Wednesday, November 29, 2023

Chân Dung Người Vợ Lính VNCH - Phạm Bá Hoa


Kính thưa quí vị,

Trong cuộc sống, sự thành công hay thất bại nào cũng có cái giá của nó. Trong chiến tranh cũng vậy, cái giá của những chiến tích lừng danh mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) phải trả, là những đồng đội đã hi sinh, những đồng đội khác đã để lại một phần thân thể trên khắp miền đất nước, và hệ lụy dài lâu là những đứa trẻ vĩnh viễn xa cha, những người vợ vĩnh viễn xa chồng! Người quân nhân hi sinh vì tổ quốc, là sự hi sinh cao cả mà tổ quốc mãi mãi ghi công. Nhưng, hình ảnh người quả phụ, với một nửa tâm hồn, một nửa con tim, một nửa phần hơi thở, theo chồng lên đài tổ quốc ghi công, và những nửa còn lại có trách nhiệm trang bị cho các con một hành trang vào đời, phải được thừa nhận là sự hi sinh không kém phần cao cả như người chồng dũng cảm nơi chiến trường, rất xứng đáng được chúng ta kính trọng.

Cũng trong chiến tranh, chồng ở chiến trường, vợ ở nhà quán xuyến công việc gia đình mà công việc gia đình nhiều đến nỗi có những việc chưa kịp đặt tên, nhưng tất cả đều là việc. Chăm sóc các con, chăm sóc tình thân gia đình quyến thuộc, chăm sóc tình bạn bè bằng hữu. Để rồi, những giờ phút yên tỉnh về đêm khi các con chìm trong giấc ngủ, mơ màng nghĩ đến chồng nơi chốn xa xôi, hay đang trong chiến trường khốc liệt, với bao khắc khoải lo âu, sầu muộn!

Rồi chiến tranh chấm dứt trong nỗi nghẹn ngào uất hận, bởi đây là cuộc chiến mà cuối cùng “bị chấm dứt để thua trận”! Sau lời tuyên bố của vị Tổng Thống cuối cùng, hàng trăm ngàn đồng bào, quân nhân, viên chức, cán bộ, bỏ của chạy lấy người, tị nạn trên đất Mỹ. Với những thành phần tương tự như vậy gồm 222.809 người, lũ lượt bị lừa vào 200 trại tập trung trên khắp miền đất nước. Người 5 năm, 10 năm, 15 năm, thậm chí 17 năm ròng rã, do lòng thù hận tột cùng của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Hằng trăm ngàn gia đình di tản ra ngoại quốc, cũng như hằng chục triệu gia đình còn lại trên quê hương, tất cả đều hụt hẫng. Hụt hẫng vì cuộc sống trên đất người với biết bao xa lạ trong một xã hội kỹ nghệ mà bước đầu chưa thể hội nhập. Hụt hẫng vì phút chốc, từ chế độ tự do bị đẩy vào chế độ độc tài trên toàn cõi Việt Nam!

Cảnh đời thứ nhất. Trong cuộc đời tị nạn, vợ chồng con cháu có cơ hội bên nhau, cùng chia xẻ khổ đau, cùng gánh vác nhọc nhằn, cùng nhận chung nỗi nhục! Nỗi nhục phải rời khỏi quê hương trong thân phận lưu vong! Với những bà vợ chúng ta, vốn sinh ra và trưởng thành trong xã hội nông nghiệp, nay phải cùng chồng từng bước hội nhập vào xã hội kỹ nghệ nơi định cư, đã phải đêm đêm đếm bước từ bến xe công cộng về nhà trong màn tuyết lạnh sau những giờ nhọc nhằn nơi hãng xưởng. Lạnh đến nỗi không biết giọt nước lăn trên má là nước mắt, hay mảnh tuyết vừa tan!

Cảnh đời thứ hai. Trong xã hội mà kẻ thắng trận đầy lòng thù hận, thì gia đình ly tán, sự sống bị bóp nghẹt đến tận cùng của khổ đau, của nước mắt bởi chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng! Cái chế độ mà những người lãnh đạo luôn miệng huênh hoang là “dân chủ gấp trăm lần dân chủ tư bản”, lại bắt mọi người phải sống trong nỗi sợ hãi triền miên với những đôi mắt rình rập quanh năm suốt tháng!

Cảnh đời thứ ba. Riêng với những bà vợ ở lại mà chồng đã vào tù, còn tệ hơn nhiều so với hai cảnh đời nói trên. Hằng ngày phải đối phó với bọn cầm quyền địa phương, cái bọn mà đầu óc toàn đất sét và rác rưởi, chỉ biết đàn áp để cướp đoạt. Đồng thời phải chăm lo cuộc sống các con từng ngày, lo nuôi chồng từng tháng!

Những bà vợ chúng ta, hải ngoại hay trong nước, thật sự là Những Người Đàn Bà Việt Nam rất can đảm khi phải chịu đựng và vượt qua nỗi đau nỗi nhục đó! Đau đến nỗi không còn nước mắt để khóc, nhục đến nỗi chẳng còn lời để than! Nếu đem so sánh giữa hai cảnh đời trong nước với ngoài nước, thử hỏi: “Ai đau hơn ai và ai nhục hơn ai?” Với tôi, không ai đau hơn ai, cũng không ai nhục hơn ai! Vì nỗi đau nào cũng có cái đau riêng của nó, nỗi nhục nào cũng có cái nhục riêng của nó! Xin những ông chồng diểm phúc, hãy nhìn lại đôi nét về hình ảnh Những Bà Vợ Chúng Ta trong cuộc sống khổ đau thầm lặng đó, mà người viết được những bà vợ trong cuộc kể lại:

Một cảnh đau thương. Một bà vợ cùng con cầm giấy phép “gánh gạo” nuôi chồng trên đất Bắc. Ba ngày đi, ba ngày về, 2 tiếng đồng hồ gặp gở! Khi trở về cư xá Bắc Hải, nhà bị niêm phong với dòng chữ “nhà vắng chủ”. Đau đớn biết bao! Xót xa biết dường nào! Bỗng dưng nhà bị mất! Bà gục đầu vào cửa! Bà cùng gia đình định cư tại Houston, Texas từ tháng 4 năm 1991.

Một cảnh đau thương khác. Một bà vợ đã bao nhiêu lần bị công an Phường ra lệnh đi khu kinh tế mới, nhưng bà vẫn không đi. Chúng hành hạ bằng cách gọi bà đến văn phòng, bảo ngồi đó từ đầu giờ đến cuối giờ, ngày nào cũng vậy, và ròng rã 6 tháng như vậy. Một hôm, chúng bảo đưa giấy tờ nhà để giải quyết. Khi chụp được hồ sơ, lập tức tên công an ra lệnh trong vòng 24 tiếng đồng hồ bà phải ra khỏi nhà. “Ôi! Còn nỗi đau nào cao hơn nỗi đau này trong cảnh đời thua trận!” Bà xiêu vẹo trên đường về nhà cách đó mấy dãy nhà liên kế cũng trong cư xá Bắc Hải, và gục ngã ngay trước nhà! Bà cùng gia đình định cư vùng bắc California từ năm 1993, nhưng chồng đã qua đời vào năm 2003.

Một cảnh đau thương khác nữa. Một bà vợ có chồng bị giam trên đất Bắc hằng chục năm trời, bỗng dưng mất liên lạc. Bà lặn lội khắp các cơ quan tại Sài Gòn, Hà Nội, tốn kém, mệt nhọc, nhưng hoàn toàn bặt tin. Nỗi buồn đến với bà quá sức chịu đựng của người phụ nữ tuổi 50, mà có lúc bà cảm thấy như mình đang bên bờ vực thẳm, rồi ngã dần xuống…… Bà bị tai biến mạch máu não, nằm bất động một chỗ. Nhiều tháng sau đó, bất ngờ, người nhà của bà nhận được giấy cho phép bà thăm chồng. Trại tù chỉ cách nhà vỏn vẹn 1 cây số (khám Chí Hòa). Bạn bè khiêng bà đến nhà tù. Cả hai “chồng đứng đó vợ liệt toàn thân”, chỉ biết nhìn nhau, òa khóc…! Khóc cho mình! Khóc cho cuộc đời! Phải chăng, mọi khổ đau trên cõi đời này đang bao quanh hai con người đau khổ đó? Không. Không chỉ có vậy. Mà là tất cả những bà vợ có chồng bị cộng sản giam giữ trong tù, tiêu biểu qua 3 cảnh đời trên đây trong hàng vạn cảnh đời trên đất nước Việt Nam, đều trong nỗi khổ tột cùng đó! Tình trạng bại liệt đó theo Bà cùng chồng định cư tại Houston, nhưng rồi Bà đã từ trần năm 2004!

Sài Gòn-Hà Nội 1.736 cây số, xe lửa tốc hành chạy 72 tiếng đồng hồ, tức 3 ngày 3 đêm. Mỗi người chỉ được mang theo 20 kí lô lên xe lửa, mang nhiều hơn số đó phải hối lộ cho một loạt nhân viên từ cổng vào cho đến nhân viên trên xe lửa. Hành lý ngổn ngang cả trên lối đi giữa toa xe. Ban ngày cũng phải lách từng bước chân vào chỗ trống. Còn ban đêm, thật khó mà tưởng tượng! Hai băng ngồi đối diện, một băng 3 người. Hai băng phía bên kia lối đi, mỗi băng 2 người ngồi. Hai đầu trên của hai băng 6 người, máng được 3 cái võng cho 3 người, 1 người nằm co quắp trên sàn xe đen đúa nhầy nhụa giữa 2 băng đối diện, và 2 người còn lại cũng nằm co quắp trên 2 băng ngồi. Nếu nhìn toàn cảnh của toa xe sẽ thấy, băng ngồi đầy người nằm, những chiếc võng bé xíu che kín trên đầu băng, cả lối đi vốn dĩ đã nhỏ hẹp cũng đầy người nằm chen lẫn trong đống hành lý thật hổn độn. Những bà vợ thăm chồng, mang theo hằng trăm kí lô, biết bao là nhọc nhằn gian khổ!

Giả thử, nếu những ông chồng chứng kiến những hành khách nằm cong queo trong cái gọi là chiếc võng kia, hay co quắp giữa những gói quà đầy ấp tình thương trên sàn xe nhớp nhúa đó, là những bà vợ của mình, liệu có cầm được nước mắt không? Nghe nói lại, nghe thuật lại, ông chồng nào cũng đớn đau thương cảm cho tình cảnh những bà vợ quanh năm gánh gạo nuôi chồng! Nhưng không có đớn đau thương cảm nào có thể đem cân bằng nỗi đớn đau thương cảm của những bà vợ trọn tình vẹn nghĩa như vậy được cả!

Tôi hình dung những bà vợ chúng ta qua hình ảnh trên đây mà chính tôi trông thấy khi tôi ra trại tập trung cùng với 90 “bạn đồng tù”, từ Nam Định về Sài Gòn bằng xe lửa đúng 72 tiếng đồng hồ hồi tháng 9 năm 1987.

Trên đây là một cố gắng dựng lại hình ảnh “Những Bà Vợ Chúng Ta”, nếu không rõ nét thì ít ra cũng là những nét chính của hình ảnh ấy, qua sự kết nối bốn hợp phần sau đây:

Hai hợp phần trong chiến tranh, là những bà vợ mà chồng đã hy sinh, và những bà vợ mà chồng đang chiến đấu.

Hai hợp phần sau chiến tranh, là những bà vợ cùng chồng con di tản ngoại quốc, và những bà vợ ở lại Việt Nam, vừa nuôi con trong một xã hội đầy hận thù và kỳ thị, vừa nuôi chồng trong những trại tập trung nghiệt ngã!

Những cảnh đời bi thương, những khổ đau sầu muộn, những nước mắt, mồ hôi, được khơi lên từ những góc cạnh li ti trong hằng vạn hằng vạn cảnh đời như vậy, mà Những Bà Vợ Chúng Ta đã chịu đựng trong những năm dài thật dài!

Quyển “Chân Trời Dâu Bể” của Giao Chỉ, kể chuyện trên đất Mỹ, và quyển “Giữa Dòng Nghịch Lũ” của Duy Năng, kể chuyện trên quê hương Việt Nam. Hai tác phẩm này trong một mức độ nào đó, có thể xem là tiêu biểu cho rất nhiều tác phẩm dưới dạng chuyện kể thật bình thường, nhưng ôm ấp biết bao xót xa thương cảm cho thân phận người phụ nữ Việt Nam sau ngày thua trận, dù sống trong hai xã hội cách nhau nửa vòng trái đất. Với tác phẩm của Duy Năng, người kể chuyện là bà Hàng Phụng Hà. Bà là một trong số hằng trăm ngàn bà vợ thăm nuôi chồng trong tù. Ở phần kết, bà nói: 

“… Các anh trong tù, khổ về vật chất và đau về tinh thần đến vạn lần, điều đó chúng tôi biết. Nhưng, chúng tôi -những bà vợ của các anh- đau khổ gấp ngàn cái vạn lần của các anh nữa, các anh có biết không? Tôi không đề cao một bà vợ nào, mà tôi đề cao tất cả những bà vợ thăm nuôi chồng trong các trại tù cải tạo. Bởi vì: Họ, đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ Miền Nam. Họ, rất xứng đáng được các anh kính trọng. Và Họ, chính là Vợ của các Anh”.

Vì vậy mà một số bạn đồng tù chúng tôi trong trại tập trung, đã không quá lời khi nói với nhau rằng: “Ra tù, chúng ta phải cõng vợ chúng ta đi vòng quanh trái đất, để đền bù đôi chút về sức chịu đựng biết bao nhọc nhằn gian khổ đã nuôi các con và nuôi chúng mình”.

Bây giờ nhìn lại, trong một ý nghĩa nào đó, những cựu tù nhân chính trị chúng ta, đã cõng vợ đi được nửa vòng trái đất rồi. Đến ngày Việt Nam thật sự tự do dân chủ, chúng ta sẽ cõng vợ trở về quê hương là trọn vòng trái đất như đã tự hứa, phải không quí vị?

Với nét chân dung đó, tôi quả quyết rằng, Những Bà Vợ Chúng Ta rất xứng đáng được vinh danh. Và nếu quí đồng đội và quí vị đồng hương đồng ý với tôi, chúng ta cùng nói to lên rằng: “Chúng ta cùng vinh danh Những Bà Vợ Chúng Ta là những người đàn bà cao cả, rất xứng đáng được kính trọng. Bởi, trong hoàn cảnh nghiệt ngã của chế độ độc tài cộng sản, nhưng đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ Miền Nam, cùng lúc, chu toàn thiên chức làm Mẹ, và tròn bổn phận làm Con”.

Vinh danh bằng những tiếng nói ân tình bên tai vợ, trao tặng vợ một bông hồng thật đẹp, hôn vợ những nụ hôn thật dài. Điều đó luôn nhắc nhở người chồng trong cuộc sống thường ngày, phải thể hiện lòng hiểu biết vợ mình nhiều hơn, cảm thông vợ mình nhiều hơn, rồi quàng tay vào lưng vợ mình chặt hơn, để cùng nhau đi suốt chiều dài còn lại trong cuộc sống lứa đôi thật mặn nồng, như chưa bao giờ mặn nồng đến như vậy. Trường hợp vì lý do gì đó mà bạn đang sống một mình, xin bạn hãy gắn bông hồng màu đỏ lên nơi nào mà khi nằm nghỉ bạn đều trông thấy, để trao tặng vợ khi đoàn tụ bên nhau. Hoặc sự trông thấy đó, sẽ giúp bạn có được những giây phút sống lại những năm tháng mặn nồng trong tình yêu vợ chồng thuở chung chăn chung gối, thuở mà hai người dùng chung một tên.

 
Phạm Bá Hoa

Ngon Sao Bánh Hỏi Thịt Quay






 

Người Mỹ Tho chuyển

Tuesday, November 28, 2023

Tiếng Vĩ Cầm - Tạ Quang Khôi


Tôi trở về thăm quê hương sau ngót nửa thế kỷ xa cách. Quê tôi là một tỉnh lỵ nhỏ phía Nam Hà nội, có trường thi Hương cuối cùng của Nho học ở Bắc Hà. Mục đích chính kỳ trở về này là thăm bà chị ruột và ông anh rể đã trên dưới tám mươi. Cả hai chị em đều lớn tuổi, khó mà biết được ai sẽ "ra đi" trước, nên tôi sợ nếu không về bây giờ, sẽ không có dịp nào nữa. Ngoài mục đích đó, tôi cũng muốn gặp lại một số bạn bè thân từ thuở còn thơ ấu mà chúng tôi phải chia tay kể từ khi cuộc chiến tranh Việt Pháp bùng nổ vào tháng 12 năm 1946.

Mục đích phụ của tôi không đạt được trọn vẹn. Bạn bè tan tác mỗi người một phương trời, kẻ còn người mất. Những ai còn, phần lớn không trở về sinh sống tại quê nhà sau khi hòa bình được tái lập. Lác đác chỉ còn một vài người quen cũ, không thân thiết, ở đâu đó trong cái tỉnh lỵ nhỏ bé này mà tôi chưa hỏi được địa chỉ hiện tại của ho. Cái khó là người nào cũng đã lớn tuổi, đều trên cái mức "cổ lai hy" nên rất ít xuất hiện ngoài đường phố, nếu không có việc thật cần thiết. Còn con cháu họ thì tôi không biết một ai. Suốt ngày quanh quẩn với gia đình và con cháu của bà chị, tôi cũng bắt đầu thấy buồn. Trong khi đó, ngày trở lại Saigon để lên máy bay về Mỹ còn xa.

 

Vào một buổi sáng, đang lang thang đi quanh những phố phường cũ chứa đầy kỷ niệm của thời thơ ấu, tôi tình cờ trông thấy một lão già tóc bạc phơ, dáng đi hơi khòm khòm. Nhưng sau những nét già nua của lão tôi nhận ra một gương mặt quen. Tôi nghĩ với tuổi của lão, có thể đó là một người bạn cũ lâu không gặp. Tôi đánh bạo bước đến bên lão, khẽ hỏi :"Xin lỗi..." Nhưng tôi chưa kịp nói thêm thì lão đã quay lại. Tôi nhận ra ngay người bạn thân năm xưa. Đó là Phong mà hồi trẻ, tụi bạn tinh nghịch và tôi thường gọi đùa là "Phong violon".


Phong nhìn tôi với một vẻ rất ngạc nhiên và hơi lúng túng. Tôi vội vã xưng tên và nói cả họ. Hắn nheo mắt nhìn tôi rồi chậm rãi hỏi :

"Về bao giờ ?"

"Mới về chưa được nửa tháng", tôi đáp .

Hắn hỏi thêm :

"Về ở luôn hay lại còn ra đi ?"

"Việc về ở luôn còn phải tính toán kỹ lại. Vì thế, hai tuần nữa tôi sẽ lại ra đi."

           Tôi nắm lấy hai bàn tay gầy guộc của người bạn cũ, nói sơ qua về tôi. Bấy giờ hắn mới tỏ ra vui vẻ một cách dè dặt, nói :

           "Hình như cậu còn bà chị ở đây."

           "Đúng. Chính vì thế, tôi về thăm bà ấy. Nào, bây giờ cậu cho tôi biết nhà để đến thăm cậu."


Hắn có vẻ miễn cưỡng khi cho tôi biết địa chỉ. Tôi liền đòi hắn đưa về nhà. Hắn nhìn tôi đăm đăm rồi nhận xét  :

           "Cậu vẫn như ngày xưa."

           Tôi bèn cãi :

           "Sao lại vẫn như ngày xưa được. Cậu không thấy tôi đã da mồi, tóc bạc sao ?"

           Phong lắc đầu :

           "Không, tôi không bảo cậu vẫn trẻ như ngày xưa. Nhưng tính cậu vẫn nóng nảy và độc đoán."      

           

Phong đưa tôi về nhà hắn. Đó là một căn nhà cũ kỹ, ọp ẹp, hai tầng ở Bên Đồng. Vào đầu thế kỷ 20, tỉnh lỵ này phát triển mạnh nên nhiều nơi đang là đồng ruộng biến thành phố xá. Dân trong tỉnh vẫn quen gọi khu mới này là Bên Đồng, dù đã có tên phố hẳn hoi. Cái địa danh "Bên Đồng" làm tôi nhớ đến bốn câu thơ của Cụ Tú Vị Xuyên. Đó là bốn câu thơ rất tình cảm, rất "hoài cổ", chả có một chút trào phúng nào :

                                   "Sông kia rày đã nên đồng,

                                   "Nơi làm nhà cửa, nơi trồng ngô khoai.

                                   "Đêm nghe tiếng ếch bên tai,

                                   "Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò."


Tôi thầm tự hỏi tại sao căn nhà này có thể tồn tại sau kỳ "tiêu thổ kháng chiến" vào cuối năm 1946 và đầu năm 1947 và kỳ bom Mỹ năm 1972 ?  Phong cho biết mới dọn về lại tỉnh lỵ này ngót ba năm. Sau cuộc chiến tranh Việt Pháp, hắn đi học lại và làm nghề dạy học ở một tỉnh miền trung du Bắc Việt. Hắn về hưu đã ngót mười năm, nhưng còn quanh quẩn ở nơi dạy học cũ. Khi tôi hỏi hắn tại sao không ở luôn trên đó thì hắn giữ im lặng, vẻ mặt bỗng trầm xuống. 

Tôi đoán hắn có một tâm sự buồn nên không hỏi thêm. Hắn loay hoay mở cửa cho tôi vào nhà. Phòng ngoài trống rỗng và tối om. Hắn đưa tôi vào phòng trong. Nhờ có cái sân lộ thiên, lót gạch Bát tràng vuông, to, căn phòng sáng sủa hơn. Phòng chỉ có một cái bàn và hai cái ghế gỗ. Trên bàn có một ấm tích nước và bốn cái chén trên một cái đĩa cổ. Tất cả đều cũ kỹ, nhưng rất sạch. Hắn cho biết nhà hắn chỉ có chè tươi, không có nước gì khác để đãi khách. Nếu tôi chịu, hắn sẽ xuống bếp đun nước để pha ấm chè mới. Gian bếp ở trong cùng, cách cái sân lộ thiên. Tôi gạt đi vì không muốn làm phiền hắn, dù tôi rất thích uống nước chè tươi nóng. Vì nhà trống trơn, không có đồ đạc gì ngoài cái bàn nước và hai cái ghế, tôi đoán hắn ở một mình, nhưng lại thắc mắc về vợ con hắn nên hỏi :

           "Bà xã và các cháu không ở đây với cậu ?"

           Hắn cười buồn, đáp :

           "Mình chưa hề có gia đình bao giờ."

Tôi ngẩn người, đăm đăm nhìn hắn. Dĩ vãng của năm chục năm cũ bỗng trở về. 

Tôi nhớ khi còn trẻ, Phong có yêu một cô gái tên Nga. Hồi đó chúng tôi mới mười bảy, mười tám mà Nga còn kém chúng tôi ít ra ba, bốn tuổi. Nga ở bên kia đường, xế cửa hiệu buôn của bố mẹ tôi. Hàng ngày tôi vẫn thấy cô bé ngây thơ, nhí nhảnh chơi truyền, nhảy dây, chơi ô quan... với bạn gái cùng lứa. Tuy còn ít tuổi, Nga đã khá đẹp, được coi như đẹp nhất phố tôi. Người đẹp, dù còn nhỏ, cũng đã có nhiều cậu ngấp nghé, trong đó có Phong.

Hắn tìm cách làm quen với Nga mà chưa được, nhưng hỏi dò biết cô thích đàn vĩ cầm. Thế là hắn mua vĩ cầm về học. Bỗng thấy mất tăm hắn một thời gian khá lâu, mấy tên bạn và tôi mò đến nhà hắn. Thì ra hắn đóng cửa để ở nhà cố tập luyện đàn vĩ cầm.  Hắn suốt ngày ôm cây đàn đến nỗi cổ và cằm hắn xưng húp. Chúng tôi ngạc nhiên nhưng cũng phục sự quyết tâm của hắn. Từ đó hắn được chúng tôi đặt tên là "Phong violon". Rồi cho đến ngày chiến tranh bùng nổ, chúng tôi không rõ hắn có làm quen được với Nga không và đã trổ tài đàn cho cô bé thưởng thức chưa?  Chiến tranh làm chúng tôi xa cách nhau, mỗi người chạy một ngả. Mấy năm sau, khi chiến tranh lan rộng, tôi nghe tin Nga lấy chồng. Điều đáng buồn là chồng Nga không mang tên Phong. 

Dạo ấy, chúng tôi chỉ họa hoằn mới nghe tin tức của nhau, hầu như chả bao giờ được gặp nhau, vì sự liên lạc khó khăn và đường xá trắc trở. Những năm đầu kháng chiến, tôi đi theo một đơn vị bộ đội nên càng khó liên lạc với những người bạn cùng quê hương. Khi bỏ kháng chiến để trở về thành phố, nơi Pháp tạm chiếm, tôi ít có dịp trở lại quê cũ vì bận học ở Hà nội. Bạn bè thời thơ ấu hầu như chẳng có ai, đa số còn lạc lõng ngoài hậu phương. Khi có hiệp định Genève, hòa bình được tái lập, tôi vội vã di cư vào Nam. Bạn cũ nhiều người ở lại, do đó chúng tôi không có tin tức gì của nhau. Nhưng theo sự suy nghĩ thông thường thì tôi cho rằng bạn tôi, kể cả Phong, cũng sẽ có một cuộc sống như mọi người là tạo dựng một gia đình. Bây giờ, tôi mới biết Phong không nằm trong "sự thông thường" đó. Hắn sống độc thân suốt đời. Thì ra hắn đã yêu Nga đến độ không thể nghĩ đến người con gái nào khác.  

Tôi bảo hắn :

           "Mối tình cậu dành cho Nga là mối tình lớn, bất diệt. Có thể nói đó là mối tình rất hiếm có trên cái cõi đời luôn luôn thay đổi như chong chóng này."

Hắn lơ đãng nhìn ra ngoài sân, giữ im lặng. Rồi hắn bỗng đứng lên, ra hiệu cho tôi đi theo. Chúng tôi lên lầu. Đó là phòng ngủ của hắn. Trong phòng có một chiếc giường gỗ nhỏ và ngay cạnh giường là một bàn thờ, rất sơ sài. Một tấm hình lồng trong một cái khung gỗ đánh véc ni đặt trên một cái hộp và trước hình là một bát hương bằng sứ. Khi đến sát bàn thờ tôi nhận ra ngay hình Nga thuở mới  mười bốn, mười lăm.  Còn cái hộp là hộp đàn vĩ cầm. Vì bị bất ngờ, tôi sững sờ đến không thốt được nửa lời. Hắn cho biết Nga mất đã gần ba năm.  Sau cái chết của người tình trong mộng, hắn mới quyết định dọn về quê cũ.

Cây đàn bây giờ đã trở thành cây đàn thờ nên tôi biết tôi không có hy vọng được nghe hắn đàn, nhưng cứ hỏi :

"Lúc nào cậu có thể cho tôi thưởng thức tài nghệ của cậu ?"

Hắn cười :

"Cậu 'đao to búa lớn' quá. Thưởng thức tài nghệ ! Cậu làm như tôi là một đại danh cầm ấy. Cậu muốn nghe tôi đàn thì...tôi sẽ đàn cho cậu nghe, chỉ sợ lúc đó lại chê là...kéo nhị thôi."

Tôi mừng rỡ :

"Bao giờ ?  Ngay bây giờ có được không ?"

Lưỡng lự một vài giây, hắn hẹn :

"Một tuần nữa, cậu trở lại... Mỗi năm tôi chỉ đàn có một lần."


X                                                                                    

                                                                          

Tôi chờ đúng một tuần mới trở lại nhà Phong. Vì bà chị tôi đoán hôm ấy có thể là ngày giỗ của Nga, tôi đem theo hoa quả và một thẻ hương để cúng người đã khuất. Tôi phải đợi hơi lâu mới thấy Phong mở cửa. Hôm nay trông hắn có vẻ hơi khác la. Buồn bã, phờ phạc, ngơ ngác, như mất ng, như  trong cơn mộng mị. Hắn lặng lẽ mở cửa cho tôi, rồi đứng tránh sang một bên nhường lối cho tôi bước vào nhà. Rồi chúng tôi vào phòng trong sau khi hắn khép cửa và cài then cẩn thận. Tôi để đồ cúng lên bàn nước rồi nói vắn tắt :

           "Để cúng Nga !"

           "Sao cậu biết hôm nay là ngày giỗ Nga ?" Hắn ngạc nhiên hỏi.

Nhưng liền sau đó, không cần đợi tôi trả lời, hắn mang đồ cúng lên gác ngay. Tôi lên theo hắn. Bàn thờ Nga hôm nay hơi khác. Tấm ảnh của Nga không còn để trên hộp đàn nữa mà đặt trên một bệ gỗ phủ vải điều. Hai bên ảnh có hai cây nến đỏ chưa đốt. Cây đàn được dựng đứng cạnh cây nến bên tay phải. Bát hương có ba cây hương đang cháy. Hai bên có một đĩa gà luộc và một đĩa xôi đậu xanh. Hắn lấy thêm một đĩa lớn để bầy trái cây tôi mang tới. Có lẽ nhà không có bình nên hắn cắm hoa vào một cái ly thủy tinh. Nhờ bó hoa hồng, bàn thờ trở nên sáng sủa và trang nghiêm hơn. Nhìn bàn thờ có vẻ khác trước, hắn nói với một giọng vui vẻ, bằng lòng :

          "Ừ, cậu mua hoa khéo đấy...Năm ngoái, giỗ Nga, tôi chỉ đàn cho một mình Nga nghe thôi và định rằng cho đến ngày tôi chết, không ai được nghe tiếng đàn của tôi. Nhưng vì cậu không ở luôn đây và vài hôm nữa cậu lại ra đi, rồi chả bao giờ hai đứa mình có dịp gặp nhau, nên tôi đành chiều ý cậu."

 

Quả thật, tôi không tính trở về quê một lần nữa vì tuổi già, đi lại mệt mỏi, khó khăn. Bầy xong hoa và trái cây lên bàn thờ, hắn lại đưa tôi xuống dưới nhà. Lần này hắn mời tôi uống chè tươi nóng và ăn kẹo vừng. Chè tươi và kẹo vừng làm tôi nhớ lại những ngày thơ ấu xưa. Kẹo vừng, kẹo bột là món quà mà bọn "trẻ ranh" chúng tôi đều thích. Nơi chôn nhau cắt rốn của chúng tôi là một tỉnh lỵ quê mùa, nên quà bánh cũng đều là đặc sản mang phong vị quê hương. Sau này, khi sinh sống ở miền Nam, tôi ít có dịp được thưởng thức lại loại quà bánh đúng hương vị của thời thơ ấu. 

Đến quá trưa, tôi bắt đầu sốt ruột, không thấy Phong nhắc đến chuyện cúng giỗ. Nhưng vì lịch sự, tôi không dám hỏi han hoặc thúc giục, nghĩ rằng hắn phải có lý do  nên chưa bắt đầu. Chúng tôi uống hết một ấm chè tươi và ăn thêm đĩa kẹo vừng nữa. Tôi thực sự sốt ruột, lén nhìn đồng hồ tay nhiều lần. Khi thấy đã đúng 1 giờ, tôi toan lên tiếng thắc mắc thì Phong bỗng đứng lên, nói :

"Nào, mình lên cúng !"

Rồi hắn giải thích về sự chậm trễ :

"Nga mất lúc 1 giờ 7 phút."

Tôi lẳng lặng đi theo hắn. Đứng trước bàn thờ Nga, hắn có một vẻ nghiêm trang khác thường. Hắn thay một tuần hương khác và đốt nến. Ánh nến chập chờn trước ảnh Nga làm nàng như ẩn như hiện. Cái vẻ ngây thơ, nhí nhảnh dưới ánh nến lung linh trông càng quyến rũ hơn. Phong đứng thẳng người, chắp hai tay trước mặt, lẩm nhẩm khấn. Tôi đứng sau hắn, cách một khoảng ngắn, chắp tay trước ngực, nói nhỏ chỉ đủ tôi nghe :"Cô Nga, xin Cô về chứng giám cho mối tình chuyên nhất của Phong. Mối tình thầm lặng này không biết khi sống Cô có rõ không ?  Nhưng tôi tin rằng ở trên cõi đời này chỉ có Phong là người chung thủy như vậy...

Tôi chưa khấn xong thì đã nghe tiếng đàn của Phong. Tiếng đàn thoạt tiên nhẹ nhàng, dìu dặt, dần dần trở nên réo rắt, dồn dập. Tôi cảm thấy như có một luồng sóng âm thanh tràn vào đầy ắp tâm hồn tôi. Rồi luồng sóng đó như có sức mạnh xô đẩy tôi rơi vào một khoảng mơ hồ, mộng ảo, dẫn tôi lạc tới một thời điểm rất xa xôi trong dĩ vãng. Tôi bỗng thấy Nga mặc áo dài nâu nhạt. Cô bé ít khi mặc áo dài, trừ hai trường hợp  :  đi học và đi lễ chùa với mẹ, bà Phán Định. Thường thường cô mặc áo ngắn để dễ chạy nhảy, vui đùa với bạn. Hôm ấy cô đi chùa. Màu nâu làm nổi bật nước da trắng hồng. Cô khoan thai đi bên cạnh mẹ. Bà Phán mặc áo dài màu đậm (tôi không nhớ rõ là màu gì). Bà cũng là một người đẹp của tỉnh tôi. Hai mẹ con đi thong thả trên hè phố, khiến nhiều người hai bên đường ngừng tay làm việc để nhìn theo, để trầm trồ khen ngợi. Quả thật mẹ cũng đẹp mà con cũng xinh.

Dòng nhạc bỗng thay đổi, như cuồn cuộn, như ríu rít. Tôi bỗng nhớ tới một cô Nga bé nhỏ, tinh nghịch và duyên dáng. Nga chơi đùa với bạn gái cùng trang lứa một cách hồn nhiên, cười nói cởi mở, như không biết mình có một nhan sắc quyến rũ khiến nhiều cậu trai mơ tưởng. Những cô gái biết mình xinh đẹp thường làm ra vẻ yểu điệu, e thẹn. Hay Nga không biết mình đẹp, không biết mình quyến rũ ?  Nhưng chính cái vẻ tự nhiên của Nga càng làm cô xinh đẹp hơn. Tôi chỉ biết Nga khi cô mới mười bốn mười lăm, rồi chiến tranh làm chúng tôi tan tác mỗi người mỗi ngả. Sau này, khi trở thành một thiếu nữ xinh đẹp trong thời chiến, cô có thay đổi, có trở nên kênh kiệu không ?  Tôi đoán rằng tính hồn nhiên, vẻ giản dị vẫn là nét duyên dáng đặc biệt nơi cô, không thể thay đổi.

Tiếng đàn bỗng tắt. Dòng nhạc đang cuồn cuộn bỗng tắt ngấm. Một khoảng trống im lặng bao trùm cảnh vật chung quanh. Nhưng tôi có cảm giác mình vẫn đang bềnh bồng trôi trên một dòng nước êm đềm của dĩ vãng. Tôi vẫn nhìn thấy nụ cười tươi tắn của Nga, vẫn trông thấy đôi mắt sáng và tinh nghịch của cô bé. Cái khoảng im lặng ngắn ngủi ấy bỗng bị phá vỡ bởi một dòng nhạc mới . Tôi nhìn Phong, thấy hắn quỳ trước bàn thờ Nga. Tiếng đàn như nức nở, như than khóc. Tôi nghĩ tới một đám tang. Có những tiếng gào khóc ai oán xen với những tiếng thút thít, nghẹn ngào. Trước mắt tôi, nhiều bóng người qua lại như những bóng ma, vây quanh một chiếc quan tài chưa đậy ván thiên. Tôi không lại gần nên không biết người nằm trong đó già hay trẻ. Tôi mơ hồ đoán rằng đây là đám tang của Nga. Chính vì vậy tôi không dám lại gần áo quan vì tôi muốn giữ mãi hình ảnh một cô Nga bé nhỏ, hồn nhiên. Lòng tôi nao nao buồn, thổn thức.

Tiếng vĩ cầm mỗi lúc một trầm xuống, ngân dài như một tiếng thở não nuột, như một tiếng rên khóc bi ai. Có lúc lại như những tiếng nấc đau đớn. Mắt tôi nóng ran và đẫm ướt. Hơi thở như  vướng lại trong lồng ngực, không sao thoát ra ngoài được. Lòng tôi thắt lại, tim tôi như ngừng đập. Đúng lúc đó một tiếng động lớn làm tôi giật mình. Tôi nhìn Phong thì thấy hắn đã nằm phục xuống sàn gác, cây đàn văng sang một bên, sát đầu hắn. Có thể khi cơn xúc động lên cao độ hắn buông rơi cây đàn. Hai vai hắn rung nhè nhẹ. Sự việc trước mắt làm tôi ngỡ ngàng. Tôi không ngờ hắn vẫn yêu Nga tha thiết như vậy, yêu đến khổ đau, đến dại khờ.

Không muốn phá rối hắn trong cơn xúc động mạnh, tôi nhẹ nhàng bước xuống nhà dưới. Trong đời, tôi đã chứng kiến nhiều đổi thay, từ ngoại cảnh đến nội tâm, nên vẫn tin rằng chẳng có gì tồn tại vĩnh viễn dưới ánh mặt trời. Nhưng hôm nay, niềm tin tưởng đó bị lung lay. Mối tình của Phong - một mối tình thầm lặng, đơn phương - không tàn phai theo năm tháng. Phong vẫn yêu, dù không được yêu lại. Tôi không rõ trước khi Nga lấy chồng, hắn đã tỏ tình chưa ?  Suốt quãng đời độc thân, lẻ loi, hắn vẫn ôm ấp hình ảnh một cô Nga bé nhỏ ngày nào. Tình yêu như thế có lẽ chỉ có một trên cõi đời vô thường này.

      

                                                                           

TẠ QUANG KHÔI  (10-2000)

Mẹ Tôi Bỏ Thế Gian Này - Đỗ Công Luận

Lòng Tự Tôn


Chồng tôi dạy học tại một trường cấp 3, gia đình chúng tôi sống ngay trong khuôn viên trường.

Hôm đó, một học sinh đến nhà, đi cùng là một người đàn ông trung niên. Nhìn qua, tôi đoán chắc đó là bố của cô học sinh đó.

Tôi mời họ vào nhà. Hai bố con dè dặt ngồi xuống ghế. Họ đến không có việc gì, chỉ là người bố đạp xe hơn 40km đến trường thăm cô con gái đang học trung học phổ thông.

“Tiện ra thăm cháu nên chúng tôi ghé qua thăm thầy giáo”, ông bố nói. “Chúng tôi ở quê không có gì, chỉ có hơn chục quả trứng gà, gà nhà mới đẻ”. Nói đoạn, ông gỡ chiếc túi vải đang đeo trên vai xuống.

Số trứng được giữ cẩn thận trong chiếc túi đựng đầy vỏ trấu, nhìn thoáng qua cũng biết ông đã gói, bọc rất cẩn thận vì sợ trứng bị va đập vào nhau mà vỡ.

Trước tình huống ấy, tôi đề nghị hai bố con ở lại cùng làm bánh xèo ăn. Không ngờ, nét mặt hai người tỏ vẻ căng thẳng, nhất mực từ chối.

Chỉ đến khi tôi mượn vai vế là vợ của Thầy giáo để giữ chân, họ mới chịu ở lại. Khi cùng ăn, hai bố con tỏ ra khá rụt dè nhưng tôi cảm nhận được rằng họ rất vui. Tiễn cô học trò và vị phụ huynh đó về, nét mặt chồng tôi như có biểu hiện lạ lùng.

Anh lấy làm ngạc nhiên vì từ trước đến nay, tôi luôn từ chối mọi món quà được đem đến, không hiểu vì sao lần này lại vì hơn chục quả trứng gà mà phá vỡ quy định ngầm của mình? Thậm chí còn mời hai bố con cô học trò ở lại ăn bánh xèo?

Nhìn ánh mắt đầy băn khoăn của chồng, tôi cười và kể lại cho anh nghe một việc mà mình đã trải qua cách đây 20 năm. Và từ sự việc đó, tôi biết rằng… có những thứ bị coi là cỏ rác nhưng với một ai đó, nó lại là thứ vô cùng quý giá…

Vào một ngày hè khi tôi mới 10 tuổi, bố tôi muốn gọi một cuộc điện thoại cho chú tôi khi đó đang ở xa. Trời tối, tôi theo sau bố, bước thấp bước cao trong bóng đêm, vượt qua 5km để đến bưu điện của thị trấn.

Trên vai tôi khi đó đeo một cái túi vải lớn, bên trong đựng 7 củ khoai mật vừa mới đào từ trong vườn nhà. Đó là những củ khoai mà bố tôi đã ra công vun trồng…

Những củ khoai mật rất ngon đó, bố tôi cất công xin giống rất xa, chăm bón kỹ lưỡng, trồng đi trồng lại nhiều lần, mới cho củ và đó là năm đầu tiên kết quả, vỏn vẹn chỉ được 7 củ. Bố tôi ngày nào cũng chăm bón, mong cây ra củ từng ngày. Thế nhưng tối đó, toàn bộ củ khoai thu hoạch được lại gói mang đi. Cô em tôi buồn phát khóc, bị bố quát lớn: “Số khoai này mang đi để làm việc”.

Nhưng bưu điện đã hết giờ làm tự bao giờ. Quản lý điện thoại là một người họ hàng xa với nhà tôi, bố bảo tôi gọi là cô.

Đến nhà cô đó, cả nhà họ đang ăn tối. Bố tôi trình bày lý do, cô chỉ “ừ” một tiếng, chẳng có thêm động thái gì.

Tôi và bố đứng ngoài cổng đợi, cho đến khi cô ăn xong cơm, xỉa xong răng mới ló mặt ra nói: “Đưa số điện thoại cho tôi rồi đợi ở đây. Tôi đi gọi xem có gọi được hay không.”

Thái độ lạnh lùng của cô đó thực sự đã gây sốc cho tôi rất nhiều. 5 phút sau, cô quay lại nói: “Gọi được rồi, cũng nói rõ mọi chuyện rồi, phí gọi điện thoại là 9,5 xu.”

Bố tôi vội lục túi quần tìm tiền và giục tôi mau bỏ khoai ra. Không ngờ, cô chỉ tay, nói: “Không, không cần! Nhà tôi thứ này không thiếu, hai người vào chuồng lợn mà xem, lợn ăn cũng không hết!”

Trở về nhà, tôi theo sau bố, ôm túi khoai mật khóc dọc đường. Chỉ vì chúng tôi nghèo mà tình nghĩa họ hàng cũng nhạt. Chỉ vì nghèo, chúng tôi dường như chẳng có một chút tự tôn nào trong mắt người khác.

Trong suốt quá trình trưởng thành của tôi sau này, cái chỉ tay của bà cô kia đã đeo bám, hằn sâu trong lòng tôi. Nó chẳng khác nào một cái roi mềm luôn quất mạnh vào tâm hồn tôi vậy.

Tôi không bao giờ lặp lại động tác như cô họ tôi đã làm – động tác đã đổ một lớp mực đen, hằn sâu trong ký ức của một đứa bé. Và tôi tin rằng, những chiếc bánh xèo hôm nay sẽ lưu lại một ký ức gột không phai trong tâm trí cô học sinh bé nhỏ.

Và tôi cũng tin, sức mạnh của trái tim biết yêu thương luôn lớn hơn sức mạnh của sự tổn thương gây ra cho người khác.

Người nghèo nhưng chí không ngắn, người nghèo họ cũng có lòng tự tôn.


Vạn Điều Hay ST

Mùa Đông Binh Sĩ - Hàn Thiên Lương


Chiều nay sương tuyết lạnh mùa đông

Gió thoảng rơi rơi những cánh hồng

Ngõ trước vườn sau cây trụi lá

Mưa buồn lất phất lệ chờ mong!

 

Nhớ thuở quê nhà mờ khói lửa

Mùa đông cao nguyên buồn mênh mông!

Áo trấn thủ dầy không đủ ấm

Lạnh người binh sĩ giữa đêm đông!

 

Mùa đông binh sĩ buồn hiu quạnh

Thấp thoảng làng quê bóng mẹ già

Ẩn hiện sương mù sao lấp lánh

Súng thù văng vẳng vọng xa xa!

 

Mấy nẻo cao nguyên đường đất đỏ

Sương lạnh mưa phùn nghẽn lối đi

Rét mướt xót đau lòng chiến sĩ

Thương về chinh phụ khóc từ ly!

 

Xưa đông chinh chiến nay viễn xứ

Đều nhuốm buồn đau tận đáy lòng

Thấm nỗi cô đơn sầu mấy độ

Mịt mờ  xa khuất …mãi chờ mong!

 

Hàn Thiên Lương

Monday, November 27, 2023

Hóa Chất

 
(Hình minh họa) 

1* Tôi đến thăm nhà một nông dân với mục đích xin một cành huệ trắng. Ông ấy hỏi:

- Cô xin làm gì mà chỉ xin một cành duy nhất?

Tôi trả lời:

- Để làm thuốc trị cao huyết áp theo như tài liệu đúc kết từ xưa mà các ông tổ thuốc Nam truyền lại.

Ông nông dân lắc đầu:

- Tôi có thể cho cô một hoặc hai, ba chục cành huệ trắng, nhưng là cho để cô cắm hoa vào bình, chưng dọn cho đẹp nhà cửa, chứ xin để làm thuốc thì tôi không cho.

- Làm thuốc cứu người thì được phước. tại sao anh không cho?

Ông nông dân thở dài ngao ngán:

- Bông huệ bây giờ độc lắm cô ơi! Không xịt thuốc sâu thì không có bông để bán. Bông đã xịt thuốc nhiều lần rồi thì tôi không dám cho cô dùng. Bông huệ bây giờ không làm thuốc được đâu cô.

 

2* Tôi ra chợ tìm mua một cây cúc vàng. Tài liệu đông y có nói hoa cúc trị được bệnh cao huyết áp và làm sáng mắt. Nhưng cẩn thận với chuyện cây huệ trắng, tôi hỏi cô gái con nhà nông, đội hoa đi bán rong:

- Hoa này có xịt thuốc không cô?

- Có chứ! Phải xịt thuốc ít nhất ba lần, cho tới lúc gần cắt bán thì bông mới còn nguyên, không bị sâu ăn.

- Thế thì tôi không dám mua, vì tôi mua để làm thuốc.

 

3* Đài VTV có một chương trình của ngành y. Trong đó, bác sĩ ca ngợi chuyện ăn các loại nấm rất có ích lợi cho sức khỏe. Cụ thể là: làm tăng sức đề kháng của cơ thể, làm tăng sự hấp thu của các loại thuốc nếu chúng ta bị một bệnh nào đó và phải uống thuốc.

- Đúng là bác sĩ nói chuyện hồi xưa. Thời 43 năm về trước, tài liệu y học nói thế là đúng. Nhưng bây giờ khác xưa rồi bác sĩ ơi. Bác sĩ đi thâm nhập thực tế sẽ thấy bây giờ người nông dân dùng thuốc có tên là "dưỡng nấm". Khoảng 5 giờ chiều ngày hôm trước, người ta xịt vào mô nấm với các nụ nấm to bằng đầu đủa. Khoảng 5 giờ sáng hôm sau, họ sẽ thu hoạch được cây nấm vừa cở bán, to bằng ngón chân cái hoặc to hơn. Thuốc này do " người hàng xóm" chế tạo và đưa vào Việt Nam để dân Việt đầu độc lẫn nhau. Do vậy mà người ăn chay cũng bị ung thư.

Sách y học ngày nay chắc chắn phải sửa lại rồi bác sĩ ơi: Ăn nấm không tăng sức đề kháng mà mau phát bệnh ung thư!

 

4* Một người quen là chủ vườn có trồng nhiều loại cây ăn trái, nói với tôi rằng:

-Từ lúc mận nở hoa đến khi hái trái, anh phải xịt thuốc 5 lần mới có trái nguyên để bán. Không riêng gì mận mà mít, mãng cầu và các loại trái cây khác cũng phải xịt như vậy. Hồi xưa, có bao giờ mình thấy trái chuối có giòi đâu? Bây giờ để chuối chín cây là chuối có giòi. Mít mà không xịt thuốc là mít thúi!

Tôi đi chợ, mua một trái mãng cầu chín cây. Xẻ ra, chỉ còn ăn được 1/3. Hai phần còn lại có giòi lúc nhúc. Tính ra là mua giá quá cao, nhưng lại được sự an tâm là không mua lầm trái cây xịt thuốc.

 

5* Ngành nông nghiệp Việt Nam bây giờ phải đối đầu với nhiều loại sâu rầy gây hại. Đặc biệt là các loại sâu rầy này chỉ phát triển nhiều khoảng hai chục năm nay thôi.  Con Covid 19 đã cho ta thấy họ phát triển con virus này rồi làm giàu bằng cách bán khẩu trang, bán máy thở, bán vaccin. Tương tự như thế, họ gây bệnh cho hoa màu, cây trái ở Việt Nam rồi tung qua hàng loạt thuốc chữa bệnh. Thuốc diệt sâu rầy do "người láng giềng" chế tạo và đưa vào Việt Nam với giá rẻ gấp đôi so với thuốc của các nước Châu Âu. Nông dân vì hám lợi mà xài thuốc giá rẻ. Như thế là một mũi tên bắn  hai con chim: Vừa giết dân Việt vừa phá hoại kinh tế của các nườc châu Âu, châu Mỹ.

 

6* Ngay cả thuốc xịt muỗi mà "người láng giềng" chế tạo và bán sang Việt Nam: Chỉ nghe mùi thoảng qua mũi là bị nhức đầu, chóng mặt, mệt mõi... Huống hồ là thuốc diệt côn trùng: Rẻ nhưng vô cùng độc hại.

 

7* Thịt động vật thì có chất tạo nạc, chất kích thích tăng trưởng gây ung thư...

Tình trạng thực phẩm Việt Nam vô cùng tồi tệ. Dù cho chúng ta ăn chay hay ăn mặn cũng đều bị ngộ độc từ từ rồi bệnh và chết. Chết nhiều là người trẻ tuổi. Vì tuổi trẻ có sức ăn mạnh hơn tuổi già nên chết nhanh hơn. 

Thương cho nòi giống con rồng cháu tiên......


Thanh Loan chuyển

Xin Hãy Nhớ Rằng - Đỗ Công Luận

Trận Đánh Cuối Cùng Của Một Kẻ Sĩ - Nhật Tiến



Ba Sinh là một người mê sách. Suốt 10 năm ròng rã sống độc thân làm nghề giáo viên tiểu học, tiền dành dụm được, Ba Sinh chỉ dùng để mua sách. Tất nhiên không thể nào mua đủ được các loại sách, nhưng mỗi tuần đổ đồng cả sách cũ lẫn sách mới chàng cũng đã mua được trên dưới 20 cuốn sách. Con số đó thật nhỏ nhoi so với cả một rừng sách tràn ngập ở các tiệm sách lớn, các gian hàng trong chợ sách và cả ở những vỉa hè, nơi có người mua bán sách cũ.

Những ngày cuối tuần, Ba Sinh thường tiêu hết thì giờ vào việc đi la cà ở những tiệm sách. Và chỉ cần như vậy, chàng cũng đã nắm rất vững tình hình sinh hoạt sách trong tuần. Tác giả nào có sách mới ra, tác giả nào có sách tái bản. Một nhà xuất bản nào mới ra lò. Nhóm văn nghệ nào chính thức gia nhập sinh hoạt văn học nghệ thuật bằng một tuyển tập. Tuy không phải là người viết sách, nhưng Ba Sinh đã cảm nhận được rất nhiều ý nghĩ xao xuyến, rung động tùy theo tình hình xuất bản của thế giới viết sách và in sách. Chàng sung sướng một cách say mê trước một bìa sách mới. Chàng quan sát kỹ lưỡng từng cách trình bày. Chàng so sánh từ kiểu chữ này với kiểu chữ khác, mẫu bìa này với mẫu bìa khác. Chàng cũng thấy lòng dào dạt sung sướng khi mở từng trang sách còn thơm nồng mùi giấy mực, như chàng đã nhìn thấy tấm lòng của từng tác giả dàn trải lên những dòng chữ cả tâm tư, tình cảm của mình trong suốt thời gian thai nghén và hình thành tác phẩm.

Tuy nhiên Ba Sinh không phải là một kẻ chơi sách. Chàng không mua sách chỉ để đóng bìa da, gáy vàng và trưng mốc trong tủ sách. Chàng mua sách để đọc. Vì thế chàng đã đọc được rất nhiều tác phẩm. Gặp được những cuốn hay, chàng muốn chia sẻ sự thích thú của mình cho người khác bằng cách khuyến khích bạn bè tìm mua, hoặc cho bạn mượn ngay chính cuốn sách của mình. Chàng vẫn thường lý luận rằng yêu sách là phải biết để cho cuốn sách làm đúng vai trò của nó. Nghĩa là truyền đi những nội dung tư tưởng mà tác giả đã gởi gấm trong sách. Còn chỉ mua sách về, đóng bìa da cho đẹp rồi đem nhốt vào tủ khóa kỷ lưỡng, không cho ai sờ mó tới thì cung cách đó chỉ là giết sách chớ không còn là yêu sách nữa.

Cho nên tủ sách của Ba Sinh không cầu kỳ kiểu cách. Nó chỉ là những mảnh ván thùng được đóng lên thành kệ và sơn phết lại cho hòa hợp với màu tường. Nhưng trên những hàng kệ kín mít từ phòng trong ra phòng ngoài đó, Ba Sinh đã tích tụ được không biết bao nhiêu là sách. Đủ loại tác phẩm chọn lọc, đủ loại tên tác giả của nhiều thế hệ, của nhiều khuynh hướng, nhiều bộ môn. Ba Sinh vẫn thường tự hào về cái vốn đọc sách sâu rộng của mình. Có lẽ trong cuộc đời, cái thú đọc sách đối với chàng là cái thú duy nhất.

Ấy vậy mà sau biến cố 30 tháng tư đau thương chừng vài tháng, gia tài sản nghiệp quý giá nhất đời của Ba Sinh bắt đầu bị xâm phạm. Trước hết là bản thông cáo của Ủy ban Tuyên huấn Thành ủy truyền đi lải nhải suốt cả tuần lễ liền trên đài phát thanh. Nhà nước cấm tàng trữ tất cả mọi loại sách ấn hành dưới chế độ cũ. Nhiều địa điểm được chỉ định để mọi người đem giao nạp sách. Hàng ngày lái xe đạp đi ngang qua cầu Trương Minh Giảng, Ba Sinh thấy thiên hạ ùn ùn chở những chiếc xe ba gác chất đầy sách cũ đổ vào sân trường Đại học Vạn Hạnh. Chàng có cảm giác như bị ngộp thở trong một cơn biến động hết sức kinh hoàng. Nhìn những cuốn sách chồng chất tả tơi trên những chiếc xe nặng nề leo dốc,nhìn những trang sách bị xé rách rã rời bay tung tóe, rơi rải rác trên đường phố, bị những bánh xe vô tình cán qua nhem nhuốc, nhầu nát, Ba Sinh thấy tâm hồn của mình cũng tan nát, tơi tả như thế.

Rồi mỗi lần đi ngang qua khu đầu ngõ để trở về nhà, chàng lại phải nghe lời nhắc nhở của ông Tổ trưởng Dân phố:

– Anh Ba có giữ loại sách nào của Ngụy thì nhớ đem nộp hết đi nghe. Sắp hết hạn rồi đó.

Suốt ngày Ba Sinh lúc nào cũng như người lên cơn sốt. Chàng đóng kín mít các cửa lại và ngồi thừ hằng giờ trước những kệ sách. Ba Sinh cảm thấy những nhân vật với từng cuộc đời riêng tư gói ghém trong mỗi cuốn sách bỗng trở nên biết xao động, biết bối rối,nhớn nhác như những linh hồn có thật đang nhốn nháo trước biến cố kinh hoàng sắp tới. Chàng hình dung ra được từng nhân vật của Duyên Anh, cảm thông sâu xa với những con người sống động trong tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ. Trong một biến cố phũ phàng đảo lộn mọi sinh hoạt trong đời sống, tất cả những nhân vật đó tưởng sẽ tồn tại mãi mãi như những con người bất tử thì đột nhiên đồng loạt bị lên án tử hình. Những trang sách bị xé nát. Những cuộc đời bị cắt vụn tả tơi, trang sách của cuốn này nằm cạnh trang sách của cuốn khác. Và cả thế giới riêng của sách sẽ bị xáo trộn lên, đánh lộn xà ngầu như một nồi cháo lú, tan nát, rã rời. Rõ ràng là đã có một cuộc sụp đổ toàn diện của thế giới sách, cũng như ở bên ngoài, mọi cơ cấu của xã hội cũng theo nhau mà sụp đổ. Trong cái tâm trạng đau thương đó, Ba Sinh không thể nào có can đảm dỡ các kệ xuống để liệng các cuốn sách vào những bao tải mang đi nộp. Chàng đã bị tê liệt hoàn toàn khi chỉ cần nghĩ rằng mình sắp sửa phải làm công việc đó.

Ông Tổ trưởng dân phố thì mỗi lúc mỗi thôi thúc sát sạt hơn theo kỳ hạn nộp sách sắp gần kề. Một buổi trưa trước ngày mãn hạn, ông ta chận cái xe của Ba Sinh ở ngay đầu ngõ và nói bằng giọng nửa như ân cần thân mật, nửa dọa nạt:

– Sao tôi chưa thấy anh Ba đi giao nộp sách? Tiếc nó làm chi anh Ba! Cách mạng về rồi, nay mai thiếu gì sách hay để mà đọc. Còn lưu luyến những thứ đó, tôi thấy sẽ mệt lắm đó anh Ba à! Đi họp với “trên” về, tôi biết không phải chuyện giỡn chơi đâu.

Ba Sinh không trả lời, chỉ lẳng lặng quành tay lái sang một bên tránh ông ta, rồi đi thẳng. Chàng biết rõ rằng mình sẽ rất mệt như ông ta nói, nhưng chàng vẫn chưa lấy được đủ can đảm để dỡ từng các kệ sách xuống. Lúc buổi sáng, một người bạn của chàng đã góp ý:

– Giao đại cho chúng nó một mớ đi! Còn thì lựa những sách hay đem giấu vào một nơi nào đó.

Ba Sinh hỏi:

– Cậu giấu được bao nhiêu?

– Thì ít lắm cũng được vài chục cuốn.

– Tổng số sách của tôi lên tới gần 3 ngàn. Giấu vài chục cuốn thì chẳng thà bỏ hết đi cho rồi.

– Được cuốn nào hay cuốn đó chứ!

Ba Sinh mỉm cười cay đắng:

– Cậu không hiểu được tâm trạng của tôi. Bỗng dưng tôi mất tiêu một tủ sách dành dụm hằng chục năm nay. Giữ lại vài ba chục cuốn chỉ thêm bẽ bàng. Sau chuyến này tôi sẽ không bao giờ còn mua sách, sẽ coi như trên đời không còn có cái gọi là cuốn sách nữa. Cả nước đã thua rồi, tiếc làm chi tới sách.

Chỉ thiếu chút nữa là Ba Sinh bưng mặt khóc. Chàng cố nén cơn xúc động bằng cách đứng dậy, lại bàn nước rót ra một ly. Nhưng đứng ở đó, Ba Sinh lại có thể thấy những kệ sách trống trơn trên vách tường nhà bạn, nó làm cho chàng nhớ đến những chiếc kệ san sát đầy ắp những sách trên vách nhà mình. Tới lúc đó thì chàng không còn tự chủ được mình nữa. Bỗng nhiên Ba Sinh òa lên khóc. Trong cơn xúc động, Sinh thấy rõ không phải mình chỉ thương có sách, mà thương cho cả mình, đồng bào mình, bạn bè mình trong một sớm một chiều bỗng sụp đổ, tan vỡ, chia lìa.

Đúng ngày hôm quá hạn nộp sách, Ba Sinh vẫn chưa giải quyết những kệ sách của mình. Chàng nằm lì ở nhà với tâm trạng bất cần đời. Kệ! Cái gì tới nó sẽ tới. Và tới bằng cách nào cũng được miễn không phải là chàng tự tay ném những cuốn sách thân yêu lên xe ba gác để đem đổ từng đống vào sân trường Vạn Hạnh, ở nơi đó, số phận của các cuốn sách sẽ bị xé nát, tả tơi và bị đưa về những xí nghiệp làm bột giấy.

Rồi ngày hôm đó qua đi. Ngày hôm sau nữa. Ba Sinh cũng không thấy ai đả động đến mình. Cho đến khi sau hơn một tuần lễ trôi qua trong yên tĩnh, lòng chàng bắt đầu nhen nhúm một nỗi mừng khấp khởi, thì vào một buổi tối, cánh cửa nhà chàng có nhiều tiếng gõ gấp rút. Ba Sinh mở rộng cánh cửa để đón tiếp 3 người. Sau màn giới thiệu, Ba Sinh biết rằng có một anh làm công an Phường, một anh làm Thông tin Văn hóa, và một anh nhân danh Bí thư chi đoàn Thanh niên. Họ cho Ba Sinh coi một tờ giấy có nhấn dấu son đỏ chói: “Lệnh tịch thu sách”!

Ba Sinh đón nhận tờ giấy với một tâm hồn lạnh băng. Chàng bình tĩnh lạ lùng đến độ chính chàng cũng phải tự ngạc nhiên. Như một kẻ bị lên án tử hình với bản án hoãn đi hoãn lại nhiều lần đã làm tội nhân căng thẳng đến độ chỉ mong được lên đoạn đầu đài sớm chừng nào hay chừng đó, Ba Sinh tiếc rằng nó đã không tới sớm hơn để chàng khỏi phải trải qua những đêm không ngủ, những ngày cực kỳ đen tối.

Chàng ném trả tờ giấy Lệnh tịch thu lên mặt bàn rồi rút vào ngồi yên trong một góc tối. Trước mặt chàng, bây giờ tràn ngập những bóng người lố nhố. Thì ra phái đoàn kiểm tra không chỉ có 3 người mà còn kéo theo một đám đông thanh niên nam nữ trên cánh tay mỗi người có đeo một giải băng đỏ. Họ chia nhau đi lục soát từ nhà trong đến nhà ngoài. Những ngăn sách bị dỡ xuống. Những hộc tủ, những nệm giường, gậm bàn, các xó kẹt bị bới tung lên.Và các sách vở bị quăng ném bừa bãi trên khắp các mặt bàn, chồng chất lên cả lối đi.

Ba Sinh cố nhắm mắt lại để khỏi phải chứng kiến cái cảnh tượng đau lòng đó. Chàng hình dung đến những bộ đồ dù, những túi dết, những đôi giày lính vứt rải rác trên dọc con đường từ Tân Sơn Nhứt về cầu Trương Minh Giảng. Chàng nhớ đến vụ tự sát tập thể bằng lựu đạn của đám chiến sĩ Biệt Động Quân tại công trường giữa Ngã Bẩy, chàng gợi lại hình ảnh của những khuôn mặt đầm đìa nước mắt của những người vợ trước phút chia tay tiễn chồng đi trình diện học tập. Muôn ngàn mất mát đổ vỡ. Thế thì sự sụp đổ của cái tủ sách mà chàng chắt chiu hằng chục năm ròng âu cũng chỉ là nỗi đau thương trong muôn một.

Cuộc lục soát kéo dài trong gần 3 tiếng đồng hồ mới chấm dứt. Trước đó, những chuyến xe ba gác đã ùn ùn chở từng chuyến di chuyển từ căn nhà của chàng tới trụ sở của Chi đoàn Thanh niên. Dưới mặt đất, bây giờ tơi tả những trang sách, những mẫu bìa, những tấm thẻ mà Ba Sinh vẫn thường kẹp vào từng cuốn sách sau mỗi lần đọc xong và ghi chép những cảm nghĩ của mình.Đến gần khuya, lúc tất cả mọi người đã rút ra hết, anh bí thư Chi đoàn đã tiến lại gần Ba Sinh và lên tiếng:

– Sách của anh nhiều quá chúng tôi không làm thống kê kịp. Tôi chỉ ghi nhận tịch thu của anh một tủ sách. Anh có khiếu nại gì không?

Ba Sinh không ngẩng lên nhìn hắn. Chàng chỉ khẽ lắc đầu. Hắn ta nói tiếp giọng vỗ về an ủi:

– Thật ra thì không phải tất cả các loại sách thu được ở đây đều có nội dung chống phá cách mạng. Cũng có nhiều cuốn nội dung tốt, như các loại sách tự điển ngoại ngữ, các sách kỹ thuật, mặc dầu nếu cứ lý mà xét thì loại nào cũng có tính chất tiêu cực của nó.

Ba Sinh bực bội trừng mắt lên nhìn:

– Tự điển ngoại ngữ thì tính chất tiêu cực nó từ chỗ nào?

– Hừ. Anh chưa giác ngộ, chưa thấy rõ. Trong tất cả các tự điển in dưới thời ngụy, có đầy rẫy những thí dụ sặc mùi phản động.

Ba Sinh chán mứa cái bản mặt trơ trẽn, bội bạc của hắn. Ở trong xóm này không ai lạ gì mấy tên thanh niên nhẩy ra hoạt động cho Chi đoàn. Họ thuộc thành phần sinh viên học sinh ở chế độ cũ, được hưởng một nền giáo dục căn bản từ những thầy, những cô giáo, và ở những sách vở đã in. Vậy mà một sớm một chiều, họ quay ra lên án tất cả, phủ nhận tất cả, tố khổ đến ngay cả cái mớ kiến thức trong đầu do chính họ đã được xây dựng trong những năm trước đây. Ba Sinh muốn tống khứ hắn ta đi khỏi căn buồng này càng sớm càng tốt, nên chàng hỏi sẵng lại:

– Xong chưa?

Gã bí thư Chi đoàn mỉm cười, rõ ra nụ cười của một kẻ tiểu nhân đang đắc thế:

– Kể là xong, nếu anh không còn cất giấu thêm sách ở những nơi khác.

Ba Sinh muốn phun một miếng nước bọt. Chàng đứng phắt dậy và đẩy tấm lưng nhễ nhại mồ hôi của hắn đi ra phía cửa. Sau đó chàng đóng kỹ cửa lại và nằm vật xuống chiếc ghế sofa kê sát tường. Căn buồng hoàn toàn chìm trong yên lặng. Bao nhiêu năm rồi, ánh đèn vẫn chỉ in bóng lủi thủi của chàng trên nếp tường vôi. Nhưng khác hẳn mọi lần, hôm nay Ba Sinh cảm thấy căn buồng trở nên rộng mênh mông và trống trải lạ thường. Như một căn nhà tan hoang sau một cơn bão tố, ở đây gần 3 ngàn cuốn sách đã bị đánh văng ra khỏi vị trí êm ả thường ngày. Một vài cuốn bị xé bìa, nằm tơi tả lây lất trên lối đi. Tất cả những cuốn sách còn lại đã bị “giải” đi. Chúng nó như những linh hồn sinh động, có tiếng nói riêng, có cuộc đời riêng, và hiển nhiên đã có cùng chung với nhau một số phận.

Trong mấy giờ ngắn ngủi, cuộc gắn bó giữa chàng và những cuốn sách với linh hồn sinh động ấy đã hoàn toàn chấm dứt. Căn nhà kể từ nay chỉ còn đúng nghĩa có mỗi một mình chàng. Sinh có cảm giác như vừa bị một nhát kéo cắt lìa mối dây liên lạc giữa chàng với muôn ngàn kỷ niệm trong dĩ vãng. Cho đến giờ phút này chàng mới thấm thía cuộc đời lủi thủi cô độc của mình. Ngày xưa chàng vẫn thường tự hào nói với bạn bè: “Sách là người bạn duy nhất trung thành với mình mà không bao giờ biết phản bội”. Điều đó có nghĩa là chàng tin tưởng ở sách sẽ bầu bạn với mình suốt cả cuộc đời. Sự thật tưởng là sẽ đương nhiên, nhưng có ai ngờ đến hai chữ đổi đời.

Bây giờ, giống như gã mù thổi kèn dạo bị cấm đoán tất cả những bài nhạc quen thuộc, Ba Sinh cũng bị tước đoạt đến cả cái thú đọc sách và chăm sóc tủ sách cố hữu của chàng. Ngay đến cả những hiểu biết, những rung động, những nhận thức của chàng được nuôi dưỡng từ bao năm nay trong thế giới của sách bây giờ cũng bị những nỗ lực mới muốn bứng cho bật rễ lên, tiêu hủy đi để gieo trồng bằng những hạt nhân của những nhận thức mới.

Trong một buổi học tập đường lối văn nghệ mới cho các giáo viên, Ba Sinh đã được nghe một cán bộ thuyết trình mạt sát các nhà văn dưới chế độ cũ đại để như: “Trong các tác phẩm của Duyên Anh, truyện “Con sáo của em tôi” là một truyện cực kỳ phản động. Hành động hai anh em đứa trẻ làm thịt con sáo nhân ngày giỗ mẹ đã đánh giá quá thấp tâm tư tình cảm của những người vô sản, bôi nhọ giai cấp vô sản một cách tinh vi và ác độc. Đó là một tác phẩm phản động nhất trong các tác phẩm của Duyên Anh”.

Nhóm nhà giáo như Ba Sinh ngồi ở dưới như muốn chết lặng đi vì cung cách nhận thức và đánh giá vấn đề theo cảm quan của những người thuộc chế độ mới. Không ai còn lạ gì tác phẩm “Con sáo của em tôi”. Nó đã được tuyển chọn để giảng dạy trong các sách giáo khoa và đã được trích giảng trong hầu hết các trường trung học thuộc chế độ trước. Như thế, cứ với cung cách này thì sẽ không còn điều gì mà sẽ không bị lên án, bị kết tội phản động, và chẳng còn điều gì dính líu với chế độ cũ lại còn có lý do để tồn tại.

Bài giảng về “Con sáo của em tôi” hiển nhiên đã báo hiệu trước những cơn dao động lớn lao, khốc liệt tróc gốc, tróc rễ, liên hệ tới toàn bộ cơ cấu sinh hoạt ở miền Nam. Nó đã được phát biểu lên rất rõ ràng, đượm thêm vẻ huênh hoang, lộ liễu, chẳng cần giấu diếm quanh co. Điều đó khiến cho không ai có thể lầm lẫn hay mơ ngủ được nữa. Những ý nghĩ đó đã làm cho Ba Sinh vơi bớt được nỗi tiếc xót khi trong một sớm một chiều, cả một tủ sách quý bị xâm phạm, tiêu tan. Nhưng thay vào đó lòng chàng bỗng dâng lên một niềm đau thương khôn tả, niềm đau của kẻ mất đời sống bình dị hàng ngày, mất bạn bè, mất dĩ vãng, mất cả chỗ đứng của mình ngay trên phần đất của quê hương.

Lưu đày trên xứ lạ hẳn sẽ đầy rẫy những tủi nhục nhưng bị lưu đày ngay trên tổ quốc của mình hẳn còn tủi nhục hơn. Đã bao ngày, tháng, chàng đi trong thành phố thân yêu quen thuộc này mà thấy như đi trong lòng một sa mạc hoang vu. Những ngọn cờ, những khẩu hiệu sắt máu, những bóng dáng cán bộ đồng phục tràn ngập phố phường, những khuôn mặt, những lời nói, những âm thanh của những bài nhạc chát chúa và muôn ngàn hình thức khác, tất cả đè nặng lên tâm tư người dân Sài Gòn cái cảm giác của người dân trong một thành phố bị chiếm đóng, hơn thế nữa, một thành phố bị xóa tên, xóa thói quen, xóa nền nếp, xóa cảm nghĩ, xóa dĩ vãng, xóa tất cả.

Thay vào đó là những mặc cảm phạm tội, những nỗi run sợ về tai họa có thể úp chụp lên gia đình mình bất cứ lúc nào trong bóng đêm khuya khoắt, và những cơn mệt mỏi, chán chường, tuyệt vọng, khi phải chứng kiến những cảnh tố giác, bôi nhọ, xâu xé lẫn nhau của những con người muốn tranh giành một chút đất sống trong hoàn cảnh mới. Bên cạnh đó là một đám đông thầm lặng, câm nín, nhẫn nhục. Mọi người rút vào cái vỏ cá nhân yếu ớt của mình để mong được yên thân, được quên đi mặc dù chỉ là kéo dài thêm một cuộc sống đầy rẫy đắng cay và khổ nhục.

******

Rồi cũng cái đời sống đắng cay và khổ nhục ấy đã đánh văng Ba Sinh ra khỏi ngôi trường tiểu học thân thuộc mà chàng đã gắn bó ở đó từ bao năm nay. Từ một nhà giáo mẫu mực hiền hòa, nhỏ nhẹ, Ba Sinh đã biến thành một con người dầm mưa dãi nắng suốt ngày ở ngoài đường phố! Đạp xích lô, bán thuốc lá lẻ, bỏ mối bánh ngọt cho các tiệm ăn, vá ruột xe đạp ở các gốc cây đầu đường.

Cho đến một hôm, tình cờ Ba Sinh ghé ngang qua cửa hàng bán sách cũ ở một khu phố gần nhà. Căn nhà trước đây là một tiệm buôn đồ điện lạnh, chủ nhà chắc đã di tản từ ngày 30 tháng 4, nên bị tiếp thu và có một gia đình khác tới cư ngụ. Mọi dấu vết cũ đã bị thay đổi, ngoại trừ cái biển hiệu treo ở trên cao thì còn giữ nguyên vị trí cũ mặc dù nó cũng bị bôi xóa bằng vài nét chổi sơn nguệch ngoạc. Bây giờ, cánh cửa sắt đã được kéo lại gần sát, chỉ vừa một lối đi. Mé bên ngoài hàng hiên được bày biện thêm hai cái kệ gỗ lớn trên chất đầy những cuốn sách, mặt bìa quay ra ngoài để ai đi ngang qua đều nhìn thấy rõ.

Chỉ cần liếc thoáng qua, Ba Sinh cũng đã nhận ra ngay những cuốn sách của các tác giả quen thuộc. Chàng xà vào như một kẻ có máu mê đỏ đen vừa nhìn thấy quân bài. Cả một dĩ vãng êm đềm cũ như chợt hiện về quây quần, chen chúc nhau trên những kệ hàng chật chội. Tên tuổi của các nhà văn xuất hiện cả ở đây, nhưng chính họ thì đã mỗi người một ngả, kẻ đã ra đi, người bị cầm tù, một số khác lang thang vất vưởng ở các vỉa hè thành phố để làm những nghề không phải là nghề, y như hoàn cảnh của chàng hiện nay.

Ba Sinh nhấc lên tay một tác phẩm quen thuộc. Chàng chợt sững sờ khi nhìn thấy những dấu vết cũ. Chàng đổi nhanh qua những cuốn khác. Không còn nghi ngờ gì nữa, cả một tủ sách của chàng, tưởng đã tiêu tan ra thành bột giấy, nào ngờ vẫn còn nguyên vẹn ở đây. Ba Sinh mừng rỡ tưởng đến ngất xỉu đi, cái cảm giác choáng ngợp y hệt như một người vừa tìm lại được người thân sau bao tháng ngày được tin kẻ đó đã mất.

Bây giờ thì Ba Sinh mới chú ý đến người bán sách. Đó chỉ là một cô bé trạc tuổi 15, nhìn cung cách ăn mặc, chàng đoán chắc cô ta thuộc thành phần gia đình dưới chế độ cũ. Nhưng có điều khác hơn, gia đình này phải là gia đình “cách mạng”, bởi vì nếu không, họ đã chẳng được điều vào cư ngụ trong một căn nhà đã bị tiếp thu, và nhất là lại khơi khơi bày bán một tủ sách cũ toàn những sách được liệt kê là đồi trụy hay phản động.

Thật ra hiện tượng bày bán sách cũ ngoài hè phố đã không hiếm xẩy ra ở Sài Gòn. Trên đường Bonard, dưới mắt các thanh niên mang băng đỏ và các cán bộ công an mặc đồng phục màu lòng tôm, dân chợ trời Sài Gòn vẫn bày sách la liệt trên các lấm ny-lon nhỏ. Đủ loại sách chống phá cách mạng. Từ cuốn “Về R” của Kim Nhật cho đến cuốn “Nước đã đến chân”, bản dịch tác phẩm chống Cộng mãnh liệt của Suzanne-Labin cũng vẫn còn bày khơi khơi trước mắt mọi người qua lại. Tất nhiên là bất hợp pháp. Nhưng nhiệm vụ kiểm tra các loại sản phẩm văn hóa bị cấm đoán là của các toán Thông tin Văn hóa phường. Phường nào kiểm tra trong phạm vi phường đó. Những cuốn sách có nội dung ghê gớm đó, sau những màn ruồng xét gắt gao, nếu có xuất hiện trở lại trên thị trường đen thì còn ai có thể làm được điều đó ngoài chính những kẻ đã đi tịch thu!

Là nạn nhân của một cuộc ruồng xét dẫn tới sự mất mát toàn bộ tủ sách đã vun trồng từ bao nhiêu năm nay, đột nhiên nhìn lại những cuốn sách thân yêu, Ba Sinh ngạc nhiên thấy mình chỉ có một nỗi vui mừng mà không hề thấy tiếc xót. Có lẽ chàng đã coi sự mất mát là lẽ đương nhiên trong toàn thể sự mất mát chung của mọi người. Hơn thế nữa, chàng đã tưởng toàn bộ tủ sách đã tả tơi trong một xưởng làm bột giấy nào đó thì trái lại, chúng vẫn còn được nguyên vẹn hình hài, được o bế, được bày biện bởi một bàn tay chăm sóc gọn gàng, và hiển nhiên chúng vẫn được đóng nguyên vẹn vai trò cố hữu của mình, đó là: “Sách in ra là để được đọc”. Càng được nhiều người đọc, sách càng làm đúng chức năng của mình.

Từ những ý nghĩ đó, Ba Sinh không thấy giận, không thấy hiềm thù, mà chỉ nhìn cô bé bán hàng, mỉm miệng với cô ta một nụ cười thật tươi. Cô bé hỏi:

– Chú muốn mua sách gì?

Ba Sinh lắc đầu:

– Tất cả các sách này tôi đọc hết rồi. Tôi chỉ đứng xem lại thôi.

Câu trả lời của Ba Sinh làm một người đàn ông đứng cạnh đang lúi húi chọn sách, bỗng ngẩng đầu lên. Chàng nhận ngay ra ông ta là một cán bộ miền Bắc, do ở nước da, ở khuôn mặt, ở kiểu cắt tóc, ở bộ quần áo trên người và ở cả cái túi mang ngang hông đeo quàng qua vai bằng một sợi dây da nhỏ. Đột nhiên Ba Sinh cất lời trước:

– Mua mà đọc đi anh, toàn nhưng sách hay, mai mốt sẽ không bao giờ còn nữa.

Người cán bộ nhìn Ba Sinh một giây như thăm dò, đánh giá. Rồi như yên tâm về con người hãy còn đầy chất “Ngụy” của Ba Sinh, ông ta mỉm cười:

– Tôi mới vào Nam. Nhiều thứ sách quá, không biết đâu mà chọn cả.

Sinh hăng hái:

– Tôi chọn giùm cho. Tôi bảo đảm những cuốn này tôi đã đọc qua. Cuốn nào hay, cuốn nào dở tôi biết rất rõ.

Rồi Ba Sinh nhấc ra khỏi kệ một cuốn sách của Duyên Anh: Đây là cuốn Hoa Thiên Lý, toàn truyện ngắn tình cảm quê hương, gia đình rất có giá trị. Trong cuốn sách này tôi thích nhất truyện “Con sáo của em tôi”. Truyện “Con sáo của em tôi” đã được tuyển chọn giảng dạy trong các trường của toàn miền Nam. Văn điêu luyện. Trong sáng. Mẫu mực. Tình cảm gia đình, mẹ con, anh em cực kỳ cảm động. Một truyện tiêu biểu của một nhà văn tiêu biểu ở miền Nam.

Ba Sinh nói một thôi một hồi và quả nhiên có tác dụng mạnh mẽ đến sự chọn lựa của người cán bộ. Ông ta cầm cuốn sách lên ngắm nghía, mở từng trang, tần ngần rồi cuối cùng trả giá với cô bé bán sách. Lúc ông ta đi khỏi, nghiễm nhiên Ba Sinh trở thành người quen với cô hàng sách. Cô ta nói:

– Có chú đỡ quá.Hồi trước cháu cũng đọc sách, nhưng chỉ xem toàn loại sách Tuổi Hoa thôi. Còn những loại này, có nhiều cán bộ hỏi cháu nội dung, cháu mù tịt.

Sinh hỏi:

– Cháu bán thế này, cán bộ thông tin văn hóa phường cũng để yên cho cháu hả?

Cô bé khẽ nheo một bên mắt rồi khẽ mỉm cười:

– Cán bộ phường là ai? Những sách này cũng một đường dây đó mà ra cả. Họ tịch thu mười thì chỉ cho vào giấy vụn độ hai, ba thôi chú. Những sách quý thế này sức mấy mà đốt.

Cô bé như không cần giữ lời. Câu nói của cô lọt vào tai một anh cán bộ khác lúc đó cũng đang lúi húi giở từng trang trong bộ sách biên khảo của Nguyễn Hiến Lê. Anh ta khẽ ngừng tay ngẩng lên nhìn hai người. Ba Sinh nói:

– Sách học làm người của học giả Nguyễn Hiến Lê, rất nổi tiếng đấy.

Anh cán bộ trề môi:

– Miền Bắc đã là người từ bao nhiêu năm nay rồi, đâu cần phải học làm người như dân trong chế độ cũ.

Ba Sinh thấy người giận sôi lên, chàng rất muốn chín bỏ làm mười, nhưng cũng không thể nào bỏ qua câu nói đó được. Chàng cười khẩy:

– Người cũng năm bẩy loại người anh ơi... nói cho biết, học được thành người như chúng tôi cũng còn mệt lắm đó.

Anh cán bộ nhìn sững vào Ba Sinh. Đôi mắt của anh ta ngầu lên những tia giận dữ. Cô bé bán hàng thấy bầu không khí có vẻ gay go, vội vàng dàn hòa:

– Chú không thấy thích loại sách đó thì thôi. Còn nhiều loại khác. Có bộ kiếm hiệp của Kim Dung đây này.

Nhiều người hỏi mua lắm đó chú.

Anh cán bộ nhún vai:

– Đọc làm gì những thứ kiếm hiệp nhảm nhí. Cô có sách của Lệ Hằng không? Nghe nói Lệ Hằng đọc được.

Chỉ một suýt nữa thì Ba Sinh phá lên cười. Sự thích thú chợt đến làm chàng quên ngay cơn giận dữ vừa rồi.

Chàng lựa ngay trên kệ sách độ ba, bốn tác phẩm của Lệ Hằng. Rồi chàng bắt đầu thao thao giới thiệu về nhà văn nữ này, như một đợt sóng mới ở miền Nam, mặc dù trong thâm tâm, một số sách của Lệ Hằng đối với chàng chỉ là những tác phẩm làng nhàng. Cuối cùng thì Ba Sinh cũng bán giùm cho cô bé được cuốn “Bản Tango cuối cùng”. Cho đến lúc đó Ba Sinh mới chợt phát hiện ra rằng mình vừa bắn đi hai phát đạn văn hóa vào hàng ngũ bên kia một cách dễ dàng.

Những cuốn sách sẽ được lén lút mang về miền Bắc. Chúng nó sẽ được chuyền tay từ người này sang người khác... chúng nó sẽ có cơ hội đóng trọn thiên chức của mình. Sách hay phải có người đọc. Sách hay, nằm mốc trong một tủ sách là sách chết.

Những cuốn sách của Ba Sinh, sau một cơn tàn phá, không những chúng không chết mà lại còn hồi sinh một cách mạnh mẽ. Mỗi cuốn có một sứ mạng. Mỗi cuốn có một môi trường riêng. Ở trường học, ở nông trường, ở xí nghiệp, ở các công xưởng. Rõ ràng một mặt trận văn hóa đã hình thành với những viên đạn bất tử đang được bắn ra. Dù nằm trong lao tù hay các trại cải tạo thì Duyên Anh, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Phan Nhật Nam... và hằng chục cây bút khác vẫn còn tiếp tục sứ mạng của mình. Cuộc chiến đấu tuy thầm lặng nhưng hữu hiệu hơn nhiều so với những trận đánh bằng xe tăng hay bom đạn trước đây. Những trận đánh mà mục tiêu là những trái tim, những tâm hồn. Ba Sinh không phải là người cầm bút, nhưng chàng vẫn có thể tham dự trận đánh cuối cùng này bằng vốn liếng đọc sách của mình.

Trong bầu không khí sinh hoạt ngột ngạt, đầy dẫy những nỗi tủi nhục, chán chường, bỗng Ba Sinh chợt tìm thấy ý nghĩa của một hành động, điều đó khiến cho chàng vui vẻ hẳn lên, như một cây khô vừa được tưới một gáo nước mát.Chàng bật lên cười thích thú và nhìn cô bé mỉm cười. Cô bé cũng đang tràn ngập niềm vui vì vừa bán được hai cuốn sách với giá hời. Cô ta nói:

– Chú “thuyết trình” hay quá. Chú có rảnh không? Thỉnh thoảng chú tới đây giúp cháu với nhé.

Ba Sinh trả lời:

– Chú sẽ tới, chú sẽ giúp cháu bán hết tất cả kệ sách này.

Cô bé reo lên:

– Cháu cám ơn chú rất nhiều.

Trong cái âm thanh trong trẻo của giọng nói cô bé 15, Ba Sinh cũng tìm thấy một niềm vui cho chính mình. Chàng tự nhủ: “Chính chú phải cám ơn cháu, vì cháu đã cho chú cơ hội tham dự trận đánh cuối cùng, ngay trong lòng đất của những kẻ vừa chiến thắng.”


Santa Ana, tháng 8, 1981.

Nhật Tiến