Nhà chị Túc cách nhà
tôi một hàng rào tre. Sát bờ tre sau vườn là một giếng nước xây bằng gạch có
nền xi măng. Cạnh giếng nước có trồng một cây ổi sẻ cao vừa tầm tôi leo lên
nghịch phá hằng ngày. Chị Túc thường chui rào qua giếng để gánh nước về nấu ăn
và tắm giặt. Năm đó chị Túc 17 tuổi còn tôi 13. 13 tuổi tôi chỉ học đến
lớp 5 trường làng, còn chị Túc thì không được đi học. Theo lời ngoại tôi kể thì
chuyện chị Túc không được đi đến trường bởi vì đầu óc của chị không được bình
thường giống người khác.Lúc 5 tuổi chị Túc bị một cơn sốt ác tính, nằm liệt
giường cả tháng tưởng không qua khỏi. Sau cơn bệnh đó chị trở nên một người ngớ
ngẩn. Chú Tư ba chị buồn lắm nhưng không nói ra. Chị Túc tuy bị bệnh như vậy
nhưng cơ thể vẫn phát triển bình thường, càng lớn chị càng đẹp dù đôi khi chị
như một đứa bé.
Kể từ lần sau khi hai
chị em đi xem phim Bích Câu Kỳ Ngộ về, chị Túc đâm ra mơ màng và lúc nào cũng
nghĩ mình là tiên nữ. Chị đã đẹp, từ lúc chị nghĩ mình là tiên chị càng đẹp
hơn. Mắt chị trở nên mơ màng long lanh, tóc dài mượt, hai gò má ửng hồng hơn và
có nhiều cử chỉ dáng điệu cũng rất dễ gây tò mò cho tôi hơn. Trong xóm chỉ có
mình tôi tin chị Túc là tiên nữ, ngoài ra tất cả mọi người xem chị là con khùng
hoặc con ngớ ngẩn.
Một ngày nọ hai chị em
rủ nhau đến tháp An Chánh. Tương truyền rằng tháp này được vua Chiêm Thành là
Chế Mân xây từ năm 1306 sau khi cưới được Huyền Trân Công Chúa. Tháp có ba
ngọn, những tầng gạch được xếp chồng từng lớp lên nhau. Ba ngọn tháp đứng song
song, ngọn giữa cao hơn hai ngọn tả hửu. Mỗi tháp có một cửa quay về hướng
đông. Phần giữa tháp trở lên có những tảng đá xanh viền chung quanh đẹp như một
huyền thoại. Chính vùng đất này là nơi phát tích bao đấng anh hùng của dân tộc:
Nguyễn Huệ Quang Trung, Mai Xuân Thưởng, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân. Một
thời oanh liệt xưa đã thành dĩ vãng để giờ này chỉ còn tôi đứng cùng chị Túc
với khung cảnh chung quanh vắng ngắt, không khí âm u, như có những oan hồn của
dân Chiêm Thành uất nghẹn còn lẩn khuất đâu đây. Bốn bề chung quanh là ruộng.
Một con đường đất nhỏ là đường độc đạo lối vào tháp. Đứng trên gò cao nhìn
xuống về phía xa xa có thể quan sát quốc lộ 19 dẫn đến huyện lỵ Bình Khê nằm
uốn mình ôm dọc theo sông Côn. Tôi cũng có thể nhìn thấy bãi cát trắng ngần
được đè dịu dàng bởi những hòn đá chồng thẳng đứng lên nhau trông thật ngộ
nghĩnh. Khuất bên trái là một rừng dừa bát ngát, những thân dừa cao vút lả ngọn
rì rào hát cùng gió sông thổi lên. Một bức tranh tuyệt đẹp của hóa công. Nhìn
chị Túc rạng rỡ cùng đất trời, tôi chợt lo sợ đến ngày chị hóa thành tiên bay lên trời bỏ một mình tôi ở lại.
Mùa hè chị Túc chèo
ghe chở tôi đi bẻ mía trộm. Bãi mía nằm bên kia sông.Ngồi trong khoang chòng
chành, tôi vụngvề hết nghiêng bên trái rồi lại nghiêng bên phải. Ngồi trên ghe
tôi cứ có cảm tưởng lúc nào cũng ở trong tư thế bị hất xuống sông trong khi tôi
không biết bơi. Qua khúc quẹo, chị Túc nghiêng mình lấy đà, tôi hoảng vía bò
lại phía chị. Ghe chao mạnh, nước tràn vào khoang. Ghe sắp chìm. Không ngờ đi
ăn trộm mà cũng nguy hiểm hồi hộp như vầy, tôi la lên:
- Chị ơi, em không
biết bơi.
- Chị biết, em đừng
lo.
Nghe chị bảo biết bơi,
bỗng dưng tôi mong cho ghe bị chìm để được chị cứu. Nghĩ đến cảnh được chị ôm
vào lòng kéo vô bờ, tôi ước gì được chết đuối. Bèn ma mảnh tôi bò lại phía mũi
ghe. Chị Túc vừa lấy đà nghiêng bên trái để chống cây sào chưa kịp rút lên khỏi
mặt nước thì tôi lại lăn qua bên phải,hai tay quờ quạng, thế là chiếc ghe bị
lật úp bất ngờ. Mặc dù là thủ phạm nhưng tôi vẫn không sao thoát khỏi hoảng
hốt. Vừa chỉ vừa kịp la lên "chị ơi" là nước sông lờ lợ tràn vào
cuống họng ừng ực. Chị Túc xốc tay vào nách tôi lôi dậy:
- Nước chỉ cạn đến
ngực thôi mắc gì em uống dữ vậy?
Tôi thử đứng thẳng
người quả nhiên nước chỉ đến ngực. Thấy tôi mắc cở, chị Túc không nói gì lẳng
lặng kéo chiếc ghe lên và dốc nước. Hai tay chị đu đưa nhịp nhàng theo mạn ghe
làm nước bắn lên tung tóe, một hình ảnh đẹp vô cùng liêu trai. Hồn tôi bất chợt
thẫn thờ.
Hết hè lên lớp 6 tôi
phải ra trường quận. Quận lỵ cách nhà 4 cây số phải qua một con sông. Sáng nào
tôi cũng phải thức dậy trước 5 giờ để chuẩn bị cơm nước mang theo trưa ở lại
trường. Phương tiện di chuyển là chiếc xe đạp đòn dông duy nhất trong nhà. Hôm
khai giảng chị Túc nhìn tôi mặc áo sơ mi trắng, quần dài xanh, tém thùng đàng
hoàng, tóc tai thẳng mướt, buột miệng:
- Trông em bảnh trai
ghê, lại cao gần bằng chị rồi.
Năm đầu tiên của lớp 6
xa nhà tôi nhớ chi Túc. Chỉ mong cho mau nghe tiếng kẻng để cắm đầu cắm cổ đạp
xe về cho lẹ.Trong lớp bạn học con gái cũng nhiều, nhưng thật kỳ tôi thấy mình
không thể thân với ai. Chỉ cần nghĩ đến hình ảnh chị Túc lủi thủi một mình
không ai thèm chơi với chị là lòng dạ tôi bồi hồi nôn nao. Tôi mồ côi cả ba lẫn
mẹ. Ngoại nuôi tôi từ lúc mới lọt lòng. Tôi thiếu tình mẫu tử, chị Túc cũng
thế. Có lẽ vậy mà hai chị em tôi thân thiết với nhau. Còn chị Túc hầu như buổi
chiều nào khi tôi vừa quẹo qua khỏi chợ Mỹ Yên là đã thấy thấp thoáng bóng dáng
chị ngóng từ xa.
Lên trung học tôi cũng
đã bắt đầu đổi khác, tôi đi đứng chững chạc, sự học đưa đến tầm hiểu biết của
tôi đi xa hơn. Tôi có thể nhìn lên bầu trời biết được sau những đám mây kia là
không gian trống trơn vô cùng bao la rộng lớn. Mọi sinh vật khả năng có thể có
vẫn còn đang nằm trong sự tìm kiếm khai phá của loài người. Việc học đại khái
dạy cho tôi như vậy, nhưng tôi vẫn tin cao hơn nữa, xa hơn nữa là thế giới tiên
nữ. Ở đó có người ta đang chờ đón chị Túc trở về. Giữa năm học mấy đứa cùng lớp
gán ghép cắp đôi từng cặp. Tôi mơ hồ hiểu rằng người ta sống ở đời rồi cuối
cùng ai cũng phải lớn dần với thời gian và cạnh một người nam cần phải có một
người nữ. Giữa hai người khác phái này sẽ tạo cho nhau một cảm giác lạ lùng
huyền nhiệm khác. Cảm giác đó thế nào tôi rất mơ hồ chưa hiểu tới.
Một ngày nắng hạ cuối
tuần chị Túc rủ tôi ra đám ruộng sau nhà cắt lúa. Mặc cái áo cũ rộng thùng
thình, chị Túc giống như một hình nộm. Chị như nhỏ bé lại đang trốn núp trong
chiếc áo cũ kia. Trông chị Túc luộm thuộm và vui mắt ấy thế mà chị lanh lẹn vô
cùng. Tay trái chị nắm gọn gàng từng dé lúa, tay phải chị đưa nhẹ nhàng chiếc
câu liêm, thao tác thật nhịp nhàng. Tôi lẫn quẫn cắt bên cạnh chị. Dù cố gắng
hết sức vẫn không cắt được bao nhiêu, lại mấy lần suýt đưa lưỡi liềm vào tay.
Trong lúc mồ hôi tôi chảy ròng ròng thì chị Túc dường như thơ thới hơn. Dưới
cái nắng hạ, những giọt mồ hôi đọng thành chuỗi trên trán chị, trên vành môi
chị. Mùi mồ hôi con gái đánh động trong tôi cảm giác khó quên, nhất là người
con gái đó là chị Túc. Mùi mồ hôi đọng hương trong tâm khảm chừng như thiên thu
bất diệt. Cắt chưa xong đám ruộng trời đổ mưa. Mây giăng khắp cánh đồng một màu
xám ngắt. Những đường sáng loằng ngoằng va chạm vào nhau trên không trung làm
vỡ ra những tiếng sấm vang rền. Nghe trời như đang nghiến răng sắp sửa nổi cơn
thịnh nộ giáng xuống trần gian một điều gì kinh hoàng. Mưa bỗng phủ trắng khắp
cánh đồng. Tôi nép vào chị Túc, hai chị em chìm trong màn nước nặng trịch.
Không biết hơi ấm của tôi chuyền qua chị, hay là hơi ấm từ cơ thể chị chuyền
qua tôi. Chỉ biết rằng chiều mưa quên lạnh và cứ cầu mong mưa kéo dài đừng bao
giờ dứt. Nhưng rồi mưa cũng tạnh, tôi luyến tiếc rời chị, và thật lạ lùng chừng
như tôi đọc được sự đờ đẫn rõ ràng trên khuôn mặt chị. Vậy mà chị Túc lại phá
lên cười rũ rượi xem như chẳng có gì:
- Thôi mình về đi em,
trời mưa mau tối.
Hai chị em đi ngược
dòng nước lên ruộng. Bùn nhão nhẹt dưới chân. Tôi trợt té lên té xuống mấy lần
và lần nào cũng được chị Túc dang tay ra đỡ. Mỗi lúc đó tôi lại được ngửi mùi
của chị và ước ao giá như mà được chị ôm đầu vào lòng ngực xuân thì kia. Đêm hôm
ấy tôi nằm mơ thấy mình đang đi lắc lư trên chiếc cầu khỉ, phía dưới là một vực sâu hun hút. Bỗng tôi trợt chân, khi
còn đang chới với trong tư thế sắp sửa rơi thì một cánh sao từ đâu bay lại.
Cánh sao càng đến gần càng lớn dần lên, tôi đưa tay bám vào và cánh sao hóa
thành chị Túc. Tôi giật mình thức giấc. Đêm vẫn đang yên ả cùng đất trời. Tôi
nhắm hai con mắt trở lại, cứ chập chờn, chập chờn cầu mong giấc mơ lại đến với
mình để xem cánh sao trời kỳ diệu kia đưa tôi về đâu....
Ba tháng hè cuối năm
lớp 6 tôi được nghỉ hè. Chị Túc vẫn chưa về tiên giới như chị đã thầm thì. Tôi
cũng đã lớn thêm một tí xíu để mù mờ hiểu thêm rằng cõi tiên kia là không có
thật. Tôi muốn đem những điều tôi thu nhập được từ học đường để giải thích một cách khoa học cho chị Túc hiểu. Nhưng thật
tội nghiệp cho chị, đầu óc chị trong sáng như trẻ thơ, chị không chịu tin những
gì tôi giải thích. Chị vẫn cho mình là tiên. Tôi không còn tin là trên trời có
cõi tiên, nhưng tôi tin chị Túc là tiên mắc đoạ. Tôi cứ lẩn quẩn trong ý nghĩ
một cách mâu thuẫn về những điều này. Tôi đã lớn không thể chạy theo hỏi ngoại
nữa, mà ngoại năm nay xem chừng đã già đi nhiều.
Những năm sau này
chương trình học càng lên cao tôi càng bận rộn. Tôi ở hẳn ngoài quận, chỉ về
thăm nhà để xin tiếp tế một tuần một lần chứ không còn sáng đi chiều về nữa.
Tôi trổ giò cao nhanh như thổi. Chị Túc bây giờ chỉ đứng đến vai tôi thôi, và
tôi thường choàng tay ôm qua vai chị. Chị nhỏ nhắn nép gọn vào lòng làm cho tôi
cảm thấy mình trở thành người lớn. Chị Túc rất thích được ngồi cùng tôi trước
thềm nhà để nghe tôi kể chuyện cổ tích. Càng lớn tôi càng thấy chị Túc càng con
nít. Chị không còn mơ thành tiên để về trời nữa mà chị lại mơ ước được có một
con búp bê làm bầu bạn trong những ngày tôi bận học ở quận lỵ. Tôi cố gắng nhịn
ăn quà ròng rã cả tháng trời mới mua được cho chị một con búp bê bằng nhựa biết
nhắm mắt mở mắt. Tôi biết chị Túc sẽ mừng run lên khi nhận được món quà
bất ngờ này. Trưa thứ bảy như thường lệ sau khi vứt chiếc xe đạp vào góc hè,
tôi vội vàng chui rào đem quà qua nhà chị Túc. Nhà trên không có ai, tôi gọi
chị chẳng có tiếng trả lời. Bỗng tôi nghe như có tiếng nước xối phía sau chái.
Tò mò vạch khẽ tấm liếp nhìn ra, tôi bỗng giật nẩy người sững lại. Cổ họng đột
nhiên như bị nuốt một vật gì thật cứng mắc nghẹn. Tôi trông thấy chị Túc đang
tắm. Ngực tôi đánh thình thịch. Chị Túc mặc chiếc quần dài đen, chiếc áo xoa
bông mỏng bên trong không mặc đồ lót. Chị đưa từng gáo nước xối lên đầu, tiếng
nước róc rách chảy len lỏi trên từng vuông thân thể nghe như tiếng gào nhẹ của
gió lướt qua mành cửa trong những buổi chớm thu về. Mặt tôi hừng hực và tôi nín
hơi bất động trong một cảm xúc diệu kỳ cao độ. Hai vú chị Túc căng tròn lồ lộ
qua làn vải ướt, tôi thấy rõ mồn một đầu núm vú nhỏ bằng hạtđậu xanh màu hồng.
Chị đưa tay vuốt lên vai rồi chùi xuống vò lên ngực. Hai vú của một người thiếu
nữ 20 tuổi tròn càng căng hơn khi bàn tay chị ấn phía dưới để vuốt ngược lên
trên. Tôi cứ thế chìm đắm trong cảm giác dậy thì của một đứa con trai 16
tuổi. Tay kẹp chặt vào đùi, hai hàm răng cắn chặt vào môi. Hơi thở dồn dập như
một kẻ động kinh, bỗng vang lên từ tâm thần một tiếng gì như là
tiếng nắp chai bia vừa bật nút. Như tiếng bắt đầu của một chùm pháo bông bắn
lên bầu trời trong đêm hội hoa đăng, tôi bay bổng theo chùm sáng loé lên gần
như bất tỉnh. Chị Túc trong bộ đồ ướt trở nên huyền nhiệm lung linh, những giọt
nước đọng trên khuôn mặt, một hình ảnh đẹp tuyệt vời. Tôi khe khẻ gọi “chị Túc
chị Túc ơi” trong cuống họng không phát thành tiếng. Tôi cứ đắm chìm mê sảng
như vậy không còn biết đất trời chung quanh đang xẩy ra chuyện gì. Cho mãi đến
lúc có tiếng chị Túc phía sau lưng:
- Ủa em về hồi nào,
sao không gọi chị?
Tôi hết hồn tỉnh lại,
ngượng nghịu ấp a ấp úng. Chị Túc cười:
- Rình xem chị tắm
phải không?
Phản xạ tự nhiên tôi
chối:
- Dạ đâu có.
Chị cười to:
- Không có mà lấp la
lấp ló như ăn trộm vậy!
Chị xem chuyện nhìn
chị tắm là chuyện bình thường như tôi đang xem một đứa bé tắm. Với chị như
chẳng có gì đáng phải quan tâm. Trước giờ chị vẫn thế, vẫn trong sáng vô tư
chẳng có gì phiền hà. Chị hỏi:
- Em đi đường có mệt
không? Chờ chị thay đồ xong ra chơi với em.
Tôi chỉ biết dạ nho
nhỏ. Khi chị Túc vào buồng thay đồ, tôi mới phát giác chiếc quần tôi đang mặc
phía dưới ướt một mảng. Tôi vội để con búp bê trên bàn nói vọng vào:
- Em chạy về có chuyện
chút xíu em qua liền nha chị.
Không đợi chị Túc trả
lời tôi vụt lẹ ra bờ rào và biến thật nhạnh. Đó là lần đầu tiên tôi biết thế
nào là cảm giác của tuổi dậy thì. Lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất đậm sâu
trong cơ thể tôi không thể nào phôi pha. Sau này qua bao cuộc thăng trầm vật
đổi sao dời, lên voi xuống chó bao phen, nhục vinh cũng có, bầm dập đủ điều,
nhưng không bao giờ phai nhạt trong tôi hình ảnh của chị Túc đang tắm trưa hè.
Chị Túc đã mở cánh cửa trong tôi bước vào để rồi định cư vĩnh viễn.
Cuối năm lớp 10 thì
miền Nam mất. Ruộng đất hương hỏa bị tịch thu đưa vào hợp tác xã. Ngoại không
còn nguồn thu nhập để nuôi tôi tiếp tục ăn học, vì thế tôi phải bỏ ngang nửa
chừng. Cạy cục mãi mới xin vào được làm công nhân viên cho Ty lâm sản Pleiku. Lương
công nhân viên chỉ đủ lây lất vài ngày đầu tuần, phải chạy chọt mánh mung mới
có thể cầm cự qua ngày, vì thế tôi không có thời giờ để về thăm ngoại thường
xuyên nữa. Ngoại với tôi, chỉ có hai bà cháu mà lại trở thành một cảnh hai quê.
Ngoại đã già, phần vì tiếc ruộng tiếc vườn, một phần vì nhớ cháu uất ức không
dám nói ra, sanh bệnh qua đời. Từ Pleiku tôi đón xe về làng Đại Chí để chôn cất
ngoại. Cảnh nhà sau khi tôi đi xa xơ xác, hàng rào tre
nơi tôi và chị Túc thường chui qua không ai rong chà, cỏ dại mọc phủ kín cả lối
đi. Thấy chú Tư ẳm một đứa bé khoảng năm sáu tháng, ngạc nhiên tôi hỏi:
- Con ai mà chú ẳm?
- Thì con của con Túc
chứ ai!
- Chị Túc lấy chồng?
- Chồng con gì. Khùng
điên ai thèm lấy.
- Vậy sao có con? Ai
là ba nó?
- Chú không biết. Ai
gặng hỏi gì nó cũng không nói. Chỉ biết một lần mờ sáng cả xóm thấy nó chạy về
hớt hơ hớt hãi, người lạnh như cắt và mồm thì ú ớ nói hông ra lời. Với người
bình thường thì người ta sẽ khóc lên cho hả, cho vơi đi nhưng với con Túc thì
nó lại không khóc. Nó cứ ngơ ngơ ngáo ngáo cho đến khi thấy chú nó chỉ
biết ôm ghì tay chú. Sau đấy thì bụng nó cứ to lên mặc cả xóm bàn tán xì xào rỉ
tai nhau đoán xem ai là ba đứa nhỏ. Đủ tháng đủ ngày thì nó sinh đứa bé này
giao chú, cả ngày cứ đi lang thang trên mấy cánh ruộng. Chú vừa làm ông ngoại
vừa làm ba đứa bé chứ con Túc nó có màng đến đâu!
Tội nghiệp chú Tư già
đi trông thấy. Đi hết từ nỗi đau này đến nỗi đau khác, tóc chú bạc nhanh và
lưng hơi còm xuống. Chiều chị Túc về. Ôi còn đâu dáng năm xưa của chị. Trông
chị tiều tụy xơ xác, tóc tai bơ phờ như là vừa thoát qua một cơn chạy loạn. Tôi
chạy đến nắm tay chị:
- Chị Túc nhớ em
không?
Chị gật đầu. Chờ lúc
chú Tư ra phía sau, tôi hỏi nhỏ:
- Chị có thể cho em
biết ai là ba của đứa bé không?
- Thằng Báu công an
xã. Nửa đêm nó gặp chị ngoài ruộng nó dí súng bắt chị phải ủng hộ cách mạng.
- Sao chị không la
lên?
- La lên cho nó bắn à.
Nó làm chị đau quá hà.
- Sau đó sao chị không
nói cho chú Tư biết để bắt nó cưới?
- Ai thèm cưới nó cái
thằng hôi như chuột chù ấy.
Tôi chỉ biết lắc đầu.
Buổi chiều trước khi sáng hôm sau lên đường trở lại Pleiku, tôi bảo chị Túc tắm
rửa sạch sẽ chải tóc gọn gàng để tôi dẫn ra mả thăm ngoại. Tôi đùa:
- Chị có biết tắm
không? Hay để em tắm giùm chị.
- Em đừng có ham. Chị
lớn rồi chứ bộ. Nhưng lần này em không được rình xem chị tắm đó nghen.
Khi chị nói có chú Tư
đứng đó làm tôi ngượng đỏ mặt. Còn chú Tư thì ngơ ngác không hiểu hai chị em
đang nói chuyện gì.
Ngoại tôi được chôn
trên mảnh vườn trống dưới một gốc xoài. Gió chiều hiu hiu, đồng quê im vắng.
Chị Túc ngồi dựa vào gốc xoài, tôi đứng sau lưng đưa tay chỉ ra đám ruộng xa
xa:
- Chị còn nhớ kỷ niệm
hồi nhỏ của hai chị em mình không?
- Sao không nhớ. Hôm
cắt lúa, em giả đò trợt té để được chị ôm.
- Em té thiệt chứ bộ.
Nhưng em thích được chị ôm vào lòng.
Nắm tay chị, nhìn sâu
vào mắt tôi lại hỏi:
- Giờ chị có còn muốn
ôm em vào lòng nữa không?
Chị Túc lắc đầu:
- Em bây giờ lớn rồi
làm vậy kỳ chết.
- Với chị, em vẫn là
thằng bé ngày nào lăng xăng khắp nơi.
Tôi định nói tiếp một điều quan trọng, nhưng chưa biết mở lời bằng cách nào. Đối với một người ngô nghê không bình thường như chị Túc nói chuyện đàng hoàng nghiêm chỉnh không phải là dễ. Cuối cùng tôi cũng nói:
- Chị có biết là em
yêu chị không?
Chị Túc tỉnh queo:
- Biết chứ.
- Vậy chị biết yêu là
có nghĩa gì không?
- Là rình xem người ta
tắm không biết mắc cở.
- Thôi mà. Em hỏi thật
đấy!
- Thì chị cũng nói
thật đó.
- Nếu vậy hồi em rình
chị tắm chị có giận ghét em không?
- Không bao giờ chị
giận ghét em. Em là em của chị là người duy nhất trên đời này mà chị thương
mến.
- Ừ thôi em là em của
chị. Chị có còn thích nghe em kể chuyện không?
Chị Túc gật đầu. Tôi
ngồi sát vào chị đưa tay choàng qua bờ vai bây giờ đối với tôi trở thành nhỏ
bé. Chiều thinh lặng nuốt dần hai chị em vào chạng vạng. Tôi đọc khe khẽ bài Lá
Diêu Bông của Hoàng Cầm:
“Váy Đình Bảng buông
chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo:
“Đứa nào tìm được lá
diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng”.
Hai ngày, em tìm thấy
lá
Chị cau mày: “Đâu phải
lá diêu bông”.
Mùa đông sau, em tìm
thấy lá
Chị lắc đầu, trông
nắng vãng bên sông
Ngày cưới chị, em tìm
thấy lá
Chị cười se chỉ ấn
trôn kim
Chị ba con, em tìm
thấy lá
Xoè tay phủ mặt chị
không nhìn
Từ thuở ấy em cầm
chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hỡi! Ới Diêu
Bông!”
Chị Túc ngã đầu trên vai tôi ngủ ngon lành. Dù khuôn mặt kia có tiều tụy hốc hác cằn khô vì năm tháng, nhưng giấc ngủ không giấu được nét trẻ thơ. Tôi khẽ đưa tay vén lại sợi tóc mà gió vô tình làm bay lòa xòa trên khuôn mặt. Chị Túc và tôi ngồi yên lặng như vậy cho đến khi trời tối hẳn.
Sau đó tôi trở lại Pleiku. Đám bạn bàn tính chuyện tổ chức vượt biên. Ngoại mất, tôi tứ cố vô thân nên quyết định đồng ý tham gia một cách lẹ làng. Chuyến vượt biên trót lọt. Tôi không kịp đem chị Túc theo, mà chắc gì chị đã theo. Còn bàn tính kế hoạch với người bất bình thường như chị lỡ hé môi sơ hở điều gì có nước ở tù cả đám. Tôi mất tin chị Túc từ đó đến giờ...
*****
Người đàn ông ngừng
kể. Chiếc giường trải "ra" của bệnh viện trắng toát trông buồn bả. Cô
y tá áng chừng ngoài 20, đưa tay sửa lại chiếc gối và nâng đầu bệnh nhân đặt
cho ngay ngắn. Không ngăn được tò mò cô hỏi:
- Thế chú có biết lá
diêu bông hình dáng nó như thế nào không?
Người đàn ông lắc đầu:
- Trên đời này làm gì
có lá diêu bông! Nhưng có hay không đâu có gì quan trọng. Chỉ biết đối với
chàng trai đã có một thứ lá như vậy trong đời. Tình yêu dịu dàng đầy e ngại
nhưng chân thành. Chàng trai muốn trao cho cô gái kia tất cả niềm khao khát của
mình, trao niềm hạnh phúc kiếm tìm và hy vọng. Nhưng lá diêu bông chỉ là một
chiếc lá ảo ảnh, nghĩa là không có thật, vậy mà tình yêu của chàng trai đó quá
tuyệt đối đến nỗi biết là ảo ảnh nhưng vẫn đi tìm. Người con trai trong bài thơ
của Hoàng Cầm khác gì tình yêu chú dành cho chị Túc. Biết rằng không bao giờ
thành sự thực vậy mà trong sâu thẳm tận cõi hồn chú hình bóng chị không thể
phai mờ.
Cô y tá rơm rớm nước
mắt:
- Từ đó đến nay chú có
biết tin tức gì về cô Túc không?
- 20 năm còn gì. Sống
giữa một đất nước khổ nạn mà người bình thường còn không kiếm ăn nổi đừng nói
chi một người ngô nghê như chị ấy. Làng chú lại xa quốc lộ nghèo xơ xác nằm
dưới chân ngọn Trà Sơn. Gọi là núi chứ thật ra đó chỉ là một ngọn đồi trọc, cây
cỏ mọc không nổi. Cây chỉ là những cọng chà loe ngoe, dân làng bẻ mót để dành
làm củi, còn rau cỏ dại vừa nứt đọt nào là bị bẻ đọt đó để ăn cầm đói. Lại còn
đứa bé con chị Túc nếu còn sống, năm nay cũng đã 20. Chú thật đoảng, cũng không
hỏi đứa bé trai hay là gái.
- Vậy bây giờ chú còn
yêu cô Túc không?
- Chị Túc là bóng mát
cho chú đụt nắng mỗi khi lòng chú đang có điều gì nóng nẩy. Chú trôi dạt giữa
dòng đời lên ghềnh xuống thác cũng đã bao phen. Có cái gì trên cõi sống này mà
chú chưa từng nếm qua. Đời đã huấn luyện cho chú trở thành một người gần như
chai đá, cả thân xác cũng như con tim. Vậy mà mỗi lúc bất chợt nhớ đến chị Túc,
chú không sao tránh khỏi chao lòng. Chị ấy là mối tình đầu của chú.
- Thế theo chú nghĩ cô
Túc có yêu chú không?
- Chú nghĩ là có. Bởi
vì như cháu biết ai cũng bảo chị Túc khùng. Người ta nói như vậy cũng đúng. Đối
với mọi người chị Túc khùng thiệt. Ai có chửi mắng đánh đập la hét gì chị cũng
trố mắt lên cười không hiểu không biết gì. Chỉ có mình chú khi nói chuyện với
chị thì cái gì chị cũng hiểu và cũng đối đáp lại trơn tru. Cách trả lời của chị
mộc mạc chất phác bởi vì con người chị là con người hiền lương bẩm sinh. Chắc
có lẽ chị cảm nhận được rằng chỉ mình chú là yêu thương chị ấy chân tình và
thật lòng, nhưng chị không diễn tả được cảm giác của mình mà thôi. Đôi lúc chị
trả lời ngô nghê cũng bởi đầu óc chị trong sáng không hề vẫn đục bởi những toan
tính ở đời...
Đột nhiên người đàn
ông nhỏ giọng:
- Cháu có thể giúp chú
một điều tâm nguyện không?
- Dạ chú cứ nói.
- Nếu lỡ bệnh chú
không qua khỏi, khi người ta đem thiêu chú, cháu nhớ mua một con búp bê bằng
nhựa bỏ theo vào hòm. Cháu đề tên Túc trước ngực con búp bê đó và để con búp bê
nằm cạnh chú. Nhớ để nằm bên trái vì nơi đó gần trái tim chú hơn. Hứa với chú làm
điều này nha cháu. À mà này cháu phải nhớ cho kỹ là chữ Túc có dấu sắc phía
trên. Chữ Việt Nam mình khác chữ Mỹ ở chỗ có dấu.
- Dạ cháu hứa. Nhưng
chú cứ yên tâm, chú sẽ qua khỏi mà. Khoa học bây giờ tân tiến lắm.
- Cám ơn lời an ủi của
cháu, nhưng chú biết khoa học vẫn chưa tìm ra thứ thuốc nào có thể chữa chứng
bệnh ung thư của chú.
Người đàn ông không
nói gì thêm, miệng hơi mỉm cười khẽ nhắm mắt lim dim. Ngày hôm sau người đàn
ông qua đời.
Cô y tá đầy tình người
lái xe dạo cả buổi sáng sùng lục hết khắp cả các shopping trong thành phố để
tìm mua một con búp bê bằng nhựa. Cô đi khắp cùng vẫn không tìm được một con
búp bê nào tóc đen, mắt đen, da vàng, mũi tẹt. Cuối cùng cô chọn đại một con búp
bê tóc đen nhưng đôi mắt màu xanh lơ. Cô van vái thầm:
- Chú ơi, chú thông
cảm ở nước Mỹ này tìm được một con búp bê giống Việt Nam khó quá chú à!
Cô viết tên cố nhân
của người vừa chết lên ngực con búp bê và trước những đôi mắt ngạc nhiên của
nhân viên nhà quàng đang tẩm liệm, cô đặt con búp bê ngay ngắn vào hòm bằng một
thái độ chân thành trang trọng với hai hàng nước mắt rưng rưng.
Cho mãi đến khi chiếc
hòm được đẩy vào lò thiêu xác cô mới chợt nhớ ra là khi cô viết tên Túc, quen
theo lối Mỹ quên đánh dấu sắc phía trên./.
Quan Dương
Chuyện tình thật hay và cảm động!
ReplyDeleteNgànThu
Cám ơn Ngàn Thu đã vào đọc và để lại comment. Rất trân quý.
DeleteTK