Người Phương Nam
Pages
- Trang Chủ
- About Me
- Truyện Ngắn
- Sưu Tầm
- Sưu Tầm from 2020
- Góp Nhặt Bên Đường
- Nhạc Chọn Lọc
- Sưu Tầm Sức Khỏe
- NPN's Recipes
- Kịch Vui
- Cười Ý Nhị
- PPS + YouTube Chọn Lọc
- Những Hình Ảnh Ý Nghĩa
- Thơ
- Thơ from 2020
- Bùi Phương Lưu Niệm
- Trang Anh Ngữ
- Truyện Dài : Về Phương Trời Cũ
- Truyện Dài : Ngày Tháng Buồn Hiu
Wednesday, March 22, 2023
Thịt Quay Kho, Một Trong Những Món Kho Đơn Sơ Dễ Làm Nhưng Rất Hấp Dẫn
Dự Đoán 10 Loại Công Việc Của Con Người Sẽ Do AI Làm Thay
Ngoài ra chuyên gia công nghệ Kai-fu Lee cũng liệt kê top 10 công việc tưởng
chừng là “công việc vàng”, nhưng dưới sự phát triển của AI thực chất lại đang
gặp nguy hiểm: nghiên cứu thị trường, nhân viên điều chỉnh bảo hiểm, nhân viên
bảo vệ, tài xế xe tải, người thụ lý vay tiêu dùng, phóng viên tài chính và thể
thao, nhân viên kế toán và phân tích tài chính, người hái trái cây, chuyên gia
đầu tư, bác sĩ X quang. Ông dự đoán các vị trí bị AI thay thế không chỉ giới
hạn ở những công việc có thu nhập thấp, vì vậy trước tiên mọi người có thể
tránh những lĩnh vực này và qua đó hãy hoạch định lại nghề nghiệp cho tương
lai. Cho dù AI gây vấn đề khủng hoảng nghề nghiệp, nhưng theo ông Kai-fu Lee
thì những vấn đề “rất người” như nhu cầu tình yêu, đồng cảm và nhu cầu người
bạn đồng hành là thứ AI lạnh lùng không thể thay thế.
Thiên Tư
Nửa Đời Còn Lại - Sỏi Ngọc
Tôi đứng trước tủ áo mở toang, lần
lượt nhìn từng cái, nghĩ thầm: Cái đầm này tay áo ngắn quá, lớn tuổi rồi cánh
tay chẳng còn tròn lẳn như xưa, lại phơi ra thì không lịch sự cho lắm!.. Còn
chiếc áo này thì cổ hơi hở, lần đầu tiên gặp người ta, mình không tự nhiên!
Chiếc quần này thì ống loe quá làm người mình sao lùn hẳn…
Cứ thế tôi tung hết cả cái tủ quần
áo ra đầy giường ngủ lớn queen size mà vẫn chưa chọn được cái nào vừa ý mặc cho
chiều nay, lại gần đến giờ phải đi nữa, từ nhà đến chỗ hẹn cũng phải mất 1
tiếng đồng hồ trừ hao giờ kẹt xe nữa chứ; thế mà chả có cái nào hợp với mình
vào lúc này cả, vậy mà cuối tuần nào tôi cũng đi shopping với bạn, khiêng về
bao nhiêu cái!
Nhìn đồng hồ, rồi vội vàng bấm số
gọi cho cô bạn:
- Allo Thu Hằng hả? Bích Chiêu
đây... Cho mình xin lỗi nhé, chắc mình sẽ không đến đâu, mất công quá...
- Tại sao không đến?
- Tại vì…
Tiếng Thu Hằng nói rõ ràng trong
điện thoại vẻ không bằng lòng lắm:
- Nè Bích Chiêu ta nói cho mi biết
nhe, người ta không phải người ở đây đâu, lâu lắm mới về thăm gia đình một lần,
ta phải nói gẫy lưỡi mới có ngày họp mặt hôm nay, hôm thì mi bận, hôm thì ổng
bận, rồi hôm thì ta bận... Cả 3 người mình đâu phải ở không đâu mà muốn gặp lúc
nào thì gặp chứ! Mi phải biết muốn gặp nhau lấy hẹn rất khó, mi lại mè nheo nữa
thì ta hết ý rồi đó…
- Ta xin lỗi!
- Vậy sao ngay từ đầu mi không nói
luôn là không muốn gặp đi, để ta đỡ phải mất công lấy hẹn? Mà nói cho ta biết
vì sao mi lại đổi ý vậy để xem có lý không cái đã?
- Tại vì... ta không tìm được bộ đồ
nào cho vừa ý…
- Thiệt tình! Chờ đó, để ta đem đến
cho mi bộ đồ của ta nhe!
- Thôi! Đồ mi toàn là cái hở sâu quá
không à.
- Dạ thưa chị, em biết chị chỉ thích
mặc mấy đồ kín cổ cao tường, áo đầm dài chấm đất, bao phủ toàn thân phải không?
Chán mi ghê, ổng có chấm điểm quần áo đâu chứ, chỉ muốn nói chuyện thôi.
- Thì lần đầu gặp gỡ mà mi, sure là
ổng sẽ nhìn mình từ đầu tới chân rồi.. Ta ngại quá! Ta nghĩ lại rồi, bây giờ
mình đã không còn trẻ, đã gần 60 rồi, không biết có cần ai làm bầu bạn không
nữa, ta đã quen sống một mình, quen tự do cả 10 năm nay rồi, bây giờ lại quen
thêm ai nữa cho mệt, lại làm phiền cả đôi bên... ta...
- Hey! Stop nhe! Nói cho mi biết
nhe, ta mệt vì mi và cả ổng, cả 2 người y chang vậy, ổng cũng như mi, sáng nắng
chiều mưa, lúc thì yes yes, lúc thì no no... Ta nói hết nước miếng luôn đó!
Thôi, đi thay đồ đi ta đến đón nhe, trong nửa tiếng nữa ok.
Tôi ngần ngừ thì đã nghe cô bạn cúp
cái rụp bên kia đầu dây.
Quay trở lại với núi quần áo đầy một
giường, tôi phải mặc 1 trong những thứ ấy mà thôi vì không còn chọn lựa nào
khác nữa, nếu không phải mặc đồ cô ta áo thì ngắn tay rộng, cổ lại khoét sâu
nữa!
***
Mùa Xuân năm ngoái tại hội chợ Tết,
giữa tiếng pháo đỏ đì đùng, đoàn múa lân với thằng bờm nhảy lao xao trước tiệm
bán hoa mai đào của đoàn tôi cho việc gây quỹ từ thiện, tôi gặp lại cô bạn học
cũ thời trung học, Thu Hằng. Chúng tôi rất thân nhau thuở cùng đi học; đã
khoảng một thời gian dài 20 năm chúng tôi chưa từng gặp lại vì sau khi học
xong, mỗi đứa một nơi, lập gia đình, bận rộn chuyện công sở... Thu Hằng vẫn
không đổi bao nhiêu, vẫn hay nói cười huyên thuyên, đã lập gia đình nhưng vẫn
chẳng có con.
Còn số phận tôi không được may mắn
lắm, chồng tôi đã qua đời sau một cơn bạo bệnh cách đây 10 năm, anh ra đi nhẹ
nhàng, bất ngờ sau khi ăn cơm chiều xong, chàng bị lên cơn đau tim, gục xuống
bàn và chìm sâu vào giấc ngủ miên viễn, chúng tôi vô cùng hụt hẫng, và không
chuẩn bị; gánh nặng như thêm sức làm oằn đôi vai gầy guộc của tôi, vừa đi làm,
vừa trông con, làm tôi không còn chút thì giờ nào cho riêng mình.
20 năm như một thoáng mơ, hai đứa
chúng tôi ngồi với nhau ở hội chợ Tết, tôi kéo chiếc ghế cho bạn ngồi, hai đứa
tâm sự với nhau mãi đến chiều khi chẳng còn người trên sân khấu nữa, nhìn xung
quanh mọi người đã về hết, Thu Hằng vẫn cứ nài nỉ tôi:
- Mi hãy nghe ta, đi thêm một bước
nữa cho bớt cô đơn, thấy mi còn trẻ, còn sắc, ta thấy tiếc lắm!... Mà mi nhớ
ông anh ta không? Cái ông chả bao giờ nhìn đến con gái cả đấy?
- Ta... thật tình cũng nhiều lúc
thấy buồn và lẻ loi lắm, nhưng nghĩ mình đã lớn tuổi, vác thêm một người nữa
lại phải có trách nhiệm, rắc rối quá!
- Cứ thử xem sao, hãy mở lòng và cho
mình một cơ hội nữa, được thì tiến xa, không thì mi cũng chả mất mát gì mà,
đúng không? Con mi đã lớn, hãy nghĩ cho bản thân mình.
Tôi chả biết trả lời sao, im lặng
sửa soạn mọi thứ chất lên xe ra về.
Lúc tôi vừa bước lên xe, nó cố níu
tay tôi:
- Ông anh ta sẽ từ bên Pháp về thăm
nhà vào tuần tới, ta sẽ tạo điều kiện cho mi và ổng gặp nhau nhé?
- Thôi thôi, ta ngại lắm, đừng đừng!
- Hum... Chán mi quá, cứ suy nghĩ
đi, có gì nói ta biết sau.
Nàng vẫy tay chào tôi khi tôi cho
máy xe nổ sửa soạn về nhà.
Trên đường về, tôi nhớ lúc nãy Thu
Hằng có kể cho tôi nghe về ông anh của nàng. “Anh Ba của ta rất thành công
trong sự nghiệp, anh đã giữ những chức vụ rất cao, làm được rất nhiều tiền, tậu
nhà cửa thật đẹp, nhưng ảnh chả có ai để chia sẻ... Bây giờ ảnh đã về hưu với
căn nhà kếch xù, bốn bức tường màu ngà cũng quay mặt làm ngơ mỗi khi ảnh muốn
kể một câu chuyện khôi hài, những chậu hoa vẫn quay mặt lãnh đạm trên chiếc bàn
rộng lớn trong nhà bếp, căn bếp thì lúc nào cũng lạnh tanh và đầy bụi bặm; nên
lúc này chàng mới nghĩ đến việc cần một nửa còn lại của mình!
Tôi mỉm cười, con người ta khi nào
cần thứ gì thì mới đi tìm thứ đó, chứ lúc chưa cần có người đem dâng đến “mõm”
cũng không thèm nhìn tới!
Hình ảnh một người đàn ông cao, gầy,
quần áo phẳng phiu nhưng chỉ mỗi một cái áo trắng với chiếc quần tây đen duy
nhất... Tôi đã nhớ ra ông anh này của nàng rồi, chỉ biết ở nhà gọi là anh Ba
chứ không biết tên anh trên khai sinh là gì nữa.
Nhà Thu Hằng có 3 anh em. Nàng là
con gái út; anh hai đã có gia đình khi chúng tôi mới vào lớp 6, anh ba là con
mọt sách, chàng thích nghiên cứu về khoa học, suốt ngày vùi đầu vào thư viện
với đôi mắt kiếng dầy cộm mà chẳng bao giờ ngước đầu lên để nhìn ánh mặt trời;
tôi nhớ nhiều lần đến nhà cô bạn, chàng đi ngang qua chiếc xích đu mà tôi và
Thu Hằng ngồi giữa sân, chàng cứ lăm lăm đi thẳng ra cổng, cho đến khi cô bạn
tôi gọi giật lại:
- Anh Ba, bạn em chào anh kìa!
Anh quay lại liếc tôi một cái, vẻ
xấu hổ vì gặp con gái, khuôn mặt anh đỏ bừng, luống cuống anh nói:
- Chào... ở nhà chơi với Thu Hằng
nhé!
Chàng nhảy lên xe và vọt thẳng ra
ngoài đường.
Kỷ niệm của tôi về chàng chỉ vỏn vẹn
có bấy nhiêu! Vậy mà 30 năm chả làm chàng thay đổi, vẫn độc thân với quyển
sách! Còn tôi, tôi đã già đi rất nhiều, đã trải qua bao cuộc bể dâu của cuộc
đời, công việc, con cái và sự ra đi của chồng tôi làm cách nhìn cuộc đời của
tôi khác đi, mong manh trống trải hơn nữa. Tôi và chàng có thể hợp nhau được
không? Có thể có cùng một điểm nào chung giữa chúng tôi không đây?
Chàng và tôi đều về hưu, có thể như
Thu Hằng nói “... sẽ cùng nhau đi du lịch, lo cho nửa đời về sau của tụi mi, có
tiền cùng hưởng, có cháo cùng húp, nâng đỡ lẫn nhau.. thay vì mướn người lạ
trông nom,thay tã,đút cơm...” Nghĩ đến đây tôi phì cười! Thời bây giờ sao thực
tế hết sức chả còn lãng mạn tình yêu gì ráo, chỉ nghĩ đến cái lợi lộc đổi chác
của chính bản thân mình.
Nhưng nếu ở một mình thì như tình
trạng hiện tại của tôi, tự do trong cô đơn, buồn vui hay hạnh phúc cũng chẳng
thể kể cho một ai, muốn đi du lịch cũng thấy thiếu thốn một cái gì đó! Con cái
bận bịu công việc của riêng nó, tôi chẳng thể kể lể tâm sự với đứa nào cả!
Rốt cuộc, sau một tuần suy nghĩ, Thu
Hằng điện thoại để hỏi thăm thì tôi đã trả lời với nàng:
- Ta chấp nhận lời đề nghị của mi…
- Vui quá! Vậy mi đã suy nghĩ kỹ lắm
rồi phải không? Cuối tuần này anh ba ta về thăm gia đình, ta sẽ đến đón mi về
nhà ta nhé!
- Nhưng…
- Thôi đừng có nhưng nhiếc gì nữa,
đã quyết định rồi và mi có mất gì đâu, gặp hợp thì tiếp tục, không thì ngưng,
có gì mà mi phải quýnh lên!
- ...Ta thấy… sao sao ấy!
Tiếng cô bạn tôi của tôi cười hăng
hắc một cách chiến thắng ở đầu dây bên kia:
- Vậy nhé! Ta sẽ đến khoảng 2 giờ
trưa cuối tuần này, ok!
***
Tôi thấy vui vui hồi hộp trong lòng
như đứa con gái 18 tuổi lần đầu tiên hẹn hò, cái cảm giác phập phồng ấy làm tôi
quýnh quáng, không chọn được cái áo nào cho phù hợp, tôi phải tự trấn an mình:
Hít thở nào, hít sâu vào, thở ra cho
sảng khoái, không có gì cả, chỉ là một cuộc gặp gỡ bạn bè mà thôi, đừng quýnh,
đừng lo lắng!
Tiếng dingdong vang lên ngoài cửa,
tôi vội vã chạy ra mở, đôi mắt tôi chợt mở thật to, khuôn miệng há tròn. Người
đứng trước mặt tôi không phải Thu Hằng như đã hẹn mà là một ông già với hàm râu
quai nón muối tiêu, mái tóc bạc gần hết đầu, nhưng đặc biệt đôi mắt lanh lợi,
yêu đời, ông ta thấy tôi ngạc nhiên và đứng như trời trồng, vội vàng trấn an:
- Cô có phải là Bích Chiêu không?
- Vâng! …
- Thu Hằng nhờ tôi... cổ quá bận nên
muốn nhờ tôi đến đón cô.
- Vậy anh đây chính là... anh Ba…?
- Dạ tôi... tôi là…
-Anh... Ba có nhớ em không? Hồi xưa
ở Việt Nam em hay đến nhà anh để học bài chung với Thu Hằng đó...
- Ờ... Ờ…
- Anh Ba sao khác lạ ghê, nếu đi
ngoài đường chắc chắn em không nhận ra đâu!
-...
- Anh Ba có thấy em thay đổi nhiều
không? Chắc em già quá... anh cũng không nhận ra há!
Tôi thấy anh nhoẻn miệng cười, cứ
như người ngậm bồ hòn, ăn nói thật từ tốn, giữ ý tứ. Tôi lại nghĩ là chắc sợ
tôi đánh giá con trai nói nhiều nên anh giữ kẽ.
Trong lúc chàng lái xe, tôi ngồi bên
cạnh có dịp liếc nhìn chàng từ đầu đến chân, lại từ chân lên đầu, chàng đã thay
đổi rất nhiều, hồi xưa chàng không để râu quai nón như vậy, dáng người không
mập và có bụng như bây giờ, cặp mắt có tuổi nên híp và đầy nếp nhăn, chân mang
đôi giày sandale mùa hè, hở chân, những móng chân dài chưa cắt trông không sạch
sẽ chút nào, chẳng có gì là người «trong mộng» của tôi cả.
Tôi buồn buồn suy nghĩ người này có
thể cùng tôi đi hết đến cuối cuộc đời được không đây?! Dưới mắt cô bạn tôi, tôi
hợp với người này hay sao? Cô bạn tôi phải biết gout tôi thế nào chứ, biết rằng
khi lớn tuổi người ta không còn trẻ đẹp như xưa, nhưng ít ra cũng phải săn sóc
chút ít vẻ ngoài của mình cho dễ nhìn, nhất là bây giờ anh ta đang đi gặp người
«nửa của mình»!
Tôi thất vọng vì ngoại hình của anh
Ba, định bụng sẽ nói với anh cho tôi xuống ở góc đường trước mặt kia. Tôi không
muốn phí thì giờ của mình nữa, thà tôi ở một mình suốt đời còn hơn là…
Anh Ba chú ý lái xe, thỉnh thoảng
đến những chỗ đèn đỏ, anh ngừng lại, tay với chai nước lọc:
- Cô uống đi cho đỡ khát, trời hôm
nay hơi nóng, cũng không có gió, mặc dù tôi đã để máy lạnh hết cỡ vẫn thấy hầm
quá... đường xá lại đông đúc nữa…
- Dạ em không khát đâu anh, em thích
cả bốn mùa ở Canada này, mỗi mùa có một cái rất riêng biệt của nó...
Tôi chưa nói hết lời, đèn xanh bật
lên, bỗng tôi nghe anh bấm kèn inh ỏi, mặt tức giận đỏ ửng, vì một bà Ấn Độ ở
phía bên lane trái muốn quẹo phải, cắt đầu xe anh mà không để đèn báo hiệu, may
là anh Ba đạp thắng kịp chứ không thì sẽ đâm vào hông xe của bà ấy. Còn đang
trong cơn tức giận, anh Ba chửi:
- Đồ chết tiệt, cứ tưởng là đàn bà
muốn làm gì thì làm hay sao? Ra đường mà gặp mấy mụ này thì xui cả ngày!
Nói xong, anh Ba cảm thấy như lỡ
lời, liếc qua nhìn tôi, phân bua:
- Cô thấy không, mấy bà già lái xe
ẩu như thế đó, tôi không hiểu sao họ lại đậu bằng lái xe được nữa, cứ tưởng như
đi bộ trong nhà hay sao đó, muốn cua đâu thì cua, quẹo đâu thì quẹo, như nằm
trên giường muốn lăn đâu cũng được!
- Không còn con đường nào khác ngoài
con đường này để đến nhà Thu Hằng hả anh? Nếu không thì mình cũng có thể lấy
con đường khác?
- Đường nào cũng vậy thôi, giờ này
học sinh ra về nên đường sẽ kẹt lắm, kẹt không sao, nhưng tôi chỉ sợ mấy bà lái
xe ẩu!
- Anh lái xe cũng giỏi ghê, biết
nhiều đường nữa.
- Tôi chỉ lái theo GPS thôi, nó chỉ
sao tôi đi vậy! Chắc cô cũng mệt vì trời nắng quá…
Bất thình lình tôi nghe cái rầm, xe
bị lọt vào cái ổ gà giữa đường, rồi nhảy lên, tiếp sau đó là tiếng nổ vang dội
ở phía bên tôi ngồi; giật mình, tôi ôm chặt lấy cánh tay phải của anh, mắt nhắm
nghiền, miệng la:
- Ahhh…
Khi mở mắt ra, tôi thấy anh nắm chặt
lấy hai bàn tay tôi, khuôn mặt lo lắng, nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Đừng lo! Đừng sợ, có anh đây! em
uống miếng nước cho bớt căng thẳng!
Tôi lắp bắp:
- Chuyện gì vậy anh? Xe bị gì vậy
anh?
- Em cứ ngồi yên trong này nhé, để
anh xem có cái garage nào gần đây không, xe mình bị sụp ổ gà nên bể lốp xe!
- Bể lốp xe sao?
- Đúng rồi! Đường nhiều ổ gà quá anh
đã không tránh khỏi nên bị sụp vào đó và bánh xe bị bể, cũng may là không bị
đụng xe vì dễ bị lạc tay lái đâm vào xe bên cạnh. Để anh chạy từ từ đến garage
gần đây, em đừng lo.
Anh chạy xe thật chậm đến garage gần
đó, không dám đi nhanh sợ làm hỏng cái niềng. Đến nơi, mừng quá anh vội nhảy ra
khỏi xe ngay đi tìm chủ garage, không thấy ai ở đó cả, đi vòng quanh trước sau,
cánh cửa sắt vẫn đóng im ỉm, điện thoại theo số họ ghi ở trước cửa, cũng không
thấy ai cầm, hỏi những nhà bên cạnh thì họ nói là garage đã đóng cửa vài ngày
nay rồi!
Anh nhìn tôi, cười trừ:
- Em đừng lo, giúp anh vài thứ nhẹ
nhàng nhé, đưa cho anh mấy cái dụng cụ này khi anh cần.
Nói xong, anh vòng ra sau mở nắp xe
sau đưa tôi nào là tournevis, clé, molette, kìm búa... Anh thoăn thoắt như
người thợ đầy kinh nghiệm, nâng xe bánh trước lên bằng đồ nâng quay tay, rồi
lấy dụng cụ thay bánh, tôi cứ tưởng anh phải khổ sở tốn nhiều thì giờ lắm,
nhưng khoảng 30 phút, bánh xe đã được thay xong xuôi.
Trong lúc dọn dẹp đồ nghề vào cốp
xe, bỗng trời trở nên xám xịt, gầm gừ, như báo hiệu cơn mây mưa sắp đổ.
Anh Ba nhìn tôi thở phào:
- May quá, mình vừa thay xong bánh
xe chứ không thì nền đất ẩm ướt thì làm sao mà ngồi quỳ xuống đất được, với lại
nhờ chỗ garage này khô ráo trên sàn xi măng nên mình làm nhanh gọn như vậy,
trong cái rủi lại có cái may!
Lúc này tôi mới nở nụ cười với anh:
- Anh thật nhanh nhẹn quá, rất rành
về xe cộ, nếu những người khác bị như vậy, họ sẽ không biết làm sao rồi, đi với
anh, em thật an tâm!
Anh Ba nhìn tôi với cặp mắt thật xúc
động:
- Cám ơn em đã tin tưởng anh! Nhiều
cô không hiểu anh, nghĩ anh không biết lo lắng hay ăn nói không có duyên, quá
thẳng, họ chỉ tìm những người nói những lời hoa mỹ, đến khi có chuyện lại không
biết làm gì cả!
Tôi nhìn tận sâu trong đáy mắt
chàng, lần đầu tiên tôi cảm thấy chàng chân thật và thật gần gũi,không khách
sáo. Tôi tưởng như đã quen chàng từ lâu lắm rồi, chứ không phải mới một vài giờ
đây thôi, vì chàng tự nhiên, đơn thuần và đối xử với tôi như người đã thân quen
ngay từ lúc ban đầu.
Bỗng nhiên tôi có chút cảm phục
chàng và muốn tìm hiểu chàng nhiều hơn nữa nên đã bỏ ý định muốn về nửa chừng
lúc nãy.
Chàng lấy một khăn giấy ướt sạch
trong cốp ra đưa cho tôi:
- Em lau tay đi, dính dầu dơ hết
rồi!... Lại chùi tùm lum nên trên trán có dính vết dầu nữa!
Tôi đưa tay lên trán lau, không đúng
chỗ, anh Ba cười vang:
- Hahaha, em lau bên trái, vết dầu ở
bên phải cơ mà! Đưa anh lau dùm cho!
Với sự tự nhiên, anh cầm chiếc khăn
lau trán phải của tôi một cách cẩn thận, nhẹ nhàng; anh ngắm nhìn tôi, thì thầm
đủ tôi nghe:
- Bây giờ đẹp gái rồi đấy!... Uổng
thật!
Tôi mở mắt thật to, ngạc nhiên ngước
lên nhìn anh:
- Uổng gì ạ?
- Em ở góa...10 năm rồi sao? Có thật
không? Sao không tìm một người bạn nào đó? Em còn trẻ và đẹp lắm!
Khuôn mặt tôi bắt đầu ửng đỏ, một
chút e thẹn thời con gái len lén nhẹ vào tim. Đã 10 năm tôi chưa bao giờ nghĩ
sẽ phải gặp một người đàn ông khác, sẽ phải bắt đầu lại từ đầu, yêu nhau và kết
hôn... Bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh nhiêu khê tốn thời gian ấy, tôi phải bắt đầu lại
hay sao?!
Bỗng nhiên, anh vòng tay ôm vai tôi,
kéo tôi chạy vào bên trong một hiên nhà gần đó, miệng nói không ngừng:
- Nhanh lên, chạy nhanh lên, trời
đang đổ cơn mưa lớn đó!
Chúng tôi vừa vào đến mái hiên ở một
căn nhà gần đó, thì cơn mưa cũng đuổi theo bén gót, đổ xuống như trút nước, anh
đưa tay ra ngoài mưa hứng những hạt mưa to và nặng giữa trưa hè:
- Những cơn mưa như thế này làm anh
nhớ về quê hương mình quá! Đã gần 40 năm anh chưa có dịp về lại thăm đất nước,
còn em đã về lại chưa?
- Em cũng chưa bao giờ về lại từ
ngày qua đây, họ hàng em chẳng còn ai bên ấy hết, còn bạn bè thì không biết có
còn giữ tình bạn của ngày xưa không, em cảm thấy mình sẽ lạc lõng khi về lại
nơi ấy.
- Anh thì khi trẻ lo học, lo làm
việc, đến lúc về hưu anh mới thấy mình... thiếu rất nhiều thứ mà lẽ ra khi còn
trẻ mình phải làm cho mình ngoài sự nghiệp, vật chất…
- Anh muốn nói đến... một nửa kia
phải không?
- Đúng đấy, anh chưa từng nghĩ lập
gia đình là việc hệ trọng của cuộc sống.. Anh thiết nghĩ con người thành công
nhờ sự nghiệp vật chất là đủ, anh loay hoay trong sự suy nghĩ ấy, và làm việc
thật nhiều thật nhanh để đạt đến con số anh đề ra, rồi khi về hưu anh mới thấy
mình thật bơ vơ, trống vắng. Em biết không, nhiều người giới thiệu cho anh, các
cô đến với anh chỉ vì anh có nhà cửa, anh có tiền bạc, nhưng chất “xúc tác”
giữa tụi anh thật vô vị nhạt nhẽo, anh không có chút cảm xúc nào khi ở bên cạnh
họ, nếu ép mình thì đâu gọi là hạnh phúc nữa! Con người anh lại sống rất chân
thật, anh không thích những sự màu mè bên ngoài, khi ở chung mới lật tẩy
nhau... Nếu ai chỉ yêu cái mã bề ngoài, thì đừng tiếp tục tìm hiểu anh làm gì,
vì con người phải sống bằng trái tim và tâm của họ chứ!
Trời vẫn nắng, mưa vẫn cứ rơi, một
cậu bé chừng 12,13 tuổi, người dân da đỏ ăn xin bỗng nhiên xuất hiện bên kia
đường, chạy vội vào mái hiên chỗ chúng tôi đang trú mưa, người ướt như chuột
lột, tóc dán chặt vào đầu, nước mưa tong tong chảy từ đầu, quần áo xuống chân,
cậu bé cất tiếng:
- Xin hãy cho con ít tiền đi xe bus
về nhà... Con thật đói vì chưa ăn gì cả ngày hôm nay, hãy giúp con và em gái
con, nó ở đàng kia vì trời mưa không thể theo con được.
Anh nhìn nó một lúc rồi nói:
- Chờ chú ở đây nhé, chú sẽ cho con
cái này!
Nói rồi, chàng chạy băng ngang cơn
mưa, những giọt nước làm ướt cả áo, cả người nhưng chàng vẫn không màng, ra đến
xe, tôi thấy chàng lục lọi một lúc, xách vào hiên:
- Con hãy cầm lấy những thứ này về
cho em gái nhé!
Anh đưa cho thằng bé cả gói đồ ăn
sandwich cặp trứng và thịt ham mà anh đã mua để dành trong xe lỡ có đói thì
dùng, một cây dù lớn, và 20$.
Thằng bé mừng quá vì gặp được người
rộng lượng, hai tay ôm một đống đồ vào bụng để đừng bị ướt, nó cúi đầu thật
thấp:
- Con cám ơn cô chú, rất cám ơn chú
đã cho con và em gái con nhiều đồ quá... Chúc cô chú thật nhiều phước lành ạ.
- Được rồi, không có gì đâu, con đem
đồ ăn về cho em gái nhé, đi từ từ đừng chạy trong cơn mưa sẽ trơn té đó nhe. Đi
chậm thôi!
Tôi chứng kiến cả câu chuyện, thật
cảm kích tình nhân loại của chàng, cảm kích sự tử tế, chia sẻ của chàng với
người kém may mắn hơn mình.
Sự lạnh lùng với bề ngoài không cuốn
hút của chàng từ lúc đầu tiên gặp gỡ cho đến bây giờ, cũng con người ấy, bề
ngoài ấy, chàng đã thuyết phục được trái tim tôi; lòng tốt và sự năng nổ, tháo
vát của chàng như đốt cháy được sự thờ ơ của tôi đối với chàng lúc ban đầu.
Tôi vui vẻ nói:
- Thu Hằng nói với em anh ở bên Pháp
lâu lâu mới qua đây thôi, sao anh rành đường đi nước bước như người bản xứ vậy?
- Cỡ 2 năm anh lại qua đây chơi một
lần, thăm gia đình, với lại bạn bè của anh cũng có một số ở đây, nên anh cũng
rành đường đi lắm... Có GPS thì sợ gì! Anh lại về hưu nữa, đâu có gì là bận rộn
và cản trở đâu…
Chàng nheo mắt nhìn tôi:
- Trời hết mưa rồi, mình đi tiếp
nhé!
Chàng giúp tôi rời khỏi chỗ hiên
nhà, tay chàng vẫn che trên đầu tôi, như sợ còn giọt mưa nào sót lại ở đâu đó
sẽ làm ướt tóc tôi, chàng mở cửa cho tôi vào chỗ ngồi rồi mới vào lại bên lái
xe, đưa cho tôi chai nước lọc:
- Em hãy uống cho thấm giọng nhé, từ
nãy giờ em chẳng uống tí nước nào rồi.
- Không! anh hãy uống đi, anh làm
nhiều từ nãy giờ, anh mới phải uống chứ!
- Anh không sao, không khát lắm, em
cứ tự nhiên đi!
Tôi cố vặn cái nắp chai đóng thật
chặt, vặn mãi vẫn không thể mở ra nổi, chàng dừng xe lại nói với tôi:
- Anh xin lỗi nhé, đưa anh mở cho!
Vừa nói chàng vừa lấy lại cái chai,
vặn dễ dàng, đưa cho tôi, chọc quê:
- Con gái tay yếu chân mềm là phải
rồi.
- Hahaha, em không là con gái tiểu
thư, ngồi chờ người ta hầu hạ đâu, em đã phải làm việc một mình rất vất vả để
nuôi con đấy! Cái chai này không có nghĩa gì với em đâu, nhưng lúc này... vì có
anh nên muốn làm nũng thôi đó mà!
Chàng quay sang nhìn tôi với nụ cười
đầy cảm thông, khoảng cách giữa chúng tôi dường như đã không còn nữa!
Tiếng chuông điện thoại của tôi reo
lên cắt ngang bầu không khí yên lặng của chúng tôi, Thu Hằng bên kia đầu dây:
- Bích Chiêu ơi, mi và anh Ba cứ đi
chơi đi nhé, ta không thể đến nơi hẹn được đâu vì trời mưa, đường sá kẹt xe
quá, ta không thể nào thoát khỏi cái cầu này, nếu đến trước cứ kêu món ăn đi,
rồi ta đến sau; còn nếu không thì tuần tới mình cùng nhau đi cho tiện; ta xin
lỗi hôm nay ta bận bất ngờ vì ông boss gọi vào thanh toán cho xong cái hồ sơ
quan trọng này.
- Vậy để ta hỏi anh Ba xem sao rồi
mình sẽ hẹn vào kỳ khác vậy, mi cứ từ từ về nhà đi nhe.
- Xin lỗi mi và anh Ba nhé!
Tôi không biết có phải cô bạn tôi
muốn tạo điều kiện cho tôi và anh Ba gặp mặt nhau riêng rẽ như thế này không,
mà từ trưa đến giờ chả thấy bóng dáng nàng ta đâu cả, để chúng tôi phải tự biên
tự diễn không thôi; nhưng đây cũng là dịp may cho tôi hiểu nhiều hơn con người
của chàng.
Sau khi bàn bạc với anh Ba, chúng
tôi ai về nhà nấy, hẹn cuối tuần tới anh sẽ chở Thu Hằng đến đón tôi đi chơi
một thể.
*****
Kỳ hẹn lần này tôi không cần phải
làm dáng điệu đà nữa, vì thấy kỳ vừa qua anh Ba cũng chỉ mặc mỗi cái áo chemise
cộc tay với chiếc quần bò mà thôi, anh chẳng trịnh trọng, rất tự nhiên, nên tôi
rút kinh nghiệm, lần này cũng đơn giản chiếc áo đầm ngang đầu gối với những
chiếc hoa cúc vàng nhẹ nhàng cho mùa hè; mái tóc kẹp gọn phía sau gáy, đôi giày
hơi cao một chút chừng 5 phân thôi để đi bộ cho dễ.
Khi tôi ra mở cửa cho mọi người thì
vô cùng ngạc nhiên, trước mặt tôi hình ảnh một người đàn ông thon gọn, tóc tai
sạch sẽ, bộ râu quai nón không còn nữa, nụ cười sảng khoái với ánh mắt yêu đời;
bên cạnh là Thu Hằng, linh hoạt xinh xắn, nàng nói:
- Đây mới là Anh Ba của ta! Sao...
mi ngạc nhiên vậy?
Tôi vội vàng kéo nó ra một chỗ
riêng:
- Hôm nọ ta thấy anh Ba của mi có
bụng, râu quai nón, mắt híp và đầy vết nhăn mà? Sao hôm nay lại thon gọn...
đàng hoàng lịch sự vậy? Có phép hay sao?
-Hahaha, mi không biết ổng hay làm
cách biến hóa để thử lòng mấy cô gái lắm! Kỳ rồi ổng mặc cái áo kaki dầy rộng,
nhìn thấy có bụng, ổng muốn làm bề ngoài xấu xí để xem mi có chê bai gì ổng
không đó, ngay ban đầu nếu ai không hợp với ổng thì tránh ngay đi đỡ mất thì
giờ của cả hai bên, ai ngờ mi đã làm cho ổng «tâm phục khẩu phục», về nhà ổng
khen mi quá xá!
- Ta có làm gì đâu, chính anh Ba của
mi đã làm cho ta thấy ảnh thật «uy tín» đó.
Thu Hằng nói to lên cho cả hai chúng
tôi cùng nghe:
- Mới gặp lại nhau có một lần sau 30
năm mà cả hai đã khen nhau đủ thứ hết, đâu cần bà mai này nữa đâu há!
Anh Ba chen vô:
- Cơn nắng mùa hè ở Canada cũng rất
nóng không khác gì cơn nắng Paris, nhưng nếu chỉ một mình tôi đi giữa cơn nắng
thì thấy rất khát và mệt, nhưng nếu hai người cùng đi, chắc chắn đoạn đường ấy
sẽ ngắn hơn, cơn nắng cũng sẽ bớt gay gắt hơn và một trong hai người chúng tôi
sẽ phải tìm một vật gì đó che cho cơn nắng bớt chiếu thẳng vào mình; nên hôm
nay tôi quyết định sẽ ở lại với ánh nắng hiền hòa của Canada.
Sỏi
Ngọc
Montreal, Jan’23
Tuesday, March 21, 2023
Những Món Nợ Khó Trả Và Những Anh Hùng Khó Quên - Huy Phương
Sau Tháng Tư, 1975, hằng trăm nghìn người thương binh
của miền Nam Việt Nam không thể nào che giấu lý lịch với đôi mắt mù, cái chân cụt
và quá khứ đã là một người lính có thành tích chiến đấu chống Cộng Sản ngoài mặt
trận. Không còn khả năng làm lụng để kiếm miếng cơm nuôi gia đình và chính bản
thân mình, những người này còn phải sống trong không khí lạnh lùng, ngờ vực và
khinh rẻ của kẻ chiến thắng không có tình người. Chính phủ, quân đội, đơn vị, cấp
chỉ huy, đồng đội không còn, gia đình quyến thuộc không đủ sức cưu mang vì
chính họ cũng bị nhận chìm tận cùng dưới đáy xã hội.
Trong xã hội mới, những người thương binh VNCH thật sự
đã là “những người bị bỏ quên”.
Đã có những hội đoàn, những tổ chức, những nhóm thiện
nguyện cứu đói, cứu nghèo, cứu bệnh tật, cứu gái sa chân, cứu trẻ bị bán ra nước
ngoài, cứu già thiếu gạo…
Tôi có cảm tưởng những vùng đất cứu trợ trên đã được chính quyền trong nước cho khai quang, có khi còn giữ “an ninh bãi đáp” cho trực thăng đổ người xuống cứu trợ để đỡ tay đỡ chân cho đảng lo việc trấn áp dân chủ, nhân quyền.
Trong khi đó, công việc cứu trợ các thương phế binh
VNCH trong một xã hội còn đầy mìn bẫy, hầm hố, thù hận, phải tiến hành lén lút,
bí mật hay đột kích gây thêm nhiều trở ngại, khó khăn cho cả phía những người hảo
tâm và cả những nạn nhân xấu số này.
Thương phế binh, đáng lẽ là những người mà hải ngoại cần phải nhớ trước tiên, từ khi người sinh viên du học ra nước ngoài giữa lúc chiến tranh trở nên tàn khốc, lúc cấp chỉ huy quân đội miền Nam bước chân lên Đệ Thất Hạm Đội hay đảo Guam, từ khi người vượt biển được đặt chân lên đất liền, từ khi người cựu tù được người ra đón ở sân bay, lại là những người bị quên lãng nhất.
Bà Dương Nguyệt Ánh, chuyên viên chất nổ của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, tác giả trái bom “nhiệt áp” đã nói rằng, là một người tỵ nạn chiến tranh, bà “không bao giờ quên được hình ảnh người lính Hoa Kỳ và VNCH đã từng bảo vệ cho bà có một cuộc sống an toàn ở miền Nam trước đây.” Chúng ta cũng hiểu rằng người lính VNCH thiệt thòi hơn cả sau chiến tranh chính là người thương phế binh hôm nay.
Cô Liên Hương, một bác sĩ trong nhóm Huynh Đệ Chi Binh
ở San Jose, cũng như chúng ta đã có mặt tại Hoa Kỳ tự do, no ấm hôm nay sau những
ngày đã hoạt động để cứu giúp “những người bị lãng quên,” vì cô nghĩ rằng cô đã
mang ơn những người này, người thương phế binh VNCH.
- “Tôi viết thư cho anh hôm nay, không phải như một người Việt Kiều xa xứ được ưu
đãi trong một đời sống an lành, và thoải mái hơn về vật chất lẫn tinh thần đang
nghiêng mình xuống với người đồng loại bất hạnh, nhưng tôi viết với tâm trạng của
một cô gái năm xưa đã lớn lên yên ổn giữa thành phố Sài Gòn, nhìn tuổi thơ ấu của
mình trôi qua dưới ánh hỏa châu và những tiếng bom đạn hằng đêm vẫn vọng về từ
một chiến trường xa. Ở đó, bao nhiêu xương máu và nước mắt của cả một thế hệ tuổi
trẻ đã đổ xuống để che chở cho những cô gái nhỏ như tôi được tiếp tục bình yên
đến trường. Ở đó vẫn có biết bao nhiêu người chiến sĩ như các anh còn ôm tay
súng chiến đấu đơn độc với những giờ phút chót, để gia đình chúng tôi có cơ hội
xuống thuyền ra đi tìm đến những quê hương hạnh phúc mới bên này bờ biển Thái
Bình Dương.”
“Chính với tấm lòng tri ân và ngưỡng mộ đó mà hôm nay
tôi thấy cần phải viết cho anh, cho các bạn của anh, những lời các anh xứng
đáng được nghe nhưng có lẽ đã chưa bao giờ được nghe từ gần 48 năm qua, để các
anh hiểu được rằng những hy sinh của mình đã không lãng phí hay vô ích.
Những tượng đài có thể bị đạp đổ, nhưng những hình ảnh thần tượng ghi khắc trong
lòng sẽ chẳng bao giờ bị xóa nhòa. Chúng ta đã mất mát rất nhiều thứ, những người
thương binh như các anh đã mất hết một phần thân thể, tình yêu và tuổi trẻ, và
những người Việt tỵ nạn như tôi cũng đã mất hết một nơi chốn dung thân để phải
tha hương lưu lạc khắp mọi phương trời. Có một điều ngày hôm nay tôi mong chúng
ta sẽ không đánh mất là tình người đến với nhau, để khoảng không gian anh đang
sống và hít thở bớt đi niềm lẻ loi và cô độc.”
“Cuối cùng dù tôi không thể gởi nguyên một bài hát về
cũng xin cho tôi được tặng anh và những người bạn anh hùng không tên tuổi của
anh lời tựa của bài hát ‘You Are My Heroes’, bởi vì cuối cùng trong cuộc đời
này không có điều gì anh hùng và cao thượng hơn là hy sinh cuộc đời mình để cho
người khác được quyền sống.
Trong mắt tôi mãi mãi không có những người phế binh thương tật mà chỉ có những con người trai anh hùng một thời chọn cho mình con đường đi và và sống đích thực có ý nghĩa nhất”.
Những dòng chữ trên đây của một người con gái, một đứa
em hậu phương cũng như tất cả chúng ta đã mang một món nợ không bao giờ trả nổi,
món nợ xương máu mà chúng ta đã nương nhờ, vay mượn từ lúc chúng ta được yên ổn
ở hậu phương, rất xa mặt trận, và cả đến lúc chúng ta ngoảnh mặt rời quê hương
ra đi.
Những năm trước, bức thư này đọc trên đài phát thanh ở Bắc California đã làm rơi lệ hằng nghìn người nghe ở hải ngoại, nhưng rồi cơm áo đa đoan, cuộc sống bề bộn, nhiều lúc chúng ta đã quên hẳn hình ảnh người thương phế binh Việt Nam một cách phụ bạc, nhẫn tâm mà đáng ra phải canh cánh ghi nhớ trong lòng.
Ở hải ngoại từ trước đến nay, những quyên góp giúp đỡ cho thương phế binh được đưa xuống hàng thứ yếu sau những chiến dịch dai dẳng cho người nghèo, cho trẻ thất học, cho chùa chiền, thánh thất, cho mổ mắt vá môi… Nếu có lòng, thì cũng với những hoạt động lẻ tẻ do một nhóm người, một tổ chức quy tụ một số thân hữu giúp cho năm bảy gia đình, hay khá hơn là vài trăm thương binh. Chúng ta chưa có được một ngày dành cho thương binh, một chiến dịch rộng lớn như những ngày chúng ta đóng góp cho quỹ kháng chiến, để rồi cuối cùng sự việc chẳng đi tới đâu, khiến lòng tin của hải ngoại mỗi ngày một suy kiệt.
Ẩn mình từ trong những xóm làng xa xôi sống nhờ trên mảnh đất khô cằn khoai sắn, hay bầm dập giữa phố thị với xấp vé số trên tay, thậm chí còn trở thành kẻ hành khất kêu gọi tình thương của người qua đường đâu đó. Nỗi xót xa, tủi nhục ấy bao giờ tiêu tan được, cũng như những nỗi đau sâu thẳm trong tâm hồn họ không bao giờ hết, trong khi qua thời gian làn da nơi chân tay què cụt đã chai đá, những vết thương đã lành. Lớn hơn hết là những người thương phế binh này đã mang mặc cảm là “người đã bị bỏ quên” trên quê hương, nơi mà thù hận chưa nguôi, đối xử vẫn còn phân biệt như những người lính lạc đơn vị bị bỏ lại trên đất địch.
Thế giới hôm nay của chúng ta so với đời sống thương phế binh ở quê nhà là thiên đường và địa ngục, tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Dù có san sẻ tới mức nào cũng không lấp đầy nỗi thống khổ, dù bù đắp tới mức độ nào cũng không xứng đáng với sự hy sinh. Anh, người thương phế binh, tôi vẫn còn nợ anh mối ân tình của sự HY SINH.
Huy Phương
Monday, March 20, 2023
Anh Chàng Hoài Nghi (Truyện Xã Hội Giả Tưởng) - Đào Văn Bình
Đại Nghi là một kỹ sư trẻ, chuộng khoa học, luận lý lại đọc quá nhiều tư tưởng, triết học Đông-Tây, rồi bị tiêm nhiễm cho nên có tật là hoài nghi tất cả mọi chuyện trên đời. Chẳng hạn đối với người đang hăng say hoạt động thì anh cho rằng biết đâu đó chỉ là kẻ háo danh, lấy cớ ”phục vụ cộng đồng” để thủ lợi riêng hoặc chuẩn bị ra “ứng cử”. Còn đối với kẻ nhiệt tâm, nhiệt tình quyên góp tiền bạc của đồng bào cho công tác thiện nguyện, dự án này, chiến dịch nọ, thì chàng lại nghi ngờ cho rằng, tiền quyên góp một nửa sẽ chui vào “túi áo khỉ”. Quan niệm của anh chàng là “Thời buổi bây giờ làm gì có thánh nhân. Tất cả đều vì cơm áo, gạo tiền, danh vọng nhưng che dấu bằng những mỹ từ thánh thiện, cao đẹp”.
Đấy là về mặt con người. Còn về mặt tư tưởng, triết lý thì anh cũng có quan niệm thật quái dị. Chẳng hạn đối với kẻ đang bị mọi người căm ghét thì Đại Nghi lại bảo “Chưa chắc, biết đâu anh ta chẳng là người dễ thương?” Còn đối với kẻ đang được mọi người thán phục, ngưỡng mộ thì Đại Nghi lại cho rằng “Biết đâu vài ba năm nữa thiên hạ chả lại xúm chửi ông ta như tát nước vào mặt ?” Còn đối với chuyện mà cả thế giới cho là đúng thì anh chàng lại bảo “Coi chừng chỉ vài ba năm nữa thôi bà con mới thấy nó trật lấc!” Chẳng hạn như chuyện cả thế giới đều tin chắc Ông Saddam Hussein cất giấu một kho vũ khí hóa học và hủy diệt hàng loạt khiến nhân loại nguy tới nơi rồi. Thế nhưng sau khi Ô. Bush Con đem quân tiến vào phá tan tành đất nước Iraq thì chẳng có gì cả.
Với đầu óc hoài nghi và thái độ “ba phải” như vậy cho nên Đại Nghi chẳng bao giờ thương ai hay ghét ai, chẳng bênh phe này chống phe kia, chẳng lao vào những biến động thương-ghét om sòm cả trời đất và dĩ nhiên chẳng hại ai, dù làm rụng một sợi lông chân.
Tuy nhiên trong những lúc vắng lặng tâm tư, Đại Nghi tự hỏi chẳng lẽ trên cõi đời này không có chân lý? Bất cứ chuyện gì trên cõi đời này cũng phải có người đúng người sai chứ? Từ nỗi dằn vặt đó chàng ta quyết tâm tìm cho ra chân lý. Với ý tưởng khá “ngông cuồng” này, Đại Nghi dành dụm một số tiền, xin nghỉ giả hạn không lương một năm rồi trang bị giống như mấy “Ông Tây ba-lô”, lên đường đi tìm chân lý với quyết tâm của một người lên đường “tầm sư học đạo”. Bắt chước Thiện Tài Đồng Tử trong Kinh Hoa Nghiêm, chàng không dám khinh thị một ai mà lần mò, tìm tòi, vấn hỏi tất cả mọi người vì chàng tin rằng chân lý phải nằm ở khắp mọi nơi. Nếu chân lý nằm ở người này mà không nằm ở trong người kia, chỉ nằm ở chỗ này mà không phổ cập ở chỗ kia thì chỉ là “chân lý dỏm”, chân lý phải có tính phổ quát.
Trước tiên chàng tìm đến một ông chủ tịch hội đồng quản trị của một hãng chế tạo vũ khí khổng lồ. Sau khi giới thiệu thân thế và khát vọng của mình, chàng lễ phép hỏi:
-Thưa
ông chủ tịch, trên đời này có chân lý không và chân lý nằm ở đâu ạ?
Ngồi dựa ngửa ra đằng sau chiếc ghế da, ông chủ tịch mỉm cười đáp:
-Chân
lý có chứ. Chân lý nằm ở kẻ nào có nhiều hàng không mẫu hạm, khu trục hạm, máy
bay không người lái, vũ khí nguyên tử và máy bay ném bom chiến lược tàng hình,
chẳng hạn như B-2, B-52. Chính vì muốn nắm giữ chân lý cho nên họ mới tìm đến
chúng tôi. Không có chúng tôi thì họ đâu còn chân lý. Cho nên có thể nói các
nhà chế tạo vũ khí hay nói nôm na là “các lái súng” sẽ nắm giữ chân lý.
Nghe trả lời thế, Đại Nghi kinh hãi cảm tạ vị chủ tịch rồi hối hả đáp máy bay
qua Nữu Ước để xin gặp một ông tỷ phú nổi tiếng khắp thế giới về chứng khoán,
tài chính và địa ốc. Sau hơn một tuần lễ thấy chàng kiên trì chờ đợi, có lẽ
thấu hiểu khát vọng của người tuổi trẻ, ông chủ tịch cho gặp mặt. Vừa thương
vừa ái ngại, ông nhìn người tuổi trẻ, hỏi:
-Cậu
tìm tôi có việc gì?
-Dạ
thưa, cháu đi tìm chân lý nhưng không biết chân lý có hay không?
-Chân
lý có chứ. Nó nằm ở đây này…
Nói xong ông chủ tịch vói tay mở chiếc tủ sắt sau lưng. Cánh cửa sắt bật mở,
bên trong là những cọc đô-la xếp gọn ghẽ. Mùi tiền mới tỏa ra thơm phức. Lấy
một cọc ném lên mặt bàn, ông chủ tịch nhún vai nói:
-Tiền
là chân lý! Tiền làm thay đổi tình cảm con người. Tiền có thể phá vỡ mọi giá
trị trên cõi đời này. Tiền khiến cha con, anh em, chồng vợ chia lìa. Tiền làm
người ta mờ mắt cho nên thấy đúng thành sai, thấy sai thành đúng. Cậu không
nghe người ta nói “Tiền vào pháp đình công lý đội nón ra đi” sao? Cả thế giới
bây giờ đang bị sai khiến bởi đồng đô-la cho nên có thể nói tiền không những
chỉ là chân lý mà nó còn đẻ ra chân lý. Cho nên muốn có chân lý phải có tiền.
Không đô-la thì đừng nói tới chân lý.
Nói xong ông dang hai tay ra phía trước, giơ lên cao rồi nhún vai, một cử chỉ rất phổ thông ở Mỹ để diễn tả câu nói “Nó như vậy đó”.
Nghe ông tỷ phú nói thế, Đại Nghi rầu rĩ, nói lời cảm ơn rồi lui ra. Nhân tiện
ở cùng một thành phố, chàng chợt nảy ra ý định vào tòa nhà Liên Hiệp Quốc để
vấn hỏi, chắc chắn sẽ có lời giải đáp. Người mà chàng xin tiếp kiến là ông cựu
tổng thư ký. Mặc dầu đã hết nhiệm kỳ nhưng do uy tín, ông này vẫn được trọng
dụng và thỉnh thoảng được cử làm đặc sứ để làm “con thoi” trong những trong
những vụ khủng hoảng của thế giới. Chàng nồng nàn đặt câu hỏi:
-Thưa ngài, là nơi đưa ra những quyết định trọng đại ảnh hưởng đến sinh mệnh của loài người, phải chăng đây là lương tâm của nhân loại và là biểu tượng của chân lý cho toàn thế giới? Thưa ngài, chân lý có thực không? Nếu có, phải chăng Liên Hiệp Quốc chính là cơ quan thi hành và thể hiện chân lý đó?
Khẽ thở dài, ông cựu tổng thư ký nói:
-Cậu
cũng biết đó, cơ quan này không phải do chúng tôi lập ra, mà do thế giới đóng
góp. Nếu mai đây người ta không góp tiền nữa thì Liên Hiệp Quốc đóng cửa và
chúng tôi chỉ còn nước về nhà đuổi gà cho vợ. Vì do thế giới đóng góp cho nên
nước nào có nhiều tiền thì tiếng nói của họ mạnh. Khi họ mạnh thì chân lý
“nghiêng” về phía họ. Đôi khi Liên Hiệp Quốc cũng đưa ra những quyết định có vẻ
như “biểu tượng của chân lý”. Sở dĩ có được những quyết định như vậy là
vì nó phù hợp với quyền lợi của năm ông ủy viên thường trực của Hội Đồng Bảo
An. Chỉ cần một ông phủ quyết là chân lý chết, nếu chân lý sống thì cũng chỉ là
tiếng kêu trong sa mạc. Nói tóm lại chân lý “có” khi nó phù hợp với quyền lợi
của các đại cường. Chân lý là “không” và nhiều khi trở nên nghịch lý khi nó
phản lại quyền lợi của các nước lớn. Do đó chân lý không nằm ở đây. Chúng tôi
chỉ là phát ngôn viên, nói đúng ra là đào kép trên sân khấu, còn đạo diễn thì
đứng sau hậu trường. Khi không có “tuồng” để diễn thì đào kép thất nghiệp. Cậu
không thấy Liên Hiệp Quốc nhiều khi im lặng như tờ, nhân viên rảnh rỗi ngồi đọc
báo, tán gẫu, xem truyền hình hoặc vào mạng lưới “chat” (1) cho đỡ buồn
sao?
Nghe ông cựu tổng thư ký nói thế Đại Nghi buồn khôn tả. Chàng nói lời từ giã
rồi không một chủ định, chàng lang thang trên hè phố rối lạc bước tới Times
Square (2) lúc nào không hay. Ngửng đầu lên, chàng thấy tấm bảng hiệu bằng đèn
nê-ông của một hãng truyền hình. Đây là một tổ hợp truyền thông khổng lồ, chủ
nhân của rất nhiều tờ báo, đài phát thanh, truyền hình địa phương. Tin tức của
đài này truyền đi không phải chỉ ở Mỹ mà cả thế giới theo dõi. Có thể nói đây
là trung tâm có thể uốn nắn đầu óc, lề thói suy nghĩ của nhân loại. Cũng giống
như những lần trước, sau khi điền đơn xin tiếp kiến, chờ đợi cả tuần lễ, chàng
được ông tổng biên tập cho gặp mặt. Ông là một nhân vật đầy quyền thế, lương
khoảng năm triệu đô-la mỗi năm. Dưới ông có cả chục nhân viên phụ tá, cả trăm
“producer” đặc trách chương trình, phụ trách quảng cáo, chuyên viên nghiên cứu,
văn khố, thu hình, biên tập viên, phóng viên có mặt hầu như khắp nơi trên thế
giới. Ông là linh hồn của tập đoàn. Ông toàn quyền quyết định việc cắt xén tin
tức, cái nào cho “đi”, cái nào vứt vào thùng rác, chiến thuật loan tin, hình
ảnh nào cần đưa lên… hoàn toàn do ông quyết định. Ngồi dựa ngửa ra đằng sau,
hai chân gác cả giầy lên bàn - lối ngồi của các Sheriff (3) trong các phim
cao-bồi, của các “tay tổ” hay của tổng thống Mỹ như Tổng Thống
Obama ngồi trong Tòa Bạch Ốc trong các phiên họp với các cố vấn. Nhìn chàng
tuổi trẻ mặt mũi cao ráo, dáng vẻ trí thức nhưng lại có vẻ ngây thơ, ông tổng
biên tập hỏi:
-Cậu
gặp tôi có chuyện gì? Xin việc hả?
- Dạ, cháu
không xin việc mà muốn đi tìm chân lý. Theo cháu biết nơi đây là kho chất chứa
tài liệu, lịch sử, hình ảnh của toàn thế giới. Tiểu sử, thành tích, kể cả các
hành vi bê bối của các lãnh tụ, các chính trị gia đều nằm ở đây. Không một
chuyện gì mà ông không biết. Không một bí mật nào - dù bí mật quốc phòng, bí
mật ở Toà Bạch Ốc mà ông không biết, biết một cách tường tận và cả “bề trái”
của nó nữa. Vậy thì theo ông chân lý có không và chân lý nằm ở đâu?
Sau giây phút ngạc nhiên về người tuổi trẻ, ông phá lên cười ngặt nghẽo, rồi
nói:
-Này,
nói đùa thôi nhé. Tuổi trẻ không lo xây dựng sự nghiệp, lấy vợ, sinh con đẻ cái
mà đi tìm chân lý thì đầu óc hơi có “vấn đề” đấy. Nhưng trông cậu có vẻ thành
thật nên tôi thấy cần nói cho cậu rõ. Chân lý là cái gì thì tôi không biết
nhưng tất cả mọi Sự Thực, Cái Đúng, Cái Sai, cái gọi là Chính Nghĩa, hoặc Lý
Tưởng Cao Cả đều nằm ở ngay đây, ở ngay chúng tôi. Tất cả đều do chúng tôi nhào
nặn ra.
Há hốc miệng vì ngạc nhiên, Đại Nghi hỏi:
-Theo
cháu biết cơ quan truyền thông chỉ làm công việc thông tin, có nghĩa là thấy
sao nói vậy. Vả lại tôn chỉ của ngài là “Fair and Balance” tức “Công
Bằng và Quân Bình” tại sao ngài lại nói ngài có thể bóp méo tin tức và chân lý?
Sau một hồi cười ngặt nghẽo, ông tổng biên tập nói:
-Cậu
ngây thơ quá! Tất cả những cái đó chỉ là quảng cáo. Cứ thử nhìn vào đời mà xem
có công ty, ngân hàng, luật sư nào mà không nói “tận tân, tín nhiệm, bảo vệ
quyền lợi chủa thân chủ ”. Có ông ứng cử viên tổng thống nào mà không
hứa hẹn trăm điều tốt đẹp? Nhưng cuối cùng thì sao? Chẳng lẽ chúng tôi trương
bảng hiệu “Thiên Vị và Bên Trọng Bên Khinh”?
Tới đây thì Đại Nghi ngắt lời ông:
-Thưa
ông tổng biên tập. Thế nhưng làm cách nào ngài có thể bóp méo tin tức để nhào
nặn chân lý?
-Cái đó dễ lắm. Nó không phải là thủ thuật của riêng chúng tôi mà của bất kỳ cơ quan truyền thông nào khi họ thiên vị. Nguyên tắc là khi chúng tôi bênh ai thì những cái xấu của họ chúng tôi ỉm đi mà chỉ nói về những cái tốt. Nghe tin tức và bình luận mãi như thế quần chúng tin rằng đây là kẻ tốt nhưng sự thực hắn ta là kẻ xấu. Chẳng hạn đối với một cuộc chiến tranh xâm lược, muốn tạo chính nghĩa cho cuộc chiến, chúng tôi tìm cách bôi bẩn kẻ thù, ngụy tạo ra những bằng chứng để rồi cuối cùng quần chúng và dư luận thế giới đứng về phía chúng tôi. Khi đó chúng tôi nắm ngọn cờ đại nghĩa “thế thiên hành đạo”. Ngoài ra, cậu tưởng chúng tôi sống vì lý tưởng hả? Xin thưa chúng tôi chỉ là một cơ sở thương mại. Chúng tôi sống vì tiền. Không có tiền thì lấy đâu trả lương cho tôi và mấy trăm nhân viên? Chúng tôi phải tìm đủ mọi cách để kiếm tiền. Cậu thử nhìn lại xem cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi hai ứng cử viên quyên góp được khoảng hai tỉ đô-la. Tiền ấy chạy đi đâu? Thưa ngài nó chạy vào túi các cơ quan truyền thông ạ. Hễ ông nào có nhiều tiền thì “mua” được truyền thông. Truyền thông mạnh thì làm tổng thống. Truyền thông yếu thì thua. Ở nước Mỹ này truyền thông là vua. Truyền thông nắm cả cán cân công lý!
Nghe ông tổng biên tập nói vậy, Đại Nghi choáng váng cả mặt mày. Chàng không ngờ nghề làm truyền thông giống như thằng Mõ của Việt Nam ngày xưa, cầm cái mõ đi quanh làng, gõ lốc cốc để loan báo tin tức mà quyền thế ghê gớm như vậy. Chỉ tội nghiệp người dân bị sỏ mũi từ thế hệ này sang thế hệ khác mà không hề hay biết.
Vừa buồn vừa chán nản, Đại Nghi nói lời từ giã. Bước ra ngoài, chàng lang thang trên đường phố rồi lạc bước tới khu Brooklyn lúc nào không hay. Đây là khu của người Da Đen và đủ loại sắc dân thiểu số Âu, Á, Ấn Độ, Phi Châu, Nam Mỹ nghèo nhất Nữu Ước, nổi tiếng với những khu ổ chuột ghetto. Tại thành phố này, hầu như không một bức tường nào, không một xe vận tải nào mà không bị vẽ bậy (4) làm thành phố trở nên nhơ bẩn và xám xịt. Dường như để tô điểm thêm vẻ độc đáo - là hình ảnh của những người vô gia cư lang thang, ngủ gà ngủ gật trên hè phố, các trạm xe điện ngầm mà chính quyển chỉ báo động nhưng không sao giải quyết được. Năm nay ông thị trưởng thông báo số lượng người vô gia cư tăng thêm 34%. Theo thống kê, tại New York cứ 2688 người dân là có một người vô gia cư. Nhìn các ông bà vô gia cư Da Trắng và Da Đen sát bên nhau hoặc mơ màng nhìn trời nhìn đất hoặc nhìn vào cõi hư vô một cách yên bình và bất cần đời…Đại Nghi chợt ”ngộ” ra rằng có lẽ ở tận cùng đáy địa ngục con người dễ dàng cảm thông với nhau và không còn phân biệt màu da, chủng tộc, thân thế. Rồi trong đầu chàng lóe lên một ý tưởng: Phải chăng chỗ nào không còn “phân biệt” thì chỗ ấy chân lý hiển lộ? Và rõ ràng các ông bà vô gia cư kia còn có gì để “phân biệt” nữa đâu? Vậy thì chân lý phải nằm trong họ chứ? Chẳng lẽ chân lý không có hoặc không đến với những người hiện đang sống thừa bên lề xã hội? Nghĩ được như thế chàng nảy ra ý định làm quen với một người vô gia cư để tìm hiểu chân lý. Thế nhưng đến với các ông bà vô gia cư không phải chuyện dễ. Với hình dáng bình thường như thế này, các ông bà đó tưởng mình là cảnh sát chìm hoặc nhân viên xã hội tới điều tra thì họ bỏ đi hoặc ngậm miệng không nói gì. Do đó cần phải cải trang.
Đã tới giờ ăn trưa, Đại Nghi ghé tiệm McDonald mua hai phần ăn, tìm một bãi tập trung rác cũng gần đó. Chàng bới trong mấy thùng và tìm được một chiếc áo áo khoác đã rách nhưng vẫn còn mặc được. Chàng cởi chiếc cáo khoác của mình, gói trọn vào một bao ny-lông rồi khoác chiếc áo đó lên người. Mùi hôi của chiếc áo làm chàng buồn nôn. Bới thùng rác thứ hai, Đại Nghi móc ra được một chiếc mũ nhàu nát và đội lên đầu. Nhìn quần áo và mũ đội thì chàng trông có vẻ như một người vô gia cư nhưng còn bộ mặt và đôi bàn tay sạch sẽ như thế kia thì rõ ràng là một ông vô gia cư giả. Thu hết can đảm, chàng thò tay xuống đất, quét mấy đám bụi đường rồi trét lên mặt và mu bàn tay của mình. Một tay ôm chiếc bọc ny-lông, một tay ôm hai phần ăn trưa, chân cố tình đi lảo đảo, miệng nói năng lảm nhảm, Đại Nghi bước dọc theo Fulton Street là con đường chính của thành phố. Đi một đỗi, chàng thấy trên vỉa hè, chỗ có mái hiên thụt vào bên trong của một cao ốc, có lẽ đã bỏ trống vì làm ăn thua lỗ, một ông vô gia cư đang ngồi đó. Ông ta trông giống như một quái nhân thời cổ hay một thị dân nghèo khổ chui rúc ở những khu ổ chuột của thời Âu Châu bắt đầu công cuộc kỹ nghệ hóa. Râu tóc ông ta để dài và vì không tắm gội, chải chuốt cho nên nhuốm màu đất. Vì khuôn mặt bị phủ khuất bởi mái tóc, qua chòm râu xồm, rất khó đoán tuổi của ông ta. Có thể ông ta ở tuổi bốn mươi, năm mươi, sáu mươi hoặc bảy mươi không biết chừng. Ông ta ngồi dựa vào bức tường dưới mái hiên, tay trái tựa trên chiếc ba-lô nhơ bẩn. Chiếc ba-lô căng phồng, không biết trong đó chất chứa những gì. Tay phải ông ta đặt lên lưng một con chó vàng. Đại Nghi đứng cách ông ta khoảng năm, sáu bước, quan sát một hồi rồi ngồi xuống. Có lẽ ông già vô gia cư cũng chẳng để ý chi đến sự xuất hiện của Đại Nghi nhưng người chú ý trước tiên lại là con chó. Con chó vàng nằm úp mặt xuống vỉa hè, chiếc mõm của nó dài theo mặt đất, đôi tai nó cúp xuống. Nó giương đôi mắt buồn bã nhìn Đại Nghi rồi giống như chủ, nó lại cúi xuống nhìn lòng đường. Thỉnh thoảng nó lại giương đôi mắt nhìn Đại Nghi như thế nhưng không phản ứng gì. Khuôn mặt của nó rất buồn. Hình như nó hiểu được thân phận của nó. Cũng như chủ, nó không có một mái nhà để chạy nhảy vui chơi, để vẫy đuôi mừng khi chủ nó về, được ăn những món ăn ngon mà chủ nó mua từ những siêu thị. Nó chỉ là một con chó vô gia cư. Một con chó vô gia cư cũng biết buồn và biết tủi thân. Ngồi như thế khoảng dăm ba phút, Đại Nghi mạnh dạn nhích lại gần, chỉ còn cách ông ta khoảng một thước. Tới đây thì Đại Nghi phân vân không biết phải khởi đầu như thế nào. Ngôn ngữ của giới vô gia cư chắc chắn phải khác ngôn ngữ của người bình thường. Thô tục, gắt gỏng, cộc lốc hay thế nào đó… chàng hoàn toàn không rõ. Cuối cùng thì Đại Nghi chìa cái hộp đựng đồ ăn về phía người đàn ông rồi lựa chọn một cách nói có vẻ như của kẻ vô gia cư:
-Ăn không?
Lão già mắt vẫn nhắm nghiền, ngồi bất động, không nói một lời. Lặng ngắm lão già, Đại Nghi nói tiếp với giọng kẻ cả hơn:
-Này,
có ăn không thì bảo?
Giây lát sau, lão già từ từ mở mắt, nhìn Đại Nghi không nói gì, rồi chìa tay
trái đỡ lấy hộp đồ ăn. Lão cẩn thận mở hộp ra, bẻ phân nửa chiếc Big Mac cho
con chó. Còn lão thì ăn phân nửa còn lại và khoai tây chiên. Con chó được chủ
cho ăn, nó mừng rỡ nhỏm dậy. Trong khi nhai, thỉnh thoảng nó ngước mắt nhìn Đại
Nghi. Lão già ăn rất từ tốn như không có vẻ đói lắm và cũng chẳng thèm đưa mắt
nhìn hay nói năng gì với Đại Nghi. Lúc này Đại Nghi có cơ hội ngắm lão. Khuôn
mặt lão xương xương chứ không bì bì như những dân vô gia cư nghiện rượu và tỏa
ra một cái gì đó thanh thoát, hiểu biết. Ăn xong lão lấy mấy tờ giấy napkin
(5) có sẵn trong chiếc hộp, chùi miệng rồi lấy tay vỗ về con chó. Giây
lát sau lão cất tiếng:
-Tại
sao cho đồ ăn?
Đại Nghi vội vã đáp:
-Vì thấy
đằng ấy dễ thương.
-Dễ
thương sao được? Một thằng homeless (6) lang thang trên đường
phố thì có gì dễ thương đâu? Nói dóc!
Để chiều lòng lão già, Đại Nghi nịnh tiếp:
-Đằng
ấy trông có vẻ hiền!
Lão già lại đốp chát:
-Mẹ
kiếp! Một thằng vô gia cư không hiền thì dữ với ai?
Nghe lão già nói thế Đại Nghi bí và không biết nói thêm gì nữa. Nhưng may mắn
làm sao, giây phút sau lão nói:
-Tại
sao mày lại lang thang như tao?
Đại Nghi bịa chuyện:
-Tớ bị
vợ đá ra khỏi cửa!
Nghe trả lời thế lão già phá lên cười nhưng tiếng cười vụt tắt rất nhanh. Lão gục đầu xuống một hồi rồi ngửng đầu lên, giọng nghẹn ngào:
-Tao
cũng bị vợ “đá” như mày.
Tới đây thì dường như hố ngăn cách giữa hai người không còn nữa. Đại Nghi thành
thực nói:
-Ông kể cho nghe được không?
Bằng giọng vừa mỉa mai, bi thương vừa khôi hài, lão nói như trong cơn mơ:
-Tao là quản lý cho một công ty, lương trăm ngàn đô-la một năm. Tao lấy một con vợ mặt mũi cũng khá xinh xắn. Cuộc sống của tao là niềm mơ ước của khá nhiều người. Con vợ tao nói nó yêu tao, nhưng không hiểu sao, có thể do Trời sinh, tính tình nó rất quái dị. Tao làm cái gì nó cũng nói sai, nó làm cái gì cũng đúng. Tao nói cái gì cũng sai, nó nói cái gì cũng đúng. Tao mua cái gì nó cũng chê đắt, nó mua cái gì cũng OK. Quan điểm, sở thích của nó về mọi vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội…đều đúng, còn của tao đều bậy. Tao cố nhịn nhục cho yên cửa yên nhà nhưng cuối cùng sức người có hạn, tức quá tao xáng nó một bạt tai. Thế là nó gọi cảnh sát đến còng tay tao rồi nạp đơn xin ly dị. Cuối cùng tao bước ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng. Vì chán ngán, vì hận đời tao tìm lãng quên qua những chai rượu và lang thang trên vỉa hè như thế này đây.
Tới đây, lão già ngưng lại rồi nói tiếp với giọng như muốn khóc:
-Cho
mày hay. Đàn bà là Ông Trời! Cãi nó là chết. Nhớ nghe con. Đàn bà là chân lý.
Đừng bao giờ cãi lại đàn bà nghe con!
Nghe lão già nói thế, Đại Nghi thất kinh hồn vía. Là người chưa có vợ, chỉ bồ
bịch đi chơi, ăn uống, chiều đãi nhau qua lại, Đại Nghi chưa hề biết sức mạnh
của người vợ, người đàn bà. Nay nghe lão già nói “đàn bà là chân lý”
chàng chán nản vô cùng. Sau khi đối đáp một vài lời vu vơ, từ giã lão già,
chàng tiếp tục lang thang trên hè phố, đầu óc suy nghĩ miên man và rối mù. Cuối
cùng chàng suy luận rằng có thể có hai loại chân lý: Chân lý giữa cuộc đời đầy
tương tranh đố kỵ, tỵ hiềm này và một thứ chân lý khác vượt lên trên tất cả. Mà
vượt lên trên tất cả những thứ ô trược này chỉ có tôn giáo mà thôi. Nghĩ được
như thế chàng quyết định mua vé máy bay qua Rome. Do sự giới thiệu của một vị
linh mục, chàng được gặp một Đức Ông quyền cao chức trọng nay đã về hưu
đang sống trong viện dưỡng lão của giáo hội. Vì đã về hưu, tối ngày rảnh rỗi,
chăm lo cầu nguyện cho nên Đức Ông vui vẻ tiếp chuyện chàng tuổi trẻ. Đức Ông
nhẹ nhàng hỏi:
-Con
gặp ta có chuyện chi?
-Dạ thưa Đức Ông, con muốn biết trên cõi đời này chân lý có thật không và chân lý nằm ở đâu? Có thể nào chân lý thuộc về đàn bà không.
Chàng vừa nói dứt lời, mở to mắt vì ngạc nhiên, vị Đức Ông nói:
-Sao
con lại hỏi thế? Đàn bà tạo ra từ cái xương sườn của đàn ông. Nếu nắm giữ chân
lý thì phải là đàn ông chứ sao là đàn bà.
-Thế
nhưng ông già vô gia cư nói…
-Cái
thằng cha đó uất ức nên nói bậy đó. Chân lý nằm ở Thượng Đế. Thượng Đế là chân
lý. Thượng Đế sáng tạo ra chân lý. Không có chuyện gì qua khỏi bàn tay của
Thượng Đế cả.
-Nhưng…
Đại Nghi ngắt lời vị Đức Ông và định nói thêm về những thứ chân lý mà quý ông
chủ tịch hội đồng quản trị hãng chế tạo vũ khí, ông tỷ phú, ông tổng biên tập
tổ hợp truyền thông, ông cựu tổng thư ký Liên Hiệp Quốc vừa “dạy bảo” chàng.
Nhưng Đức Ông đã chặn ngay:
-Không
“nhưng nhị” gì cả. Con cứ về đọc lại Thánh Kinh và cầu nguyện. Cầu nguyện và
tin tưởng vào Thượng Đế con sẽ thấy đâu là chân lý.
Đại Nghi hiểu rằng đối với các bậc tu hành trọng vọng như thế này, điều tốt
nhất là vâng lời, không nên tranh luận, cãi vã. Chàng mau mắn vái chào vị Đức
Ông, nói lời cảm tạ rồi sau đó đáp máy bay đi Mecca xin diện kiến một
giáo sĩ Hồi Giáo. Vị này dành cả cuộc đời để nghiên cứu về Kinh Koran đang là
giảng sư của một trường giảng dạy Thánh Kinh cho các giáo sĩ trẻ. Thấy chàng là
người gốc Á Châu từ Mỹ tới, vị giáo sĩ vui vẻ tiếp chuyện. Sau khi lắng nghe
nguyện vọng của người tuổi trẻ, vị giáo sĩ nghiêm trang nói:
-“No
God but Alah”. Không có Thượng Đế gì cả. Chỉ có Đấng Allah! Thánh Kinh
Koran là lời của Đấng Allah. Đó là chân lý. Không có một thứ chân lý nào khác
ngoài Kinh Koran.
Nghe trưởng lão nói thế, cũng giống như lần gặp vị Đức Ông trước đây, chàng kính cần vái chào, nói lời cảm tạ rồi từ giã.
Lang thang ở Thánh Địa Mecca một ngày, đầu óc lùng bùng bởi những gì vị Đức Ông và Giáo Trưởng nói, chàng quyết định đáp máy bay tới Thành Phố Allahabad bên bờ Sông Hằng để tìm gặp các vị Lạt Ma Tây Tạng đang sống lưu vong ở bắc Ấn Độ.
Vào mùa này, khoảng 10 triệu dân Ấn Độ đang quy tụ dọc theo Sông Hằng - con sông linh thiêng - để tắm gội hầu rửa sạch tội lỗi. Nhìn cả rừng người, đông như kiến cỏ, quần áo có, trần truồng có, lao xuống dòng sông với vẻ mặt hân hoan, thánh thiện, Đại Nghi tự hỏi không biết dòng sông này có khả năng gì để rửa những tội mà con người phạm phải như trộm cướp, hiếp dâm, chuyển vận xì ke ma túy, buôn bán nô lệ, tội ác chiến tranh, tội diệt chủng, hủy diệt văn hóa và dân bản địa v.v…Cho dù có rửa được đi nữa thì sử sách nhân loại vẫn còn ghi, làm sao tẩy xóa được? Tại đây có khá đông người dân Tây Tạng cùng các vị Lạt Ma vượt thoát chế độ áp bức của Hoa Lục sinh sống như những người tỵ lưu vong. Sau khi dò hỏi dân địa phương, chàng được tiếp xúc với một vị Lạt Ma. Sau khi nghe xong khát vọng của người tuổi trẻ, vị Lạt Ma không nói gì mà pha một bình trà. Sau tuần trà đầu, dường như thấy sự im lặng đã vừa đủ để những cảm xúc nồng nàn của Hoài Nghi lắng xuống, vị Lạt Ma nhẹ nhàng hỏi:
-Con đi
tìm chân lý hả?
-Dạ.
Vị Lạt
Ma hỏi tiếp:
-Này ta
hỏi con, trước khi con người xuất hiện ở thế gian này, chân lý có không?
-Dạ
không có.
Vị Lạt Ma lại hỏi:
-Thế
sau khi con người biến mất trên cõi đời này, chân lý còn không?
-Dạ,
chân lý cũng chết theo.
Vị Lạt Ma nhấp một ngụm trà rồi nói:
-Vậy
thì chân lý không phải là một chủ thể độc lập mà nó cộng sinh với con người, nó
từ cuộc sống này đi lên, nó tùy thuộc vào con người và biến đổi theo tham-dục
của con người.
Chậm rãi châm tuần trà thứ hai, đợi cho chàng tuổi trẻ uống xong, vị Lạt Ma mơ
màng nói:
-Con
người có thể đạt tới trình độ hiểu biết ngang nhau nhưng khát vọng và tham-dục
của con người thì không bao giờ giống nhau. Người ta có thể đồng ý với nhau
rằng một kẻ nào đó giết người nhưng tìm cách đối phó với kẻ sát nhân thì hoàn
toàn khác biệt. Kẻ thì tôn thờ phong thánh, gắn huy chương, kẻ thì lên
án, kẻ đòi tử hình, kẻ bài bác án tử hình đòi đối xử nhân đạo. Hiện nay kẻ nắm
giữ chân lý của loài người chính là kẻ nắm được số đông hoặc có sức mạnh tài
chính, quân sự hoặc truyền thông. Thế nhưng thế giới không phải cứ như thế mãi.
Khi số đông suy giảm hay một siêu cường thứ hai, thứ ba xuất hiện, chân lý cũng
sẽ khác đi, loài người sẽ sống trong một trật tự mới. Đôi khi chân lý là tương
quan lực lượng mà kẻ yếu thường cam chịu.
Nghe vị Lạt Ma nói thế, Hoài Nghi hỏi:
-Thưa
Lạt Ma, như vậy chân lý có hay không? Và con phải quan niệm chân lý như thế
nào?
Vị Lạt Ma hiền từ đáp:
-Chân lý có chứ, nhưng nó là trăng đáy nước. Khi nào con nhìn chân lý như nhìn mặt trăng đáy nước thì tâm địa bình ổn và không còn gì thắc mắc. Lát nữa đây, khi con từ giã ta đến một nơi nào khác, lại có một sự biện giải khác về chân lý. Nhưng tất cả đều như trăng đáy nước mà thôi. Chân lý nằm ở tất cả mọi nơi, đầy khắp vũ trụ và nó không thuộc về ai cả. Người nắm giữ chân lý cũng giống như người giữ nắm cát trong tay. Đôi khi kẻ khăng khăng nắm giữ chân lý, không cho ai chia xẻ một chút chân lý khác lại là kẻ làm khổ người ta không biết chừng.
Nghe vị Lạt Ma nói thế chàng vô cùng ngạc nhiên, hỏi:
-Là
giáo chủ của một tôn giáo mà Đức Phật không nắm giữ chân lý, cũng như không tạo
ra một thứ chân lý nào cho tôn giáo mình sao?
-Đúng vậy. Đức Phật không sáng tạo ra chân lý và cũng không nắm giữ chân lý. Lời dạy của Đức Phật chỉ có mục đích giúp chúng sinh vơi bớt khổ cũng giống như ông bác sĩ chữa bệnh. Ông bác sĩ không tạo ra bệnh cũng như không “nắm giữ” bệnh. Lời biện giải về chân lý nếu có của Phật giống như lời ông bác sĩ giải thích cho con bệnh biết nguyên do của bệnh và phương pháp chữa trị mà thôi.
Nghe vị Lạt Ma nói thế, Đại Nghi không hỏi thêm gì nữa. Chàng nhắm mắt lại rồi mở mắt ra rồi thấy nhẹ nhõm cả người. Chàng vái chào vị Lạt Ma, nói lời cảm tạ rồi bước ra ngoài.
Giờ đây dọc theo bờ Sông Hằng đoàn người đông như kiến cỏ vẫn đang cuồng nhiệt lao xuống dòng sông tắm gội với vẻ hân hoan, thành kính lạ thường. Nhưng khác với khoảnh khắc trước đây, tâm địa chàng trở nên bình ổn. Chàng không còn thắc mắc, không còn hoài nghi và tra vấn về chân lý. Dường như tất cả những gì đang diễn ra trước mắt chàng đều “như thị và như thị” và “như trăng đáy nước”. Chàng đưa tay vẫy tay chào chào đoàn người đông như kiến cỏ đó rồi lặng lẽ bước đi. Ngày mai đây chàng sẽ đáp máy bay về Mỹ và sống một cuộc đời rất bình thường như hằng tỉ con người bình thường khác, không còn hoài nghi về bất cứ chuyện gì trên cõi đời này.
Đào Văn Bình
(Trích tuyển tập truyện ngắn Mê Cung xb năm 2019, Amazon phát hành)
(1) Tán
gẫu trên diễn đàn
(2) Khu
thương mại, kịch nghệ, giải trí lớn nhất nước Mỹ nằm ở ngã tư Broadway và đường
Seventh St. và được coi như ”Ngã Tư Của Thế Giới “ (The Crossroads of the
World)
(3)
Cảnh sát trưởng Mỹ trong các phim Cao Bồi.
(4)
Graffiti : Nạn vẽ bậy lên tường, cửa hiệu, xe cộ đang là thảm họa của các nước
văn minh.
(5) Khăn ăn bằng giấy.