trên Quyết Định 1334, bằng những “cụm từ” (danh từ của csVN) mạnh bạo như sau: “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN)...” / “Bám sát chủ trương tranh thủ tối đa nguồn lực của NVNONN...” / “Thu hút nguồn lực NVNONN...” / Xác định nguồn lực kiều bào là một nguồn lực có ý nghĩa quan trọng trong tổng thể các nguồn lực từ bên ngoài, cần được tranh thủ để phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.”/ Tăng cường thống nhất nhận thức NVNONN là nguồn lực ngày càng quan trọng ...” / “Thu hút chuyên gia, trí thức, nhân tài NVNONN và lao động người Việt trở về nước...” v.v.

Nguồn lực và tiềm năng của “người Việt Nam ở nước ngoài” – cũng như sự thành đạt tuyệt vời của thế hệ Việt Nam di dân thứ II / thứ III tại hải ngoại – không dễ gì để người csVN “tịch thu” đâu!

Nếu người csVN thật tâm muốn hàn gắn vết thương còn mưng mủ giữa người Việt trong nước và người Việt tỵ nạn thì người csVN – bắt đầu từ năm nay, 2024 – hãy thể hiện bằng thái độ/ngôn từ và hành động khi người csVN tổ chức mừng ngày 30 tháng Tư!

 

 Điệp Mỹ Linh              

Tháng Tư, Hai Chín - Đỗ Công Luận

Ngày Thống Nhất Hay Chia Rẽ?

 

Từ ngày 30/04/1975 đất nước tuy thống nhất về địa lý nhưng lại bắt đầu sự chia rẽ mới trong lòng dân tộc với "hàng triệu người vui và hàng triệu người buồn" - theo lời ông Võ Văn Kiệt. Hàng năm báo chí loa đài rầm rộ ca ngợi ngày "giải phóng miền Nam" và "chiến thắng đế quốc Mỹ" nhưng đối với nhiều người miền Nam đây là ngày "quốc hận" hay "tháng tư đen".

Cách tuyên truyền ấu trĩ cực đoan của cả hai phía do ngộ nhận lịch sử cần thay đổi khi Internet tạo điều kiện cho chúng ta tìm hiểu thông tin đa chiều. Nếu chú phỉnh muốn khoe khoang thành tích "chiến thắng đế quốc Mỹ" thì nên kỷ niệm Hiệp định Paris được ký ngày 27/01/1973 sẽ hợp lý hơn. Hiệp định này thỏa thuận việc quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam, chậm nhất đến cuối tháng 3 năm 1973. Trớ trêu thay đến bây giờ báo chí vẫn luôn bi bô về ngày "giải phóng miền Nam". Thời khắc lịch sử đó không những trở thành cơn ác mộng kinh hoàng với nhiều người bên kia chiến tuyến mà còn gây cú sốc về vật chất và tinh thần đối với rất nhiều quân nhân miền Bắc vốn bị tẩy não bởi báo đài quốc doanh. Có chăng đó là ngày giải phóng ... mặt bằng khi "tiến về Sài gòn ta chiếm nhà mặt tiền" như mình và mấy cậu bạn nhỏ cùng phố ngày xưa vẫn nghêu ngao chế lời mỗi khi nghe tiếng nhạc bi hùng nổi lên. 


Những người dân Việt nam Cộng hòa đang quen ăn sung mặc sướng, được tự do báo chí, hội họp và biểu tình sau một đêm bỗng rơi vào cảnh túng quẫn, ăn bo bo, con trai tóc dài bị lôi ra cắt, con gái quần loe cũng bị xén ống, bị tịch thu tài sản, đi kinh tế mới hay "học tập cải tạo" vvv... Những chính sách ngăn sông cấm chợ buộc người dân muốn đi từ vùng này sang vùng khác cũng phải xin giấy phép. Hàng triệu người phải bỏ xứ ra đi vì đói khổ và bị hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần.

Sự thống nhất bằng vũ lực chẳng có gì đáng vui mừng thậm chí tự hào cả. Sau Hiệp định Paris khi quân đội Mỹ đã hoàn toàn rút khỏi miền Nam, những người Cộng sản và các phe phái trong chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt nam nếu được lòng dân có thể tham gia tranh cử tự do để giành chiến thắng trong hòa bình. Vậy tại sao Bắc Việt với ưu thế về chính trị và ngoại giao lại không nhân cơ hội này để phô trương thanh thế của đảng cộng sản và công khai tham gia bầu cử ở miền Nam?

Tính theo nhân khẩu lúc bấy giờ thì miền Bắc có khoảng 30 triệu người trong khi toàn bộ dân số miền Nam khoảng 19 triệu. Trong số đó đến 60% diện tích và dân số ở các vùng nông thôn miền Nam từ năm 1965 đã thuộc sự quản lý của chính phủ Cộng Hòa Miền Nam Việt nam mà tiền thân là "Mặt trận giải phóng". Bộ đội chủ lực miền Bắc kết hợp với quân Mặt trận thành lực lượng áp đảo dùng xe tăng với vũ khí viện trợ của Liên xô và Trung quốc để chiếm nốt phần lãnh thổ ít ỏi còn sót lại của Việt nam Cộng hòa, ỷ đông hiếp yếu. Như vậy đâu có gì là vẻ vang mà chính quyền và truyền thông phải xoắn. Đã thế còn bày đặt diễu binh, diễu hành với cờ hoa và biểu ngữ lòe loẹt phản cảm, gân cổ hát hò hô khẩu hiệu ầm ĩ trước bao đau thương ly tán mất mát của bao nạn nhân vô tội ở cả hai phía.

Hãy xem nước Đức đã thống nhất trong hòa bình ra sao ta sẽ thấy cái giá phải trả cho cuộc chiến đau thương do những sai lầm của các nhà lãnh đạo Việt nam ở cả 2 miền gây ra khủng khiếp chừng nào.

Trước khi bức tường thành Berlin sụp đổ có hơn 340 ngàn lính Liên xô cùng hơn 200 ngàn nhân viên dân sự và thân nhân của họ đóng ở Cộng hòa Dân chủ Đức, chiếm đến 4,5% dân số của Đông Đức lúc bấy giờ. Ngay Tây Đức cũng chịu sự chiếm đóng của Mỹ và NATO với lực lượng thường trực lên tới 400 ngàn quân. Bằng khả năng tự cường về kinh tế khoa học và công nghệ hai nửa nước Đức đã cạnh tranh tự do nhưng phần phía Tây đã phát triển vượt trội hơn với sự giúp đỡ của Mỹ và nhờ vào tính ưu Việt của thể chế tự do dân chủ.

Nước Đức tuy bại trận sau thế chiến thứ hai và bị chia cắt nhưng đã phục hồi bằng kinh tế cùng những cải cách xã hội. Kết quả họ đã giành chiến thắng oanh liệt trước các đối thủ cũ bằng tri thức và tài ngoại giao khôn khéo buộc các cường quốc chiếm đóng là Liên xô và Anh Pháp phải lặng lẽ rút quân.

Ngày 03/10/1990 nước Đức thống nhất mở ra một trang sử mới kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh kéo theo sự tan rã của khối XHCN Đông Âu. Đức và Pháp trở thành trụ cột thúc đẩy việc mở rộng phát triển hợp tác trong khối EU. Người dân và các quan chức Đông Đức cũ - trừ một số nhân viên mật vụ (Stasi) - không phải đi học tập cải tạo và cũng chẳng cần phải vượt biên tị nạn. Sau khi bức tường ngăn cách bị xóa bỏ, những người dân Đông Đức tự do sang bên Tây để tìm kiếm những công việc lương cao và cuộc sống thanh bình. Vào dịp kỷ niệm thống nhất hàng năm, dân Đức chẳng thèm khoe khoang thành tích đuổi Liên xô và thắng Anh với Pháp (về kinh tế). Họ không ngạo nghễ ca tụng tài lãnh đạo sáng suốt của đảng Thiên Chúa giáo, cũng đếch cần nghêu ngao điệp khúc "Như có bác Kohl trong ngày vui đại thắng" (*)


Sau ngày 30.04.1975 Việt nam tiếp tục đường lối sai lầm về chính trị và kinh tế XHCN của Liên xô khiến người dân phải gánh chịu thêm 15 năm gian khó qua những thời kỳ hợp tác xã, cải tạo công thương, bao cấp rồi chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc. Đến nay đã gần nửa thế kỷ trôi qua tuy đã cải cách và đạt được một số bước tiến nhất định về kinh tế nhưng đất nước vẫn trì trệ lạc hậu bởi bao bất công xã hội, nhân cách méo mó khi người dân phải uốn mình trong những chiếc cũi về tư tưởng do nhà cầm đồ ban phát.

Khi thế giới đang tìm cách phát triển trí tuệ nhân tạo và xe tự hành thì chú phỉnh và tuyên giáo vẫn nặn ra một đội ngũ AI chạy bằng cơm với biệt danh AK47 để tiếp tục chia rẽ dân tộc, khoét sâu lòng thù hận trong quá khứ. Đám này chỉ biết phá làng phá xóm luôn quy chụp những người có ý kiến trái chiều là 3///, phản động, đu càng, khát nước vvv... Đã đến lúc Việt nam cần cải tổ hệ thống tuyên giáo, phá bỏ những chiếc cũi về tư tưởng để người Việt tự do suy nghĩ và hành động trên tinh thần dân chủ. Chúng ta cần chấp nhận và tôn trọng những tư tưởng khác biệt, học hỏi cách ứng xử văn minh như cách nước Đức đã trỗi dậy và thống nhất trong hòa bình. Như vậy người Việt mới mong hòa giải và đoàn kết, khép lại quá khứ để cùng nhau xây dựng một xã hội nhân bản tự do.


Karlsruhe 30.04.2023

HT Lãng Tử

(*) chú thích: Helmut Kohl là thủ tướng Tây Đức từ năm 1982 và thủ tướng nước Đức thống nhất từ năm 1990 đến 1998.

Chúc Mạnh Khỏe An Lành - Minh Lương

Sunday, April 28, 2024

Truyện Tháng Tư: Quân Đội VNCH Vẫn Chiến Đấu Ở Giờ Thứ 25


Hà Nội và tướng lãnh Bắc Việt thường khoe khoang chiến thắng tháng 4.1975, nhưng tình thực thì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong suốt hai mươi năm đấu tranh, vẫn luôn là cơn ác mộng của của quân đội BV. Chỉ đến khi toàn thế giới cộng sản và tư bản đồng lần trói tay trói chân Quân Lực dũng mãnh ấy không cho đánh, thì quân đội Bắc Việt mới có cơ may đánh thắng được.


Sau gần nửa thế kỷ từ 1975 đến nay, thì bí mật về chiến tranh Việt Nam đã gần như hoàn toàn được làm sáng tỏ. Chiến thắng trước Miền Nam của Bắc Việt là món quà của những thế lực bạn lẫn thù của Miền Nam. Nếu trong năm 1974, Nga Sô và Trung Cộng không viện trợ Hà Nội 1,7 tỉ mỹ kim tiếp liệu quân sự, thì quân đội Miền Bắc đào đâu ra súng đạn để tiến đánh Miền Nam. Con số này gấp hơn 5 lần con số Miền Nam chờ Quốc Hội chuẩn chi là 300 triệu mỹ kim, nhưng không một xu teng nào đến.

Cái thế thắng thua đã rõ ràng như vậy, ông Tổng Thống đã bí mật ra đi, cái thời hạn 30.6.1975 gần đến, là ngày khởi đầu Hoa Kỳ viện trợ cho tài khóa 1975-1976, toàn quân cán chính VNCH sẽ không lãnh được một đồng xu lương nào vì người Mỹ không tháo khoán viện trợ, tưởng chừng như quân đội sẽ tự động tan rã. Nhưng trong thực tế, toàn QLVNCH vẫn giữ vững mọi chiến tuyến, sẵn sàng trận thư hùng cuối cùng, dù xác thân có nát tan trong cơn bão lửa kinh thiên của binh đội Bắc Việt giáng xuống.

Toàn quân chờ đợi một An Lộc của năm 1975, tuy biết rằng sẽ chiến đấu đến người cuối cùng. Hà Nội đâu có muốn san bằng Sài Gòn thành bình địa, bởi biết sẽ trả một cái giá rất đắt, vì mỗi NGƯỜI LÍNH của chúng ta thề cho bộ đội BV trả một cái giá đắt nhứt.

 
Trung Tá Lê Bá Bình


Những điều này hoàn toàn là sự thực nếu Hà Nội liều lĩnh muốn làm nhục QLVNCH ở ngưỡng cửa Sài Gòn, nên Hà Nội thích chọn “giải pháp Dương Văn Minh” hơn. Trong những chuỗi ngày dài như vô tận cuối tháng 4.1975 và trong những thời điểm nguy nan nhứt, anh hùng hào kiệt Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn tận trung báo quốc, thề thà poncho bọc thây hơn là cúi đầu buông súng đầu hàng.

Những tên tuổi kiệt liệt nhứt, các đơn vị thiện chiến của QLVNCH vẫn giữ vững chiến tuyến và vẫn đem những cơn ác mộng đến cho binh đội Miền Bắc.
Từ trong cơn phong ba bão lửa ấy sừng sững hiện ra những dũng tướng đầy huyền thoại, người dân Hố Nai, Biên Hòa hân hoan biết ngần nào khi đón nhận Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến đến lập chiến tuyến bảo vệ thị trấn. Càng cảm thấy an toàn hơn, khi được biết trong đoàn quân Mũ Xanh ấy có một người hào kiệt lừng lẫy với cái tên từng được đồng bào và chiến sĩ vô cùng ngưỡng mộ: Trung Tá Lê Bá Bình và Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng Thủy Quân Lục Chiến.

Tháng 4.1972, Trung Tá Bình cùng Tiểu Đoàn 3 Sói Biển TQLC của ông đã chận giặc tại chiến tuyến Đông Hà, không cho một chiếc dép râu nào bước lên bờ Nam sông Đông Hà ròng rã 30 ngày. Tháng 9.1972, Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng cùng Tiểu Đoàn 3 Sói Biển trong buổi sáng mù sương dưới bầu trời xám xịt lạnh giá vì cơn bão Flussy đã hò reo dựng cờ Vàng Đại Nghĩa trên Cổ Thành Đinh Công Tráng, Quảng Trị. Ngày ấy là ngày 16.9.1972. Giờ đây cũng chính ông và Tiểu Đoàn 6 Mũ Xanh sẽ viết một trang sử hào hùng khác: không cho binh đội BV bén mảng đến Sài Gòn. Chúng ta hãy cùng theo dõi trận đánh phi thường cuối cùng trong đời binh nghiệp của người hào kiệt Trung Tá Lê Bá Bình.


Ngày 20.4.1975, Sư Đoàn 18 Bộ Binh của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo triệt thoái ra khỏi thị xã Xuân Lộc theo lệnh của Tư Lệnh Quân Đoàn III, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, để lập phòng tuyến bảo vệ phía Đông Sài Gòn. Thiếu Tướng Đảo và Bộ Tham Mưu của ông đã thiết kế một kế hoạch rút quân tuyệt hảo theo đường Liên Tỉnh Lộ Xuân Lộc – Bà Rịa, đem về hầu như toàn bộ quân số và vũ khí, tiếp liệu. Tư Lệnh Quân Đoàn III VNCH tái bố trí Sư Đoàn về khu vực Trảng Bom lập chiến tuyến. Trảng Bom là vùng đất nằm giữa Sài Gòn và Xuân Lộc, ở đây Thiếu Tướng Đảo chờ đợi cuộc tái ngộ với Quân Đoàn 4 Bắc Việt của Tướng Hoàng Cầm

Thiếu tướng Lê Minh Đảo: “I will knock them down”


Ngày 27.4.1975, lúc 4 giờ sáng rạng đông, Sư Đoàn 341 BV tấn công phòng tuyến của Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Cuộc cường kích phục hận của 341 BV nửa tháng trước ở Xuân Lộc với thiệt hại rất nặng (một bộ chỉ huy trung đoàn bị Không Quân VNCH dội cho hai quả bom 7 tấn tan tành) diễn ra kinh thiên. Các chiến sĩ SĐ18BB chống trả quyết liệt, nhưng với quân số thiếu hụt chỉ giữ được chiến tuyến đến 8:30 sáng thì trận liệt bị vỡ. Thiếu Tướng Đảo cùng chiến sĩ của ông lùi về Long Bình để tái tổ chức, sau đó toàn Sư đoàn lại được điều đến giữ Trảng Bom.
Con đường Quốc Lộ 1 tiến về Sài Gòn của Quân Đoàn 4 BV đã rộng mở thênh thang. Mục tiêu kế tiếp của Quân Đoàn 4 BV là Hố Nai. Đến đây người đã gặp người, một con người mà quân Bắc chắc không muốn gặp: Trung Tá Lê Bá Bình và Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng Thủy Quân Lục Chiến. Chiến tuyến Hố Nai là khúc xương khó nuốt cuối cùng nằm chận đường tiến của Quân Đoàn 4 Bắc Việt.

Muốn hoàn thành Chiến Dịch 275, tức Chiến Dịch Hồ Chí Minh, Quân Đoàn 4 BV phải đánh gục Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng. Nhưng hãy hỏi Trung Tá Bình và 600 tay súng TQLC có đồng ý hay không. Đó là chưa kể một Chi Đội M48 từ Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái sẵn sàng nghênh đón đoàn tăng T54 và PT76 của quân Bắc. Lại kể thêm sự dũng cảm của lực lượng Nghĩa Quân và Nhân Dân Tự Vệ Hố Nai, mà đã từng chống cự ác liệt cuộc tấn công hồi Tết Mậu Thân 1968. Chúng ta sẽ thấy rằng những người anh hùng vô danh của Hố Nai sẽ dùng những hỏa lực yếu kém của các anh kháng cự với cơn bão lửa của Quân Đoàn 4 BV và hầu như hoàn toàn anh dũng hy sinh sau khi Tiểu Đoàn 6 TQLC triệt thoái ra khỏi Hố Nai, lại cũng theo lệnh của Quân Đoàn III VNCH. 

M113, M48 và những Mũ Đen Kỵ Binh QLVNCH


Là một trong những sĩ quan xuất sắc của binh chủng Mũ Xanh, Trung Tá Lê Bá Bình từng được tưởng thưởng nhiều huy chương, từ Bảo Quốc Huân Chương cho đến Anh Dũng Bội Tinh, Huy Chương Cao Quý Hoa Kỳ Ngôi Sao Bạc và Đồng. Trung Tá Bình và tiểu đoàn của ông chờ đợi cuộc thư hùng với binh đội Quân Đoàn 4 BV. Ký ức của cuộc triệt thoái ra khỏi Đà Nẵng hồi cuối tháng 3.1975 của Lữ Đoàn 369 TQLC hãy còn hằn đậm nhức buốt trong tâm tưởng của từng người lính Mũ Xanh. Giờ đây, hãy cho bộ đội BV biết thế nào là cơn thịnh nộ của Thủy Quân Lục Chiến. Một cậu bé tí hon David Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng nghênh chiến gã khổng lồ Goliah Quân Đoàn 4 BV, mà sẽ tung ra ít nhứt 10 tiểu đoàn bộ binh.


Buổi sáng ngày 27.4.1975, cộng quân vẫn theo chiến thuật cổ điển Tiền Pháo Hậu Xung, đã dội một cơn bão lửa ầm ì lên khắp chiến tuyến của Thủy Quân Lục Chiến, đất trời rung chuyển dưới hàng ngàn quả đạn pháo, tiếp theo sau là một chi đội xe tăng cùng hai tiểu đoàn tùng thiết của Sư Đoàn 341 BV tiến quân vào vị trí của Tiểu Đoàn 6 Mũ Xanh. Trung Tá Bình lệnh cho chiến sĩ của ông cứ kiên nhẫn chờ cho quân địch tiến gần hơn. Rồi một cơn lửa đỏ cuồng nộ của Pháo Binh TQLC giáng lên đầu quân địch. Đội hình của những chú bé học sinh bộ đội 16, 17 tuổi thuộc Sư Đoàn 341 BV vỡ tan ra từng mảnh, một chiếc xe tăng cháy bùng. Sư Trưởng Trấn buộc phải lệnh cho quân của ông rút lui.


Ngày hôm sau, Sư Đoàn 341 BV lại bị thúc xông vào tử địa. Để hy vọng đạt được thắng lợi nhanh chóng, Sư Trưởng Trần Văn Trấn điều 5 chiếc T54 và một trung đoàn bộ binh tấn công Trung Tá Bình. Chi Đội M48 của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh phục sẵn bên chiến hào khai hỏa, trong phút chốc những khẩu đại bác 90 ly đã nướng sống 3 chiếc T54, trong khi Pháo Binh dội lên đầu trung đoàn bộ đội một cơn nhiệt nóng chết chóc khác. Nghĩa Quân Hố Nai ần náu trên những cao ốc nã súng dữ dội lên đội hình địch. Dẫu sao trung đoàn bộ đội cũng mở được ba lần tấn công cường kích, nhưng cuối cùng đều bị 600 tay súng Mũ Xanh đẩy lui. Quân địch tháo lui trong hỗn loạn, nhưng Trung Tá Bình đâu đã để yên, ông gọi pháo binh bắn đạn nổ chụp rải hàng trăm ngàn mảnh pháo lên trận liệt của giặc.


Lần thứ hai, Sư Đoàn 341 BV buộc phải lùi xa ra khỏi trận địa liếm vết thương. Không chỉ Tiểu Đoàn 6 Mũ Xanh, mà trên toàn kháng tuyến của Lữ Đoàn 369 TQLC, quân Sư Đoàn 341 BV đều bị đẩy lui và chịu nhiều thiệt hại. Sau cuộc chiến bại Xuân Lộc, Sư Đoàn 341 BV cam chịu thất trận lần thứ hai. Xe tăng cháy nóng hừng hực và tử thi bộ đội nằm rải đầy trước chiến tuyến của Mũ Xanh. 


Thiếu Tá Phạm Châu Tài


Tướng Lê Trọng Tấn, Tư Lệnh B2, chịu trách nhiệm mặt trận phía Đông vô cùng sửng sốt trước sức kháng cự dũng mãnh của quân Nam mà đã khiến cho Sư Đoàn 7 BV thiện chiến bị khựng lại phía sau không tiến lên được. Tướng Tấn lệnh cho Sư Đoàn 341 BV giá nào cũng phải xông qua kháng tuyến Mũ Xanh. Ngày 29.4.1975, Sư Trưởng Trấn lại phải thúc những cậu bé học sinh bộ đội xông vào. Hai bên quầng nhau hơn hai tiếng đồng hồ, binh đội Bắc Việt lại vẫn phải cuốn vó chạy lui. Sau hai ngày giao tranh, Trung Tá Bình và chiến sĩ của ông cũng đã trả được ít nhiều mối hận ngoài Quân Khu 1 trong những ngày cuối tháng 3.1975.

Nhưng niềm vui của chiến thắng không kéo dài được lâu. Tư Lệnh Quân Đoàn III VNCH ra lệnh Lữ Đoàn 369 triệt thoái ra khỏi Hố Nai hành quân về bảo vệ Biên Hòa và Long Bình. Nghĩa Quân và Nhân Dân Tự Vệ Hố Nai không chịu triệt thoái. Các anh ở lại thề viết trang sử cuối cùng của các anh. Đến khuya ngày 29.4.1975, Hố Nai thất thủ, những người anh hùng vô danh của chúng ta đã đền xong nợ nước. Tổ Quốc muôn đời Tri Ân các anh.


Trong lúc Thủy Quân Lục Chiến rút về Biên Hòa, thì mặt trận phía Tây Bắc cũng đã lên đến cường độ nóng đỏ nhứt, đến sắt đá cũng phải tan chảy. Sư Đoàn 10 BV, sư đoàn từng tham chiến ở Ban Mê Thuột và Liên Tỉnh Lộ 7B, từng gây chết chóc tang thương cho hàng ngàn đồng bào di tản theo chân các đơn vị Quân Khu 2 hồi trung tuần tháng 3.1975, giờ đây là mũi đột phá chánh ở mặt trận Tây Bắc.


Ngày 29.4.1975, binh đội của Quân Đoàn 3 Bắc Việt đã tràn ngập Căn Cứ Đồng Dù của Sư Đoàn 25 Bộ Binh VNCH, Sư Đoàn 10 tiến quân về hướng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Các cấp chỉ huy của Trung Tâm Quang Trung đã dùng nhiều chiếc GMC nằm khóa chặt con đường Quốc Lộ 1 để làm chậm bước tiến của địch, các đơn vị cơ hữu của Trung Tâm (lúc này do Thiếu Tướng Trần Bá Di làm Chỉ Huy Trưởng) dũng cảm nồ súng chận địch. Công binh Bắc Việt đã đưa xe tăng lên kéo những chiếc GMC sang hết hai bên đường. Trung Đoàn 24 BV thúc tới.

Các tân khóa sinh của Trung Tâm với vũ khí yếu kém và trong thời kỳ huấn luyện không thể ngăn chận được cơn nước lũ. Nhưng đến đây người lại gặp người: Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù đang chờ đón quân địch tại giao lộ Bà Quẹo. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ hai 1954-1973, bộ đội Bắc Việt đi B, tức vào Nam thường chuyền tai kể cho nhau những hiểm nguy đang chờ đón họ, rằng chớ nên chạm đến ba món độc Miền Nam: Nhảy Dù, Biệt Cách Dù và B52. Giờ đây các Trung Đoàn 24 BV sẽ đụng độ với một trong ba món độc Miền Nam. Các chiến sĩ Nhảy Dù vừa trở về từ cơn triệt thoái Phan Rang, đang hừng hực ý chí phục hận, dù quân số thiếu hụt và số tân binh bổ sung còn thiếu kinh nghiệm chiến trường, sĩ quan kỳ cựu hao mòn, các anh bố trí trong những cao ốc chung quanh giao lộ.

Kiên nhẫn chờ cho những thành phần tiền phong của bộ đội đến gần trong tầm nhắm, các chiến sĩ Mũ Đỏ đồng loạt khai hỏa. Ba chiếc thiết xa đi đầu bị bắn cháy, những cột lửa màu cam vỡ bùng cùng với những cột nấm khói đen mù mịt bốc lên. Sư Đoàn 10 BV đã bị Tiểu Đoàn 3 Dù chận đứng. 
 

Những Thiên Thần Mũ Đỏ


Trong lúc quân Dù và quân BV còn đang kịch chiến ở Bà Quẹo thì Trung Đoàn 28 BV đã đánh thông được con đường Tỉnh Lộ 15 tiến về phi trường Tân Sơn Nhứt lúc 6 giờ chiều ngày 29.4.1975. Quân địch nhận lệnh dừng, chỉnh đốn quân số và nhận tiếp liệu. Cuộc tấn công phi trường sẽ khởi diễn vào lúc bình minh ngày 30.4.1975. Đến đây, Trung Đoàn 28 BV lại sẽ gặp món độc Miền Nam thứ hai: 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Từ ngày 26.4.1975, Liên Đoàn 81 BCD được trao nhiệm vụ trấn đóng bảo vệ phi trường và Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.


Người hào kiệt chịu trách nhiệm chỉ huy mặt trận là Thiếu Tá Phạm Châu Tài, biệt danh Hổ Xám, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Chiến Thuật của Liên Đoàn 81 BCD (Liên Đoàn có 3 Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật, mỗi bộ chỉ huy có 4 biệt đội, mỗi biệt đội có 200 chiến sĩ). Dưới quyền điều động của Thiếu Tá Tài còn có một thành phần Lôi Hổ trở về từ Pleiku. 

Những T54 Bv bị Nhảy Dù bắn cháy ở Bà Quẹo


Hổ Xám Phạm Châu Tài là một trong những mãnh hổ Mũ Xanh tung hoành trận địa ở An Lộc. Trong một đêm tháng 4.1972, ông cùng các tay súng Biệt Cách đã đánh bật quân cộng ra xa khỏi một nửa phía Bắc thành phố An Lộc mà chúng đã chiếm được mấy ngày trước. Giờ đây ông sẽ viết tiếp trang sử Liên Đoàn 81 BCD bằng những huyền thoại của chính ông.


Đêm 29.4.1975 sẽ là đêm dài nhứt của các chiến sĩ Biệt Cách Dù, Lôi Hổ và Nhảy Dù đang trấn giữ chung quanh, trong khu vực phi trường và Bộ Tổng Tham Mưu. Suốt đêm, các chiến sĩ phòng thủ lắng nghe tiếng cánh quạt phành phạch cùng tiếng động cơ ầm ĩ của đoàn trực thăng Hoa Kỳ từ Đệ Thất Hạm Đội bay vào Sài Gòn di tản người Mỹ và nhân viên Việt Nam, cùng những người có giấy tờ nhận cho di tản từ tòa đại sứ Hoa Kỳ.

Trong màn đêm u ám, từ trên những tòa cao ốc, các chiến sĩ và người dân Sài Gòn có thể nhìn rõ những ánh đèn chớp liên hồi từ những chiếc trực thăng. Mặc dù có tin nhiều chỉ huy cao cấp từ Tổng Tham Mưu Trưởng, đến Tư Lệnh Quân Đoàn III VNCH đều vắng mặt, hầu hết máy bay và tàu chiến đều đã ra khỏi Việt Nam với mục đích tránh để rơi vào tay giặc, quân ta vẫn bình tĩnh giữ vững vị trí thề chiến đấu bảo vệ mảnh đất cuối cùng: Sài Gòn. Nhưng liệu ông Tổng Thống tân nhiệm Dương Văn Minh có được dũng chí làm được công việc phi thường ấy không.


Trong lúc Quân Đoàn 3 Bắc Việt lập kế hoạch chiếm phi trường và BTTM để làm tê liệt sức chống cự của toàn QLVNCH, Thiếu Tá Tài gọi cho Đại Tá Phan Văn Huấn, Tư Lệnh Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù xin lệnh. Người anh hùng của thời Mùa Hẻ Đỏ Lửa An Lộc ra lệnh: “Nhiều vị tướng lãnh có thể đã ra đi, nhưng chúng ta không thể để đất nước rơi vào tay quân cộng sản, cho dù bất cứ chuyện gì xảy đến, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù vẫn phải ở vị trí và tiếp tục chiến đấu”. Quân lệnh như sơn. Hổ Xám Phạm Châu Tài tuyệt đối tuân thủ, ông sẽ đánh quân giặc đến giờ thứ 25.

Lúc 7:15 sáng ngày 30.4.1975, Thiếu Tướng Vũ Lăng, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 BV ban lệnh tấn công. Trung Đoàn 24 đã vượt qua được Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù ở Bà Quẹo, cùng đoàn thiết xa ầm ầm tiến về Ngã Tư Bảy Hiền, khí thế mạnh mẽ, hùng hổ tưởng chừng như trời sắp sụp đất sắp lở. 800 tay súng Biệt Cách Dù, Lôi Hổ và một thành phần Nhảy Dù bình tĩnh chong súng chờ đợi. Chiến Đoàn 3 BCD có dồi dào súng phóng hỏa tiễn M72, mà sẽ là thứ vũ khí chết chóc luôn là tử thần đối với chiến xa địch.


Tiếng bánh xích chiến xa địch đã nghiến rổn rảng trên con đường nhựa thênh thang, tiếng động cơ gầm rú ầm ĩ, đe dọa, lính tùng thiết đi theo sau lúc nhúc như bầy kiến tìm mồi. Kia rồi, hai chiếc thiết giáp địch đã ở trong tầm bắn. Công đầu thuộc về các chiến sĩ Lôi Hổ. Các anh bắn xe tăng địch bằng súng không giật 90 ly, thép nào chịu cho nổi. Nên chiếc thứ nhứt bùng cháy dữ dội. Chiếc T54 thứ hai còn đang loay hoay chưa biết hành động ra sao, thì một quả đạn từ đại bác 90 ly của một chiếc M48 đã nướng cháy nó, khói bốc đen nghìn nghịt. Tuy nhiên, quân số biển người của Sư Đoàn 10 BV tiếp tục thúc tới dưới màn hỏa lực dữ dội từ trên những cao ốc của Lôi Hổ và Nhảy Dù, những đơn vị tiền phong tiến dần đến cổng phi trường, nơi Thiếu Tá Tài đang chờ đợi. Một tiểu đoàn bộ đội được ba chiếc T54 yểm trợ ào ạt tiến vào, để nhận được một trận bão hỏa lực từ Biệt Cách Dù. Trong phút chốc ba chiếc T54 đã bị súng phóng hỏa tiễn M72 hủy diệt. 

Đại Tá Phan Văn Huấn

Nếu quân cộng từng dùng CKC bắn tỉa quân ta, thì giờ đây những tay súng tuyệt kỹ của Biệt Cách Dù cũng bắn tỉa được nhiều lính cộng. Tổ súng nặng của quân cộng vội thiết trí súng phòng không 85 ly bắn trực xạ vào quân Mũ Xanh. Các tay súng 81 BCD đã hủy diệt ngay tổ phòng không ấy, thậm chí súng còn chưa kịp hạ nòng bắn viên đầu tiên. Một tiểu đoàn thứ hai cùng tám chiếc T54 xông vào. Những chiếc A37 còn lại của Không Quân VNCH từ Cần Thơ bay lên đánh bom nổ tung 2 chiếc T54.

Lúc 10 giờ sáng, chỉ nửa tiếng sau toàn dân Miền Nam sẽ được nghe hiệu triệu của Tướng Minh, trong lúc quân cộng tiếp tục ủi vào cổng phi trường, những chiếc M72 bắn hạ thêm hai chiếc nữa. Một chiếc thứ ba xoay bánh xích ken két đánh một vòng muốn bọc hông, cũng bị M72 bắn cháy luôn. Tổng cộng có sáu chiếc T54 nằm rải rác trước cổng phi trường. Thiếu Tá Tài đã buộc Sư Đoàn 10 BV thất vọng vì không hoàn thành kế hoạch làm tê liệt sức kháng cự của QLVNCH, phải khựng lại không tiến lên được.


Cùng thời điểm đó, người hào kiệt Vương Mộng Long và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân còn đang quần thảo với Quân Đoàn 2 BV ở Căn Cứ Nước Trong, sau khi triệt thoái từ Xuân Lộc về. Từ Quảng Đức với 410 chiến sĩ rút về Quân Khu 3 trong những ngày tháng 3.1975, giờ đây Thiếu Tá Long chỉ còn có 60 chiến sĩ và 4 sĩ quan sống sót. Nhưng khi đoàn quân này vượt cầu Tân Cảng tìm về Sài Gòn thì rơi vào bẫy phục kích của giặc. Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân bị xóa tên, nhưng Thiếu Tá Long may mắn thoát được cùng vài chiến sĩ.

Chiến sĩ Biệt Động Quân đánh địch


Vận nước đã đến lúc suy vong. Nửa giờ sau, từ những chiếc máy thu thanh nhỏ, lúc 10:30 sáng, quân phòng thủ phi trường và Bộ Tổng Tham Mưu đã tức uất nghe được lệnh “các chiến sĩ hãy buông súng, ai ở đâu ở đó chờ quân giải phóng đến bàn giao”. Có nghĩa là buông súng đầu hàng. Thiếu Tá Tài đi vào Bộ Tổng Tham Mưu hy vọng tìm gặp vài viên chức cao cấp nào đó, để chỉ thấy những phòng ốc hoang vắng thê lương. Tuy nhiên điện thoại vẫn còn hoạt động được, Thiếu Tá Tài gọi vào Dinh Tổng Thống. Trả lời đầu dây là Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người được Tổng Thống Minh bổ nhiệm làm Tổng Tham Mưu Trưởng. Thiếu Tá Tài xin được nói chuyện với Tổng Thống.

Được ông Minh tiếp chuyện, Thiếu Tá Tài tự giới thiệu tên, cấp bậc, chức vụ rồi xin lệnh. Tướng Minh bảo Thiếu Tá Tài hãy sửa soạn đầu hàng, ông cho biết xe tăng quân cộng đang trên đường đến Dinh Độc lập. Thiếu Tá Tài nói: “Nếu xe tăng Việt cộng vào Dinh Độc Lập chúng tôi sẽ đến cứu Tổng Thống”. Ôi, còn những lời nào cao cả, hào hùng và bi thiết hơn nữa không từ một người chiến sĩ đã dâng hết thời thanh xuân của mình cho đất nước. Giờ đây, trách nhiệm cuối cùng của ông là bảo vệ vị nguyên thủ quốc gia tránh sự nhục nhã của một tù binh chiến tranh. Hết sức sửng sốt và cảm động, ông Minh từ tốn trả lời: “Không cần đâu em”. Thiếu Tá Tài chỉ còn nghe có tiếng vo vo buồn bã trong ống liên hợp. Lúc 11:30 sáng, những chiếc dép râu tiến vào phi trường và Bộ Tổng Tham Mưu. 

Thiếu Sinh Quân VNCH: Những Trần Quốc Toản thời lửa binh


Thế là hết. Những chiến sĩ Lôi Hổ, Nhảy Dù Bộ Chỉ Huy 3 Chiến Thuật Biệt Cách Nhảy Dù ngậm ngùi bắt tay từ giã nhau. Một nhóm 7 chiến sĩ Mũ Đỏ Dù, trong đó có một ông Thầy Thiếu Úy, ngồi thành vòng tròn ở gần Ngã Tư Bảy Hiền nhìn nhau gật đầu chào vĩnh biệt. Một trái lựu đạn lăn giữa vòng nổ tung, những mảnh áo màu hoa rừng đẫm máu tung bay tơi bời lên thinh không.

Buổi trưa ấy, đột nhiên bầu trời tối sầm, mây đen sa xuống thấp đến nỗi những con người Sài Gòn đang ngơ ngác, ủ rủ cảm nhận được những luồng hơi nước lạnh giá. Từ trong cõi xám mờ mịt dậy lên những tiếng sấm động ùng oàng, liên miên, bất tận như truy điệu cái chết của Việt Nam Cộng Hòa. Cơn mưa đầu mùa tầm tả ầm ầm trút xuống một màn nước trắng xóa phủ lên thành phố đang hấp hối.
Nhưng đối với Thiếu Tá Trần Đình Tự và Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân đang hành quân ở Củ Chi, Hậu Nghĩa, cuộc chiến vẫn tiếp diễn.


Cùng với 90 chiến sĩ Mũ Nâu quyết theo ông đến phút cuối cùng, Thiếu Tá Tự bất tuân lệnh buông súng tiếp tục đánh cho đến lúc toàn quân sa vào tay giặc. Cấp chỉ huy địch buộc Thiếu Tá Tự cởi quân phục đầu hàng, ông cương quyết từ chối. Viên chỉ huy địch giận dữ rút súng bắn vào đầu ông. (Một tài liệu khác viết rằng, chỉ huy du kích Củ Chi trói Thiếu Tá Tự vào cột rồi dùng dao găm mổ bụng ông). Ôi, còn nỗi bi thương nào hơn thế không? 

Thương nhưng không phế: vẫn chiến phục hào hùng


Buổi chiều ngày 30.4.1975, những chiến sĩ nhỏ bé Thiếu Sinh Quân ở Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu sau khi cầm cự suốt nửa ngày đành cam chịu buông súng. Nhưng những người chiến sĩ hậu duệ Trần Quốc Toản ấy đã trân trọng làm lễ Hạ Kỳ Quốc Gia, xếp lại Lá Cờ Vàng Việt Nam thiêng liêng, rồi u sầu chia tay nhau. Năm vị thần tướng Nước Nam không chịu khuất phục quân giặc đã tuẫn tiết:


Thiếu Tướng Phạm Văn Phú uống thuốc độc; Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam bắn súng vào đầu; Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng bắn súng vào tim; Chuẩn Tướng Trần Văn Hai uống thuốc độc; Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát bằng súng. Trước bức tượng Thủy Quân Lục Chiến ở bùng binh Quốc Hội, Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long tử tiết bằng súng, chiếc nón của người anh hùng ấp ủ trên ngực ông. Ngày hôm sau, cựu Ngoại Trưởng Trần Chánh Thành tuẫn tiết tại nhà. Và còn nhiều nữa rất nhiều chiến sĩ mọi binh chủng, mọi cấp bậc không cam chịu nhục hàng giặc, anh linh đã cùng đi vào cõi thiên thu.

Sang ngày 1.5.1975, tiếng súng vẫn còn nổ ở Tiểu Khu Chương Thiện, Đại Tá Tỉnh Trưởng Hồ Ngọc Cẩn khi không còn gì để chiến đấu, ông điềm tĩnh chờ giặc vào trói ông. Người bạn cùng khóa 2 Hiện Dịch Đồng Đế với ông, Trung Tá Trịnh Tấn Tiếp, Quận Trưởng Kiên Long, cũng đánh đến cùng và bị bắt. Hai người anh hùng cuối cùng này của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị đem xử bắn ở vận động trường Cần Thơ vào ngày 14. 8.1975.

Những vị Thần Tướng Nước Nam đã thăng thiên cùng anh linh hai trăm ngàn chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong hai mươi năm đấu tranh bảo quốc, ba trăm ngàn chiến sĩ thương phế sống vất vưởng ngoài lề đất nước từ ngày 30.4.1975, đến nay là đã gần nửa thế kỷ. Nhưng có phải những người anh hùng ấy đã hoàn toàn bị quên lãng trong lòng dân tộc rồi chăng. Một cô em nữ sinh hậu phương ở Sài Gòn, cô Dương Thị Sớm Mai (hiện cư ngụ ở thành phố Ottawa, Canada) đã nói thay cho tình cảm của dân chúng Miền Nam dành cho NHỮNG NGƯỜI LÍNH QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA:


Buổi trưa ngày 30 tháng 4.1975 Ba tôi vừa khóc vừa nói với anh em tôi rằng: “Mình đã sống bình yên, hạnh phúc cho đến này hôm nay là do công giữ nước, giữ đất của Những Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, không phải chỉ bằng mồ hôi nước mắt, mà còn bằng máu của các anh, bằng sự mất mát của gia đình các anh, bằng tất cả cuộc đời của các anh… Nhiều lắm, mình không trả nổi công ơn đó”.
Cuộc chiến này dù đã kết thúc như thế nào, người dân Miền Nam Việt Nam vẫn cúi đầu ghi nhớ công ơn các anh, sự hy sinh cao cả của các anh, bởi trên từng tấc đất mà họ đang sống đều được đấp bồi bằng máu của những người như các anh đã không sống hết tuổi thanh xuân của mình.


Dương Thị Sớm Mai
PHẠM PHONG DINH
Nguồn: Cảm ơn Mr. PPD chuyển  

Tháng Tư, Hai Tám - Đỗ Công Luận

Áo Bà Ba Tím - Phùng Annie Kim

 

Bà Hai nghe mơ màng, tiếng ai như tiếng ông Hai. Bàn tay ai đang vỗ nhẹ trên vai bà :

- Dậy, dậy bà ơi. Khuya rồi, vô phòng ngủ tiếp. Bà xem Tivi mà con mắt bà nhắm miết. Cái Tivi đang nhìn bà kìa. Thấy bà ngủ mà tui phát ham. Già mà ngủ dễ như con nít ! Bà ngủ được hai tiếng rồi đó. Gần mười một giờ con Hạnh vẫn chưa về ? Bữa nay sao nó về trễ quá hả bà !

Giọng bà còn nhừa nhựa, bà vừa ngủ một giấc thật ngon trên chiếc ghế Massage hồi nào bà không hay :
- Tui ngủ say quá hả ông ? Thôi, ông buồn ngủ thì vô ngủ trước. Quá giấc rồi, tui ngồi xem tivi chút xíu chờ con Hạnh.

Bà đang chăm chú vào cái tivi trước mặt, nghe tiếng mở cửa lách cách. Hạnh nhảy bổ vào nhà, sà vào chiếc ghế ngồi cạnh bà. Cái mặt nó thật nghiêm nghị. Nó nhìn săm soi vào mặt bà thật lâu. Lát sau, nó lên giọng trịnh trọng như bắt được một cái gì mới lạ:
- Chuyện gì ? Sao con nhìn má kỳ cục vậy Hạnh ?
- Con muốn nhìn má, tưởng tượng xem hồi còn trẻ má như thế nào? Má à, con mới đi xem phim Last Days in Vietnam. Phim Mỹ chiếu những ngày cuối cùng ở Việt Nam trước khi Cộng sản vô Sài gòn. Má ơi, sao lạ quá. Trong phim có quay hình người đàn bà mặc áo bà ba tím giống má y hệt hồi còn trẻ. Con thấy có đứa nhỏ khoảng chín mười tuổi giống chị Hảo ngồi cạnh má. Con thấy một đám nhóc giống y chang chị Hương ngồi gần Út Hải. Con ngồi gần thằng Hiệp. Không hiểu sao có sự trùng hợp, một gia đình ba đứa con gái và hai đứa con trai giống như gia đình mình trong phim đang ngồi trên máy bay. Con thắc mắc sao không thấy ba. Lúc đó ba ở đâu má ?

Ông Hai đứng từ nãy giờ ở cửa phòng. Ông nghe hết câu chuyện. Ông bước ra phòng khách, đến ngồi cạnh bà, nhìn Hạnh lắc đầu:
- Hàng ngàn gia đình lúc đó ai cũng buồn lo, hốt hoảng tìm đường ra đi. Thì giờ và hơi sức đâu mà họ quay phim gia đình mình hả con ? Người giống người có gì lạ. Vả lại bốn mươi năm rồi, con người có nhiều thay đổi lắm, má con làm sao nhận ra mình ? Con cũng vậy. Chắc gì mấy đứa con nít đó là chị em tụi con ?

Hạnh kiên nhẫn giải thích và thuyết phục ông Hai :
- Ba ơi, phim này là phim tài liệu lịch sử do người Mỹ quay. Họ muốn ghi lại một cách trung thực những hình ảnh di tản của người Mỹ và người Việt trước ngày ba mươi tháng tư bằng kinh nghiệm của những nhân chứng còn sống qua các câu chuyện kể. Có nhiều hình ảnh họ quay bất ngờ hồi nào mình đâu có biết. Cho dù có thay đổi nhưng con so sánh với mấy tấm hình chụp hồi còn nhỏ ở Việt Nam má mang qua đây với hình quay tụi con trong cuốn phim giống y chang làm con ngạc nhiên luôn. Nhất là cái bà mặc áo tím, đích thực là má. Con nhìn thoang thoáng cũng giống dì Vân. Giống nhất là chị Hảo. Họ quay rất lâu, sát cái mặt chị Hảo.

Ông Hai trầm ngâm :
- Kể cũng lạ. Con nói trong phim có bà mặc áo màu tím giống má con ? Năm đứa con nít, ba gái một trai giống chị em con. Trong phim không có quay hình Ba. Để ba nhớ coi lúc đó ba đang ở đâu. Lên được trên máy bay, nhiều người không có chỗ, ba phải ngồi co ro ở dưới khoang phía sau đuôi gần cầu tiêu. Đàn ông ngồi xếp lớp như cá mòi, không có chỗ duỗi chân. Các hàng ghế dành ưu tiên cho đàn bà và trẻ con. Hảo lúc đó mười tuổi. Hạnh lúc đó bảy tuổi.

Con nhỏ đứng lên, ngáp một hơi dài :
- Được rồi. Con có cách. Con tính ngày mai phone cho các anh chị, mời cả nhà mình cuối tuần đi xem phim này. Má phải đi xem phim để nhận ra bà mặc áo tím có phải là Má không chớ ? Cái mặt thằng Hiệp ngố chắc chắn là nó. Còn con, con nhận ra cái mặt con hồi nhỏ liền. Họ quay cảnh Má và chị Hảo nhìn ra ngoài cửa máy bay rõ lắm ba à. Thôi, để mai tính. Con đi ngủ đây.

Bà Hai dựa đầu trên ghế Sofa, đôi mắt bà khép lại. Bà đang hồi tưởng về quá khứ xa xôi của bốn mươi năm về trước. "Má mặc chiếc áo bà ba tím". Phải rồi. Chiếc áo bà ba màu tím hoa cà, màu áo hai chị em bà đều thích, Vân, em gái bà may đã lâu nhưng cả hai chưa có dịp nào mặc. Hôm bà ra đi, bà nhớ rõ bà mặc chiếc áo tím còn mới này.

Bốn mươi năm trôi qua mà bà cứ ngỡ như mới ngày nào. Hình ảnh bà và Vân, con mắt đỏ hoe, ngồi trên nền nhà cạnh chiếc ghế gụ trong phòng khách, ôm chân hai ông bà cụ tuổi đã ngoài bảy mươi. Giọng bà nghẹn ngào :
- Ba má cho con xin ba lạy. Một lạy này là lạy công lao ba má đã nuôi dưỡng con khôn lớn nên người. Lạy này là lạy xin ba má tha thứ cho con không ở gần để phụng dưỡng ba má trong lúc bệnh hoạn vào cuối đời. Còn lạy này là lạy con không gặp mặt ba má khi ba má trăm tuổi già. Con đành mang tội bất hiếu với ba má.

Bà quay sang ôm cô em gái sinh đôi giống bà như hai giọt nước. Bà chùi nước mắt :
- Vân ơi, nếu anh chị phải ra đi, tài sản còn lại, em bán đi, thay chị chăm sóc cho ba má. Chị ra đi không mong ngày trở về. Em thay chị lo cho ba má. Em hy sinh cho gia đình anh chị quá nhiều. Cả một gánh nặng trên vai em. Tội nghiệp Cường, giờ này không biết chú ở đâu. Chị còn có anh Hùng bên cạnh, em ở lại một thân một mình với ba má, lại thêm nỗi lo cho Cường. Chị đi không đành lòng. Mình ráng chờ thêm ít ngày nữa biết đâu chú về kịp. Vân ơi, em hiểu cho chị.

Tiếng khóc thút thít của ông bà ngoại, bà Hai và Vân cùng với năm đứa nhỏ quấn quít bên ông bà ngoại từ mấy ngày nay làm cho ông Hùng xót xa tuy trong lòng ông xốn xang và nóng nảy như lửa đốt.

Bà Hai cứ nấn ná mong Cường, cậu em rể là đại úy ngành pháo binh đang còn kẹt ở Nha Trang. Nếu Cường về kịp, gia đình bà sẽ di tản trong cùng chuyến máy bay chứ đâu có cảnh kẻ ở người đi như thế này.

Vân ít nói. Cả ngày hai chị em lủi thủi, âm thầm dọn dẹp thu xếp đồ đạc trong nhà. Vân quyết định ở lại chờ Cường. Ông bà cụ cũng quyết định ở lại chờ con rể. Tình hình chiến sự càng ngày càng ác liệt. Người Mỹ đã có lệnh di tản từ lâu. Những người Việt Nam làm việc cho chính phủ Mỹ trong các ngành đặc biệt và chức vụ quan trọng như ông Hai, họ đã cùng với gia đình rời Việt Nam từ trước.

Chuyện di tản, ông bà Hai không nói rõ cho tụi nhỏ biết nhưng thỉnh thoảng nhìn mẹ và ông bà khóc, chúng cũng rơm rớm nước mắt. Chúng thấy dì Vân và mẹ chúng hay ngồi rù rì tâm sự thật lâu. Chúng thấy đồ đạc trong nhà trống dần. Bà nhớ tối hôm đó ông Hùng về, thúc hối bà sắp xếp đồ đạc mang theo thật gọn nhẹ. Đêm khuya cả nhà ngủ hết, bà đi một vòng quanh căn nhà. Bà nhìn cái tủ thờ và bộ bàn ghế cẩn xà cừ bằng gỗ gụ nâu đen, cái đi-văng bóng láng trơn mướt, những bức tranh sơn mài hình mai, lan, cúc, trúc treo trên tường, các bình, lọ, tô, chén, tượng, hoành phi, câu đối... đồ cổ của ông Hai sưu tập từ nhiều năm nay và nhiều đồ vật quý giá khác trưng bày trong phòng khách, chúng gần gũi với bà bao nhiêu năm, bây giờ bà phải bỏ lại hết. Bà nhìn hành lý mang đi chỉ là ít bộ quần áo, thuốc men, vật dụng cá nhân và vài xấp hình kỷ niệm. Các giấy tờ quan trọng, vài trăm đô la còn kịp đổi được trong những giờ phút cuối đã cất kỹ trong chiếc cặp da của ông Hùng. Ông Hùng không cho mang theo một thứ gì nặng và cồng kềnh. Sắp tới, ông bà Hai và năm đứa nhỏ, đứa lớn nhất mười tuổi, đứa bé nhất năm tuổi sẽ bồng bế, níu kéo nhau đến một đất nước xa lạ mà bà không dám nghĩ tới.

Ông Hùng hối thúc bà hàng ngày. Có những lúc bà đi lên đi xuống cầu thang, đi ra đi vào từ nhà trước vào nhà sau nhiều lần như người mộng du không biết mình đang làm gì. Bà ghé vào chiếc sập gụ, vén màn nhìn vào thấy ông bố nằm nghiêng, hơi thở mệt nhọc, tiếng khò khè nhỏ hơn, cơn suyễn giảm dần. Bà vừa cho ông uống thuốc. Bà vào phòng, thấy Vân còn thức, đang ngồi xoa dầu bóp chân cho mẹ. Bà mẹ vừa mổ ruột thừa. Bảy mươi tuổi còn sống sót qua cơn mổ làm bà cụ yếu sức chưa đi lại bình thường. Hai mắt Vân hõm sâu, thâm quầng, khuôn mặt hốc hác, mệt mỏi. Người Vân gầy rạc hẳn đi. Nhìn sức khỏe bố mẹ như thế, nhìn đứa em gái yếu đuối, đứa em rể còn mịt mù tông tích, nỡ lòng nào bà dứt tình ra đi cho đành.

Bà nhớ lại tối hôm đó, ông Hùng sợ bà đổi ý, đứng sau lưng, bóp nhẹ đôi vai gầy của bà, giọng ông lúc nào cũng nài nỉ, nhỏ nhẹ :

- Tội nghiệp dì Vân. Chú Cường giờ này không biết ra sao. Thôi, em đừng khóc nữa. Anh hiểu nỗi khổ tâm của em. Em thương con, thương anh, nghĩ đến tương lai đàn con. Ở lại, sẽ chỉ có tù đầy tan nát chờ gia đình mình.

Ông Hai cầm tờ công văn của cơ quan MACV cho phép gia đình bà gồm cha mẹ bà, Vân và Cường cùng gia đình bà tổng cộng mười một người rời Việt Nam đưa cho bà xem :

- Phải đi em ạ. giờ chót rồi.

Ngày mười lăm tháng Tư, tin Việt Cộng sắp tiến vào Sài Gòn, ông Hai Hùng hớt hải về nhà, gọi bà lên phòng. Lần này, ông cầm khẩu súng đặt trên bàn, giận dữ và quyết liệt :

- Nếu em còn chần chờ nữa thà em bắn cho anh chết tại đây, em ở lại một mình nuôi con. Liệu bọn Công sản có tha cho anh, người cộng tác với Mỹ mà họ cho là kẻ tử thù của bọn chúng. Nếu chúng giết anh hoặc bỏ tù anh, liệu chúng có để yên cho em nuôi mấy đứa nhỏ không. Quan trọng là tương lai các con. Nếu không vì anh thì em phải nghĩ đến tương lai năm đứa nhỏ chớ. Em cứ tình cảm nấn ná kiểu này, cả nhà sẽ chết chùm hết.

Bà nghẹn ngào :

- Anh ơi, làm sao em có thể bỏ ba má bệnh hoạn, già yếu với dì Vân trong lúc này. Chờ thêm vài ngày nữa biết đâu chú Cường về kịp.

Ông Hùng dứt khoát :

- Nếu vậy thì em ở lại với ba má và dì Vân chờ Cường. Sáng mai, anh sẽ dắt tụi nhỏ ra phi trường. Không còn thời gian nữa.

Ông đổi cách xưng hô :

- Cha con tôi sẽ đi để cô ở lại. Cô đừng bao giờ hối hận về sự chọn lựa này.

Sáng hôm ấy, bà và ông Hai với bốn cái túi xách, dắt díu đàn con đến phi trường Tân sơn Nhất. Mắt bà nhòa lệ. Bà nhìn lại căn nhà lần chót. Bóng dáng Vân thấp thoáng sau khung cửa. Vân cũng mặc chiếc áo bà ba màu tím giống bà. Chị em sinh đôi có nhiều điều lạ là rất thương nhau. Vì cùng nằm trong bụng mẹ, gần nhau từ tấm bé cho nên khi lớn lên, họ có những suy nghĩ, tình cảm, sở thích, cách cư xử và hành động giống nhau. Họ nhìn hình ảnh mình qua hình ảnh người kia. Họ tuy hai mà như một. Chiếc áo bà ba tím bà mặc và hình ảnh cuối cùng của Vân cũng trong chiếc áo bà ba màu tím ngày hôm ấy, làm sao bà có thể quên ?
***
Nghe Hạnh kể về cuốn phim Mỹ có người đàn bà nào đó mặc chiếc áo tím giống bà Hai hồi còn trẻ với năm đứa con nít trong chuyến bay di tản thôi thúc ông bà Hai và mấy đứa con phải đi xem cuốn phim "The last days of Vietnam". Phim chiếu đầu tiên tại thành phố Irvine, cả nhà chọn xuất buổi tối, sáu giờ rưỡi vào thứ bảy cuối tuần. Vợ chồng con gái lớn Hảo- Phúc từ Irvine đi thẳng đến rạp Edward gần đó.Vợ chồng Hương và cậu con rể người Mỹ Jimmy ở Laguna Hills lái xe xuống Irvine cũng không xa. Vợ chồng Hiệp - Thu sẽ đến đón ông bà và Hạnh. Hải, đứa con trai út sẽ đến thẳng rạp. Vé Hạnh đã mua sẵn trên mạng. Cả nhà hẹn nhau đến sớm và chờ nhau trước cửa rạp.

Đến nơi, đã thấy Hảo và Hương trên tay mỗi cô cầm một lon bắp rang to tướng đang nhâm nhi. Mọi người ai cũng nôn nóng muốn xem phim và hy vọng người đàn bà mặc chiếc áo tím trong phim là "Má tui đó", hình ảnh năm đứa con nít là.... "Tui đó". "Tui đó".

Họ là những bà mẹ, ông bố đang chờ đợi giây phút được ngồi trước màn ảnh trong một rạp xi-nê ở xứ Mỹ, tìm lại hình ảnh trẻ thơ của mình bốn mươi năm về trước trong chuyến bay di tản lịch sử trước ngày ba mươi tháng Tư.

Tựa đề cuốn phim, tiếng Việt dịch là "Những ngày cuối cùng ở Việt Nam" ám ảnh bà suốt con đường từ nhà đến rạp. Trước khi đi xem phim này, ông Hai và Hiệp đã lên mạng tìm đọc phần giới thiệu về cuốn phim. Còn Hạnh đã xem trước rồi. Ngồi trong xe, ông Hùng kể lại chuyện di tản. Bà Hai yên lặng. Đầu óc bà lúc này đang nhớ lại những ngày chờ đợi ở phi trường Tân sơn Nhất. Bà nhớ cảnh những nhóm người kéo đến phi trường càng ngày càng đông, nét mặt người nào cũng nhớn nhác đầy vẻ lo âu, sợ hãi. Họ chen lấn, xô đẩy, la ó, gây gỗ nhau. Cảnh tượng thật hỗn loạn. Cầm tờ công văn có danh sách, chữ ký và con dấu của vị Đại tá chỉ huy Mỹ, gia đình bà lọt vào được trong phi trường cũng vừa lúc bà mệt quá, ngất đi làm ông Hùng một phen hoảng sợ và mấy đứa nhỏ khóc bù lu bù loa.

Suốt hai ngày chờ đợi, nửa đêm ngày17 tháng Tư máy bay cất cánh. Bà ngồi cạnh Hảo đứa con gái lớn. Bốn đứa nhỏ ngồi sát nhau trên hai ghế băng trước. Ông Hùng và một số đàn ông phải ngồi phía sau máy bay và chỗ lối đi. Máy bay chở quá tải, đầy nghẹt người.

Chuyến bay dừng lại ở đảo Guam để khám sức khỏe và làm thủ tục giấy tờ trước khi đến Mỹ. Ngày 10 tháng 5 năm 1975, gia đình ông bà Hai đặt chân đến nước Mỹ. Trại tị nạn Camp Pendleton ở San Diego là nơi tiếp nhận đón những người di tản. Bà nhớ mãi cái lạnh vào ban đêm của thời tiết Cali, ban ngày nắng và nóng, buổi chiều mát, ban đêm trời trở lạnh bất ngờ. Thời tiết thay đổi làm bà và mấy đứa nhỏ hắt hơi, sổ mũi, ai cũng lừ đừ như muốn bệnh.

Cuộc sống mới ở xứ Mỹ của gia đình bà bắt đầu bằng những ngày trong bệnh viện dã chiến của trại tị nạn. Cả gia đình bà bị cúm trừ ông Hùng. Tụi nhỏ lây nhau, hết đứa này đến đứa kia ra vào bệnh viện liên tiếp cả tháng trời mới khỏe lại. Gặp lại người chị gái du học ở Mỹ trước bảy lăm xuống thăm, hai chị em bàn tính chuyện tương lai, cuối cùng ông Hùng quyết định dọn xuống khu có người Việt sinh sống, share hai trong căn nhà lớn năm phòng của bà chị ở Garden Grove để tiết kiệm tiền nhà.

Nhờ vốn sinh ngữ, ông xin việc trong một nhà hàng Mỹ, lương ba đồng một giờ nhưng tiền tip còn nhiều hơn tiền lương. Bà nhận đồ hãng về may tại nhà. Các con bắt đầu đi học trừ thằng út Hải. Bà phải học lái xe để đưa đón tụi nhỏ. Vừa may kiếm tiền, vừa đi chợ nấu nướng cho hai gia đình mười người, vừa chăm sóc con cái, vừa phụ bà chị dâu dọn dẹp nhà cửa, làm vườn, bà Hai suốt ngày đầu tắt mặt tối. Ông Hai vừa đi học vừa đi làm. Ông làm ban ngày, làm thêm giờ phụ trội. Tối về, mấy cha con nằm bò trên thảm làm homework rồi ông lăn bò ra sàn ngủ như chết. Gia đình bà Hai quen dần với đời sống tất bật ở xứ Mỹ.

Thời gian trôi qua thật nhanh, thấm thoát các con bà trưởng thành, đứa nào cũng học xong đại học. Ông Hai tìm được job dạy học. Hảo, Hương lấy chồng, Hiệp lấy vợ. Út Hải đang có cô bồ sắp làm đám cưới. Chỉ có Hạnh vẫn còn quấn quít với ông bà trong căn nhà ông bà mua lại sau này của bà chị nhờ vào tiền dành dụm và chi tiêu dè sẻn từ nhiều năm nay. Sáu đứa cháu nội và ngoại, các con bà đứa nào cũng ngoan và hiếu thảo là niềm hạnh phúc của ông bà trong tuổi già.

Đã sắp đến giờ chiếu phim, gia đình bà Hai đi sớm nên chiếm một dãy ghế dài và chỗ ngồi khá tốt trong rạp. Bà Hai ngồi cạnh Hạnh. Con nhỏ Hạnh nói ngồi gần Má để có gì làm thông ngôn cho Má. Nói thì nói vậy chứ xem phim ở rạp Mỹ, bà Hai thấy người Mỹ rất lịch sự. Họ không hút thuốc, nói năng nhỏ nhẹ hoặc yên lặng, không gây tiếng ồn, không nghe tiếng phone reo. Số người đi xem phim chiếm khoảng nửa rạp mặc dù là cuối tuần. Hạnh nói phim này là phim tài liệu ghi lại những ngày di tản ở Việt nam, đề tài là chiến tranh nên khô khan, không hấp dẫn nên số người xem không nhiều, đa số là người Việt. Người Mỹ hầu hết là các cặp Mỹ già. Biết đâu họ là những người cựu chiến binh, bốn mươi năm về trước đã từng tham chiến ở Việt nam. Cuốn phim ghi lại những ngày cuối cùng ở Việt nam thúc đẩy họ tò mò đến xem.

Phần quảng cáo khá lâu làm bà Hai sốt ruột. Bà chỉ biết bắt đầu vào phim chính khi thấy hình ảnh thành phố Sài Gòn và những người dân đang nhốn nháo tìm đường di tản. Bà không biết những nhân vật người Mỹ và người Việt đó là ai? Bà chỉ suy đoán họ là những "ông lớn", ông Tổng thống, ông ngoại trưởng, ông đại sứ, ông tướng, tá nào đó... Họ là các vị chỉ huy cao cấp người Mỹ và người Việt, những nhân vật có quyền quyết định vận mạng của đất nước bà trong thời chiến tranh. Họ là những nhân chứng của lịch sử kể lại những kinh nghiệm đau thương của họ vào những ngày di tản cuối cùng này.

Hình ảnh họ đứng trên bục và trên diễn đàn trong bàn hội nghị, họ đang nói gì trước dân chúng Mỹ ? Họ đang nói gì với nhân dân Việt nam và trên thế giới ? Bà không hiểu tiếng Mỹ. Nét mặt đăm chiêu, ánh mắt ưu tư, thái độ nghiêm trang của họ hoặc có người Mỹ rơm rớm nước mắt khi kể chuyện, bà chỉ suy đoán bằng cảm tính của mình. Họ đang buồn rầu ? Thất vọng ? Ân hận hay tiếc nuối gì trong cuộc chiến tranh và trong những ngày di tản ?

Bà chỉ hiểu nội dung cuốn phim qua những âm thanh. Tiếng bom đạn ầm ầm, tiếng súng nổ đì đùng, tiếng pháo kích rền trời, tiếng động cơ của máy bay cất cánh, tiếng nổ bùm bùm của chiếc trực thăng cháy trên trời, tiếng con nít khóc thảm thiết, tiếng kêu gào, la ó của những gia đình vợ chồng con cái lạc nhau...

Bà chỉ hiểu nội dung cuốn phim bằng những hình ảnh và cảm xúc của bà bị cuốn theo những hình ảnh ấy. Bà sợ hãi khi thấy cảnh Việt cộng bắt người bịt mặt dẫn đi, những chiếc poncho đen bọc xác chết, những mồ chôn tập thể khi Việt cộng tấn công và chiếm thành phố Huế. Bà thương xót khi thấy nét mặt phờ phạc, hốt hoảng, ngơ ngác của những đoàn người kéo những chiếc xe bằng gỗ chất đầy đồ đạc lê lết trên đường di tản. Bà đau lòng khi nhìn cảnh những người lính Việt nam buồn rầu cởi bỏ các bộ quân phục, ba lô, giày, nón vất bừa bãi. Có người chỉ mặc chiếc quần xà-lỏn đi lang thang thất thểu trên hè phố Sài gòn.

Bà xót xa khi nhìn những người Việt chen lấn, tìm cách leo qua dãy hàng rào kẽm gai trước cổng tòa đại sứ Mỹ. Xa xa là một dòng người nối đuôi nhau, họ chờ biết bao giờ mới leo lên chiếc trực thăng đậu trên sân thượng. Hồ bơi màu xanh trong tòa đại sứ đầy rẫy những người nằm, ngồi la liệt chung quanh. Họ hy vọng chờ được bốc đi nhưng rồi thất vọng, họ thiểu não xách đồ đạc trở về khi biết rằng những chiếc máy bay cuối cùng đã cất cánh.

Bà ứa nước mắt khi thấy những đoàn người di tản bằng đường biển. Có người leo lên được, ngồi xếp lớp như cá mòi trên khoang tàu. Có người sẩy tay rớt xuống biển trong khi mọi người ai cũng lo bám vào thành tàu và tìm cách leo cho bằng được lên boong tàu. Giờ phút này, có ai để ý đến ai. Có ai nghĩ đến cứu vớt người khác ngoài lo cái mạng sống của mình. Bà hồi hộp khi nhìn những chiếc trực thăng chở gia đình người di tản bay là đà gần chiếc hạm đội Mỹ đậu ở ngoài khơi. Họ xin cứu hộ. Người phi công là người cuối cùng nhảy xuống biển trước khi chiếc máy bay nổ tung trên bầu trời. Gia đình và người phi công được cứu sống. Bà vui mừng khi thấy những chiếc máy bay trực thăng đáp xuống chiếc hàng không mẫu hạm. Đoàn người di tản đã được tàu Mỹ vớt. Những người Mỹ và Việt hè nhau đẩy chiếc máy bay xuống biển lấy chỗ cho những người tị nạn ngồi la liệt trên khoang tàu. Và còn nhiều hình ảnh làm bà không cầm được nước mắt khi ai đó hạ chiếc cờ vàng ba sọc đỏ từ trên cao xuống thay bằng chiếc cờ Mỹ và bài hát quen thuộc "Này công dân ơi" cất lên trên chiếc tàu Mỹ.

Trong một vài giây ngắn ngủi, trên màn ảnh là một người đàn bà mặc áo tím, tóc búi ngắn, nhìn nghiêng có khuôn mặt xương xương, đôi mắt đăm đăm nhìn ra ngoài khung cửa sổ máy bay, nét mặt trầm tư. Bà Hai nhận ra đúng là mình. Trong khoảnh khắc liên tưởng, trong đầu bà bật lên một khuôn mặt khác : Vân. Người đàn bà mặc áo tím ấy cũng rất giống Vân. Nước mắt bà rơi nhòe cặp kính trắng.

Không còn gì nghi ngờ đây chính là bé Hảo mặc chiếc áo đầm trắng. Hảo đứng cạnh bà. Hình ảnh rất rõ của hai mẹ con có đôi mắt nhìn xa xôi lọt vào ống kính của người phóng viên. Bà nhận ra bốn đứa nhỏ. Đúng là cái mặt ngô ngố của thằng Hiệp ngồi trong cùng. Hiệp quay đầu nhìn vào máy quay phim đang chĩa vào mặt nó. Cạnh Hiệp là Hạnh ngồi sát vào lưng ghế. Út Hải ngồi cạnh Hạnh, đầu nép vào chị Hương. Hương ngồi ngoài cùng.

Hạnh ngồi gần bà Hai, áp sát vào tai bà :

- Đúng má phải không ? Má nhận ra tụi con không ?

Bà gật đầu. Vừa lúc ông Hai quay về phía bà ;
- Đúng là bà và mấy đứa nhỏ rồi.

Hiệp ngồi cạnh ông Hai cũng choàng người qua :

- Má chứ còn ai nữa. Cái mặt con hồi nhỏ ngố quá há má.

Hảo và Hương ngồi xa, nghiêng người nhìn bà, gật gật đầu.

- Đúng là cái mặt chị Hảo.
- Con nhận ra Má liền.

Gia đình bà đang xì xào về một cảnh trong phim tuy chỉ có vài giây đồng hồ ngắn ngủi nhưng là một mắt xích trong một giai đoạn lịch sử đau thương của miền Nam.

Trên đường về nhà, mấy cha con ông Hai bàn tán rôm rả về cuốn phim. Bà Hai nhìn ra ngoài trời tối đen. Một dãy đèn vàng chạy dài trên dòng freeway ngược chiều làm bà lóa mắt. Bà tựa đầu trên ghế, quay mặt về phía cửa kính, nhắm mắt lại. Hạnh nói Má mệt, thôi để Má ngủ. Bà không muốn cho các con thấy hai hàng nước mắt trào ra ướt đôi kính trắng đọng trên đôi má. Bà nhớ đến chiếc áo bà ba tím, chiếc áo màu tím của Vân.

Ngày đó, thư từ và tin tức từ Việt nam qua Mỹ của Vân và gia đình bà đều qua trung gian cô em gái ông Hai ở Pháp. Bà biết tin sau khi gia đình bà đi Mỹ, nhà bà bị xếp vào loại "theo chân đế quốc", và "Ngụy quân". Hai ông bà già tuổi gần đất xa trời thay vì đi kinh tế mới, "cách mạng khoan hồng" đẩy Vân và ông bà cụ lên tầng trên, nhường căn nhà mặt tiền cho một gia đình cán bộ tập kết vào ở. Ông cụ mất năm sau đó và hai năm sau bà cụ mất, Vân bị đuổi ra khỏi nhà. Căn nhà thuộc sở hữu của tên cán bộ. Cường bị kẹt sau ngày ba mươi tháng tư và bị bắt đi học tập cải tạo tại Nha Trang. Vân liên lạc được với Cường và hàng tháng Vân đi thăm nuôi Cường.

Lá thư Vân viết vào cuối tháng mười hai kể về chuyện Cường trốn trại gửi qua Pháp làm bà suy sụp tinh thần cả tháng trời. Trốn trại lần thứ nhất Cường và một người bạn bị bắt và bị biệt giam. Thời gian sau được thả ra, Cường trốn trại lần thứ hai và bị bắn chết trong rừng. Vân đem xác chồng về hỏa thiêu rồi thả tro xuống biển.

Bà nhận được lá thư cuối cùng của Vân gửi qua Pháp đề ngày tám tháng ba năm một chín bảy tám, trong thư Vân cho biết sẽ đi thăm "Út Hải". Tính đến nay đã ba mươi bảy năm rồi, bà không nhận tin tức gì về chuyến vượt biên củaVân, người em gái bất hạnh của bà.
***
Sáng Chủ nhật, hai mẹ con bà Hai vào tiệm vải trên đường Bolsa để tìm may áo dài cho dịp đám cưới Út Hải sắp tới.

Chọn xong chiếc áo nhung, bà Hai ngắm nghía mãi hai xấp vải lụa màu tím sim và màu tím hoa cà. Hạnh nhớ ra mẹ mình thích màu tím. Cô chọn và may cho mẹ chiếc áo bà ba màu tím sim vì màu này hợp với tuổi bà. Từ khi xem cuốn phim "The last days of Vietnam", hình ảnh mẹ cô mặc chiếc áo tím cùng với năm chị em ngồi trên máy bay trong ngày di tản, cái chết của chú Cường bị bắn trong rừng, dì Vân vượt biên mất tích và những hình ảnh về cuộc di tản và vượt biên của người Việt nam trong phim làm cho cô gái người Mỹ gốc Việt này băn khoăn, thao thức muốn tìm hiểu câu chuyện về những thuyền nhân Việt nam.

Cô đọc đâu đó có một người ký giả Tây phương đã dí dỏm khi ví von nếu cái cột đèn biết đi, nó cũng ra đi tìm tự do và để tránh chính sách khắc nghiệt của Cộng sản. Nhờ xem phim này, cô phân biệt được hai giai đoạn lịch sử, hai từ ngữ "di tản" và "vượt biên" một cách rõ ràng mà trước đây cô chỉ suy nghĩ một cách chung chung và mơ hồ. Gia đình cô là một trong hàng trăm ngàn người may mắn di tản an toàn bằng máy bay trước ngày ba mươi tháng tư. Nỗi gian khổ của gia đình cô trong những ngày đầu tiên lập nghiệp ở xứ Mỹ có thấm thía gì với những người vượt biên bằng đường biển và đường bộ. Không có thống kê, không có con số chính xác nhưng ước chừng có gần một triệu người, trong số đó cứ ba người bỏ nước ra đi, một người đến an toàn, một người bị bắt ở tù và một người chết.

Có lúc cô nhìn lên ảnh dì Vân trên bàn thờ và nghĩ đến cái chết của dì Vân. Dì chết trong trường hợp nào, ở đâu ? Vì đói, khát hay vì bệnh hoạn ? Dì chết chìm, bị bắn chết hoặc bị hải tặc hãm hiếp ? Dì chết trên bờ, ngoài bãi, trong rừng hay ngoài biển khơi ? Dì Vân của Hạnh chỉ là con số một nhỏ nhoi trong hàng trăm ngàn người mất tích này. Hàng trăm ngàn người may mắn đến bến bờ tự do được Cao ủy Liên Hiệp Quốc kêu gọi các nước như Phi, Mã Lai, Thái Lan, Sigapore, Hồng Kong, Úc, Tân Tây Lan... đón nhận họ. Các hòn đảo nơi đó có những trại tị nạn một thời trở thành những địa danh thấm máu và nước mắt, ghi sâu trong ký ức những người vượt biên như Sikew, Songkhla (Thái Lan), Galang (Nam Dương), Pulan Bidong (Mã Lai), Bataan, Palawan (Phi).

Hạnh nhớ có đọc đâu đó có người đặt cho các làn sóng vượt biên vĩ đại ở biển Đông kéo dài gần hai mươi năm của người Việt nam cái tên "Exodus". Exodus trong kinh Cựu Ước kể về cuộc ra đi kéo dài 40 năm của người Do Thái muốn thoát khỏi kiếp sống nô lệ ở Ai Cập. Exodus là tên chiếc tàu chở những người sống sót trong cuộc tàn sát người Do Thái đến hải cảng Haifa nhưng bị người Anh trục xuất. Những chuyến tàu vượt biên của người Việt nam sau này cũng như thế. Tàu của họ bị xua đuổi ra hải phận quốc tế trong tình trạng tan nát, thiếu nước, thiếu lương thực, thuốc men. Những người vượt biên đa số là phụ nữ và trẻ em nằm ngoắc ngoải chờ chết mặc dù họ đến được bến bờ tự do.

Vào thời điểm đó, Cao ủy Liên hiệp Quốc đã mệt mỏi vì chương trình tị nạn kéo dài, một phần vì sự ra đi liên tục, ồ ạt của những thuyền nhân càng ngày càng nhiều và các trại tị nạn trở thành gánh nặng cho các nước láng giềng, họ đề ra chính sách thanh lọc các thành phần ra đi theo diện chính trị hoặc kinh tế để làm nản lòng và hạn chế số người vượt biên. Nhiều thuyền nhân bị từ chối định cư ở nước thứ ba vì không hội đủ quy chế tị nạn. Trại tị nạn cấm Whitehead ở Hongkong đã xảy ra các vụ biểu tình, treo cổ tự tử, tự thiêu để phản đối, gây tiếng vang và sự phẫn nộ trong dư luận quốc tế. Họ thoát khỏi sự nguy hiểm của sóng to gió lớn ngoài biển khơi nhưng một lần nữa họ chết trong sự lênh đênh, tuyệt vọng trên bến bờ tự do.

Thỉnh thoảng Hạnh vẫn nghe ông bà Hai nhắc đến các từ "học tập cải tạo". Bốn mươi năm về trước, ông Hai đã quyết định dứt khoát phải ra đi trong tiếng khóc sụt sùi của bà Hai. Ông biết rõ nếu ở lại Việt nam, ông sẽ là một trong hàng triệu người bị Cộng sản đầy ải. Nếu không chết trong các trại tù tập trung này, ông cũng chết trong rừng như Cường hay ngoài biển như Vân.

Hạnh muốn cám ơn những người làm phim giúp cho Hạnh và những người trẻ lớn lên ở xứ Mỹ hiểu và chia sẻ lịch sử bi thảm của đất nước, dân tộc Việt nam trong cuộc di tản trước ngày ba mươi tháng tư và cuộc vượt biên kéo dài gần hai mươi năm. Những người làm phim đã nêu lên tình cảm tốt đẹp của những người lính Mỹ, những nhân viên tòa đại sứ khi họ không tuân lệnh cấp trên tìm cách giúp những người Việt nam như gia đình ông Hai di tản.

Hạnh nghĩ có một hôm nào đó Hạnh sẽ đến ngồi gần Ba nói lời cám ơn Ba ngày đó Ba đã sáng suốt, dứt khoát ra đi để chị em Hạnh có được một tương lai tốt đẹp ở một đất nước tự do như xứ Mỹ. Hạnh muốn cám ơn đất nước Mỹ đã cưu mang gia đình Hạnh trong những ngày đầu tiên bơ vơ nơi xứ người. Ba má Hạnh, dì Vân, chú Cường, thế hệ thứ nhất đã hy sinh quá nhiều cho thế hệ các chị em Hạnh. Giờ đây, thế hệ này đã cắm những gốc rễ vững chãi tại quê hương thứ hai này để cho thế hệ thứ ba nở những hoa thơm trái ngọt.

Thỉnh thoảng Hạnh thấy mẹ mặc chiếc áo tím đứng thắp nhang trước bàn thờ có di ảnh của dì Vân. Trước đây, tấm ảnh để thờ là tấm ảnh đen trắng dì Vân chụp hồi còn trẻ được phóng lớn đặt bên cạnh ảnh chú Cường và ông bà ngoại. Chiều nay, Hạnh mang về tấm ảnh màu. Người thợ hình đã tô vẽ và làm mới lại. Có một chút màu sắc, ảnh dì Vân trông đẹp hẳn lên. Hạnh ngắm nghía mãi tấm ảnh. Hai chị em giống nhau như khuôn đúc. Có lúc Hạnh bàng hoàng cứ ngỡ đó là bà Hai hồi còn trẻ.

Điểm đặc biệt của tấm hình này là chiếc áo màu tím hoa cà. Theo lời yêu cầu của Hạnh, người thợ hình đã tô vẽ màu tím hoa cà trên chiếc áo bà ba trắng của Vân. Tấm ảnh đã có màu sắc mới, màu tím của chiếc áo ngày xưa, màu tím mà bà Hai và Vân đều thích khi còn trẻ. Chiếc áo bà ba màu tím ấy chỉ xuất hiện một lần trong cuốn phim "Những ngày cuối cùng ở Việt nam" nhưng trong tâm tư bà Hai và đứa con gái út hiểu người Mẹ nhất trong nhà, chiếc áo bà ba tím mãi mãi là một kỷ niệm buồn về một người thân không bao giờ gặp lại ./.


Phùng Annie Kim

Áo Bà Ba Tím - Viết Về Nước Mỹ - Việt Báo Viết Về Nước Mỹ (vietbao.com)