Mang thân tị nạn nổi trôi tới xứ người, lúc bắt
đầu hội nhập, có lẽ ai ai cũng gặp ít nhiều trở ngại khó khăn vì việc bất đồng ngôn
ngữ. Việc mưu sinh do đó cũng bị ảnh hưởng rất nhiều, muốn tìm một việc làm
theo ý mình không phải là chuyện dễ, nghề chọn người chớ người không thể chọn
nghề nhứt là những ai không có nghề nghiệp chuyên môn, họặc cho dù có tay nghề
gì đi nữa mà không thông thạo tiếng nói cũng không dễ gì được nhận.
Vì vậy đa số đều lâm vào hòan cảnh như nhau, hễ
có việc thì cứ nhào vô làm, đụng đâu làm
đó chẳng câu nệ ngại ngùng gì miễn sao có chút tiền dằn túi trước rồi muốn gì
thì mới tính sau. Bởi vì sau những năm dài bị đọa đày bầm dập dưới chế độ cộng
sản, người dân đã thấm đẩm tới tận cùng xương tủy cái “chân lý” bần cùng của chủ
nghĩa xã hội “lao động là vinh quang” mà dân gian miền nam đã không ngần ngại chua
chát thêm vào câu “lang thang là chết
đói” cho đủ ý hợp tình.
Thế nên khi tới được bến bờ tự do, tất cả mọi
người từ sĩ nông công thương, thầy hay
thợ, chủ hay tớ, trí thức hay cùng đinh, những tâm hồn lớn nhỏ gì cũng có thể ngồi
chung một chiếc thuyền, cùng chung một mục đích như nhau là kiếm tiền. Ai càng
có sức thì kiếm tiền càng dễ. Cứ nhào vô hảng xưởng cắm đầu cắm cổ làm hai
shift là nhanh chóng có tiền trong tay. Có làm
hàm mới có nhai và một khi có no ấm bản thân thì mới có tinh thần nghĩ
đến nguyện vọng lý tưởng đã từng vẽ vời xây
mộng từ lúc vừa thóat khỏi gông xiềng cộng sản vô nhân.
Gia đình thầy giáo Phương gồm bốn người sau khi
tới Úc được giáo hội bảo trợ về một vùng quê khỉ ho cò gáy chỉ có cây rừng và
nông trại. Nơi đó, họ không tìm được việc làm nên đã dắt dìu nhau trở lại Sydney . Lúc ban đầu họ tạm trú trong một căn
nhà xưa cũ của giáo hội tin lành cho mướn ngay tại trung tâm city gần Hyde Park . Hai đứa trẻ, thằng em vợ và con thầy Phương thì
được sắp xếp cho vào trường học ngay cho kịp tuổi. Thầy Phương cũng ghi tên xin
vào một khóa intensive English for migrants and refugees ở NSW Uni để ôn lại vốn
liếng tiếng Anh chuẩn bị đi làm. Còn cô Phương thì tạm thời ở nhà đưa rước con
đi học.
Thời đầu
thập niên 80, tiền thất nghiệp cho một couple mỗi fortnight chỉ có 200 dollars.
Tiền thuê nhà hai tuần là hết 80, chỉ còn lại 120 dollars cho bốn người tiêu xài
ăn uống trả bills, chật vật gói ghém lắm mới đủ. Vì vậy khi gặp một bà Úc có
đứa con học chung lớp với con gái của cô giới thiệu cho cái job làm bồi phòng
trong một motel bảy tầng ở gần nhà, cô mừng húm xin đi làm ngay mà chẳng cần
biết công việc nặng nhẹ ra sao. Chừng vô làm mới biết ngày tám tiếng phải dọn
mười cái phòng giường đôi, mỗi phòng đều phải lau chùi, dọn dẹp, hút bụi, làm
giường với số lương là 150 dollars một tuần. Vốn ốm yếu mình hạc xác ve nặng
chưa tới 40kg, ngày đầu đi làm về, cô nghe ê ẩm cả người, hôm sau ngồi dậy
không muốn nổi nhưng vẫn phải cố gắng, tự nhủ rằng dần dần chắc sẽ quen thôi.
Cô tính rồi đây khi ông xã cô cũng có việc làm thì tiền lương hai người cộng
lại sẽ có thể dư được chút đỉnh phòng thân khi bệnh họan túng cùng. Nhưng chỉ
được hai tuần thì cô thấy cái lưng mình như bị gãy, đau nhức rã rời, nhắm không thể chịu đựng lâu hơn nữa được, cô
đành xin nghỉ việc chờ cơ hội khác .
Trẻ nhỏ đi học đã yên
phần
Người lớn tìm việc mới
trần thân
Việc làm không thể
chọn theo ý
Một năm đổi job bốn
năm lần
Đời ai tị nạn chẳng
long đong
Cũng vì sinh kế phải cam lòng
Gặp gì làm nấy đâu quản
ngại
Ai
người đồng cảnh mới cảm thông
Nhân một ngày chúa nhựt đi lễ nhà thờ ở Bondi,
vợ chồng thầy Phương gặp hai gia đình người đồng hương qua trước mình hai năm
hiện đang sinh sống làm việc ở vùng biển du lịch này. Thầy Phương nói thầy cũng
đang tìm chỗ dọn vì giáo hội sắp lấy lại căn nhà đang cho thuê. Nghe vậy họ cho
biết trong cái building họ ở còn một căn flat trống chưa ai mướn, họ rủ gia
đình thầy về đó ở với họ cho có bạn với nhau. Lúc đó tứ cố vô thân, không có
người mách nước chỉ bảo cho nên ai rủ ở đâu thì mướn ở đó chớ có biết vùng nào
mắc rẻ, vùng nào thuận tiện dễ đi đứng và có nhiều hảng xưởng để kiếm việc làm.
Dân tị nạn ở hostel ra đa số đều chọn vùng phía tây để lập nghiệp còn gia đình
thầy Phương thì từ quê lên thành lớ ngớ lù khù nhè phía đông tòan là bãi biển
du lịch mà “cắm dùi” thì chỉ có nước đi
làm tạp dịch mà thôi.
Nhưng thời may, khi dọn về Bondi beach, một bữa
trưa khi cô Phương đi rước con tan học, một bà Úc làm việc xã hội trong nhà thờ
Saint Patrick Bondi kêu cô lại trao cho mảnh giấy có ghi số điện thọai của một
nhân viên Welfare ở Endeavour hostel, bảo cô về nói với thầy Phương liên lạc
với người này vì họ đang cần thông dịch viên. Lúc ấy là lúc thầy đang quơ quào làm
tạm cái job cleaning trong một câu lạc bộ ở city chờ thời vì sau khi mãn khóa
học thầy chưa tìm được việc gì đúng với sở trường của mình. Cũng xin nói thêm,
trước khi vượt biển, thầy Phương có đi coi tử vi thì được ông thầy tử vi dặn
bảo là phải đi về hướng nam lập nghiệp thì mới mong thành công, mới mong có cơ
hội cầm lại cây viết, bằng không sẽ cầm
cây chổi suốt đời. Do đó, thầy đã chọn nước Úc, một lãnh thổ ở cực nam bán cầu (không
còn nơi nào là nam cực hơn nữa trên trái đất này) để định cư. Chắc có lẽ nhờ vậy
mà giờ đây chính là thời điểm cây viết trở lại trong tay thầy. Sau khi phỏng
vấn, thầy được nhận và đi làm ngay tuần sau. Thế rồi thầy bye bye cây chổi, bắt
đầu làm việc văn phòng nine to five, có bàn viết điện thọai riêng, mỗi tuần lãnh
lương chính phủ chắc cú. Rồi khỏang vài tháng sau, khi Bộ Di Trú ra thông báo tuyển
người, thầy đã nộp đơn thi và may mắn trúng tuyển, từ đó chính thức trở thành
công chức chính phủ liên bang vĩnh viễn. Đúng là có phần thì chẳng cần gì bôn
ba.
Vào thập niên 80, dưới trào thủ tướng Malcom
Fraser, chính sách di trú rất rộng rãi nhân đạo, nhận dân tị nạn rất nhiều cho
nên tuần nào cũng có một hai nhóm người tới định cư, thầy Phương do đó có cơ
hội hướng dẫn phục vụ đồng bào mình nhiệt tình tối đa, và đồng thời mặc nhiên cũng góp phần trả ơn chính
phủ nước Úc đúng theo ý nguyện của thầy.
Thời gian đó, chủ nhân hảng xưởng nào muốn tìm công nhân viên thì chỉ cần vào
hostel là có đủ mọi tầng lớp thầy thợ cho họ chọn, khỏi đi lòng vòng cho mất
công.
Có một
kỷ niệm rất vui cho đám dân ở hostel lúc
đó mà tới nay đã ba chục năm, thầy
Phương vẫn còn nhớ rõ. Đó là chuyện...đóng phim. Một cuốn phim mang tựa đề là “The
Year Of Living Dangerously” nói về cuộc
đảo chánh ở Indonesia thời tổng thống Sukarno, trong đó tài tử Mel Gibson đóng vai một ký giả người Úc phải mạo
hiểm tìm cách rời khỏi Indonesia vào giờ phút cuối vô cùng cấp bách lâm nguy. Ông
đạo diễn phim này cần một số đông người làm bối cảnh chạy lọan (ba chục năm về
trước con người chưa phát minh ra computer technology để đưa vào phim ảnh tạo
người ảo thay cho người thật), nghĩ không tìm đâu cho bằng nhóm người tị nạn
mới tới da còn rám nắng đen sạm giống hệt Indonesians cho nên ông ta vào hostel
“tóm hết trọn ổ” gọn bân.
Có dịp kiếm tiền dễ dàng, thầy Phương kéo theo
gia đình một người bạn bác sĩ và vợ con thầy đi đóng phim luôn. Thầy Phương và
ông bạn bác sĩ, một luật sư và một anh
lực sĩ kiến càng đóng vai nhân vật cao cấp gì đó ngồi trong phòng họp với
cà phê khói thuốc mịt mù. Cô Phương thì được hóa trang làm nữ tiếp viên hàng
không mà không…làm gì hết, chỉ đứng làm cảnh lúc Mel Gibson chạy băng qua cổng sóat
vé dzọt ra phi trường “chẩu”(nhưng Mel Gibson dzọt lẹ quá như sao xẹt, nên khi
chiếu lại không thấy cô tiếp viên đâu cả). Còn lại bao nhiêu người khác thì chỉ
cần giả bộ xô xát nhau chạy lọan, vợ chồng con cái gánh gồng bồng bế chạy qua
chạy lại tạo cảnh hỗn lọan để người ta
quay phim là ăn tiền.
Đóng phim hai ngày weekend như thế, mỗi người
có thể kiếm được một số tiền bằng đi làm một tuần. Vì vậy ai cũng hăng hái nhận…
vai. Sáng sớm xe bus vô hostel chở mọi
người tới phim trường để nhóm make-up hóa trang, sơn đen đen một chút, rồi đứng
lóng ngóng chơi chờ khi nào người ta bảo action thì bắt đầu act. Buổi trưa tòan
thể diễn viên được bao ăn no nốc, lại còn có giờ tea, coffee nữa, khỏe thì thôi.
Khỏe nhứt là khi vai chánh diễn không vừa ý đạo diễn, ông ta bảo “cut” là sẽ có
màn quay lại, phải mất thêm thời giờ, là mọi người được dịp lãnh thêm tiền ngon
ơ. Còn Mel Gibson cứ mỗi lần bắt đầu lại
là mỗi lần bị xịt nước lên áo, lên đầu cổ mặt mày gỉả đò như đổ mồ hôi nhễ nhại ròng ròng vì Indonesia là
xứ nóng. Thế mới biết nghề nào cũng phải đổ mồ hôi xót con mắt mới kiếm được
đồng tiền, cái gì cũng có cái giá phải trả, càng cao danh vọng càng nhiều gian
nan là vậy, mà đây mới chỉ là một tiểu xảo thôi.
Thầy Phương có được cái job làm công chức như vậy
là coi như ăn chắc suốt đời cho tới ngày về hưu không cần nhọc công kiếm tìm gì
hơn nữa. Chỉ có cô Phương là hơi vất vả vì chẳng có nghề ngỗng gì chuyên môn. Sau
khi học một khóa tiếng Anh, cô theo người bạn ở cùng building đi làm kitchen
hand trong một nhà dòng nữ tu, một retreat house dành cho du khách thập phương
tới trọ. Mỗi ngày chỉ làm part time sáu tiếng với công việc rửa rau xắt thịt lau chùi bếp núc tương đối thích
hợp với cô. Duy chỉ có một điều khiến cô không mấy vui là nếu xong việc nhà bếp
trước giờ, bà sister người Philippine hay bảo cô đi clean up các phòng ngủ trên
lầu hoặc nhà nguyện kế bên. Job của cô là kitchen hand chớ đâu phải cleaner, người
bạn làm chief cook sau khi nấu xong có
thể ngồi ung dung đọc báo chờ tới giờ về còn cô sao lại phải làm thêm việc
khác.
Tuy nhận thấy sự bất công đó nhưng cô tự an ủi rằng sông có khúc người có lúc, sống ở đời phải biết lấy chữ “nhẫn” làm đầu, chấp nhận hòan cảnh hiện tại chờ thời cơ. Những lúc ấy thì cô lôi cái máy hút bụi vào nhà nguyện để đó rồi cầu nguyện tìm ở đấng thiêng liêng một sự xoa dịu ủi an trước khi bắt đầu công việc. Dẫu sao cô cũng cảm tạ ơn trên vô cùng đã che chở dìu dắt gia đình cô tới được đất nước thanh bình tự do để làm lại cuộc đời sau những tháng năm dài tối tăm vô vọng dưới tai ách cộng sản. Gia đình cô đã may mắn hơn rất nhiều người. Chồng cô vừa đặt chân lên xứ người chưa quen hơi bén đất đã bất ngờ nhận được một việc làm tốt đẹp hợp ý như một hồng ân của Chúa thì chút nhọc nhằn này của cô có đáng gì đâu phải thở than phàn nàn. Cô phải biết nhận lãnh cho mình để Chúa còn có cơ hội chứng tỏ sự công bằng của Chúa đối với người khác. Nếu cả hai vợ chồng đều được ưu đãi hết thì hóa ra Chúa bất công hay sao.
“Con dâng Chúa đôi tay
này từng vất vả làm cho tê tái
Con dâng Chúa đôi bờ
vai, gánh gồng nặng trĩu bao ngày
Con dâng Chúa đôi chân
này vì tìm hạnh phúc miệt mài.
Vì ngày mai, con lo
hôm nay
Vì tương lai, con lo hiện tại
Bởi trời đất mãi luôn
vần xoay và cuộc sống bon chen từng ngày…”*
Mỗi xế trưa, cứ ba giờ là cô xong việc ra về.
Trên đường tới trạm xe bus, cô phải đi ngang qua một dãy nhà nguy nga và những
căn chung cư sang trọng đắt tiền (địa thế vùng Point Piper ở trên cao nên nhà
nào cũng có cái view nhìn ra biển thấy
vịnh Double bay, Rose bay với thuyền bè, yatch, canoe tư nhân đậu tấp nập và xa hơn nữa là Opera
house cùng Harbour Bridge tráng lệ huy hòang, hai kỳ quan đặc thù của nước Úc).
Một bữa cũng đi về như mọi bữa, hôm nay cô bỗng thấy một ông Úc khỏang trên năm mươi đang đứng sẵn trước cửa, chờ cô vừa đi tới thì lên tiếng chào và hỏi cô phải là người Việt Nam không. Cô cũng chào đáp lễ và nói yes, I am. Ông ta nói ông ta thích đồ ăn Việt Nam lắm, hổm rày đón cô để hỏi cô có chịu ghé vào nhà ông ta làm chút housework và nấu ăn cho ông ta không. Ông ta mời vô coi nhà chỉ bếp núc, nhà giặt, phòng ngủ. Ông ta tự giới thiệu tên là Bill là chủ một real estate ở Double bay. Con gái ông đã lớn có chồng ở riêng, nhà chỉ có ông và cô girl friend trẻ. Ông nói muốn nhờ cô hằng ngày ghé lại hai tiếng đồng hồ coi có chỗ nào cần dọn thì dọn rồi nấu giùm một hai món ăn cho hai người, mỗi giờ trả cô 5dollars (thời đó, lương căn bản công nhân một giờ là 5 đồng).
Một bữa cũng đi về như mọi bữa, hôm nay cô bỗng thấy một ông Úc khỏang trên năm mươi đang đứng sẵn trước cửa, chờ cô vừa đi tới thì lên tiếng chào và hỏi cô phải là người Việt Nam không. Cô cũng chào đáp lễ và nói yes, I am. Ông ta nói ông ta thích đồ ăn Việt Nam lắm, hổm rày đón cô để hỏi cô có chịu ghé vào nhà ông ta làm chút housework và nấu ăn cho ông ta không. Ông ta mời vô coi nhà chỉ bếp núc, nhà giặt, phòng ngủ. Ông ta tự giới thiệu tên là Bill là chủ một real estate ở Double bay. Con gái ông đã lớn có chồng ở riêng, nhà chỉ có ông và cô girl friend trẻ. Ông nói muốn nhờ cô hằng ngày ghé lại hai tiếng đồng hồ coi có chỗ nào cần dọn thì dọn rồi nấu giùm một hai món ăn cho hai người, mỗi giờ trả cô 5dollars (thời đó, lương căn bản công nhân một giờ là 5 đồng).
Cô thấy công việc như vậy là “trúng tủ” nghề nội
trợ của nàng, lại sẵn tiện đường, tiện giờ giấc mà kiếm thêm được chút tiền nên
rất mừng nhận ngay. Thế là ông Bill đưa
chìa khóa cho cô, (làm như trên mặt cô có viết chữ ngay lành hay sao không
biết, và hồi thời đó con người ta còn lương
thiện dễ tin tưởng nhau quá, không như về sau này khi di dân và người tị nạn tứ
xứ ồ ạt tràn ngập vào nước Úc, đem cái xảo quyệt gian manh giang hồ tứ chiến truyền lại cho người Úc thì lần hồi dân tình nhiểm thói mánh mung xỏ lá, không
còn biết được lòng người ai giả ai chân) rồi nói rằng ngày mai tôi sẽ mua sẵn
vài món, cô muốn nấu sao cũng được, luôn tiện nấu cho tôi 2 cups brown rice. Cô
ra về mà nghe thích thú trong bụng. Điều kiện của ông Bill sao mà quá dễ, muốn nấu
sao thì nấu, chưa từng nghe chủ nào mà mướn người dễ như vậy. Nhà cô có mấy
người mà mỗi người còn một ý, phải chìu như chìu vong, đàng này ông chủ lại để
cô tự quyết định theo ý cô. Ở đợ kiểu này là “cha” người ta rồi còn muốn gì hơn
nữa.
Trưa hôm sau cô ghé lại mở cửa vào dọn dẹp,
thấy trên bếp có để sẵn hai dĩa thịt trừu và hai bó English spinach, Sau khi thay drap
giường, quăng đồ vào máy giặt, cô bắt đầu nấu ăn. Cô ớn nhứt là mùi thịt trừu
nhưng mà không nấu thì không được. Thấy có miếng gừng trong cái rổ hành tỏi, cô
nảy ý làm món thịt lamb xào gừng để khử bớt cái mùi mỡ trừu hăng hắc nghe muốn
nhợn. Cô gọt miếng gừng xắt chỉ và xắt nhỏ mấy lát thịt trừu rồi xào như xào
mặn, cho muối cho đường vào mặn mặn ngọt ngọt, thử cái nước thấy cũng ngon
ngon. Còn hai bó cải, cô rửa sạch cắt khúc, phi tỏi cho thơm, bỏ cải vào đảo sơ
qua nêm nếm, xúc ra dĩa còn xanh um xanh ngắt trông rất ngon mắt. Khỏang 5 giờ chiều thì ông Bill về tới, cô nói
ông ta ăn thử miếng thịt xào gừng coi sao. Thử xong ông ta kêu lên “delicious,
so yummy!”. Thuận tay, ông ta bóc luôn miếng cải bỏ vô miệng vừa nhai vừa khen
lấy khen để khiến cô vui mừng nhẹ nhõm vì thấy người ta hài lòng về mình. Ông
ta còn nói chiều mai sẽ bảo Jeannie (tên bồ nhí của ông ta) tới thưởng thức Vietnamese
food mới được.
Gặp người chủ dễ tính, cô làm việc rất thỏai
mái vui vẻ. Có ngày ông Bill mua một bọc minced beef để đó, cô không biết làm
gì thành ra đem quết nhuyển chế món bò viên. Tuy không đúng tiêu chuẩn bò viên
hảo hạng vì không đủ gia vị nhưng đối với họ thì exellent, nói chung món nào cô
chế ra, Bill và Jeannie cũng ưng ý. Đôi khi ông ta không biết mua thứ gì, chờ
cô tới tính coi muốn làm món gì mới chở
đi mua. Ông Bill khóai khẩu đồ Việt Nam tới nỗi muốn khoe với bạn bè
nên có lần ông mở party mời ba chục
người tới dự vào một tối weekend. Dĩ nhiên ông phải order thêm những thức ăn
khác ngòai món lamb xào gừng, spinach
stir fry, cá chiên sauce cà, gà sả ớt do cô nấu. Hôm đó nấu nướng dọn
dẹp xong đã hơn 10 giờ đêm, khi cô xách giỏ ra cửa định về thì mọi người đều
cám ơn cô và cô bồ nhí Jeannie đã xung phong chở cô ra trạm xe bus bằng chiếc
xe sport hiệu Alfa Romeo màu đỏ thắm mới cáo chỉ của ông bồ “trâu già” mua tặng. Cách đối xử tử tế tốt bụng của người chủ
này làm cô cảm thấy rất an ủi và bớt đi mặc cảm mình là kẻ tôi đòi. Có lẽ do nguồn gốc
của người Úc là tội phạm và di dân tứ xứ, trải qua bao đời gian truân khó nhọc tạo
dựng mới làm nên cơ ngơi tài sản, do đó họ dễ thông cảm, không đặt nặng vấn đề
giai cấp hoặc kỳ thị những kẻ chân ướt
chân ráo trắng tay mới bắt đầu khởi sự như cô.
Nhưng may thay, cái số làm osin của cô chỉ kéo
dài ba tháng thì cô nhận được một việc làm full time khác nhàn hạ hơn trong một
family business do hai ông bà người Hungary làm chủ. Đó là một thương
nghiệp chuyên cung cấp lenses (không biết tiếng việt nói sao) cho các phòng thí
nghiệm. Ngày tám tiếng công việc của cô là cắt những mảnh lenses theo order. Cùng
làm với cô là một chị người Việt Nam vào trước cô một năm. Lúc đầu người
chị em này có vẻ kỳ thị ra mặt, không nhìn cô đến nửa mắt, mặt mày khó đăm đăm
như bà cô bên chồng chẳng có lấy một nụ cười Welcome người mới khiến cô cảm
thấy rất bẽ bàng. Lạ chưa! Úc không kỳ thị mình mà người mình với người mình
lại kỳ thị nhau, Việt Nam gặp Việt Nam mà “dội ngược” không muốn nhìn, có lẽ vì
người Việt đã lừng danh là xấu xa xấu xí.
Theo lời bà chủ, chị miễn cưởng chỉ dẫn cô những
việc phải làm bằng một giọng khô khan cộc lốc rồi trở về chỗ ngồi cắm cúi tiếp
tục công việc của chị. Suốt buổi, chị
chẳng hề đếm xỉa gì tới cô mãi cho đến giờ lunch chị mới cho biết một điều lệ
là chị không nghỉ nửa giờ ăn trưa để
chiều về sớm nghĩa là chị tan việc lúc ba
giờ. Còn cô nếu ăn trưa thì ở lại làm tới ba giờ rưởi. Cô vừa làm vừa ấm ức
buồn trong bụng không hiểu chị ta muốn thị oai gì mà cứ giữ thái độ lãnh đạm xa
cách như vậy. Có lẽ chị đang âm thầm quan sát, đánh giá cô coi có xứng đáng làm
bạn với chị hay không. Thôi kệ, ai biểu
mình là ma mới, chị ta muốn kênh kiệu thì mình cứ giả điên coi chị ta kênh được
tới chừng nào. Mà thôi tị hiềm chấp nhứt làm gì, chị ta không nói thì mình nói
trước vậy. “Phải biết mở cửa lòng mình trước thì mới mong mở đặng lòng kẻ khác”
(Pasquier Quesnel), thử xem cái tảng băng này rồi đây có chảy ra được chút thiện
cảm nào cho mình không. Cô bèn nói “vậy
thì ngày mai tui cũng không ăn trưa, làm luôn một lèo rồi về sớm như chị. Chị
tính vậy hay quá, công việc này đâu có nặng nhọc gì mà cần phải nghỉ ngơi, vả
lại giờ morning tea mình ăn vài cái bánh thì cũng dư sức làm luôn tới về. Chị
nói với bà boss giùm tui đi nghe, chị nói mới “linh” .
Sau hai ngày 16 tiếng làm việc chung, người chị em bắt đầu mở miệng “phỏng vấn” cô vài câu dọ dẫm đại khái như quê quán ở đâu, tới hồi nào, sao biết chỗ này mà xin việc vv… Cô nói “tui đâu biết chỗ này mà xin, bà boss vô hostel tìm người làm, ông xã tui làm việc ở đó nên giới thiệu tui với bả và bả nhận”. Vậy rồi qua tuần sau hai đứa bỗng dưng trở thành bạn ngon lành ngọt sớt như mía lùi, chừng đó mới biết té ra là hai đứa bằng tuổi nhau, cùng là hai con rồng như nhau, cùng có tên chữ lót là “Tố” giống nhau. Chị là cô giáo ở Việt
Bây giờ cô không hỏi thì chị cũng kể tuốt luốt
hết mọi chuyện, chuyện bản thân, chuyện gia đình, anh chị em, bạn bè như đã từng
thân thiết với cô đâu từ hồi đời kiếp nào rồi vậy. Hôm nào ông bà chủ có việc
phải ra ngòai là chị tha hồ “gossip” về chuyện của hai ông bà từ thuở mới di
dân tới Úc, nói cho hả hê bỏ lúc phải giả bộ làm màu làm chảnh câm như hến đến
đổi bà chủ thấy lạ phải lên tiếng hỏi “Are
you both from the same country, the same
language?”. Và bây giờ thì chị đã chịu gật đầu nhìn nhận “Yes, we are” để rồi sau đó chính chị đã
đề nghị cho hai ông xã quen biết kết bạn bạn với nhau để chia sẻ nâng đỡ nhau
trong cuộc sống tha hương nơi xứ người. Thế mới biết tâm lý chung của con người
là rất sợ bị bỏ rơi cô độc, ai cũng sợ phải làm một Robinson lẻ loi một mình trên hoang
đảo, mãi mãi sống cách biệt xã hội, quần thể bạn bè nhứt là cùng trong một hòan
cảnh lưu vong tị nạn như nhau.
Đời tị nạn là như thế đó, có biết bao nhiêu chuyện
ly kỳ hào hứng lẫn chua chát đắng cay mà tất cả chúng ta đều phải trải
qua lúc mới bắt đầu. Trước khi có được một mái nhà để an cư thì có lẽ mọi người
ai cũng đã từng lâm cảnh ba chìm bảy nổi chín cái long đong vì nhu cầu sinh kế,
cái ăn cái mặc và tương lai con cái. Người xưa có câu “an cư lạc nghiệp” nhưng
đối với những kẻ vong quốc tị nạn như chúng ta thì có lẽ phải lạc nghiệp
trước rồi mới có khả năng mua nhà sắm cửa để an cư cho hết khỏang đời còn lại.
Và một khi đã an cư rồi, chúng ta sẽ không còn là khách trọ nữa mà mặc
nhiên đã thành chủ nhà, xứ sở này sẽ là quê hương thứ hai của chúng ta, là nơi
chôn nhau cắt rún của thế hệ con cháu tiếp nối về sau. Xin được ghi lại nơi đây
lời cảm kích tri ân những quốc gia đã mở rộng vòng tay nhân ái cưu mang những
con người tị nạn khốn khổ lạc lòai.
Người Phương Nam
* Thánh ca “Con dâng Chúa” LM Nguyễn Mộng Hùynh
Tôi giả bộ làm “thầy giáo” cho điểm bài viết NPN : 20/20
ReplyDeleteQuả đúng như tác giả mô tả, dù bất cứ sống khổ ra sao ở xứ tự do cũng may mắn trăm lần hơn đồng hương ở lại sống với quân xâm lăng cướp nước.
VLH
Cám ơn bạn.
ReplyDeleteMến chúc bạn một năm mới bình an, sức khỏe dồi dào, vạn sự như ý.
NPN
Cô viết các bài hay, ý nghĩa quá. Con qua Úc bằng máy bay từ lúc nhỏ. Thanks cô.
ReplyDeleteNu dai uy C/A noi:Bac la tho moc a ! bac lam ra khoi tien day? Toi het hon lang le bo ca giay to tuy than va danh bai TAU VI THUONG SACH .cam on NPN,thodo1955.
ReplyDelete