Mỗi năm, cứ tới ngày ba mươi mốt tháng mười là
thầy Thanh nhắc vợ mua dĩa trái cây về thắp nhang cúng Bà Áo Trắng để tạ ơn Bà đã
phù hộ độ trì cho gia đình thầy nói riêng và cả
nhóm người chung tàu nói chung được bình yên tới bến bờ trong chuyến vượt biên
ba mươi năm về trước. Một ơn phước thiêng liêng tưởng như là bịa đặt nhưng kiểm
chứng lại thì quả thật không thể nào phủ nhận .
Đây ngày kỷ niệm vượt biên
Tháng mười, ba (mươi)
mốt vượt biên đường tàu
Xế chiều qua chợ Bãi Xàu
Rồi qua Bãi Giá núp
vào chờ đêm…
Năm bảy mươi lăm, trong những ngày hấp hối dãy
chết của miền nam, Thầy Thanh đã tận sức tìm cách đưa gia đình chạy cộng sản
nhưng cuối cùng cuộc di tản bất thành, số mệnh đã cột chân thầy lại cho đến bốn
năm sau. Khi về lại tỉnh nhà, trong một buổi họp nhân dân, thầy đã chứng kiến
tận mắt một màn thị oai dằn mặt nhân dân
rất ư là ghê rợn bạo tàn của chế độ mới. Trong buổi họp, bọn sắt máu đã tố tội
hai sĩ quan “ngụy” và sau đó đã thẳng tay hành quyết vặn cổ nạn nhân ngay tại hiện
trường không mảy may xúc động. Luật lệ nào mà xử người không có đối chứng,
không quyền biện hộ phân bua lấy một lời. Lụật lệ nào mà muốn lục xét nhà, muốn
bắt người ban đêm ban hôm lúc nào thì bắt, muốn đày ai
đi vùng kinh tế mới lúc nào thì đày. Có chăng là luật rừng, luật của những kẻ không may sinh ra để làm công cụ
cho một chế độ độc tài đảng trị, đã bị nhào nặn, đầu độc ngay từ trong trứng nước theo tôn chỉ của đảng và
nhà nước, không có cái quyền lựa chọn đúng sai hay nói lý lẽ mà chỉ rặc một
khuôn là bạo ngược, cường quyền vô thần vôn nhân tính. Nói theo truyện ngụ ngôn
của La Fontaine là lý của kẻ mạnh luôn luôn là phải đúng . Con chó sói một khi
đã muốn ăn thịt cừu con thì cứ lấy cớ bắt
tội con cừu là tại sao mày dám uống nước trên dòng suối của tao. Tao phải ăn
mày để trị tội…
Thọat đầu, vì phẩn uất và bất khuất, thầy Thanh
tìm móc nối với một nhóm phục quốc và thường xuyên đi hội họp khiến gia đình
thầy lúc nào cũng phập phồng lên ruột ăn ngủ không yên. Trong thời điểm cộng
sản có phong trào tổ chức cho dân đi vượt biển mua bãi công khai bằng số vàng
quy định, có vài ông xì thẩu cũng muốn mời
gia đình thầy Thanh đi theo để lo chuyện đối ngọai nếu gặp tàu ngọai quốc nhưng
lúc ấy thầy còn hăng máu phục quốc nên chưa chịu bỏ đi mặc dù ông già vợ của
thầy rất muốn thầy đi cho rồi để trút hẳn
mối lo. Về sau, càng ngày càng thấy rõ sự nguy hiểm khi người thủ lãnh bị xử tử
hình, sự nguy hiểm không chỉ cho bản thân thầy mà còn liên lụy cho gia đình và
thân nhân một cách oan uổng vô lý nên thầy mới nghĩ đến chuyện vượt biên đào thóat.
Đất nước là đất nước chung, mệnh nước thì trong tay trời, cho dù thầy có lòng
nhiệt huyết yêu nước thương dân nhưng rủi như thầy bị bắt bớ tù tội thì ai sẽ
thương giùm gia đình thầy. Tề gia còn chưa xong, tâm tình đâu mà trị quốc, nói
chi tới bình thiên hạ. Chí lớn này thôi đành cất lại nhường cho những bậc đại trượng
phu, anh hùng cái thế, còn cái thân phận tầm thường nhỏ nhoi như con kiến con sâu này thì ba mươi sáu chước, “quậy” không được thì chạy
là thượng sách.
Một buổi trưa trên đường từ trường quận đi dạy về, có một người trạc tuổi thầy đón thầy lại
hỏi ngắn gọn một câu “Đi vượt biên không?” Thầy Thanh bỡ ngỡ nhìn anh ta như
ngầm hỏi anh là ai. Anh ta nói là biết
thầy từ lâu. Nhà vợ anh ta ở gần nhà vợ thầy, anh ta là lính cũ, hạ sĩ Trần
Quý. Thế rồi chiều hôm đó anh ta tới nhà thầy bàn chuyện vượt biên như đã ăn ý quen
đâu từ trước rồi. Anh ta nói có một chủ ghe ở Bãi Giá (cách tỉnh Sóc Trăng khỏang
12km) muốn cho vợ chồng thằng con lấy
ghe đi (chiếc ghe đánh cá chỉ đủ nuôi gia đình nên rất nhỏ, bề dài khỏang mười một thước, bề ngang hai thước rưởi) nhưng với điều kiện để lại
cho ông ta 25 cây vàng dưỡng già. Và bây giờ thằng con chủ ghe đang nhờ anh ta
kiếm mối gom vàng. Chỉ đơn giản như vậy . Còn chuyện xăng dầu, nước nôi hải bàn,
hay gì gì khác thì để anh ta lo.
Thầy Thanh trời sinh có cái tính lạc quan, dễ
tin người, không hề biết dè dặt đề phòng ai cả, mà hình như những người như vậy
thì luôn được quý nhân phù hộ hay sao
không biết. Có nhiều chuyện xảy ra chung quanh thầy đều là điềm hung nhưng khi
tới gần thầy thì tự nhiên đổi hướng, chuyển bại thành thắng. Trong trường hợp
này, nếu như bị công an gài bẫy thì làm sao thầy chối tội cho được. Hơn thế
nữa, khi mọi dự tính sắp đặt xong xuôi, thầy công khai phơi chanh đường và cơm nguội để làm lương khô
cho chuyến đi sắp tới, hàng xóm chung quanh ai cũng biết thầy chuẩn bị vượt
biên, càng đáng nói hơn nữa là nhà thầy lại nằm cạnh bên Ty công an, thằng công
an nào đứng trên sân thượng nhìn qua cũng có thể chạy qua nắm đầu bắt quả tang
chứng cớ rành rành. Vậy mà không hiểu cái gì đã che mắt bọn chúng làm cho bọn
chúng phớt lờ như không biết không hay.
Quả thật lạ lùng!
Cuối cùng ngày khởi hành cũng đến. Gia đình
thầy gồm hai vợ chồng với đứa con gái mới lên 5
và thằng em vợ 12 tuổi cải trang như những người nhà quê lam lủ chồng
chất lên một chiếc Honda dame chở nhau qua chợ quận Bãi Xàu vào một buổi xế
chiều (tên quận xuất xứ từ người Miên). Từ Bãi Xàu muốn ra Bãi Giá phải
đi thêm một chặng đường lồi lõm rất xấu khỏang 6km nữa mới tới nơi. Thầy Thanh
đã sắp đặt với thằng em chú bác của vợ khi gần tới điểm hẹn sẽ giao chiếc xe
cho thằng em mang về. Còn gia đình thầy
thì có người trong nhóm tổ chức đưa tới nhà ông chủ tàu chờ đêm xuống mới dẫn ra
bãi.
Mười ba khá sáng trăng
đêm
Công an đâu nghĩ có
màn vượt biên
Đêm ấy có đám diễn
viên
Công an mê mẩn bỏ
phiên canh phòng
Thời may đêm đó có một đám văn công về chợ quận
hát hò trình diễn nên đám công an biên phòng mải mê vui chơi, lơ là việc canh
gác rất thuận lợi cho việc băng đồng lội
ruộng dẫn đường ra bãi hẹn. Thầy Thanh tay dắt vợ, lưng cỏng đứa con,
thằng em chạy lúp xúp theo sau. Cô Thanh từ nhỏ tới lớn chưa từng biết thò chân
xuống ruộng nên đi rất khó khăn, trợt lên trợt xuống một hồi rồi mất dép luôn,
phải chạy chân không, vừa nhờm gớm, vừa bị gai đâm, miểng chai xóc nhức nhối vô cùng mà cũng không thể dừng lại,
rán cà nhắc nhắm mắt chạy bừa theo cho kịp với những người trước, hơn một giờ
sau mới ra tới bãi.
Đợi khi con nước hết
ròng
Cho tàu vào bãi tài
công rước người
Lương khô, nước uống,
xăng dầu
Lôi từ bụi rậm chuyền
vào khoang ghe
Thế rồi tách bến lui
ghe
Nhổ neo xả máy hướng
về biển đông
Từ đây thành kẻ lưu
vong
Quê hương mờ khuất dần
trong mắt nhìn
Đám người vượt biên khỏang vài chục người
(không biết chính xác là bao nhiêu và
cũng không ai biết ai, vì khách đi chỉ biết người trung gian mà thôi) khi ra
tới bãi thì nhằm lúc con nước đang ròng, tàu không thể cặp vào rước người được cho
nên cả đám phải ẩn mình vào trong các lùm cây bụi rậm (nơi mà người tổ chức đã
dấu xăng dầu và nước uống từ mấy ngày trước) chờ nước lớn. Khỏang hai giờ sau
thì nước mới dâng cao, lập tức anh tài công nổ máy chạy sát vào bờ. Mỗi người
một tay phụ nhau chuyền những thùng dầu, nước và lương khô vào khoang tàu, tiếp
theo là phụ nữ và em bé rồi cuối cùng là bọn đàn
ông thanh niên. Xong xuôi anh tài công lui ghe rời bến xả hết tốc lực nhắm hướng đông trực chỉ.
Cuộc hải trình chỉ mới bắt đầu, chưa biết hung kiết thế nào nhưng mọi người trên tàu đã vội vui mừng nói cười ầm ĩ khiến một người trong đám phải la lên “Trời ơi!, đi vượt biên mà làm như đi du lịch vậy, đừng có mừng sớm cha nội, đợi ra tới hải phận quốc tế cho chắc ăn rồi hãy mừng”. Nhưng người nào cũng hừng chí phấn khởi, húyt gió um sùm. Hạ sĩ Trần Quý reo lên “Huy hòang rồi, huy hòang rồi anh em ơi! Thầy Thanh cất tiếng hát vang bài Ra khơi:
Cuộc hải trình chỉ mới bắt đầu, chưa biết hung kiết thế nào nhưng mọi người trên tàu đã vội vui mừng nói cười ầm ĩ khiến một người trong đám phải la lên “Trời ơi!, đi vượt biên mà làm như đi du lịch vậy, đừng có mừng sớm cha nội, đợi ra tới hải phận quốc tế cho chắc ăn rồi hãy mừng”. Nhưng người nào cũng hừng chí phấn khởi, húyt gió um sùm. Hạ sĩ Trần Quý reo lên “Huy hòang rồi, huy hòang rồi anh em ơi! Thầy Thanh cất tiếng hát vang bài Ra khơi:
Hôm nay ta cùng chuyến
thuyền vượt ra khơi
Anh em ơi! xin chớ
đừng dừng tay bơi
Một ngày nào ra
khơi
Một ngày nào anh em
còn đang xông lướt bên trời
Hôm nay ta cùng chuyến
thuyền vượt ra xa
Anh em ơi! sông núi
kìa kìa bao la
Một ngày nào ra đi
Đừng buồn vì phân ly
đòan ta xa vắng quê nhà…
Mấy anh em còn phụ họa theo “Khoan khoan hò
khoan” nữa chớ. Thiệt đúng là chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Tàu chạy được một
hồi lâu êm thắm, không thấy tàu công an
nào rượt theo, mọi người càng yên chí. Các chị em phụ nữ không có phận
sự gì thì dựa vào nhau nhắm mắt thiêm thiếp.
Còn đàn ông trai tráng thay phiên nhau tốp thì ngủ, tốp thì thức nói
chuyện tào lao cổ võ tinh thần anh tài công chánh cho anh ta tỉnh ngủ trong lúc
anh tài công phụ đi kiếm chỗ nghỉ lưng nhắm mắt một hồi. Đến nửa đêm, chị Cẩm,
vợ anh tài công chánh (đang mang thai bốn năm tháng gì đó) bỗng thức giấc bò
dậy nói với chồng chị là chị vừa nằm mơ thấy một bà mặc tòan trắng hiện ra báo
cho biết là trong tàu mình đi có hai mươi chín người, tính luôn hai đứa nhỏ. Bà
bảo hãy đốt nhang cầu nguyện thì bà sẽ phù hộ cho đi tới bờ bình an. Chị lại
nói rằng đêm qua lúc còn ở nhà, chị cũng đã chiêm bao y chang như vậy nhưng
chưa có dịp kể với ai. Hạ sĩ Trần Quý nghe thế vội chui xuống khoang tàu đếm đầu
người rồi trở lên báo cáo với thầy Thanh là đúng thật
hai mươi bảy người lớn và hai đứa con nít, một là con của anh ta và một
đứa là con gái thầy Thanh. Thầy vội nói với chị Cẩm đem nhang đèn ra đốt và
khấn vái, cầu xin bà áo trắng cho được thuận buồm xuôi gió tới bờ.
Lâm râm khấn nguyện
cầu xin
Ơn trên ban phúc an
bình đến nơi
Lênh đênh giữa chốn
biển khơi
Mênh mông trời nước
biết nơi đâu bờ
Cầu xin sóng lặng như
tờ
Thuận buồm xuôi gió
đến bờ tự do
Cầu xin sẽ được ban
cho
Giữa khuya linh ứng
trong mơ gặp bà
Uy linh áo trắng ngọc
ngà
Bà truyền bảo đốt cho
bà nén hương
Bà sẽ phù hộ trên
đường
Bình an cho kẻ hiền
lương tới bờ
Tàu này hai đứa trẻ thơ
Vị chi tất cả hai mươi
chín người
Không tin cứ đếm thử coi
Quả thật hai mươi chín
người đúng bon
Vội vàng thắp nén
nhang thơm
Hương trầm khói tỏa
kính dâng lên bà
Bất cứ một ai, khi trong lòng đã có một niềm
tin mãnh liệt ở đấng thiêng liêng thì hình như người ta không còn cảm thấy sợ
hãi một điều gì nữa cả. Mặc dù đang lênh đênh giữa biển cả thăm thẳm bao la không thấy đâu là phương
hướng bến bờ nhưng mọi người đều tin chắc rằng mình sẽ được bà áo trắng độ trì vượt qua mọi tai biến trên bước đường
tị nạn. Luôn ba ngày liên tiếp, trời quang mây tạnh, nước xanh biêng biếc, sóng
lặng gió êm, cá dolphin lội dọc theo hai bên thành tàu như hai đòan quân hộ vệ.
Cô Thanh có cảm tưởng như đang ngồi trên du thuyền, thỉnh thỏang thọc tay xuống
biển nghịch nước và nhúng cái khăn lau
mặt cho con. Trưa ngày thứ ba thì đòan người vượt biển gặp giàn khoan dầu của
Mã Lai. Anh tài công bỏ neo dừng lại, thầy Thanh đứng ở đầu tàu ngước lên kêu
gọi cầu cứu , xin tiếp tế nước, lương thực và hỏi thăm đường tới Mã Lai còn bao xa nữa. Những người trên giàn
khoan nhìn xuống chiếc tàu bé xíu trông giống như đồ chơi trẻ con đều lắc đầu thương
hại cho những kẻ khốn cùng điếc không sợ súng, dù biết thập tử nhứt sanh nhưng
vẫn cứ liều mạng đi tìm cái sống trong cái chết. Họ cho biết muốn đi Mã Lai thì đi về hướng bên phải khỏang một
ngày một đêm nữa sẽ tới. Rồi họ thả xuống cho một mớ bánh ngọt, nước uống, sữa
tươi và một ít trái cây cho đám thuyền nhân đủ cầm cự trong hai ngày . Con tàu
bé nhỏ mong manh lại tiếp tục cuộc hải trình tiến về hướng Mã Lai với niềm phấn
khởi hy vọng chứa chan.
Đến khỏang hai giờ chiều, bỗng đâu trời chuyển
màu âm u, mây đen từ đâu kéo tới che kín mặt trời làm đen ngòm cả một vùng biển
mênh mông. Mưa lác đác rồi giông gió nổi lên cuốn theo từng cơn sóng dữ. Lúc
đầu sóng còn nhấp nhô như đùa giỡn với con tàu, dần dần bỗng nổi cơn thịnh nộ dâng
cao, ngọn sóng bạc đầu chụp phủ lấy con tàu khiến nó quay mòng mòng trồi lên
hụp xuống nhừ tử mấy lần súyt chìm. Tử thần như lảng vảng đâu đây. Anh tài công
rán chịu trận, cầm cự tay lái thật chặt trong lúc mọi người lâm râm khấn nguyện với bà áo trắng, cầu xin
bà che chở, xua tan đi bao hung hiểm trùng trùng. Trong phút giây thập tử nhứt
sinh đó, cô Thanh chợt nghiệm ra rằng sinh
mạng con người là do trời ban, thôi thì cứ giao phó xác hồn cho trời đất. Trời
thương thì nhờ, không thương thì chịu. Con người không thể nào cãi được phần số
một khi trời đã muốn lấy lại. Do đó cô
không cảm thấy lo sợ bao nhiêu, dẫu sao khi quyết định ra đi thì ai cũng
đã nghĩ đến trường hợp xấu nhứt và chấp
nhận chết là cùng.
Gần hai tiếng đồng hồ sau, bão tố bắt đầu lắng dịu, con tàu mới lấy lại được
thăng bằng tiếp tục chẻ sóng. Ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm thầm tạ ơn bà áo
trắng linh thiêng. Đến lúc này mọi người
mới cảm thấy đói cồn cào, giục nhau vét gạo nấu cơm chia nhau mỗi người một
miếng lót dạ. Đêm ấy trời lại trong, vầng trăng an bình mười sáu tỏa sáng vằng
vặc cho đại dương bao la một vẻ đẹp huyền ảo thần kỳ. Sáng hôm sau, đúng như
câu “sau cơn mưa trời lại sáng” khi mặt trời lên cao khỏi mặt nước biển, đòan người tị nạn đã thấy bóng đất liền xa
xa. Anh tài công cho mũi tàu tiến về hướng đó và khỏang nửa giờ sau thì tới một trại lính.
Trên bờ, hai chú lính thấy tàu lạ xuất hiện liền xua tay ra dấu đuổi đi và lăm le họng súng như
đe dọa. Nhưng hạ sĩ Trần Quý và thầy Thanh đã lội đến sát bờ lên tiếng cho họ
biết mình là thuyền nhân tị nạn, cần họ giúp đỡ. Lúc đầu họ nạt nộ, quyết liệt
đuổi xô nhưng một lát sau, một ông tướng tá oai vệ có vẻ là người lãnh đạo nghe ồn ào giằng co bên ngòai đã bước ra dàn xếp. Ông ta tự giới thiệu là
thiếu tá Yap, chỉ huy trưởng của đòan thủy quân lục chiến địa phận Kemaman này.
Thầy Thanh trình bày hòan cảnh chung của anh em trong tàu và xin ông hướng dẫn gặp Cao ủy phụ trách vấn đề tị nạn.
Thầy nói:
-
Nếu chúng tôi không mất nước thì giờ này chúng tôi cũng như ông, an nhiên tự
tại trên quê hương mình chớ đâu cần phải nổi trôi phiêu bạt, liều chết đi tìm
tự do ở xứ người. Đất nước ông đã may mắn không bị chiến tranh thì xin ông rộng
lòng chia sớt cái may mắn đó bằng cách cứu vớt những kẻ bất hạnh lỡ đường như
chúng tôi. Đường dài trăm dặm, chúng tôi đã tận sức đi được chín mươi, mười dặm
còn lại là tùy thuộc vào lòng tốt của ông. Xin hãy đưa
giúp chúng tôi đi nốt chặng đường còn lại.
Ông thiếu tá suy nghĩ một chút rồi nói rằng:
-
Từ bao tháng qua, đã có rất nhiều con tàu tị nạn trôi giạt vào đây nhưng lần nào tôi cũng buộc
lòng cho lính kéo ra theo lệnh chính phủ, nếu không đi thì chúng tôi sẽ bắn,
nhưng hôm nay không biết sao tôi lại thấy mình bị lay chuyển, thuyết phục, hình
như có một sự vô hình nào đó thúc giục tôi phải tiếp nhận các anh. Thôi được,
anh hãy gọi hết đồng bào của anh lên bờ nghỉ ngơi, tôi sẽ liên lạc với Hội Hồng
Nguyệt Mã Lai (Red Crescent Society) đến đây giải quyết trường hợp của các anh.
Ông thiếu tá bảo lính đem mấy thùng mì gói và
nước ra cho mọi người ăn trưa. Sau đó, ông về phòng làm việc gọi máy cho Hội
Hồng Nguyệt. Sau bốn ngày ngồi bó gối dưới khoang tàu, hôm nay được thỏai mái
đi đi lại lại trên bờ và ăn uống khoan thai, mọi người đều cảm thấy khỏe khoắn nhẹ nhàng từ thể xác đến tinh thần.
Dù chưa biết bước kế tiếp sẽ như thế nào nhưng trước mắt là họ đã hòan tòan
thóat khỏi xích xiềng cộng sản, hòan tòan cầm chắc sự tự do mà họ đã đổi lấy mạng
sống đi tìm. Đến xế chiều, bên ngòai
trại lính có một chiếc xe bus dài và to với huy hiệu Trăng lưỡi liềm đỏ đổ lại.
Ông thiếu tá cho gọi đòan người tị nạn
ra bàn giao họ cho nhân viên của hội và
chúc họ may mắn trên đường định cư. Thầy Thanh thay mặt mọi người chấp tay cám
ơn thiếu tá Yap nói rằng:
-
Ơn đức của ông chúng tôi xin ghi nhớ mãi. Tiền rừng bạc biển ai rồi cũng sẽ hết,
chỉ có thi ân bố đức, giúp người họan nạn mới là phương cách đầu tư, tích phước
trường tồn. Nguyện xin ơn trên ban phúc lành cho gia đình ông.
Khi lên xe bus, nhân viên của hội cho biết là
bọn họ sẽ được đưa đến trại chuyển tiếp
Marran ngủ qua đêm rồi sáng hôm sau sẽ xuống tàu qua đảo tị nạn Pulau Bidong ở
đó trong thời gian chờ Cao Ủy cứu xét cho đi định cư ở đệ tam quốc gia. Như vậy
là mục đích của họ đến giai đọan này coi như đã thành công được hai phần ba.
Những ngày sắp tới sẽ là những ngày “dưỡng quân” trước khi được chính thức định
cư để làm lại cuộc đời.
Bà là Đức Mẹ Ma-ria
Quan Âm Bồ Tát hay bà
là ai?
Ơn thiêng liêng ấy
muôn đời
Bà tiên áo trắng rạng
ngời trong tim
Chuyến vượt biển của gia đình thầy Thanh quả là
một chuyến đi suông sẻ an lành hiếm thấy
từ lúc khởi đầu cho đến khi tới bến. Không bị đói khát , không bị chết máy bể
tàu, không bị cướp biển, sóng gió cấp
tám cũng lặng lẽ rút lui sau một hồi
hòanh hành đe dọa. Không biết đó có phải là nhờ vào đức tin tuyệt đối ở đấng
thiêng liêng hay không. Nhưng nếu nói nhờ vào đức tin thì những thuyền nhân
khác cũng có thừa đức tin như vậy. Vậy thì tại sao có biết bao vạn người đã bỏ mình chết
oan trên biển cả, nuốt hận ngàn thu? Hay là phước ai người đó nấy hưởng? Vấn đề
thiêng liêng thì có lẽ chỉ có đấng thiêng liêng mới giải thích được mà thôi.
Còn đối với người phàm như chúng ta thì chỉ biết cầu nguyện và…xin vâng.
Người Phương Nam
Chi Kim ơi,
ReplyDeleteTrải qua 66 năm cuộc đời mình rất tin vào Phật Pháp, mình có Mẹ Quan Âm độ trì, mỗi khi gặp tai uơng trong cuộc sống, bà theo hộ trì mình vượt qua tất cả, ngoài đức tin mãnh liệt mình phải ăn ở có đức độ thương nguoi, giúp người, không hại người, hại vật thì mình tin là có Bà theo giúp đỡ.
Cám ơn chị cho đoc giả đọc bài viết rất hay và cảm động, thân chúc mọi thứ may mắn đến với gia đình chi.
NV
Mình cũng nghĩ như chị. Cứ sống thiện sống lành thì trước sau gì mình cũng nhận được phước báo.
DeleteCám ơn chị đã đọc và comment.
Thân ái.
Tk
Cám on chị NPN cho đọc lại một thơì không quên, đồng thời cũng thấy đưọc sự mầu nhiệm của đức tin khó chối cãi, chính những sự diệu kỳ của lòng tin đã giúp chúng ta những ngưoì tỵ nạn vượt bao những khó khăn trắc trở. Chúc anh chị và gia đình luôn an lạc và hạnh phúc trên quê hương thứ 2 ạ.
ReplyDeleteHồng Thúy
Cám ơn Hồng Thủy.
DeleteChuyến vượt biển của HT như thế nào? Hay là HT đi theo diện gì khác?
Dù đi bằng cách nào nhưng khi đã đến được bờ bến tự do là coi như được tái sinh, cảm tạ Thượng đế vô cùng phải không HT?
Thân ái
TK
Tố Kim ơi, đây là chuyến vượt biên suông sẻ nhất mà mình được đọc đó. Chứng tỏ TK có phước rất lớn.
ReplyDeleteChúc mừng nhé.tieuthu
Cám ơn Tiểu Thu. Gia đình mình may mắn tốt phước thật. Trong lúc bao nhiêu người đi năm lần bảy lượt không xong, hoặc bị cướp bóc, bỏ mình trên biển cả thì mình chỉ đi một lần trót lọt.
DeleteCảm tạ Đức Mẹ Maria vô cùng.
Không biết chuyến đi của Tiểu Thu thì sao? Dù thế nào đi nữa thì cuối cùng cũng đã an nhiên tự tại và thành công tốt đẹp trên quê hương thứ hai phải không Tiểu Thu?
Thân ái
TKim
Cám ơn chị Tố Kim. Gia đình Chị thật là có phước lớn vì ít thấy có ai mà vượt biển lại như là " đi dulịch " như vậy.
ReplyDeleteNTL
Thưa Chị Tố Kim, tôi tin chắc chắn là mỗi người chúng ta đều có số mạng cả. Chúng ta vượt thoát được để rồi có thể giúp đở được gia đình và những người khác nửa. Hy vọng một ngày mai tươi sáng hơn cho đồng bào chúng ta. Cố gắng và cố gắng, Khẩn cầu và khẩn cầu Cha Trời và Mẹ đất giúp đở cho dân tộc mình.
ReplyDeleteThân chào chị TK, Người Phương Nam,xin cho phép được hỏi: thầy Toàn, frere Venance, thế nào? Cầu mong thầy vẫn khỏe và bình an. Tôi là học trò cũ của ngài những năm nội trú Lasan Sóc Trăng 1966_1969...Sau đó chuyển về Taberd Saigon vẫn đã có gặp lại Frere, frere phó Dominique đôi lần . Nhưng sau khi xong tú tài hai năm 72 thì không có dịp gặp lại ai cả. Xin cảm ơn chị và cầu mong gia đình chị luôn được bằng an và hạnh phúc.
ReplyDeleteHello anh khnguyen. Năm nay thầy Toàn đã 84 nhưng vẫn còn tráng kiện, chỉ có mắt yếu thôi.
ReplyDeleteVề chương 14 của truyện Về Phương Trời Cũ, tôi sẽ chỉnh lại sau.
Anh có thể cho tôi địa chỉ email để tiện liên lạc không? Tôi sẽ gởi chương này cho anh đọc trước.
Thầy Toàn nghe tôi nói lại, ông không nghĩ ra anh là ai vì tên chữ tắt khó mà đoán được.
Cám ơn anh đã có hảo ý thăm lại thầy cũ.
Địa chỉ email của tôi: nguoiphuongnam@iinet.net.au
Thân chào chị Người Phương Nam. Ôi mừng biết bao khi thấy replay của chị nhất là biết tin Frere vẫn còn khỏe mạnh. Tôi là Nguyễn Thanh Khiết, học trò của Frere những năm đệ lục và đệ ngũ. Email của tôi khnguyen1023@gmail.com
ReplyDeleteHi vọng sẽ liên lạc lại được với Frere sau bao năm xa cách. Thân mến. Khiết
Ðúng là có thánh thần bảo hộ thì tai qua nạn khỏi. Ði không đuợc truớc 30-4-75 chỉ vì vận hạn chưa đến.
ReplyDelete