Tuesday, January 31, 2023

Mấy Người Bạn Quảng - Phan

 

Suốt tuần qua Dallas lạnh lắm, chỉ may là những ngày âm độ C thì trời không mưa nên đường không đóng đá, nhờ vậy mà còn đi làm, đi chợ, đi đây đi đó được. Cũng tuần qua, từ đầu tuẩn tôi đã nhận được tin nhắn cho hay một người bạn cũ vừa qua đời vì bạo bệnh. Tôi cho người bạn cũ khác từ những ngày mới qua Mỹ hay tin, vậy là ba người bạn quen biết nhau từ những ngày mới đến Mỹ thì nay còn hai. Hồi đó, ba đứa cộng lại chưa được trăm tuổi, bây giờ cộng tạm đã lót ngót hai trăm. Còn hai đứa thì hai đứa con nhà người Bắc di cư đi viếng tang thằng bạn người Quảng.

Nói tới người Quảng nói riêng hay người miền trung nói chung trong đầu óc trẻ nhỏ của tôi vẫn còn nhớ được vài người bạn nhỏ chạy giặc từ ngoài trung vào Sài gòn những năm chiến cuộc leo thang trước biến cố tháng tư năm 1975. Các bạn cũng đi học những lớp tiểu học với chúng tôi ở Sài gòn. Nhớ lại, các bạn ngoài trung vào thường nổi bật bởi giọng nói khó nghe, nhưng tính tính vui vẻ và quậy phá cũng có hạng không thua bọn trẻ Sài gòn.
Rồi hình ảnh những bà mẹ Quảng buôn thúng bán bưng sau hoà bình, lam lũ hoà chung với những bà mẹ miền nam sau biến cố lịch sử là nét đậm trong tôi. Nhớ điếu thuốc Cẩm lệ, vấn bằng lá chuối tươi mà mệ hút giữa chiều gió mưa ế ẩm; chiếc nón lá rách, cái bao ny-lon lớn khoét ba lỗ làm thành áo mưa, mệ ngồi với gánh hàng rau ế ẩm chiều mưa nơi tôi bắt đầu biết suy nghĩ sau biến cố đổi đời ở quê tôi đã ít nhiều có hình ảnh bà mệ Quảng trị, mệ đã hình thành cho tôi từ nhỏ một tình cảm thương mến và thấu hiểu với người miền trung.

Giờ đứa bé đã xa mù cố thổ đến đoạn bước vào tuổi già nơi xa xứ nhưng hình ảnh cũ về quê nhà trong ký ức vẫn có mệ như tả ở trên, là người bạn của mẹ tôi ở cái chợ chiều ven sông sau tháng tư năm 1975. Mệ cạo gió cho mẹ tôi dưới tấm bạt che mưa che gió, nhớ chai dầu để cạo gió mệ cũng phải đội mưa đi mua chịu. Mẹ tôi nói mệ gánh gánh rau nép vào mái che cho đỡ mưa, rồi cũng mẹ tôi không chịu được mùi thuốc Cẩm lệ nên ho sặc sụa. Nhưng mẹ tôi biết uống rượu vang của Pháp; những hôm nhà có tiệc (trước 1975), đôi khi mẹ tôi cũng uống đỡ cho cha tôi ly rượu mạnh mà hồi đó tôi chỉ biết gọi chung là rượu tây.

Nhớ mệ Quảng năm xưa chạy giặc vào nam lam lũ chung với mẹ tôi sau hoà bình nên ký ức tôi còn mãi hình ảnh một chiều mưa ế ẩm ngoài chợ chiều vào hôm khác. Tôi xách cơm chiều ra chợ cho mẹ tôi ăn để ráng bán đến tối mà hòng cứu vãn một ngày gió mưa ế ẩm. Mẹ tôi xớt cơm làm hai phần để mời mệ ăn chung cho vui. Chắc mệ cảm khái tấm lòng mẹ tôi nên mệ lỡ ế, lỡ nghèo… thì chơi cho mạt luôn. Mệ bảo mẹ tôi chờ chút, rồi mệ lủi lủi đi một lát. Mệ quay về tấm bạt che mưa đã thiếu trước hụt sau của mẹ tôi lại còn cho gánh rau của mệ Quảng tá túc một thời. Mệ về với chai rượu đế. Hai bà ngồi nhậu với mấy con còng ram mặn do tôi tự nấu ở nhà, có rau ngổ luộc là mẹ tôi đã mua giúp mệ một bó. Cơm thì cơm trắng nhưng chỉ lưng bát cơm trước khi tôi trộn bo bo luộc vào nồi cơm để anh em tôi ăn ở nhà. Thực tâm lúc ấy tôi thương mẹ mình cũng chỉ làm được vậy, mẹ ăn ít thì cho mẹ ăn cơm không độn để có sức buôn bán, vậy thôi.

Hình ảnh hai bà mẹ ngồi nhậu giữa chợ đời trong bước đường cùng của lịch sử đã in đậm vào tôi một tình cảm vô bờ theo thời gian vì càng lớn lên càng hiểu được tâm trạng của bà mẹ chiều mưa ế hàng thì vẫn không biết chồng con trong trại tù cải tạo còn sống hay đã chết? Bà làm gì để nuôi sống mấy đứa con còn nhỏ.

Mệ càng thê thảm hơn với giặc giã đến thất lạc chồng con, rồi ai còn ai mất cũng không biết! Ngày ngày mệ qua ngày với gánh rau mà nuôi hy vọng đoàn tụ gia đình hơn là nuôi thân vì hôm nào buôn may bán đắt thì mệ cũng ăn rau thôi  để dành tiền cho chồng con thất lạc còn chưa gặp lại...

Tôi lớn lên ta bà thiên địa. Chiều mưa biên giới Việt-Trung, chiều mưa rừng bên Miên mù trời xám đất, rồi mưa biển mịt mù khi đi đánh cá ngoài khơi… những chiều mưa trong đời lại thấp thoáng hình ảnh hai bà mẹ uống chung chai rượu đế như nước mắt quê hương; đến những chiều mưa lãng mạn bên  u châu mà tôi ưa thích, che chung cây dù với bạn gái năm xưa như đi trong mộng thường; sống đời với mưa Mỹ trói chân buộc gót ở nhà… lại nhớ mưa chiều nơi cái chợ chồm hổm ven sông. Đi thắp nén hương cho mẹ trên bệ lò sưởi, lại thắp thêm nén nữa cho mệ…

Chiều nay mưa mưa như mưa phùn xứ bắc, lạnh thì lạnh bên Mỹ lạnh hơn quê nhà mình nhiều. Đi viếng tang thằng bạn người Quảng ra, tôi rủ thằng bạn già con nhà người bắc di cư như tôi… đi nhậu. Nó không ăn nhậu gì hết vì người muốn bệnh, chỉ muốn về nhà nằm nghỉ. Nên tôi ghé chợ một mình, chỉ mua bó rau răm về ăn miến gà có sẵn trong tủ lạnh.

Lại gặp một người Quảng chơ lơ ngoài bãi đậu xe của chợ. Trời thì lạnh nhức mũi, ù tai. Ông không nghèo như mệ năm xưa, ông ăn mặc chỉn chu, cái xe ông lái cũng bộn tiền. Thế mà ông mở bửng xe, đứng bán ít rau cải, rau thơm héo lạnh. Ông mời tôi mua giúp… Bó rau răm bằng ngón tay cái trong chợ bán hơn một đồng thì bó rau răm bằng ngón chân cái ngoài bãi đậu xe, ông bán chỉ có năm mươi xu. Tôi thật lòng thưa ông, tôi vào chợ chỉ mua mỗi một bó rau răm. Nên ông tặng không cho tôi vì không có tiền thối, lại còn vui vẻ nói: “Chúc anh có bữa chiều ngon miệng, vì rau nhà trồng không bón phân hoá học nên tuy nhỏ lá nhưng thơm lắm…”

Tôi nhận nơi ông tấm lòng người Quảng. Người miền trung chịu thương chịu khó nên thời tiết mùa này vẫn tìm cách che chắn ở nhà thì mới trồng được rau cải, rau xanh, rau mùi. Rồi ăn không hết thì đem ra chợ bán. Kiếm được vài đồng không bõ tiền xăng, tiền nước tưới rau và công sức. Nhưng ông này thương vợ dãi lạnh giầm mưa nên ông thay vợ ra chợ cầu may vào một chiều mưa lất phất, lạnh nhức mũi, trời đất âm u…

Số tôi hên hay sao vì người trong nam thường nói người trung keo kiệt, trong khi tôi toàn gặp những người miền trung hào sảng. Thằng bạn phiêu bạt năm xưa, nhà nó ở Lăng cô. Cứ mỗi lần chúng tôi chở hàng trong nam ra là ghé ngang nhà nó ăn nhậu sò huyết cho đã đời rồi mới đi Trung quốc. Chuyến về cũng y chang. Vợ chưa cưới của nó nhưng đã sống với mẹ chồng và đàn em chồng thơ ngây vì cô ấy không còn thân nhân sau chiến cuộc 1975. Nhà nghèo rớt mà hiếu khách và rộng lượng vô bờ…

Đến tên bạn chết hôm nay vì bạo bệnh, như vợ hắn kể, “Anh ấy không ngờ Chúa gọi anh ấy sớm. Tôi nghiệp ông xã em cực khổ từ nhỏ, mười tuổi đầu đã vượt biên, xa gia đình, thân một mình cực khổ tới giờ mấy đứa con mới lớn thì ảnh đã ra đi…”

Ôi cái thằng trọ trẹ, nhỏ con ,mà chơi lớn cách, lúc nào cũng chơi hết mình với anh em. Hồi nó chưa vợ con, đụng tới bạn bè nó thì nó không từ cái gì không dám làm… Nay nằm đó, miệng cười cười trong quan tài vài hôm rồi đóng nắp, lấp đất. Ai rồi cũng sớm hay muộn như nhau, khác chăng sự kết thúc trong thương tiếc của vợ con, bạn bè. Một người sống không lâu nhưng trọn nghĩa vẹn tình. Người chịu thương chịu khó nên ra đi mỉm cười…

Tôi về tới nhà không thiết đến ăn chiều, ăn tối gì nữa. Ngồi tưởng nhớ đến những người bạn Quảng, bạn miền trung hào sảng của mình trong đời. Bác Phạm Cây Trâm là nhà thơ xứ Quảng, cứ mỗi lần về lều thơ thăm bác là bác trai ân cần ly rượu thuốc do bác tự ngâm, bình trà mộc đậm tình quê hương chia chắt cho anh em những ngụm trà thương về xứ Quảng như thơ của bác; bác gái lúc nào cũng tươm tất nhiều món ăn xứ Quảng trên bàn, tô mì quảng không đâu sánh nổi tình thương, tấm lòng của bác gái gởi anh chị em về lều thơ thăm hai bác. Tôi thường ra về với gói ớt nhà trồng, trái bầu, trái bí mà cuống quẹt vôi để để được lâu, bác gái luôn cho tôi cả tấm lòng đôn hậu của người cô giáo xứ Quảng với tên học trò phương nam phiêu bạt giang hồ.

Lần nào về lều thơ thăm bác Trâm cũng có anh luật sư Phước ở Dallas. Anh đã ra người thiên cổ vài năm qua nhưng tinh thần chống cộng, sinh hoạt cộng đồng và đặc biệt là ủng hộ những phong trào dân chủ trong nước thì có thể nói anh là lá cờ đầu nơi địa phương tôi ở. Người anh rộng rãi, hào sảng, hành nghề luật sư nhưng nổi tiếng nấu phở cho mấy chục người ăn một lúc tại nhà, một mình anh ngồi đồ bánh xèo với ba cái chảo một lúc khi có anh chị em thân hữu ở xa về thăm Dallas. Anh để lại cho tôi kỷ niệm ngọt ngào như tâm tình người Quảng, xứ Quảng…

Lần đó, trời lạnh cuối năm. Sau nhà anh lại là hồ, hồ to như cái biển nhỏ. Mấy anh em ngồi đốt lửa sưởi ấm trong cái lò bằng kim loại. Hồi hết củi thì anh ôm ra một đống giấy tờ từ toà án mà anh không có thời giờ tiêu hủy nó đi vì không còn giá trị.

Văng vẳng tiếng đàn thùng của ca nhạc sĩ Đức Duy, Duy chơi lại tình khúc UTD mà anh đã viết trong những năm anh theo học đại học UTD. Vài bạn hữu bên Văn hoá khoa học hát cùng cho vui. Riêng tôi không biết nguyên do gì mà tôi hỏi luật sư Phước, “Anh Phước. Em sanh đẻ ở Sài gòn, nên nghe ai nói giọng trọ trẹ thì em biết là người miền trung. Sau này chơi chung với anh em ngoài trung nhiều nên em phân biệt được tiếng Huế với tiếng Quảng. Nhưng làm sao để phân biệt được người Quảng trị với người Quảng nam thì em chịu…”

Anh Phước trả lời tôi, “Em cứ thấy ai nói giọng Quảng thì hỏi anh ta một câu, cái lốp xe đạp ngoài anh gọi là gì? Nếu anh ta nói là: cái láp xe độp, thì anh chắc chắn với em: Anh ta là người Quảng nam.”

Giờ anh Phước đi xa lắm rồi! Nhưng tính khí hào sảng, con người rộng rãi, hóm hỉnh và tình nghĩa của anh còn mãi trong tôi…

Nhắc nhớ tới những người bạn Quảng của tôi mới biết là mình có duyên vớ người xứ Quảng. Nhớ anh Tuấn - Thủy Quân Lục Chiến, vợ là chị Lộc. Hai anh chị lúc nào cũng nhiệt tình với cộng đồng. Với Hội Quảng Đà ở Dallas thì anh chị như bậc tiền bối. Hôm Hội Quảng Đà ăn tết, anh đứng trầm ngâm bên cánh gà sân khấu để theo dõi năm đầu giao hết quyền hành cho ban tổ chức là lớp trẻ con em trong Hội Quảng Đà. Anh lọt vào ống kính nhà báo tôi một gương mặt chứng minh được cả cuộc đời gắn liền với lịch sử đất nước cận đại, một người lính già chỉ còn đôi mắt mệt mỏi nhưng niềm vui dâng tràn khi thế hệ thứ hai đã tiếp bước được cha anh. Từ lần đó, anh chị lui về hậu trường với vai trò cố vấn trong mọi sinh hoạt của Hội Quảng Đà. Ông lính già tóc bạc, có bà vợ tóc còn bạc hơn ông, thỉnh thoảng anh chị lại dìu nhau trên sàn nhảy của những buổi tết lễ trong cộng đồng… Tôi như nhìn thấy được vạt áo dài tím của chị đã buộc lại bên hông để nuôi con suốt những năm tháng anh tù đày cải tạo, nhưng giờ hai vạt áo dài của chị lại thướt tha theo âm nhạc bềnh bồng; bái phục chị… người yêu của lính.

Nhắc nhớ tới mấy người anh xứ Quảng thì không thể thiếu anh Phan Xuân Sinh, tôi thích mấy câu thơ của anh từ trước khi quen biết anh… “nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu/ bày làm chi trò chơi xương máu/ để đôi bên nuôi mầm mống hận thù/ ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu/ chỉ có bạn, có ta là thua cuộc…” trong bài thơ “uống rượu với người lính bắc phương” của anh.

Rồi trời thương cho anh dọn nhà từ Boston về Dallas để anh em được gặp nhau thường. Tôi muốn ăn cơm nếp trắng với sườn ram, rắc mè rang và cải chua thì cứ nói là anh nấu liền. Anh ram sườn mặn mà như tình nghĩa của anh, của người con xứ Quảng đối với bạn hữu. Nhưng hôm đó nắng hè gay gắt. Anh đi đâu về đỏ gắt mặt mày. Anh ghé nhà tôi với quà trên tay, “Em coi làm món gì nhậu chơi. Buồn quá! Coi anh em có ai đang rảnh thì gọi hết đến đây. Nhậu chơi.”

Tôi mở quà ra là một con thỏ to ơi là to. Người ta không những đã làm lông sạch mà còn thui sẵn nữa. Vàng ươm. Hấp dẫn…

Nửa tiếng sau đã có món thỏ xào lăn trên bàn nhậu ngoài patio. Nhà kiến thức trẻ - Đinh Yên Thảo lò dò tới, “em đi làm đêm về, mới ngủ được có mấy tiếng… nhưng nghe anh Sinh kêu…”

Vậy là tôi với Đinh Yên Thảo được nghe câu chuyện chết cười với người Quảng do chính một người Quảng kể - là anh Phan Xuân Sinh, “Nè nha! Anh nói cho tụi em nghe: Cái người Quảng của anh thích cãi, cái gì cũng cãi. Anh kể cho hai em nghe câu chuyện chính anh chứng kiến. Nhà anh ở cạnh sông Hàn - Đà Nẵng từ hồi anh còn đi học. Rồi anh đi lính, xa nhà xa quê tới khi bị thương, giải ngũ… anh vào Sài gòn lập nghiệp thì biến cố tháng tư. Anh đi vượt biên, sang Mỹ mấy chục năm rồi. Mấy chục năm anh mới về lại nhà xưa, ngồi bên sông Hàn bồi hồi kỷ niệm lúc nhỏ.

Đà nẵng bây giờ khác xưa nhiều, anh ngồi uống cà phê sáng có một mình tại sớm quá, chưa có bạn bè, người thân nào ra quán để trò chuyện. Anh ngồi ngoài quán chứ không ngồi trong quán nên thấy rõ con đường một chiều mà thằng kia lại chạy xe ngược chiều. Anh hốt hoảng vì sợ xảy ra tại nạn cho người khác.

Đúng như anh lo lắng, tai nạn xảy ra trước mắt anh. May là cô kia chỉ rách đầu gối quần, lác cùi chõ, xe hư hại nhẹ. Nhưng cô ấy xông tới anh chàng nọ ngay, không biết đau hay lo lắng cho mình gì hết! Cãi trước cái đã, ‘Anh lái xe tầm bậy. Đây là đường một chiều, sao anh chạy ngược chiều, đụng tôi. Anh phải bồi thường cho tôi.’

Anh không thể tưởng tượng nổi câu trả lời của anh kia, ‘Ai mà không biết là đường một chiều. Nhưng đường một chiều mà cô thấy người ta chạy ngược chiều thì cô phải biết là người ta có chuyện gấp lắm! Sao cô không tránh. Cô lỗi rồi!’

Anh ngồi anh nghĩ về cái người Quảng của anh. Chuyện như thế mà còn cãi được… thì đúng là người Quảng.”

Dòng nhớ tôi trôi về xứ Quảng. Không phải nơi chôn nhau cắt rốn hay nguyên quán của cha ông gì tôi. Nhưng ngẫm lại may mắn đã song hành cùng tôi từ nhỏ trong quan hệ với người Quảng, toàn những bạn hữu chí nghĩa chí tình, hào sảng và vui vẻ. Không chừng trong cái lỗi hay cãi của người Quảng có phần trách nhiệm của người Việt ở những vùng, miền khác đã không đủ kiên nhẫn để hiểu người Quảng cho đúng cái địa phương tính của người Quảng là hào sảng, chịu chơi, và chí tình với bằng hữu… nên người Quảng mới hay cãi tới cùng.

Nhìn tổng thể hơn thì cũng con một nhà, một mẹ Việt nam. Bàn tay có ngón dài ngón ngắn nên con cái một mẹ nhưng tính khí trời ban đứa hay nói, đứa trời gầm cũng không mở miệng, thì đứa hay cãi cũng chỉ cho vui cửa vui nhà thôi. Nhìn ở góc độ khác thì người hay cãi phải cực kỳ nhạy bén và thông minh thì mới đủ lý luận kịp thời theo dòng thời sự. Nên đang buồn thật buồn trong lòng vì vừa mất một người bạn quen biết từ hồi mới sang Mỹ, lại là bạn thân vì hợp tính ý nhau. Buồn thật lòng, buồn lắm khi nhớ tới lời vợ anh ta kể lể trong nước mắt. ‘tội nghiệp ông xã em, mười tuổi đầu đã vượt biên, xa nhà, xa gia đình, cực khổ tới giờ. Con cái mới vừa lớn thì anh đã ra đi…” Có lẽ người vợ nam bộ cũng rộng lòng, dễ tha thứ nên không bao giờ nhớ chuyện anh bạn Quảng này đã từng tặng vợ một cành bông hồng nhưng không có bông, chỉ có cành với lá trong ngày lễ tình yêu năm nào, đến em gái của anh còn bất bình, “Sao anh ác vậy! Valentine’s mà tặng vợ cành hoa không có hoa?” Hắn trả lời em gái hắn, ‘Chứ tháng trước sinh nhật tao, vợ tao tặng tao chai rượu… đâu có nước bên trong đâu!”

Bây giờ nó nằm đó. Miệng mỉm mỉm cười. Nắp quan tài mở thêm hôm nữa cho thân nhân, bạn hữu viếng thăm. Nắp quan tài sẽ đóng lại một đời người biệt xứ từ tấm bé. Vợ càng khóc than, các con cứ đến nắm tay cha thêm lần nữa, thêm lần nữa…

Ngày mai. Cửa Giáo đường mở rộng hai cánh đón quan tài nó như hai cánh mở rộng đón vợ chồng nó hôm đám cưới hai người.

Đời người.

Mỉm mỉm cười ra đi khi người thân, bạn hữu rơi lệ. Đúng như câu nói, “Khi sinh ra. Ta khóc, mọi người cười. Khi chết đi. Ta cười, mọi người khóc.”

Tạ ơn trên đã giữ gìn cho bạn tôi một đời không có gì hổ thẹn.

Phan

Mấy Người Bạn Quảng 

Nhớ Quê - Hàn Thiên Lương

Những Ý Tưởng Rất Hay (Song Ngữ) Từ Rishika Jain's Inspirations Nên Đọc

Không ai sinh ra là được hạnh phúc ngay, nhưng tất cả mọi người đều được sinh ra với khả năng tạo hạnh phúc.

Bốn ý tưởng hay cho cuộc sống:

Nhìn lại đàng sau để có Kinh nghiệm !

Nhìn về phía trước để thấy Hy vọng !

Nhìn xung quanh để tìm ra Thực tại !

Nhìn vào bên trong để tìm thấy Chính mình!

 

Tại sao ta lại đỗ lỗi cho một người nào đó trong đời mình.

Người Tốt mang Hạnh Phúc cho ta...

Người Xấu cho ta Kinh Nghiệm...

Người Tệ nhất thì cho ta một Bài Học...

Bài học tốt nhất trên đời là hãy lắng nghe mọi người và học hỏi từ mọi người, vì không một ai có khả năng hiểu biết tất cả mọi chuyện và tất cả mọi người thì sẽ hiểu biết được


Người bạn là người biết ta rất tường tận, am hiểu gốc gác ta,

chấp nhận chỗ đứng của ta và vẫn dịu dàng để cho ta tiến tới.

Khi ta tìm một người bạn, đừng cố tìm một người hoàn hảo

 mà chỉ nên tìm cho được một tình bạn chân chính. 

 

F - few: vài (chỉ có một vài, chỉ có rất ít)

R - relations: mối quan hệ

I - in: trong

E - earth: trái đất

N - never: không bao giờ

D - die: chết 

Chỉ có rất ít mối quan hệ trên đời này mới tồn tại mãi mãi.


Những lời nói tử tế có thể rất ngắn và rất dễ nói 

nhưng âm vang của chúng sẽ thật sự tồn tại vĩnh viễn. 


Lẫn trốn một vấn đề rắc rối chỉ làm cho việc giải quyết vấn đề càng lùi xa thêm mà thôi!

Cách dễ nhất để thoát khỏi một vấn đề là tìm cách giải quyết nó.

Sự thật đáng ngạc nhiên về về Cái Lưỡi của con người:

Phải mất 3 năm mới biết được cách sử dụng nó, nhưng phải mất cả một đời người mới biết được Ở ÐÂU và KHI NÀO thì mới nên sử dụng nó.

Không ai có thể làm tổn thương ta được

 nếu ta không cho phép họ.

Tâm trí sẽ được an bình không cần hao tốn gì cả ..

.. nếu ta biết loại bỏ 3 điều này đi (3 chữ C trong tiếng Anh):

Criticizing: chỉ trích

Comparing: so sánh

Complaining: phàn nàn.

BA QUY TẮC VÀNG của Vivekanand:

- Ai giúp ta .........  - Ta đừng quên họ.

- Ai yêu thương ta  - Ta đừng ghét họ.

- Ai tin tưởng ta     - Ta đừng lừa gạt họ.

From: Sen Nguyễn 

Tìm Đâu Hình Bóng Mẹ Tôi - Đỗ Công Luận

Monday, January 30, 2023

Chuyện Về Việt Nam Tìm Vợ - Hoàng Phạm


Ca dao:

Chim tham ăn sa vào vòng bẫy

Cá tham mồi mắc phải lưỡi câu

Ai thường nghe nhạc VN đều phải biết nhạc sĩ Văn Phụng và vợ là ca sĩ Châu Hà. Ông bà nầy chỉ có một người con trai duy nhất. Anh nầy tuy lớn tuổi mà chưa có gia đình nên thường chit chat trên net để tìm người yêu.  Qua net anh gặp được một cô gái trẻ ở VN. Hai người email và phone một thời gian thì anh ta quyết định về VN gặp mặt.

 

Cô gái ra đón anh tại phi trường rồi đưa thẳng về khách sạn. Ngay hôm sau đưa anh ra phường để làm giấy hôn thú.  Thật ra thì anh chưa có ý định về VN để cứơi vợ nhưng gặp cô gái thì anh như người mất hồn, sai gì làm nấy. Trở lại Mỹ anh bị cô gái liên tục hối thúc làm giấy tờ bão lãnh. Ngày đêm email và điện thoại quấy rầy. Anh chưa động tĩnh gì về việc bảo lãnh thì mỗi người có số, trong lúc đang làm việc anh bị đứng tim và gục chết ngay tại bàn làm việc ở sỡ làm!

 

Hay tin “chồng” chết, cô gái tại VN đã nhờ một tổ hợp luật sư Mỹ có văn phòng tại VN, đòi hỏi chiếm đoạt tất cả tài sản của “chồng” để lại vì cô ấy là “vợ” có hôn thú. Văn phòng luật sư đại diện tại Mỹ mời bà Châu Hà đến thông báo. May mắn cho bà Châu Hà là trước khi đi VN anh con trai có để lại di chúc dành hết tài sản cho mẹ nếu có điều chẳng lành xảy ra cho anh. Anh ta cũng khôn đáo để vì gia đình chỉ có mẹ con.

 

Biết là cũng khó ăn vì giấy tờ bảo lãnh chưa có, lại có di chúc để lại cho mẹ nên luật sư đòi bà Châu Hà lệ phí 20 ngàn đô để “clear the case”. Bà Châu Hà tức lắm nên trả lời là không có tiền. Sau đó luật sư hạ xuống 10 ngàn. Bà CH cũng nói không. Về nhà, bà CH liên lạc bạn bè và may mắn gặp được một bà VN có chồng là luật sư Mỹ giúp đỡ. Chỉ tốn chút đỉnh 500 đô cho giấy tờ là clear xong mọi chuyện.

 

Bà Châu Hà đã đem chuyện riêng tư nầy nói trên đài phát thanh VNHN để có ý giúp đở và cảnh giác những ai có con cháu muốn về VN cưới vợ. Thông điệp của bà là trước khi đi VN thì nên để lại di chúc như con bà để đề phòng mọi chuyên rủi ro khi đi du lịch VN. Đài phát thanh VNHN đã phát thanh câu chuyện của bà Châu Hà nhiều lần. Ai thường nghe đài phát thanh VNHN đều biết chuyện nầy.

 

Đi du lich VN cũng như lính ra trận, không chết kiểu nầy cũng có thể chết kiểu khác : chết vì hít khói xe, chết vì bị xe đụng,chết vì ngộ độc thực phẩm, nhảy lầu tự tử, cướp đâm chết, SIDA ….

 

Ngay cả thấy mặt thằng Việt kiều nhớn nhơ, dễ ghét quá, lụi cho một nhát. Ấy thế mà dân ta vẫn ào ạt về VN. 

 

“Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”.

 


Hoàng Phạm

Vài Nét Về Tư Tưởng Phật Giáo Của Vua Trần Thái Tông - Phần 1 - Nguyễn Giụ Hùng


Lời mở đầu:

-Nội dung câu chuyện được ghi lại theo ký ức của một người xa quê lâu năm nhớ về “những năm tháng ấy” tại quê nhà vào giai đoạn đầu thập niên 1950, trước hiệp định Geneve 1954 ở miền Bắc nước ta.

 

Hà Nội chưa thức giấc!

Tôi, Thi và Uyên, cả ba chúng tôi đạp xe song song bên nhau trên đường phố Hà Nội. Chẳng ai nói với ai lời nào, nhưng sao tôi vẫn thấy thật gần gũi và thân thương với nhau quá. Gần gũi như những cây sấu mọc dọc hai bên đường, đương vươn cành, khoác vai nhau thủ thỉ dưới ánh đèn điện lờ mờ trong sương sớm.

Tất cả cảnh vật chung quanh, bỗng dưng tôi cảm nhận như có một cái gì rất “của riêng mình” để yêu chúng hơn, để thấy mình là chúng và chúng cũng chính là mình. Cái cảm giác lâng lâng đầy hòa ái ấy, phải chăng nó xuất phát từ sự tinh khiết, yên tĩnh của một buổi sáng sớm thanh bình. Hay nó đến từ hình ảnh của Thi, người con gái đang đạp xe bên tôi mà tôi hết mực yêu thương. Tôi tự mỉm cười với ý nghĩ đó.

Hình ảnh của tôi và Thi không thể tách rời nhau và cũng không thể tách rời ra khỏi thành phố Hà Nội. Thành phố này đã ghi lại biết bao nhiêu kỷ niệm kể từ những ngày chúng tôi vừa mới thân nhau. Tôi nhớ lại, những ngày Thi còn như con chim nhỏ truyền cành, tung tăng trên đường phố trong những dịp đi chơi cùng tôi. Nàng thường nắm tay tôi kéo đi cho nhanh hơn mỗi khi tôi la cà dừng chân hay đi chậm lại. Chợt đến một ngày, cái ấm áp mềm mại của đôi bàn tay ấy như có một điều gì khác lạ. Và tôi nhận ra một sự thay đổi lớn sâu kín trong tôi: tôi đã yêu nàng. Sự khăng khít cứ tăng lên mãi theo ngày tháng bên nhau. Và để hôm nay, không thể nghi ngờ, nàng sẽ là người đi bên tôi đến trọn cuộc đời như một định mệnh đã được an bài.

Tôi đưa tay sang xoa nhẹ bàn tay Thi. Hai chúng tôi nhìn nhau cùng mỉm cười. Uyên cũng mỉm cười với chúng tôi một cách bâng quơ.

Chúng tôi đạp một vòng theo bờ hồ Hoàn Kiếm, một cái hồ mang dấu tích lịch sử của thời vua Lê Lợi, và người ta từng ví nó như hình ảnh của một đóa hoa đẹp được đặt giữa lòng thủ đô Hà Nội. Vài cây cổ thụ quanh hồ chìa cành nằm xoài mình trên mặt nước, soi bóng lung linh dưới ánh đèn đường. Tháp Rùa mờ mờ trong sương.

Tầu điện chưa chạy nên thiếu tiếng leng keng. Lác đác vài chiếc xe xích lô đi tìm khách sớm, chậm chạp, uể oải như người còn đang ngái ngủ. Thỉnh thoảng lắm mới có một hai chiếc ô-tô con chạy đi vội vã, phá tan bầu không khí yên tĩnh của phố phường.

Hà Nội vẫn ngủ!

          Ba chúng tôi vui chân đạp xe về hướng Hồ Tây. Hồ Tây là hồ lớn nhất Hà Nội. Xung quanh Hồ có nhiều thắng cảnh, cộng thêm vào với nhiều truyền tích dân gian. Có những truyền tích ngàn năm, tới bây giờ vẫn chưa ai giải mã được.

Gió mát quá!

Chúng tôi khóa xe bên cây cổ thụ rồi lững thững đi bộ trên con đường nhỏ dọc theo bờ hồ. Bóng chùa Trấn Quốc ẩn hiện lờ mờ. Đèn điện dọc đường Cổ Ngư và ven Hồ Tây không đủ sức phá tan đi sương sớm đang bao phủ mặt hồ. Không gian nơi đây trở nên huyền ảo, trầm mặc và thật nên thơ.

Tôi nắm tay Thi cùng chạy lên phía trước. Uyên bước vội theo sau. Chạy được một quãng ngắn, trong lúc “ngẫu hứng”, tôi nhắc bổng Thi lên quay một vòng. Thi ép mặt vào vai tôi cười khúc khích. Tôi đặt nàng xuống rồi lại nắm tay nhau chạy tiếp. Chạy thêm một quãng nữa mới dừng chân, cùng dang tay rộng hít thở vài hơi thật dài. Tôi khoác vai Thi đi ngược trở lại phía sau đón Uyên cũng đang bước tới.

Ba chúng tôi lại cùng đi bên nhau. Tôi hứa với Uyên, có dịp nào thuận tiện, tôi sẽ đưa Thi và nàng đi chơi một vòng Hồ Tây. Tôi sẽ giảng giải cho nàng về những thắng tích quanh vùng. Uyên nhìn tôi cảm động với đề nghị ấy.

Vừa đi, tôi vừa kể cho Uyên nghe về những kỷ niệm ban đầu của tôi và Thi đã từng trải qua trên con đường này, thường vào những buổi chiều nhàn rỗi hay trong những ngày nghỉ học cuối tuần. Uyên bóp nhẹ vào cánh tay Thi như để chia sẻ niềm hạnh phúc của cô em. Thi không thể che dấu được sự sung sướng của mình trên nét mặt. Đôi lúc, Thi bụm miệng cười mỗi khi tôi “kể xấu” về nàng.

Trời bắt đầu sáng dần. Hà Nội đã tỉnh dậy. Sinh hoạt của thành phố bùng lên rất nhanh. Tiếng xe cộ, tiếng rao hàng, tiếng người qua lại chẳng mấy lúc đã trở nên ồn ào huyên náo.

Giữa những tiếng ồn ào của nơi đô hội ấy, tiếng chuông chùa Trấn Quốc bỗng ngân lên và văng vẳng vang xa. Tiếng chuông chùa dõng dạc, điểm từng tiếng một, bình thản như bước chân thiền hành của các vị thiền sư, đi để mà đi chứ không phải đi để tới nơi nào. Dõng dạc, bình thản nhưng nó vẫn huyền diệu, có khả năng đưa lòng người về với “chân như”.

Chúng tôi nhìn nhau như hỏi ý. Và cũng không cần ai phải lên tiếng, chúng tôi cùng quay bước về phía chùa Trấn Quốc, nơi phát ra tiếng chuông ngân.

Chùa Trấn Quốc

Chùa Trấn Quốc nằm trên một ốc đảo ngay ven bờ Hồ Tây. Những hàng cây cau và những cây cổ thụ quanh chùa in bóng trên mặt nước. Chùa có lịch sử lâu đời. Nơi đây, Thái hậu Ỷ Lan - thời nhà Lý - thường có những buổi đàm luận với các vị sư nổi tiếng đương thời về nhiều đề tài liên quan đến Phật giáo. Cũng nhờ vào đó, ngày nay chúng ta mới có thêm những tài liệu quý báu để truy tìm ra được phần nào về lai lịch và sự phát triển của Phật giáo Việt Nam ở vào thời kỳ đầu. Chùa đã bị đổi tên nhiều lần và cũng mang nhiều dấu vết thăng trầm. Trịnh Sâm đã từng biến chùa này thành “cung hành lạc” để vui thú cùng cung nữ. Bà Huyện Thanh Quan đã có bài thơ trách cứ về sự việc này.

Chúng tôi bước theo dải đất dài, nối liền từ bờ hồ ra ốc đảo, dẫn đến cổng chùa. Chùa mang dấu vết rêu phong của thời gian hàng nhiều thế kỷ. Càng vào sâu bên trong, chùa càng được mở rộng ra. Ngoài chính điện to lớn là dẫy nhà ngang dùng làm nơi sinh hoạt và tiếp khách thập phương hàng ngày. Bên trong chính điện, ngoài thờ Phật ở chính giữa, còn thờ thần như các bà Thánh Mẫu ở hai bên hông điện, một hình ảnh về sự hòa hợp của hai tôn giáo Phật-Nho và tín ngưỡng thờ Mẫu rất riêng biệt của Việt Nam ta.

Tiếng chuông “đại chung” vẫn dõng dạc ngân vang. Tôi và Thi tò mò trèo lên tháp chuông. Nơi đây, một chiếc chuông to treo trên “giá” gỗ. Tôi nghe nói chuông này được đúc vào năm Cảnh Hưng thứ ba đời Tây Sơn. Một chú tiểu độ chừng mươi tuổi, ngồi bên đánh chuông với nét mặt thật hồn nhiên. Tôi bấm tay Thi đi xuống cầu thang để đừng làm kinh động tới chú.

  
Hình minh họa 

Bước vào chính điện, tôi thấy Uyên đang thắp hương, đứng lẩm bẩm khấn vái trước bàn thờ các bà Thánh Mẫu. Tôi và Thi cùng thắp hương lễ Phật. Đứng bên nhau, tôi liếc mắt sang Thi thấy nàng nghiêm trang và “người lớn” hẳn lên. Tôi mỉm cười.

Lễ xong, Thi quay sang hỏi tôi:

- Em liếc thấy anh mỉm cười. Đang lễ Phật mà anh cười à?

Tôi không trả lời Thi. Ra tới ngoài sân tôi mới hỏi đùa lại:

- Đang lễ Phật mà em liếc anh à?

Thi che miệng cười nhỏ.

Uyên vén vạt áo dài ngồi xuống thềm chùa, trên nét mặt vương vất một chút gì trầm mặc, ưu tư. Nàng nói với tôi:

- Mỗi lần bước vào chùa, em thấy lòng mình thật thanh thản. Mọi hình ảnh trầm luân của cuộc đời dường như được xóa đi trong tâm trí em. Mùi nhang thơm đưa em về một nơi nào thật an bình. Em mới hiểu các vị vua đầu đời Trần, các ngài không muốn làm vua mà chỉ thích đi tu. Vừa làm hết trọng trách với đời là vội vàng tìm về với đạo. Người xưa hay hơn chúng ta bây giờ nhiều anh nhỉ?

Tôi nhìn Uyên và chia sẻ với lời tâm sự của nàng:

- Anh hoàn toàn đồng ý với Uyên. Cứ như vua Trần Thái Tông, ngài trốn triều đình lên núi Yên Tử tìm cầu làm Phật. Triều đình phải đến tận nơi đó mời ngài trở về cung. Khi thắng quân Nguyên năm vừa tròn bốn mươi (40) tuổi, ngài nhường ngôi cho con là vua Trần Thánh Tông rồi vào Hoa Lư lập cung Thái Vi để tu hành. Nhưng thật ra, ngài đã thực hiện con đường đời-đạo song hành: khi làm vua lo việc nước, ngài vẫn chăm lo tu học; khi đi ẩn tu, ngài vẫn để tâm lập hậu cứ ở Hoa Lư để phòng chống quân Nguyên sau này. Uyên còn nhớ câu chuyện ấy chứ?

- Thưa anh, em còn nhớ!

- Tốt lắm! Về nhà nhớ nhắc anh nói thêm cho Uyên nghe về một bản văn của ngài, tức bài tựa “Thiền Tông Chỉ Nam” của vua Trần Thái Tông còn lưu lại tới ngày nay.

Uyên nhìn tôi với ánh mắt biết ơn:

- Em cám ơn anh nhiều lắm!

Thi cũng nắm cánh tay chị nói thêm:

- Anh ấy đọc quên cả ăn! Em phải dục mãi anh ấy mới chịu buông sách. Anh nói phải đọc gấp vì chị sắp lên chơi.

Uyên nắm tay Thi:

- Chị cũng cám ơn em luôn! Hai người là một mà!

Chợt Thi xoa bụng mình, nhõng nhẽo:

- Em đói!

Tôi nói đùa:

- “Con gái mười bẩy bẻ gẫy sừng trâu” có khác, lúc nào cũng kêu đói!

Thi nhăn mặt cãi lại:

- Em sắp mười sáu mà!

Tôi cười to:

- Em thích làm người lớn! Anh tưởng em đòi tăng tuổi mình lên tới mười tám nữa đấy chứ!

Thi biết mình bị lừa nên “véo” tôi một cái nhẹ:

- Em ghét anh!

Tôi và Uyên cùng cười. Tôi cũng bắt chước Thi xoa bụng mình:

- Anh cũng đói! Để anh vào trong bếp xem có cơm chay không nhé! Cơm chay ngon lắm đấy!

Uyên vội cản:

- Mới sáng sớm, nhà chùa làm gì đã có cơm chay!

Thi nhẩy nhẹ lên, khẽ vỗ tay như hoan hô ý kiến “xin ăn” của tôi. Đúng lúc có chú tiểu đi ngang qua sân, tôi liền hỏi:

- Chú tiểu ơi, nhà chùa có cơm chay cho khách thập phương không chú!

- Thưa thí chủ, nhà chùa chỉ ăn một bữa vào giờ Ngọ (giữa trưa) thôi ạ!

Tôi vờ ôm bụng tỏ ra thất vọng. Tôi hỏi đùa thêm:

- Thế nhà chùa còn cơm nguội không chú?

Chú tiểu biết chúng tôi hỏi đùa nên chỉ mỉm cười bước vào chính điện.

Chúng tôi sợ “thất lễ” với chú tiểu nên phải “bấm bụng” nhịn cười cho tới khi chú đi khuất.

Thi lườm tôi:

- Anh không tha cho ai hết! Vào chùa mà cũng còn đùa nghịch. Phật phạt anh bây giờ!

Uyên nói ngay:

- Anh ấy không sợ Phật phạt đâu, mà chỉ sợ cô em gái của chị phạt đấy thôi!

Tôi nói với Uyên:

- Phạt gì thì phạt! Cô ấy đừng “véo” và đừng “cắn” anh là được.

Thi hỏi:

- Thế phạt anh bằng cách nào?

Tôi đi lùi nhanh ra phía cổng chùa, tay chỉ chỉ vào má tôi như có ý bảo “phạt anh bằng cách hôn anh đây này”. Thi phồng má “không!” một tiếng nhẹ rồi đuổi theo tôi. Tôi vừa chạy ra khỏi cổng chùa thì đi chậm lại.

Thi nhõng nhẽo:

- Em phạt anh! Anh phải cõng em ra xe!

Tôi vờ ghé lưng như để cõng Thi lên. Thi nhìn chung quanh rồi cười:

- Em tha cho anh lần này đấy!

Nói xong nàng quay lại để đi cùng với chị.

Tôi đề nghị:

- Anh mời hai cô đi ăn phở nhé!

Thi nắm tay chị kéo đi:

- Đi ăn phở đi chị! Anh ấy mới “lĩnh lương” mà.

Uyên rút tay ra khỏi tay Thi:

- Ăn ngoài tốn tiền lắm! Về nhà ăn cơm với món gà kho gừng của mẹ mới gửi cho. Không ăn mẹ giận đấy!

Thi ngúng nguẩy, nũng nịu đi theo chị.

Nắng sớm đã lên cao. Chúng tôi lấy xe, đạp thẳng về nhà. 

Hình minh họa


***

 Mời nghe bản nhạc:

Tỉnh thức

https://www.youtube.com/watch?v=5HRMcvTvoxE&t=161s

 

Xin xem tiếp PHẦN 2

Tạ Ơn - Minh Lương

Nơi Tôi Về (Phần 2) - Nguyễn Văn Tới

Tiểu chủng viện thừa sai Kontum, vẻ hài hòa của lối kiến trúc Pháp và nhà Rông cao nguyên, hiện là nơi du khách đến thăm nhiều nhất. Khởi công năm 1935. Hoàn thành năm 1938. Tòa nhà được dựng lên bằng gỗ Chít, cộng với đất và rơm. Mối mọt không ăn được.

Phần 2  

Bốn người chúng tôi ở lại Kontum và Pleiku một thời gian khá dài, không khí miền cao nguyên dầu sao cũng trong lành và mát mẻ hơn ở Sài Gòn. Chúng tôi đi thăm lại những nơi trong thời niên thiếu đã đi qua, viếng đền Đức Mẹ Măng Đen phía Bắc Kontum với bức tượng Mẹ bị cụt cả hai bàn tay do chiến tranh. Chúng tôi trở về mái trường xưa, chủng viện thừa sai Kontum và ở lại nơi này 4 ngày, nhìn lại ngôi nhà nguyện nhỏ bé, từng lớp học thân thương, căn phòng ngủ ngày xưa chúng tôi trùm mền, lén thày giám thị, lấy đậu phộng và khoai lang deo ra ăn. Nhìn lại chốn xưa mà lòng dâng lên biết bao cảm xúc buồn vui thời học trò.

Pleiku bây giờ không còn là thành phố sương mù, không thể nào hình dung ra một thành phố “đi dăm phút trở về chốn cũ”. Em Pleiku giờ đã hết “má đỏ môi hồng” vì xe cộ chật kín, phun khói đầy trời; nữ sinh không còn e ấp tà áo dài trắng ngày xưa bước chân sáo tung tăng đến trường. Ngôi nhà thờ “Quân Đội” to lớn trang nghiêm ngày xưa, giờ tràn ngập những thiếu niên khăn quàng đỏ, cứ mỗi chiều tối, họp nhau hô to khẩu hiệu vang trời. Chính quyền chiếm lấy nơi thờ phượng làm cung văn hóa thiếu nhi tỉnh Gia Lai.

Người ở đâu về đông quá. Phố xá chen chúc, xe cộ tấp nập. Người ngoài Bắc di cư vào Nam ào ạt với lượng người còn đông hơn dân Bắc đi tàu há mồm vào Nam năm 1954; lạ một điều là không có di dân theo chiều ngược lại từ Nam ra Bắc, nơi khai sinh ra chủ nghĩa cộng sản được rêu rao là cái nôi giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và cũng là nơi đem lại tự do hạnh phúc đầu tiên cho miền Bắc.

Một buổi tối, chúng tôi dạo phố thăm Chợ Mới, ngôi chợ lớn nhất của Pleiku. Tôi muốn nhìn lại nơi chốn mà năm 1988 tôi đã từng ăn, ngủ hằng đêm, chờ xe cá ở Quy Nhơn lên để khuân vác và cân cá thuê cho chủ vựa. Cố tìm kiếm mà cũng không thể nào nhận ra đâu là cái sạp cá ngày xưa mình từng ở. Đứng thẫn thờ, ngó quanh. Những thước phim dĩ vãng quay về.

Ngày đó, vợ chồng ông bà chủ vựa cá nhận cho tôi giúp việc và cho tôi ngủ lại trong một cái sạp bằng gỗ khoảng 10 mét vuông, cửa và vách là những miếng ván dài được ghép vào với nhau trượt trong những cái khe, dựng đứng lên. Ông bà chủ đã gởi gắm tôi cho ông nhân viên an ninh đi tuần chợ ban đêm nên tôi không lo bị công an hốt về đồn. Đêm về, những cơn gió lạnh miền cao nguyên xuyên qua khe hở, thổi se sắt qua vách ván, tôi nằm co ro bên trong, điếu thuốc cháy đỏ trên môi, ngẫm nghĩ sự đời dâu biển mà thương cho số phận hẩm hiu của mình.

Đêm nào cũng vậy, khoảng 2 hay 3 giờ sáng, bạn hàng từ Quy Nhơn lên, đập rầm rầm vào vách ván kêu tôi thức dậy cân cá. Trời rét căm căm, tôi miễn cưỡng chui ra khỏi tấm mền ấm áp. Chiếc áo len lúc nào cũng trên người, kể cả lúc đi ngủ, tôi chỉ cần xỏ chân vào đôi dày bốt cao cổ, găng tay cao su màu vàng, và cái áo mưa khoác lên người, vội vàng lao ra chiếc xe ba-lua (poids-lourd) để vác những cần xé cá trên vai chạy thật nhanh về sạp cá, trong khi nước đá tan chảy, nhỏ ròng ròng trên cổ, trên vai, ướt hết bên ngoài áo mưa.

Cần xé cá ướp đá càng làm tăng cái lạnh nửa đêm về sáng của Pleiku, tôi cố tập quen dần tuy răng vẫn đánh bò cạp, hai hàm răng lập cập va vào nhau nghe lách cách. Cái khổ nhất của nghề cân cá không phải là dậy sớm, lạnh run, khuân vác cực khổ mà là những cái gai ngạnh cá đâm vào đầu ngón tay. Những ngón tay tê cóng khi bới đá bào ra để bốc cá chuyển qua cần xé của mình, dù cẩn thận đến thế nào, những gai ngạnh của cá cũng xóc vào đầu ngón tay nhức tới óc. Không lúc nào tôi thấm thía hai chữ “tê tái” như lúc đó. Ngón tay đau buốt “tê” cóng, mặt “tái” nhợt đi vì lạnh.

Dưới ánh đèn lù mù của bóng đèn điện, tôi và anh phu khuân vác bên bà chủ xe cá, xỏ cái đòn vào cái móc cân, cả hai nhấc cần xé cá lên cân để bà chủ kéo trái cân. Bà chủ cá và tôi cùng ghi chép vô cuốn sổ riêng của mình số lượng và trọng lượng của mỗi cần xé, để khi xong sẽ so sánh với nhau. Chúng tôi phải làm thật nhanh, không được nghỉ ngơi vì bà chủ xe cá còn phải giao cho các vựa cá khác.

Tiếng kêu của bạn kéo tôi trở về thực tại. Chúng tôi đi ra khỏi Chợ Mới đến ngã tư khu phố lớn Hoàng Diệu và Võ Tánh, ngày nay họ đặt tên mới là Hùng Vương và Hoàng Văn Thụ. Nhà tôi nằm gần ngã tư này, đối diện kho gạo Trần Tỷ là kho gạo lớn nhất miền cao nguyên ngày đó. Tôi cố hình dung ra ngôi nhà ngày xưa của mình ở đâu, phải mất nhiều lần đi qua lại, tôi mới nhận ra vì người chủ mới đã xây nó lên thành nhà lầu ba tầng. Một nỗi buồn sâu đậm len vào hồn khiến tôi thẫn thờ mất một lúc.

Chúng tôi ở lại Pleiku thêm hai ngày rồi thuê một tài xế và một chiếc xe Toyota Innova 7 chỗ, tiếp tục hành trình trên quốc lộ 19, sẵn ghé thăm hai người bạn học ngày xưa. N. K. An làm nghề xay lúa gạo và Bok N. Đ.Trường, hiện là linh mục quản nhiệm giáo xứ Ayunpa ở Phú Bổn.

Thị trấn Phú Bổn ngày xưa được nhiều người biết đến trong cuộc di tản ngày 14 tháng 3 năm 1975 từ quân đoàn II. Đoàn người di tản từ Pleiku trên quốc lộ 19 hướng về Nha Trang, đến đoạn Phú Bổn thì không đi được nữa vì quân lính cộng sản miền Bắc chặn ngang. Cả đoàn mấy chục ngàn người dân vô tội, đói ăn, mệt mỏi, lê thê lếch thếch, phải dừng lại giữa đường, cuối cùng phải cắt rừng mà đi qua con tử lộ 7B oan nghiệt, xác chết chồng lên nhau do quân lính phía Bắc bắn giết bừa bãi thường dân và cũng do chết đói, chết khát. Khi ấy, tôi chỉ là một thiếu niên di tản trong đoàn người Exodus khốn khổ đó. Những điều tôi đã trải qua và trông thấy trên đoạn đường này 47 năm trước, vẫn còn hằn lại trong tâm khảm tôi nỗi ám ảnh cho đến hết cuộc đời mình.

Con đường đi Phú Bổn vẫn còn xấu, nhiều đoạn đầy ổ gà, ổ voi, có đoạn đang sửa chữa nhưng không hề có bảng cảnh báo nguy hiểm. Anh tài xế cho hay nhiều người dân chạy xe máy ban đêm đã lọt hố chết trên đoạn đường này mà chẳng ai chịu trách nhiệm. Mấy nhà thầu thích đào đường lên rồi bỏ đó như một kiểu ăn vạ, mặc cho dân than phiền cho đến khi chính quyền địa phương chịu không nổi vì dân chửi, phải kêu nhà thầu tới sửa chữa thì họ mới có tiền.

Bây giờ trong nước lạ lắm, món ăn gì cũng đều được tôn lên hàng “đặc sản”, nghe rất kêu nhưng thật ra chẳng có gì là đặc biệt. Bok Trường hỏi chúng tôi có muốn thử món “bò một nắng” chấm với “muối kiến vàng” mà dân ở đây gọi là đặc sản của Phú Bổn. Nghe nói thịt bò, thịt heo sống mà phơi một nắng, nướng lên chấm với muối kiến vàng; chúng tôi không ai dám ăn, nhưng chúng tôi vẫn liều nếm thử đặc sản muối kiến vàng vì tự biết bụng dạ mình không quen, lỡ giữa chiến trường “thọ tiễn” của Tào Tháo, bị ngài rượt sát đít thì biết chạy đi đâu.

Việt Nam bây giờ tràn lan hàng giả, son phấn dầu thơm giả, que thử covid-test giả, thậm chí cơm chúng ta đang ăn cũng giả; một hôm chúng tôi đưa mắt dõi theo một bóng hồng nhún nhẩy đi qua với những đường cong tuyệt mỹ đong đưa lên xuống, tôi chợt khám phá ra một “bộ phận” không ít phụ nữ trong nước bây giờ cũng xài đồ giả … nói theo văn chương trong nước, đây chỉ là có tính cách “cục bộ”, nghĩa là chỉ có “một bộ phận” ngườì đàn bà vẫn thích xài hàng giả thôi. May mắn thay, tôi cũng được an ủi khi biết rằng đồ giả vẫn có thể là “đồ tốt” và rất có ích cho con người khi nhìn bác tài xế tháo hàm răng giả ra cọ rửa sau bữa ăn, vừa đánh răng vừa huýt sáo véo von, thế mới tài!

 

Muối kiến vàng. Góc trái phía trên, thấy rõ đầu con kiến Vống trên cây Xoài. Loại muối này dùng để chấm với thịt bò/heo phơi một nắng. Đặc sản của Phú Bổn.

 

Khi bàn về kinh tế của một đất nước, người ta thường trích dẫn cuộc sống người dân, công ăn, việc làm, nhà cửa, và phương tiện công cộng người dân có thể sử dụng hằng ngày. Cái đập vào mắt chúng tôi nhiều nhất là nhà cửa, phố xá mà trong nước gọi là bất động sản. Trong nước hiện nay có hai thế lực bất động sản mạnh nhất được bảo kê bởi nhà nước là Sun Group của ông Lê Viết Lam và Vin Group của ông Phạm Nhật Vượng. Cả hai ông nhà giàu mới nổi này đều người ngoài Bắc từng đi lao động hợp tác, sống và làm ăn ở Ukraine trở về. Họ ngầm đồng ý chia nhau mỗi người hùng cứ một phương, không dẵm chân lên nhau.

Ai đã từng về Việt Nam mà không biết hay không từng đi chơi khu công viên (theme park) Bà Nà Hills ở thành phố Đà Nẵng của tập đoàn Sun Group, hệ thống cáp treo, các địa điểm vui chơi ở đây, tất cả đều do họ xây dựng lên nhái theo phong cách Châu Âu. Đa số khách đến thăm Bà nà Hills là người châu Á từ các nước láng giềng của Việt Nam và người Việt trong nước, họ thích thú ngắm nhìn những tòa lâu đài “made-in-Vietnam” rẻ tiền, vì du lịch tại chỗ tốn ít tiền hơn nhiều so với đi ra nước ngoài.

Từ Phú Quốc cho đến Quảng Ninh, ngoài Bắc và nhiều tỉnh thành khác trên cả nước, nhiều dãy nhà trải dài cả 2,3 cây số, được xây cất rất đẹp, theo phong cách Châu Âu, 3, 4 tầng lầu ngay trên những đường phố chính được trải nhựa mới tinh, mà chẳng thấy có người ở hay chứng tỏ đã có người mua. Mỗi căn được rao bán từ 20 tỷ cho đến 40 tỷ đồng Việt Nam ($800,000 - $1,6 millions). Khu The Grand World ở Phú Quốc thuộc tập đoàn Vin Group, rộng 85 mẫu đất, toàn những căn nhà nguy nga với giá 40 tỷ đồng một căn. Nếu chụp hình đưa lên mạng, nói đây là một thành phố châu Âu, ai cũng phải tin.

Ngoại trừ con đường chính trong The Grand World là có người ở và tấp nập người qua lại, phía trong, dân cư rất thưa thớt, lèo tèo vài nhà có người đang sống thì có đèn điện, các nhà khác tối om, không ai ở. Họ chỉ cho phép xe điện là phương tiện di chuyển duy nhất trong đây. Một cái hồ nhân tạo khá lớn ở khu trung tâm, điện sáng trưng, bao quanh là nhà dân và cũng là tiệm buôn bán và nhà hàng, vài đêm một tuần, có màn trình diễn một “show” 45 phút gọi là The Color of Venice để phô trương cái phồn hoa giả tạo.

Đây là màn múa của các vũ công Việt Nam, được sự hỗ trợ của ánh sáng, âm thanh, và các vòi phun nước giống như ở sòng bài Las Vegas. Tôi thất vọng vì họ nhảy múa quá dở, vũ công ăn mặc theo kiểu phương Tây, nhưng trình diễn rất vụng về. Ánh sáng không nhịp nhàng với vũ điệu, âm thanh quá ồn ào. Tôi chỉ cầu mong cho nó kết thúc sớm để tôi khỏi bị tra tấn cái lỗ tai. Tôi tự hỏi ai là người dám bỏ ra 1 triệu 6 đô la ($1.6 millions) chỉ để sống trong khu “sang trọng” không có 1 chút gì Việt Nam, và để mỗi đêm bị tra tấn bởi âm thanh nhức óc như thế này.

Tôi cho rằng những cán bộ điều hành nhà nước và các kỹ sư xây dựng đô thị người Việt Nam hiện nay đều tốt nghiệp từ những trường đại học “KINH-THẾ” ở trong nước mới có thể nghĩ ra kiểu làm kinh tế như vậy. Tôi chắc họ đi theo mô hình của công ty địa ốc vừa sập tiêm Evergrande bên nước Tàu. Quan chức bắt tay với tài phiệt thân hữu, xoay đất ruộng rẻ mạt, thành đất vàng đô thị, để các tập đoàn “mafia”này xây nhà bán theo phương châm “có làm mới có ăn”. Quan chức có thực hiện công trình thì mới có lại quả, được chia phần trăm.

Cách điều hành đất nước và làm kinh tế của Việt Nam hiện nay đều bắt chước theo cách quản lý của nước đàn anh Tàu. Trung ương ra nghị quyết, chỉ thị, địa phương phải thi hành sao cho đạt chỉ tiêu là tệ nhất, còn thường là vượt chỉ tiêu theo phép thần thông biến hóa của từng viên bí thư địa phương. Hiện nay, Tàu là nước có hệ thống xe lửa tốc hành (Bullet- trains) lớn và dài nhất, các khu đô thị, thương xá cũng to lớn và đẹp nhất thế giới mà không ai biết là số nợ xấu mượn nhà bank đã vượt quá mức cho phép nên Trung Cộng chịu không nổi, phải dừng lại chương trình con đường Tơ Lụa từ Á sang Âu. Ai từng đi du lịch Trung cộng đều biết có những khu đô thị ma không có người ở.

Một ví dụ điển hình là đoạn đường sắt Metro Hà Nội, tuyến đường Cát Linh – Hà Đông, được xây dựng bởi nhà thầu Trung cộng, dài 13.1 Km, gồm 12 trạm, tốc độ tối đa 80 Km/giờ. Chi phí hoàn thành cao gấp 3,4 lần dự tính, có thể nói mắc nhất trên thế giới, theo Báo Điện Tử đảng cộng sản Việt Nam đưa tin. Họ dự đoán khoảng 4.9 triệu khách trong một tháng, nhưng chỉ chưa đến 800.000 khách xử dụng tàu điện vì tò mò. Dân Việt Nam chỉ thích đi xe gắn máy riêng chứ không thích metro vì bất tiện.

Chúng tôi đến tận nơi và leo lên đi thử. Con tàu rất tầm thường không có gì đặc biệt, hành khách thưa thớt nhưng vẫn phải hoạt động dù bị lỗ nặng nề (1), lại một kiểu cách có làm mới có ăn, cha ông mình vẫn dạy như thế. Tôi hỏi một cặp vợ chồng trẻ đi với đứa con trai, lý do gì anh thích đi tàu điện này. Anh cho biết đứa con trai mê đi tàu điện có máy lạnh mát mẻ mà lại vui được gặp bạn bè, thay vì ở nhà chật chội và nóng nực, giá tàu lại rẻ mạt.

Sau đó, cậu hướng dẫn viên du lịch đưa chúng tôi đến Phở Thìn nổi tiếng ở phố Cổ Hà Nội. Cậu khoe đây là một trong hai tiệm phở nổi tiếng nhất ở đây, tiệm kia là Phở Lý Quốc Sư. Đây là 1 tiệm phở tồi tàn nằm ngay trong con hẻm chật chội, họ dẫn chúng tôi ngồi vào một cái bàn có mấy cái ghế gỗ nhỏ xíu. Sau khi gọi món phở, tôi đứng dậy kiếm nhà vệ sinh. Họ chỉ sâu vô phía trong hẻm cách đó chừng 10 thước. Vừa bước vào một cái vách ngăn không có cửa là một cảnh tượng tôi không thể nào quên. Phải diễn tả là một bàn cầu ngập ngụa phân và mùi xú uế xông lên ngạt thở. Tôi quay ngoắt ra ngay lập tức, ráng nhịn, trở lại nhìn tô phở, tôi không thể nào ăn nổi vì hình ảnh vừa nhìn thấy. Ôi thủ đô ngàn năm văn vật của Việt Nam.

Dọc đường đi miền Trung, chúng tôi đáp tàu lửa toa giường nằm vì nó chạy dọc theo bờ biển ra tới Hội an, Đà Nẵng. Tuy chậm nhưng chúng tôi có thể ngắm phong cảnh và quan sát đời sống người dân rõ ràng hơn. Đa số những làng mạc và thị trấn đi qua, nhà cửa bình thường, chỉ lác đác vài căn nhà lầu vươn lên cao coi rất lạc điệu, nhưng mấy cái cổng chào thì được xây to lớn không cần thiết, người trong nước gọi là “hoành tráng”. Trên cổng chào lúc nào cũng có hàng chữ đỏ to tướng “độc lập-tự do-hạnh phúc” mà tính tôi lại thật thà như đếm nên diễn dịch ra là  độc lập trừ (-) tự do và trừ (-) hạnh phúc vì trước các chữ tự do và hạnh phúc có hai cái dấu trừ (-) lừng lững trước mắt.

Tàu lửa đi ngang qua sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, tỉnh Quảng Trị. Cây cầu lịch sử chia đôi Nam Bắc vẫn còn đó, không còn xử dụng, coi như là một chứng tích của cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Trước năm 1975, tôi còn nhỏ, chưa đi lính, nên không hình dung được sự căng thẳng ở đây ra sao. Bây giờ bên phía Bắc cây cầu, họ dựng lên một cổng chào và một bảo tàng viện, một cái đài cao lớn nhiều bậc cấp với hàng chữ “cột cờ giới tuyến” và lá cờ đỏ búa liềm bay phất phới, còn phía Nam, đìu hiu, không có gì. 

Chúng tôi về Việt Nam vào lúc dịch bệnh đang hoành hành bên Trung cộng nên các địa điểm du lịch không bị tràn ngập du khách Tàu, nghe nói họ không được lịch sự cho lắm, mà lại xả rác bừa bãi. Trung cộng vừa mở cửa từ ngày 8 tháng 1-2023, cho dân Tàu đi tự do vì chính sách Zero-civid của họ thất bại não nề. Người dân như những con chim bị nhốt trong lồng, giờ bung ra đi khắp nơi trên đất nước Việt Nam và thế giới. Không biết họ sẽ còn gieo rắc con covid này đến nơi nào trên quả địa cầu này.


Nguyễn Văn Tới

REFERENCES:

1.https://dangcongsan.vn/kinh-te/tuyen-duong-sat-cat-linh-ha-dong-lo-luy-ke-gan-160-ty-dong-624429.html


                                           Tàu metro Cát Linh- Hà Đông vắng khách.


Giá vé khoảng $.15/1 trạm. Giá hơn $1 cho cả ngày.

Hồ nước nhân tạo với màn trình diễn nhạt nhẽo The color of Venice, Phú Quốc.


               Khu phố chính The Grand World, Phú Quốc. Một căn nhà trị giá 40 tỷ đồng VN.                               


Mời đọc lại phần 1

        * Nơi Tôi Về – Nguyễn Văn Tới