Khi cưới tôi về ở với gia đình trong Nam, chồng tôi chỉ có mẹ, chị, và anh thứ hai đã ra ở riêng. Bố và anh lớn của anh ở ngoài Bắc, đã mười tám năm không gập mặt.
Mẹ người tầm thước, vừa người, vấn khăn vải, ăn trầu và còn răng đen. Mẹ là người cổ kính, ăn nói nhỏ nhẹ, không thấy to tiếng bao giờ. Mẹ rất hiền và nghe theo ý của các con, nhất là ý chị lớn. Việc mẹ bằng lòng cho con trai lấy tôi, một cô bạn học của anh, theo đạo Phật, và chấp nhận tôi không phải theo đạo Chúa, được xin "miễn chuẩn dị giáo ", là do các con khuyên được. Mẹ chăm lo cho các con, dù đã lớn, từng miếng ăn, giấc ngủ. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ khóc, ngay cả khi tiễn con cháu đi xa không biết bao giờ mới trở lại. Mẹ nói mẹ không còn nước mắt.
Hồi trước năm 1945, gia đình chồng tôi gồm cả bà nội, sống ở Hải Phòng, bố là con độc nhất của bà, bố rất có hiếu với bà. Những năm 1933-1946 bố đi Hà Nội làm báo, mỗi tháng chỉ về nhà độ một hoặc hai lần, mà mỗi lần về chỉ một hai ngày thôi. Khi bố có viêc cần, bố viết thư cho mẹ. Thư chỉ độ một trang giấy hoc trò, mẹ thường phải giấu bà, để tới tối không ai thấy, mới dám mang ra đọc. Mẹ chỉ biết đọc, không biết viết.
Mẹ sinh năm 1905, tại một làng đạo tỉnh Hà Nam. Cha xứ dạy con chiên học đọc để đọc kinh, không dạy viết. Con gái xóm quê, chưa từng đi học bao giờ, học khó quá, thì cha ra lệnh : " Không biết đọc thì không được phép thông công ", nên mẹ biết đọc. Đến khi cần trả lời thư bố, thì mẹ phải nhờ cô em nuôi trong nhà viết dùm, giấu bà. Đến mấy chục năm sau, thỉnh thoảng cô ấy lên chơi nhà, vẫn kể cho chúng tôi nghe chuyện thay mẹ viết thư cho bố. Tuy nhiên, mẹ rất thông minh, thuộc tất cả thơ của bố. Mẹ cũng chịu khó đọc thêm sách, truyện, báo chí ...
Tôi còn nhớ một chuyện xảy ra hôm đám hỏi của chúng tôi. Lúc nhà trai đến, gia đình nhà gái với đầy đủ họ hàng, bạn bè, thân thuộc đang ra tiếp đón vui vẻ, thì một bà bác tôi vì không biết bố chú rể là ai, tới hỏi mẹ chồng tôi rằng : "Thưa cụ, thế cụ ông nhà ta làm gì ạ?", và mẹ đã trả lời : "Dạ, nhà tôi đi diễn kịch".
Một người bạn thân của tôi nghe được, chạy vào nhà trong nói với hai chúng tôi rằng: "Trời ơi, sao cụ bà kỳ thế! Cụ không trả lời là nhà tôi là nhà thơ, là nhà văn,.. mà lại bảo là "nhà tôi đi diễn kịch!". Hai chúng tôi đứng yên lặng nắm tay nhau, chỉ cười không trả lời lại. Vì trong đáy lòng, chúng tôi hiểu rõ rằng, cụ bà răng đen mà ai cũng cho là nhà quê kia, đã tỏ ra rất yêu chồng và hiểu sâu xa những đam mê, những mơ ước cuả cả đời ông. Mẹ không phân biệt nhà thơ hay nhà văn hay người làm kịch, mà nói ra thật đúng điều chồng mình suốt đời say mê trở thành. Đó chính là "được làm kịch, được xây dựng nghề kịch" khi xã hội Việt Nam mới manh nha kịch nói, khi đi hát đi diễn kịch còn là "xướng ca vô loài". Trở lại thời gia đình còn ở Hải Phòng, bà nội rất khó tính, nhất là đối với mẹ.
Bố đã giải thích cho mẹ hiểu là tại tình duyên của bà gặp nhiều trắc trở, bà khổ quá, bà hành con dâu vì những điều uất ức không nói ra được... Có một lần, bố viết một truyện ngắn, mang về nhà, giả vờ là truyện của văn sĩ khác, đọc cho bà nghe, mong bà thương mà nghĩ lại cho. Đang đọc, thì bà cầm lấy cái tráp đựng trầu, dằn mạnh xuống phản một cái rầm, rồi nói :
" À, thế ra anh lại muốn dạy tôi đấy ! ".
Bố sợ quá, chạy thẳng một mạch không dám trở về nhà nữa. Và người phải chịu đựng mọi thứ chuyện ở trên đời lại vẫn là mẹ.
Ông nội người làng Phù Đổng, từ Hà Nội nhìn ra là "bên kia sông Đuống ", ông học tây học, đi làm sếp ga xe lửa (những năm đầu thế kỷ 20). Ông thuộc dòng trưởng trong họ, đi làm xa không trông nom được nhà thờ họ nữa, nên nhường lại cho dòng thứ, vẫn còn ở trong làng thờ cúng tổ tiên tới bây giờ. Do không bao giờ sống ở trong làng, bố cũng như anh lớn quên mất quê Phù Đổng, luôn luôn khai mình quê ở Hải Phòng. Văn học sử chắc còn sai chuyện đó mãi.
Hồi trẻ, bà đi buôn tơ, nên thường đi lại trên tầu hoả, gập ông sếp ga trẻ, vì thế mới nên duyên. Bà lấy ông nội trước, nhưng "vượt quyền gia đình " nên không được làm vợ cả của ông. Nghĩ lại mà coi, ngay thời bây giờ, có ai lại vui lòng cho con trai giỏi giang độc nhất của mình lấy một cô "đi đạo", hồi đó có nghĩa là "bỏ không thờ cúng tổ tiên nữa ", mà lại không đợi bố mẹ hỏi vợ cho không ? Kết cục là cụ nội cưới cho ông một bà khác làm vợ cả, mang về sống cùng gia đình.
Về sau, ông nội chúng tôi đổi về ga Lạng Sơn, ông mang gia đình tới ở đó. Bà nội vẫn sống một mình ở Hải Phòng, nuôi hai con là bố chồng tôi và một người anh. Hồi bố còn bé, bà cả chưa có con, cụ nội đã tới bắt bố mang về Lạng Sơn, cho làm con nuôi bà cả, để mong bà cả sớm có con. Sau đó, bà cả sinh được ba con trai và một gái. Trong tiểu sử của mình, bố kể lại cho thi sĩ Xuân Diệu viết, có đoạn :
" Khi lớn lên bắt đầu hiểu biết, thì thấy mình sống mà lúc nào cũng thương nhớ, thương nhớ một người gọi bằng mợ, và sống trong nhà với một người gọi bằng u..."
Thỉnh thoảng bà nội lên Lạng Sơn thăm bố, hai mẹ con rù rì nói chuyện. Đến lúc bà đi tầu hoả về, bố đưa tiễn, khi tầu đi rồi, bố cứ áp tai xuống đường ray nghe tiếng tầu chạy vọng lại, vọng lại mãi...
Thế rồi, anh lớn của bố bị bệnh mất mấy năm sau đó, lúc đó còn nhỏ tuổi. Ông nội thương bà nội quá, bà ở có một mình, nên đã ra tay "đánh tháo" cho bố trốn khỏi Lạng Sơn về Hải Phòng với bà. Từ đó, bố mới được sống với mẹ đẻ. Lớn lên, theo nghiệp văn chương, nhiều truyện bố viết còn chịu ảnh hưởng thời kỳ Lạng Sơn này. Bố cũng hay dắt các con về thăm ông và gia đình ở Lạng Sơn.
Lúc bố mới bắt đầu viết văn, ông nội thấy con trai viết được nhiều loại khác nhau, chưa nghiêng hẳn về thể loại nào, đã chọn cho bố tên Thế Lữ (cũng do tên Thứ Lễ nói lái).
Bà nội là bà lang đạo, chuyên chữa bệnh trẻ con nổi tiếng ở Hải Phòng thời đó, vì vậy thường được gọi là " bà lang ". Có lúc, bố đã định sẽ theo nghề lang của gia đình, nếu như thế thật, liệu có còn " Hổ Nhớ Rừng " cho thời niên thiếu của chúng ta không nhỉ ?
Đến khi bố được mười bảy tuổi, bà nội về một làng đạo ở Hà Nam, đi xem mặt các cô gái trong làng, bà chọn mẹ chồng tôi, một cô gái hiền lành ngoan đạo mười chín tuổi cho con trai của bà. Mẹ kể lại là trước đó, có nhiều người đến dạm hỏi mẹ, nhưng cứ có người đến hỏi, là mẹ ốm rất nặng, chỉ khi bà lang đến hỏi cho bố thì không ốm, nên gia đình bằng long gả.
Cưới con dâu về, theo tục lệ, bà nội truyền nghề " bà lang " cho. Vì vậy, mẹ vừa phải lo cơm nước cho toàn gia đình, nuôi con nhỏ, cho con bú, vừa phải làm thuốc để bán, vừa đi khám bệnh cho thuốc, khi có khách mời, (cũng có lúc, gia đình nuôi thêm người giúp việc). Vì phải làm thuốc, mẹ học được tính làm việc rất sạch sẽ, kỹ lưỡng, cẩn trọng khi nuôi trẻ, và làm cơm nước khéo léo, tinh khiết. Và cũng vì đi chữa bệnh cho trẻ con đau ốm tận nhà, nên mẹ có chút tiền dư để riêng, không phải để tiêu cho mình, mà để bù tiền chợ cho bà hài lòng.
Tính bà lang rất hay dỗi, thỉnh thoảng lại lên cơn hờn. Có lần bà hờn rồi bỏ nhà đi mất. Cả nhà sợ quá bổ đi tìm, chẳng thấy cụ đâu cả, đang quá bối rối thì bà về. Bà vào nhà, lên cái phản gỗ, ngồi vào cái võng riêng treo ngay trên đó, lấy trầu ăn, rồi nói :
- Mình ngồi ngay ở nhà ga chứ có đâu xa, mà chẳng đứa nào thèm ra đón mình về, cứ như con chó tiền rưỡi ấy thôi !
Ấy là thời xưa người dân ta hay nói ví von như thế. Có khi bà hành con dâu (mẹ chồng tôi) đủ kiểu rồi, không thấy nó khóc lóc gì, thì lại nói ví :
Nắng mãi mà hoa không héo,
Hoa cứ reo réo hoa tươi.
Mẹ sau này nghiện trầu cũng là tại bà. Mỗi khi đi đâu ra đường, thì bà gọi lại, ấn miếng trầu vào tay, dạy bảo :
- Ăn trầu đi, cho môi nó đỏ, mặt mũi hồng hào lên chứ, đàn bà ra đường mà môi thâm thế kia.
Nhiều lúc mẹ khốn khổ quá, không chịu nổi, đã trốn về gia đình mình. Nhưng về tới nhà, thì bà ngoại lập tức khóc lóc nói :
- Con đã lấy chồng, là con người ta, thì sống chết cũng phải về đó không được bỏ, nếu không, mẹ chết ngay bây giờ đây.
Rồi cụ đưa mẹ về lại nhà chồng.
Mỗi lần mẹ ốm, phải uống thuốc, thì bà nội lại ngấm nguýt :
- Mình ốm rơi răng cũng chẳng thuốc men gì, còn nó thì hơi tí đã thuốc.
Mẹ giận quá, nên đến lần ốm đó, mẹ không uống thuốc nữa, ốm luôn một mẻ vài tháng. Đang lúc đó, mẹ lại mang thai chị lớn, mẹ ốm tới nỗi thai đang lớn lại nhỏ đi, mười một tháng mới sinh, về sau chị lớn lên, rất yếu đuối. Có một chuyện mẹ hay kể cho chúng tôi nghe là :
Nhà có ba gian, ông ấy (bố chồng tôi) ngủ nhà ngoài, bà lang (bà nội) ngủ nhà giữa, còn mẹ ngủ nhà trong. Mà có xong đâu, mỗi khi bà lang đi vào trong Thanh (tỉnh Thanh Hoá) vài ngày, đi mua xương hổ nấu cao hổ cốt, thì gọi mẹ ra dặn :
- Này, nó đang ốm đấy, đừng có lộn xộn !
Thế nhưng khi mẹ có thai thì bà mừng lắm, vì bà rất thích có cháu.
Mẹ vừa cười vừa kể, lần nào cũng đúng từng câu như vậy. Mẹ kể thêm một chuyện nữa, bắt đầu bằng : - Con đã biết chuyện mẹ là người sung sướng nhất đời chưa ? Có một lần, mẹ đi tầu hoả, có nói chuyện với một người trên tầu, khi biết rằng mẹ là vợ ông Thế Lữ, người đó đã nói: "Giời ơi! thật thế à? Chị thật sung sướng quá, chị là người sung sướng nhất đời". Đấy, con đã nghe chuyện mẹ là người sung sướng nhất đời chưa ?
Mỗi lần thấy mẹ kể chuyện, chồng tôi lại ra vuốt lưng mẹ: "Mẹ lại kể chuyện cổ tích rồi ". Các con chúng tôi cũng được nghe dăm ba câu chuyện "cổ tích"như thế. Chuyện cổ tích ngày xưa này, dài mấy chục năm.
Bố đi làm báo xa, mẹ ở nhà nuôi các con và phụng dưỡng mẹ chồng thay bố. Mỗi tháng bố về một hay hai lần. Nhiều khi bố về là bà kể tội các cháu.. Bố mệt và giận, nên lôi các con ra bắt nằm trên phản, quất cho một trận phất trần, con khóc, vợ buồn... bố lại bỏ đi...
Tuy nhiên, nhiều lúc bốn anh em cũng được bố chiều, dẫn đi chơi, có lần trời mưa không dẫn con đi xem xiếc như đã hứa được, bố đã xuất thần hoá trang làm nhân vật sân khấu, làm hề, giúp vui cả nhà...
Anh cả, đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, còn nhớ có lần bố dắt anh đi xe hàng ra Đồ Sơn hóng gió biển... thấy bố dũng mãnh bế mình đứng trên xe, anh rất phục và rất hãnh diện vì bố. Anh cũng là người con duy nhất theo được nghề đạo diễn của bố, được sống gần bố lúc mới lớn, được bố nuôi dưỡng những đam mê về nghề kịch cho anh, được bố dẫn dắt anh lúc bắt đầu. Sau này, hai bố con nói chuyện, bàn bạc về kịch rất tương đắc, bố vẫn là một cố vấn theo dõi công việc đạo diễn của anh suốt đời. Có những vở kịch anh làm theo góp ý của bố, đã rất thành công.
Bố tính hay pha trò, con cháu ai có tật gì, dáng gì không đẹp, là ông bắtchước, làm như hề, giúp trẻ hiểu cái xấu để sửa lại. Anh thứ hai là người khó ăn, anh không ăn nổi một cọng hành. Có lần, bố vẽ hình anh đang khóc bên cái bát có cọng hành... để dỗ anh ăn.
No comments:
Post a Comment