Người Phương Nam
Pages
- Trang Chủ
- About Me
- Truyện Ngắn
- Sưu Tầm
- Sưu Tầm from 2020
- Góp Nhặt Bên Đường
- Nhạc Chọn Lọc
- Sưu Tầm Sức Khỏe
- NPN's Recipes
- Trang Người Phương Nam
- Cười Ý Nhị
- PPS + YouTube Chọn Lọc
- Những Hình Ảnh Ý Nghĩa
- Thơ
- Thơ from 2020
- Bùi Phương Lưu Niệm
- Trang Anh Ngữ
- Truyện Dài : Về Phương Trời Cũ
- Truyện Dài : Ngày Tháng Buồn Hiu
Sunday, January 19, 2025
Giây Phút Chạnh Lòng - Điệp Mỹ Linh
Chủ nhật Jan./12/2025 vừa qua, lúc 11:00AM, một số Luật
sư/cựu sinh viên Luật Khoa đã gặp nhau tại nhà hàng Lambo, trên đường
Westheimer, Houston, để hàn huyên/tâm sự. Buổi họp mặt đầy cảm xúc này do Luật
sư Thiện Ý Nguyễn Văn Thắng – Chủ Tịch Câu Lạc Bộ Luật Khoa Việt Nam tại
Houston – tổ chức.
Trong cuộc họp mặt này cũng có phần “hát cho nhau
nghe” đầy thú vị. Tôi chỉ im lặng, vỗ tay sau khi MC (Master of Ceremonies) Thiện
Ý Nguyễn Văn Thắng giới thiệu và “ca sĩ” từ từ bước đến nơi để “micro”, cạnh
đàn Organ và “One Woman Band”; cũng như sau khi “ca sĩ” hát xong.
Hôm nay, bất ngờ MC giới thiệu một quan khách từ DC đến.
Điều đặc biệt là vị khách này sinh năm 1925 – năm nay đúng 100 tuổi. Nhiều
tràng pháo tay vang lên.
Tôi nhìn chăm chăm vào ông Cụ 100 tuổi mà trông như Cụ
chỉ khoảng 80. Khi nghe MC giới thiệu quý danh của ông Cụ là Anh Ngọc, tôi nhíu
mày, nhưng lại thầm nghĩ có lẽ người trùng tên.
Cụ Anh Ngọc từ từ bước về phía “micro” trong khi MC giới thiệu rõ hơn: “Ông Anh Ngọc là một ca sĩ ‘vang bóng một thời’ của nền âm nhạc miền Nam Việt Nam”. Tôi bàng hoàng và, rất bất ngờ, không hiểu tại sao, hai hàng nước mắt lại lăn dài trên khuôn mặt cằn cỗi của tôi! Vừa quẹt nước mắt vừa bước đến bên phu nhân của Cụ Anh Ngọc – bà Minh Phượng, cựu xướng ngôn viên đài VOA – tôi hỏi:
-Thưa chị, có phải Cụ Anh Ngọc này ngày xưa từng hát
trong ban Tiếng Tơ Đồng với Thái Hằng, Thái Thanh, Mai Hương, Kim Tước, Quỳnh
Giao... hay không?
-Vâng! Anh ấy đấy.
-Hồi đó, Anh Ngọc là một trong những ca sĩ “ruột” của
em.
Sau vài câu thăm hỏi, bà Minh Phượng tiết lộ: Sau 30/04/1975 ca sĩ Anh Ngọc không bị cộng sản Việt Nam (csVN) bắt đi học tập/cải tạo. Nhưng, năm 1986 Anh Ngọc bị csVN bắt/giam tại trại cải tạo Đồng Hòa với bản án 03 năm; chỉ sau 11 tháng, Anh Ngọc được trả Tự Do.
Sau khi trở về chỗ ngồi, tôi vừa quẹt nước mắt vừa lắng
nghe Cụ Anh Ngọc đọc – chứ không hát – lời ca bài Áo Lụa Hà Đông của cố thi
sĩ Nguyên Sa .
Trong khi mọi người lắng nghe Cụ Anh Ngọc đọc lời ca,
tôi vừa quẹt nước mắt vừa cảm nhận được niềm thương cảm từ đâu kéo về ray rức hồn
tôi! Buồn quá, tôi nhìn qua khung kính và thấy đường vắng xe, trời mưa lất phất.
Chính lúc đó, từ tâm thức u hoài, tiếng hát xưa chợt ngân lên trong hồn tôi:
“Chiều nay mưa Thu Nha Trang im vắng không bóng
người qua Chiều nay âm u trong mưa trong gió ai đến thành
Nha ...” (2)
Lời ca này, danh xưng “ca sĩ Anh Ngọc” và những giọt
mưa chiều như gợi lại trong hồn tôi những kỷ niệm xưa, thời tôi mới lớn, tại
Nha Trang, trong ban ca nhạc Bình Minh – do Ba tôi, cụ Điêp Linh Nguyễn Văn Ngữ
thành lập và điều động – chuyên phụ trách văn nghệ cho Đài Phát Thanh Nha Trang
vào tối thứ Năm và tối Chủ Nhật, vào giữa thập niên 50 đến đầu thập niên 60 của
thế kỷ XX. Thời điểm đó Ba tôi cũng là Trưởng Ban Văn Nghệ Miền Nam Trung
Nguyên Trung Phần, thuộc Khu Công Chánh Nha Trang và Ba tôi cũng cộng tác với
báo Đuốc Thiêng/Tin Sáng/Tia sáng, với bút hiệu Điệp Linh.
Đã nhớ đến Ba tôi/ban Bình Minh và thời thơ dại của tôi, không thể nào tôi quên được hai cây dừa xiêm được trồng gần nhau bên hông nhà của Ba Má tôi. Nơi chiếc võng được cột vào thân của hai cây dừa xiêm, mỗi tối, Ba tôi thường “ôm” radio, nằm trên võng, nghe nhạc. Không ai được đến gần, vì muốn dành giây phút riêng tư cho Ba tôi. Khi nghe nhạc ngoại quốc, Ba tôi chỉ nghe những nhạc phẩm bán cổ điển Tây Phương được hòa tấu; nhạc Việt, Ba tôi chỉ nghe ban Tiếng Tơ Đồng/ban Thăng Long. Các ca sĩ Ba tôi và tôi đều yêu thích là Thái Hằng/Thái Thanh/Khánh Ngọc/Minh Trang/Bích Chiêu/Mai Hương/Hoàng Oanh/Lệ Thu/Khánh Ly/Quỳnh Giao/Anh Ngọc v.v... Nếu ai từng thấy và nghe Bích Chiêu trình diễn – trên sân khấu – tình ca Nỗi Lòng của Nguyễn Văn Khánh, người đó sẽ không bao giờ muốn nghe bất cứ ca sĩ nào khác trình bày tình khúc “Nỗi Lòng”!
Trong khi Ba tôi nằm trên võng nghe nhạc, tôi học và
làm bài cho ngày hôm sau.
Sau khi học xong, tôi phải tập đàn Accordéon để hòa
đàn cùng các Chú/Bác trong ban Bình Minh, sẵn sàng cho buổi phát thanh kế tiếp
trên Đài Phát Thanh Nha Trang. Đôi khi, đang tập đàn, tôi thấy Ba tôi vào nhà,
bảo: “Con! Con đàn lại phân đoạn đó cho Ba nghe. Dường như bên ‘bass’ con lỗi
nhịp!” hoặc là: “Con đàn bài này ‘được’ lắm!”
Thập niên 90 của thế kỷ thứ XX, Ba Má tôi sang Mỹ theo
diện ODP(3) do tôi bảo lãnh.
Chỉ vài tuần sau, Ba tôi tự xin được việc làm trong cơ
quan ICC trên đường Fannin, Houston, với nhiệm vụ đọc/chọn bài cho nguyệt san
Dân Ta. Mỗi buổi sáng, từ chung cư nơi ngã tư Kirkwood và Bellaire, Ba tôi đón
xe “bus” xuống đường Fannin, làm việc; chiều, ba tôi lại đón xe “bus” trên đường
Fannin, trở về.
Sau khi vô tình biết được sự việc Ba tôi đi làm, tôi
ngạc nhiên, hỏi:
-Ba! Ba là giáo sư Pháp văn. Tiếng Anh Ba không biết;
Ba không có xe; Ba không biết gì về computer; vậy thì làm thế nào Ba có thể biết
cơ quan ICC cần người mà Ba đi xin? Và làm thế nào Ba đến cơ quan ICC được?
-Dễ mà, con! Báo “chợ” (báo biếu) thiếu gì, khi nào đi
chợ với Má, Ba lấy một tờ; thêm nữa, báo Ngày Nay – với sự cộng tác thường
xuyên và sự yêu cầu của Điệp Mỹ Linh – vẫn gửi đến Ba mà. Còn đi xe “bus”, tiếng
Anh và tiếng Pháp cùng xuất phát từ tiếng La-tin, Ba viết ra, họ hiểu liền.
-Sorry, con bận quá, không thể lo cho Ba Má được tươm tất!
-Ba hiểu mà! Ba Má không trách gì con đâu, có điều Ba
hơi lo cho con; vì Ba thấy tình trạng báo chí tiếng Việt trong cộng đồng Việt
Nam Hải Ngoại “lộn xộn” quá mà tính con thì “thẳng như ruột ngựa”!
-Hồi đó, khi dạy con viết, Ba đã dạy con là phải thành
thật với ngòi bút và độc giả của mình mà!
-Đúng! Ba vẫn muốn ngòi bút của con “đi” trên con đường
thẳng đó. Nhưng, muốn tiếp tục đi trên con đường thẳng đó, con phải “phớt lờ” mọi
thị phi; vì tình trạng “viết lách” trong cộng đồng người Việt bây giờ giống
như... “cái rỗ cua”, hể con cua này “lồm cồm bò” ra liền bị nhiều con cua khác
kéo lại!
-Con cũng bị vài người “chọc/phá” rồi, nhưng con chỉ
im lặng. Chỉ khi người nào xúc phạm đến Điệp Mỹ Linh các con của con sẽ “vào cuộc”
– chữ của csVN – để người đó hiểu thế nào là Tự Do Ngôn Luận trong xã hội Hoa Kỳ.
-Con đừng dùng chữ của “tụi nó”!
-Dạ, con biết mà!
Dòng ý tưởng của tôi vừa đến đây, tôi chợt nhớ tôi đã
hứa sẽ tham dự Đại Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức, được tổ chức sau Họp Mặt
Luật Khoa một tiếng đồng hồ; vì em tôi – Nguyễn Phiêu Linh – xuất thân khóa
6/68 SQ/TB/TĐ.
Trước khi rời Hội Ngộ Luật Khoa, tôi quyến luyến chào
tạm biệt ca sĩ Anh Ngọc, lòng thầm tiếc thương, nếu Ba tôi không bị csVN cầm tù
nhiều năm trong trại tù Nghĩa Phú, có thể, Ba tôi cũng đã trở thành một trong
những ông Cụ 100 tuổi, như ca sĩ Anh Ngọc!
Điệp Mỹ Linh
1.- Hình: Blog Nhạc Xưa.
2.- Nha Trang Chiều Mưa của Minh Kỳ/Yến Cận.
3.- The Orderly Departure Program.
Chuyện Về Chị Kim Tiên - Vĩnh Chánh
Một chuyện tình đẫm lệ thời chinh chiến.
Thật đáng thương cho những người đã sinh ra và lớn lên trong cuộc chiến quốc cộng
tương tàn thảm khốc.
Chị biết anh vì hai gia đình ở chung xóm gần chợ Gia Định. Chị cũng là bạn cùng lứa với em anh từ trường tiểu học cho đến lúc vào trường Trưng Vương. Anh học Khoa Học Sài Gòn. Thỉnh thoảng anh dừng chân ở quán nhà chị ở đầu ngõ, chào hỏi vu vơ, nói đôi ba câu chuyện. Kêu chị là bé dù anh chỉ hơn chị chừng 5 tuổi. Vậy mà chị lại thích, chị có cảm giác mình thật bé bỏng khi đứng bên cạnh anh thật cao lớn, cần sự che chở của anh.
Năm lên lớp 11, chị thấy anh vắng mặt một
thời gian ngắn, qua nhỏ bạn biết anh động viên vào Thủ Đức. Rồi anh lại hiên
ngang xuất hiện sau đó với bộ đồ hoa dù và nón Beret đỏ. Cuộc tình bắt đầu, với
người yêu là một Thiên Thần Mũ Đỏ.
Ở tuổi 17, chị lớn dần trong tình yêu trầm
lặng của anh, trở thành một thiếu nữ chín chắn, trong khi đó đời sống nội tâm
cùng sự lo sợ triền miên đôi khi khiến chị cảm thấy lạc lõng giữa chúng bạn ở lứa
tuổi ô mai.
Niên học 1974-1975, chị bước vào năm thứ
nhất Văn Khoa. Anh vẫn miệt mài với đơn vị ở những chiến trường xa. Những lá
thư yêu thương anh gửi chị chỉ ghi cái địa chỉ KBC 4794 lạ hoắc.
Cuối tháng Hai 1975, anh bất ngờ có mấy
ngày về phép. Đêm trước ngày trở lại đơn vị, anh đưa chị đi ăn chè góc Bạch Đằng/
Nguyễn Huệ. Ngồi quán chè, cùng nhìn ra sông Saigon, chị bỗng nghe anh nói bằng
một giọng nhẹ nhàng, “Ngày mai anh trở ra lại mặt trận. Em ở nhà bình an. Chuyến
đi này không biết bao giờ anh về thăm em được. Tình hình rất căng. Đôi khi anh
nghĩ may ra anh bị thương thì chúng mình mới có cơ hội để thành vợ chồng!”
Lẫn trong tiếng nói, chị tưởng như bên
tai mình có hơi thở của anh. Vị ngọt của muỗng chè bỗng trở thành vô vị nơi cuối
lưỡi. Chị quay lại nhìn anh. Hai bàn tay tìm nhau. Không, không thể chờ đến khi
anh bị thương… Nhận ra bàn tay mình run rẩy trong tay anh, chị nói “Thôi mình về
đi anh”.
Khi lặng lẽ rời quán chè bờ sông, anh
không cầm tay chị. Chắc anh không hiểu sao buổi hẹn hò bỗng bị chị cắt ngắn,
đòi về. Nhìn vẻ thất vọng một cách tội nghiệp trên khuôn mặt sạm đen của anh,
chị thấy thương anh chi lạ. Phải cố gắng lắm chị mới có thể nói với anh bằng giọng
bình tĩnh: “Mình về nhà trọ của anh đi, em có chuyện muốn nói.”
Ngay khi cánh cửa phòng riêng của anh
trong nhà trọ vừa khép lại, chị đứng trước anh, nhìn anh, rồi nói như sợ không
còn cơ hội nào khác “Đêm nay em sẽ ở lại đây. Em muốn chúng mình thuộc về nhau
đêm nay. Em không muốn chờ đợi thêm nữa.”
Không chờ cho anh kịp phản ứng, chị rơi
mình vào vòng tay anh, mặt đầm đìa nước mắt. Cả hai xớ rớ ngồi cạnh giường, luống
cuống đến tội nghiệp. Bên cho với tê tái khắc ghi. Bên nhận trong nghiệt ngã đắn
đo. Sau đó, cả hai dựa sát vào nhau; anh trầm tư ôm vai chị, che chở trìu mến,
chị ngã đầu trên tay anh, nhìn lên trần nhà, mủi lòng, mặc cho nước mắt tự
nhiên tuôn trào.
Thương anh, thương mình, lo sợ cho số kiếp
con người mong manh. Chị biết chị vừa đi ngược sự giáo dục gia đình, nhưng chị
không cảm thấy nuối tiếc, vì chị nhận rõ một khi tình yêu và hy sinh để trở
thành một thì không có gì tuyệt đẹp hơn là giờ phút bên nhau trong hiện tại. Y
như câu truyện “Một Thời Để Yêu Một Thời Để Chết.”
*
“Này em khăn áo vẫn còn nếp nhầu
Lược gương đâu có nỡ nào quên bóng hình
Này em, chăn gối vẫn còn ấm nồng
Chỉ người năm cũ như bóng trăng gầy liệm
cuối sông…”
Đêm đầu tiên và cuối cùng có nhau, chị
biết đơn vị dù của anh đang hành quân vùng cao nguyên.
Ngày 10 tháng Ba năm 1975, Ban Mê Thuột
thất thủ. Sau đó có tin Pleiku, Kontum bị rút bỏ.
Từ vùng hành quân, anh nhờ lính hậu cứ
nhắn tin cho chị biết. Và đó là lần cuối cùng chị được tin anh.
Cuối tháng 3, chị được biết TĐ của anh
cùng chung số phận với Lữ Đoàn 3 ND, đánh cho đến người cuối cùng ở Khánh
Dương, rồi phân tán mỏng. Trên đường rút quân, đơn vị đã không tìm thấy anh. Mất
tích? Tử thương? Bị bắt làm tù binh? Quả là tội nghiệp cho một thiếu nữ như chị,
với chỉ danh nghĩa người yêu của lính, xuôi ngược chạy tìm tin tức của anh, từ
hậu cứ TĐ đến Bộ Tư Lệnh SĐ, hoặc ủ rũ chờ đợi, nghe ngóng tin tức ở nhà anh.
Ngày 29 tháng 4, người anh cả của chị, một
sĩ quan HQ, chạy nhanh về nhà, hối thúc cha mẹ, thằng em trai và chị ra bến Bạch
Đằng, lên thuyền rời nước. Như một người máy trôi theo dòng đời, chị ra đi mà
lòng quặn đau, bất định, biết rằng từ đây mọi người vĩnh viễn mất nước. Và chị,
vĩnh viễn xa rời và mất luôn cả anh.
Ngày đến trại Fort Chaffee, tiểu bang
Arkansas, chị mới biết mình có thai được trên 2 tháng. Trong khi cả gia đình chị
bấn loạn, cá nhân chị vừa lo lắng vừa hân hoan với mầm sống của anh trong người.
Qua bao nhiêu gian nan, cam go chịu khổ chịu cực, chịu cảnh gái chưa chồng
nhưng có con, chị can đảm vượt thoát mọi thử thách, mọi e dè để cuối cùng định
cư ở Fort Polk, tiểu bang Louisiana với một người chồng Mỹ vào năm 1984. Chị cố
tạo cho mình một vườn hoa trái nơi chị nhận làm quê hương thứ hai, nhưng đa số
là trái ngang trái trắc trở, trái sầu trái đắng, trái chua trái cay, là tiềm ẩn
từ bao thôi thúc vương vấn, bao bùi ngùi luyến thương của mất nhau, hoài nhau
không thể chối từ mà cũng chẳng thể vứt bỏ vì đó là những bám víu giúp chị can
đảm sinh tồn.
*
Gần cuối thập niên 80, tôi tình cờ gặp
chị trong một phiên trực tại phòng cấp cứu của Bệnh Viện Baynes Jones Army
Community tại Fort Polk, tiểu bang Louisiana, nơi vốn là bản doanh của sư đoàn
5 cơ giới Hoa Kỳ đã có mặt tại chiến trường VN. Con gái chị, với khuôn mặt Việt
Nam, khoảng 13-14 tuổi, té xe đạp, không bị thương tích nặng ngoại trừ vài vết
thương trầy trụa ngoài da. Nhìn thấy tôi là một bác sĩ người Việt, chị mừng rỡ
bắt chuyện. Kể từ đó, thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau đôi lần, cũng tại bệnh viện
quân đội Mỹ, có luôn cả người chồng Mỹ của chị là một thiếu tá hồi hưu từng
tham chiến 2 lần tại Việt Nam.
Vài năm sau chồng chị qua đời vì bệnh tim, chị trở thành bệnh nhân của tôi tại phòng mạch tư. Đó cũng là thời gian tôi khám phá chị bị ung thư vú và chuyển chị qua bác sĩ chuyên khoa.
Trong một
lần nói chuyện dài hơn, chị mở lời tâm sự về chuyện tình của chị trong chiến
tranh VN, về người cha của con gái chị. Chị cho biết chị cầu nguyện hàng ngày hầu
mong biết tin tức về anh, sống chết như thế nào sau trận đánh ở Khánh Dương,
nhưng không mấy hy vọng cũng như đã từng cố gắng tìm kiếm qua các cộng đồng người
Việt tỵ nạn trong bao năm qua. Không lâu sau đó, chị rời vùng Fort Polk trở về
sinh sống với cha mẹ chị ở Springdale, tiểu bang Arkansas.
*
Chào bác sĩ. BS. còn nhớ tôi không?? Tôi
là Kim Tiên đây…Vâng, đúng rồi đó. Vâng. Cám ơn BS. Bố mẹ tôi bình yên… Con gái
tôi vừa vào năm thứ nhất Đại học cộng đồng tại đây. Dạ cám ơn BS. Chắc cháu sẽ
vui khi biết BS vẫn còn nhớ đến cháu và gởi lời thăm… Thưa BS. hiện tại ung thư
của tôi ở giai đoạn cuối, các bác sĩ bên này cho biết tôi còn sống được khoảng
6 tháng nữa… Dạ. Cám ơn BS… Dạ không sao! Tôi muốn báo một tin rất vui cho BS.
biết là tôi vừa tìm được tin tức của cha con gái của tôi rồi… Cám ơn BS chung
vui với chúng tôi. Vâng, anh ấy vẫn còn sống tại Việt Nam… Dạ, tôi may mắn tìm
ra được em gái của anh, cũng qua Mỹ với chồng theo chương trình H.O cuối năm
1991. Nhờ trời thôi BS ạ…Dạ, qua chương trình Nhịp Cầu Thân Yêu của đài Little
Sài Gòn loan báo… Thưa BS., chính tôi cũng không biết được tình trạng của anh
ra sao! Em gái của anh nhất định không chịu nói nhiều. Chỉ cho địa chỉ một người
trung gian… Nên tôi quyết định về VN một chuyến, trước là để thăm mộ bên nội
ngoại của tôi, sau sẽ tìm đến thăm anh… Dạ, tôi cùng đi với một người bạn thân
quen trong nhà thờ, tôi không thể chờ con gái tôi cùng đi chung vì cháu rất bận
học, mà tôi thì không còn bao nhiêu thì giờ nữa… Dạ có gì tôi sẽ cho BS biết
sau… Cám ơn BS. Tôi sẽ cố gắng giữ gìn sức khỏe trong chuyến đi.
Gần một tháng sau, chị gọi điện thoại
cho tôi, nói nhanh giữa những cơn thở nặng và xúc động. Câu chuyện nhiều lúc bị
ngắt khoảng bởi những im lặng và tiếng sụt sùi.
*
“Sài Gòn là đây sao em? Đường không còn
lối người chen chân.
Sài Gòn là đây sao em? Lạ sao giọng nói
người không quen!
Biết mấy tâm sự đành lãng quên. Xôn xao
kỷ niệm lạc lối tìm…”
Sau nhiều ngày bận rộn đi thăm bà con gần
xa và viếng mộ đại gia đình ở Thủ Đức, chị mệt mỏi trở về Sài Gòn, ngỡ ngàng bước
cô đơn giữa lòng phố đầy người.
Ngày rời Sài Gòn với mảnh giấy ghi địa
chỉ của anh do một người bà con với em của anh cho, chị đi xe khách đến Ninh
Hòa. Từ bến xe, chiếc honda thồ chở chị đi tiếp trên con đường đất đến một làng
khá xa thị xã. Đường về lối mới sao chật hẹp thu nhỏ, hoàn toàn xa lạ trong tâm
trí, không một hương thơm vương vấn. Không một tiếng gọi quen thuộc. Không một
câu hò ạ ơ. Và trời cũng chẳng mưa để làm ướt lòng người trở về. Ngược lại trời
đổ nắng đến hoa cả mắt, nóng cháy cả người kèm theo bụi đường đỏ làm chị ngột
ngạt giữa bao nhung nhớ chất chứa màu kỷ niệm của thuở tình tự.
Sau vài lần ngưng dọc đường hỏi thêm chi
tiết, xe ngừng trước một căn nhà nhỏ xơ xác, tội nghiệp với mái tôn đổi màu
theo thời gian, có vài bụi chuối xung quanh cùng hàng cây dâm bụt phía trước.
Không chần chờ, chị bước vội vào nhà. Đập ngay vào mắt là một thân hình cao, gầy
gò ngồi trên một sạp tre, lưng xoay ngược hướng chị đi vào, bên cạnh là một cặp
nạng. Chị ngập ngừng lên tiếng, kêu nhẹ tên anh.
Thân hình ấy quay nhanh về hướng chị,
cùng lúc quờ quạng chụp tìm đôi nạng gỗ. Trước mắt chị là một hình hài với chân
phải cụt lên tận đầu gối, áo quần xốc xếch, tóc tai bung xung. Chị bật khóc chạy
đến gần, trong một thoáng kịp nhìn thấy 2 vũng mắt lõm sâu không có tròng mắt.
Chị đột nhiên khuỵu người xuống trên sàn đất, như thể toàn sức lực dành cho
chuyến đi bỗng cạn kiệt. Cùng lúc ấy, bóng một người đàn bà đi nhanh từ bếp
nâng chị dậy.
Anh bị thương nặng ở chân trên đường rút
quân, cố gắng lết xa khỏi trận chiến và ẩn núp trong bụi rậm. Ngày hôm sau, địch
tìm thấy anh và bắt anh làm tù binh. Anh nghĩ vết thương ở chân phải có thể
lành nếu được chữa trị với trụ sinh và đăng bột, nhưng tên y sĩ trại tù chọn
cách dễ là tháo khớp gối. Sau đó anh còn bị đạn nổ trong khi nhóm lửa rừng sưởi
ấm ở trại tận bên Cao Miên, khiến cả 2 con mắt của anh bị hư nặng tuy vẫn nhìn
thấy rất mờ. Vì vậy anh được thả cho rời trại sớm. Trên đường khổ sở, một mình
thất thểu về lại làng phố, anh bỗng gặp một người đàn bà chưa một lần quen biết,
hiện tại là vợ của anh, đem anh về nhà săn sóc. Chồng trước của bà là một người
lính Địa Phương Quân tử trận 2 năm trước ngày mất nước.
Trong vài năm sau đó, đôi mắt anh làm độc
kinh niên nên bác sĩ đành phải múc bỏ cả hai bên.
Biết tính của anh chỉ muốn nhắc đến những
giai đoạn quan trọng của trận cuối và trong thời gian khi còn là tù binh, chị
không thắc mắc hỏi thêm, cũng chẳng cắt ngang cuộc độc thoại của anh bằng một
giọng nói trầm tĩnh của chấp nhận số phận đã an bài, của một cam chịu không lối
thoát. Chị có cảm tưởng anh chỉ thổ lộ lần duy nhất này rồi sẽ không bao giờ nhắc
lại, như chôn sâu vĩnh viễn nỗi oan khiên vào bóng tối đời anh. Đời anh là một
nỗi buồn khôn nguôi kết trái sầu tủi từ thuở anh trở thành kẻ chiến bại và phế
nhân. Anh cố tình làm ra vẻ thản nhiên như không hề muốn chị phải đau đớn, dày
vò tự trách số phận quá nghiệt ngã, cùng khốn, lỡ làng!
“Trách chi người ai lỗi ai
Trách chi người mi ướt cay
Trách chi người thôi đã xa nhau kiếp
này…
Mùi thơm khăn áo ngây ngất đi vào cổ
tích tôi”
Chị yên lặng ngồi nghe, tiếng được tiếng
không, tê tái cõi lòng, nhớ lại năm xưa có lần anh thì thầm bên chị, “may ra
anh bị thương thì chúng mình mới có thể trở thành vợ chồng.”
Thế nhưng tuyệt đối chưa một lần chị
nghĩ đến anh có thể bị thương trong cuối cuộc chiến, và cũng chưa hề nghĩ anh
đã phải trải qua những giai đoạn khổ sở cùng cực như vậy. Từ một nam nhân oai
hùng ngày xưa, nay anh là một phế nhân với những vết thương tàn phá nặng nề
trên cơ thể. Đôi mắt ngày xưa, nơi chị thường hay nhìn vào để tìm hình ảnh của
tình yêu và sức sống của tuổi trẻ mình, nay chỉ là 2 mí mắt nhíp gần nhau nằm
sâu trong một khoảng màu trắng ở giữa. Giờ đây chị mới hiểu vì sao em gái của
anh tránh không cho chị biết nhiều về anh. Chị bỗng cảm thấy gần gũi với vợ của
anh, thầm cám ơn rằng ơn Trên sắp đặt cho anh tìm được ánh sáng dịu hiền giữa
đường qua sự săn sóc, cứu vớt, nuôi nấng, bao bọc, che chở, yêu thương của người
vợ này. Như một bà tiên hiện ra nguyên vẹn để dẫn dắt, cưu mang, nâng đỡ chàng
Thiên Thần Mũ Đỏ của chị trong sa cơ thất thế, khi cánh dù bị chà đạp, tan tác
trong cuộc đổi đời.
Chiều hôm ấy, chị không từ chối khi vợ
anh mời chị ở qua đêm tại đây, cả hai cùng nhau tâm sự dưới một ngọn đèn vàng
úa duy nhất của nhà, nhất là sau khi nghe chị cho biết anh từng là người yêu đầu
đời của chị. Càng về khuya, chuyện trò càng cởi mở hơn, bấy giờ chị mới từ tốn
cho vợ chồng anh biết là chị có thai với anh ngay trong đêm trước khi anh rời
Sài Gòn về lại đơn vị cuối tháng 2, 1975. Con gái của anh sinh vào cuối tháng
11, 1975; chị đặt tên cho con là Kim Ngân, ghép từ nửa tên của chị và nửa tên của
anh, nay con gái được 19 tuổi và đang học đại học gần nhà. Vợ anh liên tục nắm
chặt tay chị và kéo chị ngồi sát vào mình, một cử chỉ che chở, chia xẻ, thông cảm
và đầy thân thiện trong suốt câu chuyện. Anh hoàn toàn im lặng, hai tay ôm đầu
mình. Thỉnh thoảng 2 vai có rung nhẹ. Mãi sau khi chị dứt, anh mới nhẹ nhàng hỏi
là con gái có biết câu chuyện giữa anh và chị, và biết anh là cha không. Con gái
anh, chị trả lời, chỉ biết cha nó là một sĩ quan Nhảy Dù, tử trận và mất xác
khi cuộc chiến VN gần đến hồi kết thúc. Ngay cả mục đích đi tìm anh trong chuyến
về VN của chị, chị cũng hoàn toàn dấu con gái.
Chỉ một điều duy nhất chị không tiết lộ
cho anh và vợ anh biết là chị đang bị ung thư vào giai đoạn cuối.
Tối hôm đó, sau khi đọc kinh cầu nguyện
cám ơn, chị có một giấc ngủ thật an lành dù lạ nhà, một phần có lẽ vì đi đường
quá mệt, phần kia vì chị đã đạt được mục tiêu chính của chuyến đi.
Sau bao nhiêu cầu xin, bao nhiêu thấp thỏm
đợi chờ mong mỏi tin tức, nguyện vọng ấp ủ từ bao năm qua nay được đáp ứng và
trở thành sự thật. Trước đây, bao thương nhớ, bao hình ảnh về anh và sự mất anh
trong đời, những suy sụp tinh thần của một người đàn bà di tản mang thai, những
oan trái mòn mỏi trong xót xa; những gian khó thử thách trong đời sống mới, những
gượng cười trong lệ sầu; những năm nuôi dạy con một mình; những cô đơn tinh thần
khi sống bên cạnh người chồng Mỹ với bao dị biệt văn hóa, ngôn từ; những mệt mỏi
thể xác qua bao lần xạ trị, hóa trị, thuốc cũ thuốc mới, những sợi tóc xanh
phai màu rơi rụng; những đau đớn chán nản khi căn bệnh trở nặng; những lo âu
suy tính về tương lai con gái rồi đây sẽ mồ côi mẹ… tất cả đã tạo cho chị một
tình trạng trầm cảm nặng nề. Nhưng giờ đây, chị vô cùng mãn nguyện tìm thấy
anh, nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt, biết anh đã sống sót qua chiến tranh,
dù bị tàn phế trầm trọng nhưng bù lại anh có một người bạn đường luôn bên cạnh,
săn sóc yêu thương anh. Hơn nữa anh còn có đứa con gái và đứa con trai.
Sáng hôm sau, đứa con trai của anh, nhỏ
hơn con của chị gần 3 tuổi, ở nhà ông bà ngoại cạnh trường trung học huyện, về
kịp chào chị trước khi chị lên đường. Chị cũng đã kín đáo trao tặng tất cả số
tiền lớn còn lại cho vợ anh đêm qua. Chị có hứa với vợ chồng anh là chị sẽ kể
cho con gái của anh tất cả câu chuyện giữa anh và chị, không một dấu diếm, luôn
cả thương tật của anh và hoàn cảnh hiện tại của vợ chồng anh. Để trả lời câu hỏi
của vợ anh, bằng một giọng mong manh sâu tận đáy lòng, chị run run xúc động cho
biết sẽ trở về lại thăm vợ chồng anh nếu sức khỏe cho phép. Sau khi chào tạm biệt
vợ chồng anh và chúc nhau an lành, hai người đàn bà ôm xiết chặt nhau, mắt chớm
lệ, gần gũi trong cảm thông trân quý. Anh vẫn đứng yên bên khung cửa trước nhà,
chan hòa trong ánh sáng ấm ban mai. Chị vội bước nhanh đến chiếc xe thồ đang đợi.
Xe rồ máy chở chị đi. Không nhìn lui, bình an trong lòng, chị ngước nhìn trời.
Một màu xanh tuyệt đẹp. Không mây.
*
“Sài Gòn ngày xưa đâu em? Mộng mơ ngày
tháng tuổi hoa niên.
Sài Gòn ngày xưa đâu em? Từng con đường
phố mình thân quen
Dĩ vãng đâu về, buồn ngẩn ngơ. Bao nhiêu
mong đợi lạc bến chờ”
Chị Kim Tiên đã không về lại VN lần thứ
hai. Chị chết trong bình an vào giữa tháng 5, 1994. Cháu Kim Ngân điện thoại
cho tôi biết, theo lời yêu cầu của Mẹ, cháu đang sửa soạn về thăm cha trong mùa
hè này, mang theo chiếc xe lăn cũ của Mẹ cùng một số tiền lớn từ bảo hiểm nhân
thọ của mẹ để lại cho cha.
Ước mong cháu Kim Ngân sẽ nuôi nấng và
gìn giữ chuyện cổ tích của cha và mẹ mình.
2017 Mission Viejo, CA
Vĩnh Chánh
Share Lại Người Lính Già TQLC
Saturday, January 18, 2025
Đời Lính - Quan Dương
Hai tên ốm nhách mặt mày còn non choẹt
giống đồ hỉ mũi chưa sạch . Ba lô mang sau lưng thấy nhẹ sình nhưng thật ra rất
nặng bởi vì trong đó có một cấp số đạn M16 là 480 viên phải mang theo, một cái
poncho dùng để làm áo mưa, làm phao mỗi khi bơi qua sông, một cái võng và một
cái mền dù dùng để quấn khi đêm xuống . Ước lượng ba lô trên lưng nặng từ 20
kg. Lội bộ chừng vài ba cây số thì không sao nhưng sau này ra đơn vị có nhiều
khi phải lội suốt ngày trên cả chục cây số với chiếc ba lô như vầy nhiều khi
hai chân có cảm tưởng muốn lìa khỏi thân thể luôn
Cũng giống như hoàn cảnh của những người
lính sau 30/04/75 khi miền Nam của nước Việt Nam Cộng Hoà bị đoạt chiếm bởi cuộc
xâm lăng của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà phía bắc, hai đứa bị đi ở tù ở lứa
tuổi 25 . Hai mươi lăm tuổi đó là lứa tuổi thanh xuân đẹp nhất của đời người .
Hai đứa chúng tôi phải trả giá cho cái tội đã cầm súng bảo vệ nền tự do cho tổ
quốc của mình . Điều an ủi cuối đời là cả hai đều tị nạn chính trị và được định
cư tại Mỹ . Dù khác tiểu bang với nhau nhưng so với bạn bè chiến hữu còn kẹt lại
VN chúng tôi còn may mắn hơn rất nhiều. Bộ quân phục mà một thời tuổi trê được
mặc nó trên người đó là một vinh dự dù lịch sử đã đem phần thắng giao cho kẻ ác
Tuổi trẻ trong đời lính chúng tôi gian
khổ và lúc nào cũng luôn kề cận cái chết nhưng chưa bao giờ suy tính thiệt hơn
. Tuy gian khổ và mạng sống luôn là bất chợt có thể hy sinh bất cứ lúc nào
nhưng về già nhiều khi lại rất nhớ những ngày tháng lặn lội trong rừng như thế
. Nhớ những ngày ngủ võng trùm poncho ven con suối hay bụi bờ . Nhớ những lần bạn
bè đồng đội cùng chuyền nhau hút chung điếu thuốc . Nhớ mỗi lần khi ra khỏi đám
tranh cao phủ che đầu thế nào cũng ngước nhìn lên bầu trời có những đám mây
đang bay về thành phố phía dưới . Nhớ góc rừng sâu có tiếng con man kêu lạc bạn,
có tiếng con chim trốn trong những tàng cây che kín . Nhớ để mà nhớ, để mà biết
rằng thời gian sẽ không bao giờ quay ngược lại . Buồn
Buổi sáng khi nắng lùa qua khe cửa
Hôn lén lên làn môi thơm mùi con gái
Em hãy còn ngái ngủ ngây thơ
Chính là lúc anh vừa thức dậy
chấm trên bản đồ đường tiến chiếm mục
tiêu
Buổi trưa nắng ru tình trên phiến lá
Mây lang thang theo ngọn gió tha phương
Anh ngước nhìn mây trời màu tím dã
Thấy thương mình đang mài miệt biên
cương
Mỗi buổi tối em bình yên giấc ngủ
Má em hồng ôm mộng nở hoa duyên
Chính là lúc anh đang ngồi bên suối
Nghe lá rừng rụng nặng giọt sương đêm
Đời của lính một ngày như thế đó
Nếu mai này dù anh phải hy sinh
Chẳng ai nhớ lính đã từng hiện hữu
như hạt sương nằm ngủ cạnh bờ sông
Như hạt sương âm thầm trên bãi cỏ
Chờ mặt trời lên rồi lặng lẽ tan đi
Không kịp nói với em lời từ biệt
Bởi muôn đời súng đạn vẫn vô tri
Quan Dương
* Quan Dương (trái) và Lưu Thế Bình (phải)
trong những tháng đầu làm tân bình ở quân trường Quang Trung tháng 11/69 .
Đồ Lâu Rồi Không Xài
Một người phụ nữ giàu có sau một lần đi chơi nước ngoài về nhà sớm hơn dự định, đã bắt quả tang chồng mình đang "tò tí te" với một cô gái khác trong nhà.
Chủ Nghĩa Vì Dân Của Trump - Đại Dương
Tuy
có sự gián đoạn giữa hai nhiệm kỳ tổng thống, nhưng, Donald Trump vẫn tiếp tục
vai trò lãnh đạo Thế Giới Tự Do theo con đường “Không Cộng Sản, Tự Do
Phát triển”; đồng thời, chẳng làm tay sai cho bất cứ ai.
Theo
Hoa Kỳ hay Chống lại sẽ được Tổng thống Donald Trump đối xử đúng mực, không a
dua, nể trọng đúng cương vị của một siêu cường duy nhất trên thế giới.
Một
số quốc gia Châu Âu cố tình lợi dụng Hoa Kỳ để hưởng thụ nhiều, đóng góp ít
theo kiểu khôn vặt.
Tổng
thống Donald Trump không còn thời gian để thuyết phục Chủ nghĩa Thuộc địa của
Châu Âu và Chủ nghĩa Cộng sản của Trung Quốc. Giờ hành động đã điểm.
Thời tiết Địa Cầu ngày càng ấm thêm tạo điều kiện cho giới
Hàng hải Quốc tế chọn con đường hải vận quanh Trái Đất tiện lợi hơn. Hải lộ này
đi qua vùng băng tuyết của Nga trước khi tới Nauy (Norway). Nếu đi
theo hải lộ cũ sẽ bị Cướp biển đang gia tăng quanh vùng Sừng Châu Phi; mật độ
tàu thuyền đông đúc thường bị kẹt ở Eo biển Malacca; nhiều cuộc tấn công khủng bố
hơn tại Kênh đào Suez.
Nga
và Trung Quốc đang cố gắng khai thác hải lộ quốc tế tràn ngập băng giá mà mỗi
năm chỉ được một số ngày tàu buôn có thể hải hành hạn chế.
Vì
thế, Greenland và Đan Mạch (Denmark), đang và sẽ trở thành vị trí
quan trọng trong hải trình này bất cứ trên phương diện dân sự hoặc quốc phòng.
Trong quá khứ, có khoảng 10,000 quân Mỹ đồn trú hàng chục
căn cứ rải rác quanh bờ biển Greenland, nhưng, bây giờ chỉ còn 200 binh sĩ.
Rasmus
Jarlov, một nhà lập pháp Bảo thủ đối lập người Đan Mạch cho biết “Nếu người
Mỹ thay đổi ý định và muốn có sự hiện diện lớn hơn, thì chúng tôi hoàn toàn cởi
mở”.
Greenland nằm gần lục địa Bắc Mỹ, giữa Đại Tây Dương và
Bắc Băng Dương. Đảo có diện tích khoảng 2.16 triệu km2, gấp hơn 3 lần bang Texas
và có dân số khoảng 57,000 người. Bên dưới lớp băng có dầu mỏ, khí đốt, đồng,
niken, than chì, lithium và đất hiếm - những nguyên liệu thiết yếu trong sản xuất
xe điện, năng lượng tái tạo và thiết bị quân sự. Greenland trong
chiến lược giảm phụ thuộc vào nguồn đất hiếm từ Trung Quốc. Hiện nay Bắc
Kinh kiểm soát phần lớn nguồn cung đất hiếm toàn cầu, và việc Greenland sở hữu
một trữ lượng đáng kể tạo cơ hội để Mỹ thay đổi cục diện này.
Tổng thống Harry Truman từng đề nghị trả 100 triệu đô
la
(khoảng 1,3 tỷ USD) sau Đệ nhị Thế chiến, nhưng, bất thành.
Phần lớn dân Greenland gốc Inuit, một dân tộc bản địa cũng
sống ở Alaska và Canada. Ngôn ngữ khác xa tiếng Đan Mạch kể cả văn hóa và truyền
thống được tìm thấy ở Đan Mạch và Tây Âu; Ông cho biết nhiều người Greenland
ngày nay có quan hệ họ hàng với người Đan Mạch thông qua chủ trương đồng hoá từ
Thủ đô Copenhagen. Vào những năm 1960-1970 bác sĩ Đan Mạch đã trang bị cho hàng
nghìn phụ nữ và trẻ em gái người Inuit các thiết bị tránh thai như một phần của
chiến dịch kiểm soát sinh đẻ bắt buộc; giáo dục lại thành người Đan Mạch “mẫu mực”.
Sinh
viện Bossen cho biết “không hoàn toàn tin tưởng người Đan Mạch. Có lẽ
sẽ tin Trump hơn”.
Greenland tuy là hòn đảo lớn nhất trên thế giới, nhưng,
không đủ phương tiện để tự bảo vệ sự sống còn của dân tộc mà phải gắn liền với
một cường quốc hùng mạnh như trường hợp Nhật Bản, Đại Hàn, Tân Gia Ba từng chọn
Hoa Kỳ làm “đồng minh chiến lược” mới thoát cái vòng luẩn quẩn “chiến
tranh, tụt hậu, nghèo đói”.
Greenland
nên thuộc bài học Tân Gia Ba mới có thể vươn lên từ một xứ nhỏ bé, không có tài
nguyên thiên nhiên mà lọt vào trong nhóm các quốc gia độc lập, tự chủ, phát triển
như vũ bảo tại Đông Nam Á cũng như trên bình diện quốc tế.
Đừng
đánh giá quá cao khả năng của một dân tộc mà phải chọn lựa đối tượng nào đủ khả
năng bảo vệ nền độc lập của dân tộc và phát triển kinh tế. Hoặc như Nhật Bản và
Hàn Quốc sau Đệ nhị Thế chiến đã tránh được chiến tranh triền miên mà tập trung
canh tân đất nước nhanh chóng và toàn diện nhất so với những láng giềng nay ngã
bên này, mai nghiêng sang phía bên kia của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á miệng
hô khẩu hiệu “tự chủ” mà ngửa tay nhận tiền ngoại bang rồi nó biến đi
đâu chẳng ai biết. Hoặc truy cứu không kết quả cụ thể nên lại tiếp tục điệp
khúc “độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính”.
Kiểu độc lập, tự chủ máy móc như nhiều quốc gia ở Đông
Nam Á, cũng như khắp thế giới hô vang khẩu hiệu tự chủ mà phải bán tài nguyên thiên
nhiên quý giá của dân tộc để mua vũ khí giết nhau, đe dọa láng giềng rồi nghèo
đói cứ lẫn quẩn như lồng đèn kéo quân.
Sở
dĩ Tổng thống Nga Vladimir Putin và Chủ tịch Tập Cận Bình chưa có hành động cụ
thể đối với Greenland vì Tổng thống Joe Biden đang bị sa lầy tại Ukraine và
Trung Đông trong lúc hai cường quốc này đang lo khai thông hải lộ đi ngang qua
Greenland.
Hôm
07/01/2025, Quốc vương Đan Mạch, Frederik đã gây bất ngờ cho giới sử học khi
quyết định thay đổi huy hiệu Hoàng gia đã có từ hơn 500 năm, trong đó Greenland
và quần đảo Faroe được thể hiện nổi bật hơn như để trả lời Tổng thống Donald
Trump công khai muốn mua Greenland.
Máy
bay của con trai Tổng thống chưa nhậm chức Donald Trump đã đáp xuống Greenland
như một du khách nên không có phần đón tiếp chính thức như nhắc nhở mối quan
tâm của Chính quyền Trump đối với hòn đảo lớn nhất trên trái đất.
Tại sao Tổng thống Donald Trump quan tâm tới việc mua Greenland
từ nhiệm kỳ 1
(2017-2021) và muốn kết thúc trong nhiệm kỳ 2?
1- Không muốn cho Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh làm chủ tuyệt
đối hải lộ Bắc Cực nên Hoa Kỳ phải dựa vào Greenland. Thời gian tàu bè có thể
lưu thông tại vùng biển này hiện kéo dài từ tháng 7 tới cuối tháng 10. Tàu bè
qua lại sẽ được tàu phá băng của Nga hỗ trợ.
2- Nga xác nhận đang kiểm soát toàn bộ tuyến đường biển
phía Bắc, mặc dù nhiều phần của hải lộ này đi qua vùng biển quốc tế.
3- Hội đồng Bắc Cực, được thành lập năm 1996 chỉ bao gồm
những quốc gia có quyền lợi trực tiếp tại khu vực này như Đan Mạch, Na Uy, Thụy
Điển, Phần Lan, Iceland, Mỹ, Canada và Nga. Nhưng, Bắc Kinh đã đóng vai trò
khai thông hải lộ quốc tế từ Trung Quốc tới
Theo
Ban Quản lý Hải lộ Bắc của Nga, cơ quan được thiết lập gần đây để quản lý khu vực
này, thời gian tàu bè có thể lưu thông tại vùng biển Bắc Cực hiện kéo dài từ 4
tới 6 tháng, bắt đầu từ tháng 7 tới cuối tháng 10. Tàu bè qua lại sẽ được tàu
phá băng của Nga hỗ trợ.
Nhiệm kỳ 2 của Tổng thống Trump chỉ đòi Liên Minh Châu
Âu hoàn thành các lời cam kết với NATO. Đồng thời, làm sao ngăn cản tham vọng của
Nga và Trung Quốc khống chế hải lộ này?
Từ trước tới nay, Greenland sinh sống bằng nghề đánh bắt
hải sản. Nhưng, xu thế khai thác tài nguyên khoáng sản quý, hiếm đang thắng thế.
Nó sẽ đáp ứng chủ trương của nhiệm kỳ II Donald Trump.
Một cuộc chạy đua mới và gay cấn mang tính toàn cầu tại
Greenland sẽ là phước hay hoạ cho nhân loại?
Đại-Dương
Xuân Ni Vắng Mạ - Thanh Ho
Chiếc xe lam đỗ xịch lại trước cái quán
bên đường làm cho không khí trong quán bỗng huyên náo hẳn lên. Tiếng trẻ con
chào mời khách mua quà bánh, pha lẫn với những tiếng léo nhéo cười đùa của đám
lính trẻ đang ngồi hút thuốc chờ xe quân vận đến bốc về trại. Tôi lách người
chui ra khỏi chiếc xe lam, nồng nặc mùi mồ hôi xen lẫn thoang thoảng mùi dầu
gío xanh Con Ó của bà cụ ngồi cạnh. Cái nắng buổi trưa của Bình Định như phả
vào mặt làm tôi hoa mắt không nhìn rõ được những gì trong quán.
“Thằng ni sao chừ còn ở đây?”
Tiếng của bà cụ Giáo vang lên mang theo
mùi thuốc lá Cẩm Lệ quen thuộc làm tôi chợt vui vì được gặp lại “Mạ”. Lũ lính
tráng chúng tôi, mỗi khi được xuất trại hoặc đi đâu về, thường hay ghé quán của
cụ Gíáo để ăn bát bún bò Huế cay toát mồ hôi. Có khi hết tiền thì uống cốc cà
phê đen hoặc mua bao thuốc lá trước khi về lại trại. Ghé mãi thành quen rôì cứ
xem cụ như người nhà.
Không biết trong bọn tôi đứa nào khởi sự
gọi cụ bằng Mạ, chẳng bao lâu thì cả bọn tôi cùng gọi cụ Giáo bằng Mạ. Không phải
vì Mạ có hai cô con gái đẹp mà làm tôi muốn gọi cụ bằng Mạ, mà thật sự ở cụ tôi
tìm thấy những lời hỏi thăm chân thật, những ánh mắt tha thiết như của mẹ tôi vậy.
“Mạ sao cũng còn ở đây à? Còn Lan, Hường
đâu sao không vào đưa Mạ chạy tạm vào Qui Nhơn ít hôm?”
Tiếng Mạ lo lắng: “ Con Lan hắn chạy vào
Nha Trang với thằng chồng nó sạng nay rồi. Tau chờ con Hường hai hôm ni mà chưa
thấy hắn về.”
“Đi mô mà mất biệt làm tau lo quạ!”
Tôi vội trấn an cho Mạ bớt lo:
“ Không sao đâu Mạ, Phú Mỹ với đây chỉ
đi hai chặng xe thồ là em Hường về đến nhà ngay ấy mà. Thế Hường có nói với Mạ
là nó có đi theo trường hay không? Giáo viên quận lỵ lúc loạn lạc thì chắc cũng
lu bu với đám học trò. Mạ cứ an tâm, hắn về ngay âý mà.”
Một ngày đầu tháng Tư, 1975…
Từ tờ mờ sáng hôm nay, những đoàn người
chạy loạn xuôi về Nam càng lúc càng đông. Những chiếc xe thồ ba bánh được tận dụng
tối đa, đàn bà con nít, dồn hết lên chiếc xe đã đầy những gồng gánh và ba lô
hành lý. Đằng sau những tiếng súng như càng lúc càng gần, tôi không hiểu đây là
súng của Sư Đoàn 22 Bộ Binh VNCH hay là của Trung Đoàn Sao Vàng của địch quân.
Những chiếc trực thăng chật ních những người như muốn trĩu xuống vì chở quá tải,
bay lè tè dọc theo quốc lộ như để phòng hờ phải đáp khẩn. Cái hỗn loạn mỗi lúc
một trầm trọng, tôi bồn chồn chờ ở phi đạo 243 một cách tuyệt vọng. Tiếng ông
thượng sỹ Quang chua chát:
“ĐM tụi nó bỏ mình rồi!”
Tôi nuốt nhanh ngụm khói thuốc như để tự
trấn an mình cho bớt sợ, cái viễn ảnh bị bắt làm tù binh làm tay tôi bỗng dưng
run lên khiến điếu thuốc lá tuột khỏi hai ngón tay đã nâu đi vì khói .
“ Bây giờ anh tính sao anh Quang? Liệu
mình có đi đường bộ được không?”
Quang hằn học : “ĐM bây giờ mình chỉ có
nước chạy ra khu đổ rác thì may ra thằng Thần Tượng (Phi đội trực thăng) mới
dám xuống, chứ ngôì đây cả lũ thế này thì thằng đéo nào dám xuống.”
Tôi quơ vội cái túi xách và khẩu M16 rồi
phóng nhanh ra chiếc Dodge của Không Đoàn Bảo Trì. Quang cũng hấp tấp nhẩy lên,
đạp ga mạnh cho chiếc xe lao vụt về hướng bãi đổ rác gần vòng đai phi trường.
Bãi đất trống cạnh những đống rác nồng lên mùi rác ẩm. Tôi thầm phục Quang
nhanh trí đã nghĩ đến chỗ này, chẳng một ma nào thèm mò đến đây để dành lên maý
bay với chúng tôi. Quang bắn liên tiếp hai phát flare đỏ làm hiệu, quả nhiên
không bao lâu thì tiếng quạt của trực thăng sập đến mang theo những rác rến
đang bị thổi tung lên cùng với những chiếc lá xoài khô chưa kịp ẩm mục.
“ Lẹ lẹ đi mấy cha, ĐM tụi nó bắn rát
quá!”
Tiếng phành phạch của chiếc UH1* mang
tôi bay bổng vào vùng trời đầy mây xám. Gío phần phật bên tai, tôi tựa cửa con
tầu nhìn xuống phi trường Phù Cát đang nhỏ dần, và chìm khuất trong ký ức của một
người lính thua trận.
Edmonton, một ngày đầu Đông…
Lâu lắm rồi không còn nghe tiếng cánh quạt
của trực thăng, vậy mà hôm nay đang đi bộ dọc theo con lộ Rabbit Hill thì bỗng
đâu có tiếng phành phạch quen thuộc của chiếc UH1 đang lượn ngay trên đầu, tôi
giật mình ngước lên, rồi vội trấn tĩnh và tự bảo “ trực thăng của Global News”.
Tôi lầm lũi đi về phía bờ sông Saskatchewan mà bỗng bồi hôì nhớ lại mùa Xuân
75. Không hiểu giờ đây Mạ của bọn tôi còn ở cái quận lỵ Gò Găng buồn như trấu cắn
ấy hay đã trôi dạt về phương Nam mịt mờ xa tít. Tôi bùi ngùi nhớ lại mùi thuốc
lá Cẩm Lệ hăng hắc của Mạ. Mạ thường ve thuốc hút, vừa nhóp nhép giọng Huế:
“ Biết chừng mô tụi mi mới thôi đánh
nhau. Loạn lạc khổ quạ lấy chi ăn đây?”
Lần này bà lưỡng lự mãi, không muốn hoà
nhập vào dòng người di tản, một phần vì muốn chờ Hường. Cô gái út của bà không
hiểu vì sao đi dạy học ở Phú Mỹ, chỉ cách có một giờ xe mà vẫn biền biệt không
tăm hơi. Tôi bỗng thấy thương Mạ quá, vẫn mỏi mòn chờ con. Tôi ngậm ngùi thương
cho những người đàn bà Việt Nam, miệt mài làm lụng vất vả ,buôn bán lo cho chồng,
cho con, chẳng bao giờ có thời giờ để nghĩ đến mình. Cuộc chiến như luôn đeo đuổi
những người vợ lính như để vội vã quấn vành khăn tang lên những mái tóc vẫn còn
xanh. Chiến tranh như trực chờ để trút lên đầu họ những bất hạnh.
Trong cái tận cùng đau đớn mất chồng lạc
con. Mạ vẫn lặng lẽ cam chịu, vẫn gắng sống mong đợi một ngày khi đất nước
thanh bình để Mạ có thể về lại Huế. Chỉ có Huế của Mạ, mới có sông Hương thơ mộng,
uốn lượn như mái tóc đen bóng, thơm mùi bồ kết của Hường. Những lúc nhớ con, Mạ
mắt long lanh thở dài: “ Tau nhợ con Hường quạ! Con ni đi chi mà đi miệt.”
Những lúc Mạ nói như thế, làm tôi bỗng
nhớ đến đôi mắt tròn đen láy tinh nghịch của Hường mỗi khi tôi ra quán. Cô có
cái cười mim mím như muốn che dấu cái răng hơi hô của mình làm cho hai má cô
như bừng lên vì ấp úng. Tôi yêu cái cười mím đó như thể cô muốn nói một điều gì
đó, mà vì ngượng nên chưa dám nói. Hình ảnh của Hường trong chiếc áo dài mầu mỡ
gà khi cô đứng chờ xe lam dưới bóng cây bàng, cho người ta cái cảm giác cô như
một giòng suối mát, mềm mại chảy ngang vùng đất khô, đang nứt ra vì cái nắng
nóng thiêu đốt của miền Trung.
Mỗi khi nghe tôi ho khúc khắc, Hường hay
nhỏ nhẹ bảo tôi: “ Anh đừng hút thuốc nhiều quá hị! ra đây em pha nước mát uống
cho bớt ho.” Tôi cảm động bởi những cử chỉ săn sóc nho nhỏ của Hường, tôi muốn
nói với Hường nhiều lắm nhung không hiểu vì sao vẫn chưa nói được. Thế rồi những
ngày loạn lạc, bom đạn vang rền trên các quận lỵ của miền Trung, và tôi không
còn bao giờ có dịp để nói với Hường cái ước mơ của tôi được đưa nàng về lại Huế,
dạo phố chợ Đông Ba hoặc đi lên Thiên Mụ hái hoa đại nữa. Tôi vẫn không tin là
chiến tranh đã cướp mất của tôi người bạn gái Huế năm nào. Tôi vẫn hy vọng được
gặp lại nàng, một ngày nào đó khi quê hương không còn ly loạn. Hình ảnh cô giáo
tiểu học trong một quận lỵ nhỏ, với nụ cười mím của Hường như vẫn đeo đuổi theo
cái ký ức mỗi lúc một mờ nhạt của tôi.
Năm ngoái Bình, một người bạn của tôi,
có dịp về thăm lại quê ở Bình Định. Anh có tìm và hỏi thăm tin tức của Mạ thì
được hàng xóm cho biết “bà già Huế” đã chết sau mấy năm lặn lội đi tìm con.
Cũng may có đứa cháu họ xa nó lo cho phần chôn cất chứ hai đứa con gái vẫn biệt
vô âm tín.
Reng reng…reng reng…
Tiếng điện thoại di động rung lên lôi
tôi về thực tại: “Bố đang ở đâu đó? Có về ăn cơm không hay còn đang lang thang
đi đâu vậy?” Tiếng đứa con gái của tôi đang cằn nhằn cái gì đó làm tôi chợt nhận
ra là trời đã tối hẳn, gió lạnh từ bờ sông Saskatchewan thổi tốc lên xô tôi
nhanh về phía bãi parking. Lên được xe, tôi đánh diêm châm một điếu thuốc lá:
“Cái xứ gì mà lạnh quá không biết!”
Quành đầu xe ra xa lộ Whitemud được khoảng
hai phút. Tôi bỗng đổi ý bẻ ngoặc tay lái rẽ vào đường Fox Drive định đi về lại
phố Tầu. Bỗng dưng ngay bên con đường vắng, cạnh cái thành cầu, tôi thâý một cô
gái tóc đen láy trong chiếc áo dài trắng. Kééét!
Đạp mạnh thắng! Hai mắt tôi mở căng ra,
tôi chợt ú ớ “Ủa? Hường!”. Tôi ngừng xe tạt vào bên con đường vắng. Vẫn không
tin những gì mình vừa nhìn thấy, cúi đầu xuống vô lăng, hít mạnh một hơi ngửng
lên, thì không còn thâý bóng Hường đâu nữa. Tôi bước hẳn ra khỏi xe quan sát,
Hường đứng đó xa xa, tái xanh trong chiếc áo dài trắng, nhìn tôi như muốn nói
điều gì đó. Tôi tiến lại gần hơn để định thần nhìn cho kỹ thì hình như bóng cô
cứ lùi dần; và đột nhiên như chìm hẳn vào màn đêm dầy đặc sương lạnh. Một cảm
giác lành lạnh sau gáy làm tôi vội kéo lại cái cổ áo khoác ngoài. Lắc mạnh đầu,
tôi tự nói: “ Chắc mình phải đi khám mắt lại, trông gà hoá quốc rôì!”. Tôi
phóng nhanh về lại nhà trong cơn bão tuyết của muà đông Edmonton.
Không biết tại sao tay tôi run quá, cầm
nén hương trong tay, tôi run run bật lửa, tôi nói thầm:
"Đêm nay là đêm giao thừa, con thắp
nén hương này cho Mạ để Mạ biết là con đã tìm được Hường cho Mạ rồi, Mạ linh
thiêng thì về đón em con Mạ hỉ!”
Bên ngoài, gió Bắc đang thổi rít lên làm
cho những bông tuyết trắng xoá đập mạnh vào cửa sổ như có tiếng ai đó đang gõ cửa
gọi “ Mạ ơi!”.
Edmonton, một đêm Đông gía lạnh.
Thanh Ho