Được định cư ở Canada là mơ
ước lớn nhất của gia đình tôi. Nhớ ngày đầu tiên đặt chân đến Montreal, ba mẹ
và mấy chị em tôi cứ như người đi trong mơ. Lúc đó tuy cả nhà 9 mạng người
mà trong tay chưa có được 100 đô, nhưng ai ai cũng mừng vui không kể xiết.
Sau vài tuần ở ké nhà bác Tư - người bảo lãnh ba tôi, thì cả nhà quyết
định ra mướn appartment riêng để không làm phiền lòng bác gái. Thế là mấy
chị em phải đổ xô đi kiếm việc làm.
Công việc đầu tiên của tôi nơi xứ người là nhân công trong một hãng vớ. Để được tuyển chọn thì chúng tôi phải thi tay nghề, nghĩa là người ta
đưa mình chừng 10 đôi vớ, người xin việc phải lần lượt đút từng đôi vớ vào
hệ thống máy đang quay tròn rất nhanh trong một thời gian nhất định. Việc
này cũng không khó lắm. Sau đó tôi mới được cho vào gặp "bà cai
" để được phỏng vấn. Bà cai nhìn có nét như người Ấn độ, chứ không
phải người da trắng như tôi cứ đinh ninh trong đầu - sau này tôi được biết
tên bà là Hayam. Nhìn tôi bà hỏi " Cô mới qua đây phải không? ". Tôi đáp
phải. Bà hỏi tiếp " Bên nước cô, cô làm nghề gì ? ". Tôi trả lời
" Dạ đang học năm cuối ngành dược ". Bà nhìn tôi đăm chiêu rồi tiếp
" Tôi biết cô sẽ không làm ở đây lâu đâu. Công ty giao cho tôi nhiệm
vụ tuyển dụng nhân viên, lẽ dĩ nhiên tôi có trách nhiệm mướn những ai có ý
định làm lâu dài với chúng tôi. Nhưng tôi biết thành phần trí thức như cô
thì đây chỉ là một công việc tạm thời giúp cô có thu nhập ban đầu nhằm
tiếp tục đi học lại, có phải không ?". Tôi không ngờ bà này nói trúng
tim đen mình quá nên ấp úng không biết trả lời sao, lòng thấp thỏm lo sẽ
bị từ chối. Bà tiếp " Thôi được tôi nhận cô.
Hai mươi lăm năm trước nước Canada đã cho tôi cơ hội thì hôm nay tôi cũng
cho cô một cơ hội bởi vì đất nước này cần những người có trình độ như
cô". Tôi mừng quá lật đật bước ra ngoài lấy hẹn khám sức khỏe mà quên
cả cám ơn bà.
Thời đó là giai đoạn gia đình chúng tôi cực khổ nhất. Đi làm ca tối,
tan ca về nhà gần 1 giờ khuya, đánh răng rửa mặt vội vội vàng vàng rồi đi
ngủ vì sáng hôm sau phải dậy sớm đến trường học lúc 7 giờ . Tan lớp học là
3 giờ , đón 2 chặng xe bus về tới nhà đã gần 5 giờ, ăn miếng cơm
chiều, nghỉ chút lấy hơi là đã đến giờ đi làm ca đêm ở hãng vớ từ 6 giờ
đến 12 giờ đêm.
Có một lần tôi ngủ gục khi
đang làm việc và bị " bắt quả tang " ngay. Dễ lắm,
người kiểm soát (quality controler) dù không ngồi ngay đó nhưng
khi hằng loạt vớ di chuyển qua máy thì ông ta nhận ra ngay là máy của
tôi khi thì chiếc có chiếc không. Ông Irving đi thẳng đến nơi tôi ngồi
và hỏi tại sao tôi không đút đủ số vớ như yêu cầu. Tôi bất ngờ chưa
biết nói sao thì ông John ở máy kế bên bước qua nói " Máy này nó củ
quá rồi. Khi nãy tao nghe tiếng cọt kẹt to lắm. Ông kêu thợ máy ến xem thử
có vấn đề gì không ". Thế là tôi ngồi chờ thợ máy tới.
Tranh thủ khi không có ai, ông John ghé tai tôi nói nhỏ " Cô mệt lắm
hả ? Tôi thấy cô ngủ gật. Irving nó khó lắm. Cô cẩn thận kẻo mất việc à ". Tôi cám ơn rồi ráng căng hai mắt ra mà làm tiếp. Hôm sau ông John mang
cho tôi hộp kẹo cà phê. Ông bảo " Tôi biết cô đi học ban ngày. Ngậm
kẹo này cho đỡ buồn ngủ. Ráng cố gắng làm khi nào ra trường có job ngon
hơn thì nghĩ nơi này ". Tôi nhận, cảm ơn ông mà ứa nước mắt.
Mãi đến bây giờ, cứ mỗi lần ngậm kẹo cà phê thì tôi lại nhớ đến ông
John. Ông qua đời 1 năm sau khi tôi không còn làm ở hãng vớ nữa.
Sau đó vì giờ giấc làm ca đêm không thuận tiện, tôi xin vào làm nghề
giặt khăn ăn trong một nhà hàng ở phố Tàu. Đây là một nhà hàng sang trọng
rộng lớn, nên bàn ăn nào cũng được trải tấm vải hồng nhạt. Mỗi khi khách
ăn xong là nhân viên kéo hết tất cả khăn trải bàn cùng khăn lau miệng thảy
vào một thùng thiệt to rồi mang xuống phòng giặt. Nhiệm vụ của tôi là phải
giặt hết cái " khối núi " khăn khổng lồ này trong thời gian quy
định vì nhà hàng ngày nào cũng rất đông khách. Tôi làm từ 1 giờ trưa đến 7
giờ chiều. Cho dù có nhiều máy giặt máy sấy vậy mà tôi cũng phải làm liền
tay mới kịp. Này nhé, mở từng thùng khăn dơ ra, tôi phải giũ sạch đồ ăn
vào một thùng rác, rồi phân loại khăn nào dính chất nước (xì dầu, nước
sốt...) thì để qua một bên giặt riêng. Sau đó bỏ vào máy giặt, vừa mở máy
này thì cũng là lúc máy sấy bên kia reng lên báo hiệu khăn khô cần lấy ra.
Coi tưởng nhàn mà lu bu cả buổi cứ phải quần quật phân loại, bỏ vô máy,
chế xà bông vào, rồi mang qua máy sấy, vừa khô thì lại phải bắt tay qua
thùng khăn kế tiếp. Một ca của tôi làm 6 tiếng mà chỉ có thời gian rảnh
lắt nhắt chừng 3 lần, mỗi lần khoảng 10 phút. Đó là những lúc tôi tranh
thủ hoặc ăn cơm hoặc đem bài vở ra học. Tôi còn nhớ ngày hôm đó khi
đang cắm cúi đầu vào trang sách thì tôi linh tính có ai nhìn chồm qua vai
mình. Quay đầu lại, tôi giật mình khi nhận ra đó là ông Michael - người
quản lý nhà hàng. Ông nhíu mày "
Cô học bài à ? Sao cô không
lấy khăn từ máy sấy ra, khô từ lâu rồi,ngoài kia đang cần khăn sạch ". Tôi
lật đật đứng dậy (đang ngồi dưới đất cạnh
máy giặt) vụng về giấu cuốn sách vào khe giữa 2 cái máy, rồi vội mở cửa máy sấy
lấy khăn khô ra, mắt không dám nhìn thẳng ông Michael. Chợt nghe tiếng ông hỏi
" Cô ăn trưa vậy thôi sao ? ". Ngón tay ông chỉ vào bịch chip đang
nằm trên hộp giấy mà tôi dùng làm bàn. Tôi ấp úng "Không sao, tôi ăn
đỡ thôi, chiều về nhà tôi mới ăn thật".
Ngày hôm sau thì David -
người hầu bàn cho biết là theo lệnh ông Michael,
cứ 3 giờ trưa thì tôi được nghĩ và được lên nhà hàng kêu một món ăn miễn
phí, dĩ nhiên là chỉ trong phạm vi vài món đã được chỉ định mà thôi. Tôi
mừng quá vì sẽ không phải mang theo vài gói chip hay các món ăn vặt nữa mà
ít nhất cũng được một chén súp nóng hay một món nào đó ăn cho chắc bụng.
Nhưng rồi tôi lại phải đổi
job lần nữa khi phải làm thực tập tại nhà thuốc
tây. Tôi làm trong pharmacy từ 9 giờ đến 5 giờ. Thế là để có tiền
đóng học phí, tôi lại phải đi tìm việc làm buổi tối. May mắn thaytôi xin được
vào làm ở một nhà máy kéo sợi từ 6 giờ đến 12 giờ khuya.
Và cái đêm kỹ niệm "suốt đời không quên" xảy ra vào lúc bất ngờ nhất.
Tối đó khi tan ca, như thường lệ, tôi và các công nhân ùa ra khỏi cổng. Ai nấy đều vội vã ra lấy xe (tôi được anh Gerald cho quá giang
về nhà). Ngoài trời mùa đông tối lờ mờ với từng cơn bão tuyết cùng gió rít lạnh
buốt xương.
Đang cùng mọi người co ro cúm rúm thì bỗng dưng tôi có cảm giác hai chân
mình hổng lên khỏi mặt đất và dường như tôi phi thân trên tuyết.
Cứ ngỡ là ảo giác, nhưng rõ ràng là sự thật khi tôi nhận ra rằng mình
vừa lướt qua mặt một người.
Rồi bỗng dưng tôi nghe nhiều tiếng la to " Ngồi xuống ! ". Tôi nhận
ra mình đang ở trong tình trạng nguy hiểm vì bị bão cuốn đi nhưng không tài
nào cưỡng lại được sức mạnh của cơn bão mà ngồi xuống được. Sợ hãi quá,
tôi la lên "Help ! Help !". Dường như có ai đó chạy tới nắm áo tôi
kéo ghì lại nhưng chiếc áo tuột ra khỏi tay người đó vì vận tốc gió quá
mạnh. Tôi càng la to trong hoảng hốt khi thấy cả thân mình đang lướt nhanh
trên mặt đất phủ đầy tuyết . Rồi tôi lại cảm thấy áo khoác mình bị ai trì
xuống, rồi tay mình cũng bị kéo mạnh.
Rầm! Tôi tối sầm mặt mũi và cảm thấy toàn thân ê ẩm. Đau quá, tôi cứ nằm
sóng soài trên mặt tuyết.
Khi mở mắt ra thì tôi nhìn thấy xung quanh mình đông đủ các công nhân làm cùng ca. Họ xúm lại đỡ tôi lên. Người
hỏi han, kẻ xoa bóp xem tôi có bị chấn thương không. Khi chắc chắn là tôi không
bị gì thì moị người dìu tôi vô xe anh Gerald để anh chở tôi về nhà dùm.
Hôm sau đi làm tôi mới rõ sự tình. Có lẽ do quá ốm yếu và nhỏ con mà tôi
là người duy nhất "được" cơn bão chiếu cố. Khi thấy tôi bị cuốn
đi thì nhiều người chạy đến tìm cách giữ tôi lại bằng cách nắm tay, kéo áo hay ôm đại tôi ghì xuống nhưng đều thất bại vì tuyết thì quá dầy lại thêm gió quất mạnh. Sau cùng thì anh Robert và bà Sophia cùng lao tới chụp đại lấy tôi rồi ôm và kéo ghị xuống. Nhưng xui
thay cả hai đều bị cơn gió bão lôi đi xềnh xệch khi họ không chịu buông
tôi ra. Khi nghe cái rầm là lúc cả ba chúng tôi đập mạnh vào một
chiếc xe đang đậu ở lề đường. Tôi may mắn không sao, trong khi anh Robert
bị trật cánh tay phải xức thuốc một tuần mới khỏi. Tội nghiệp nhất là bà
Sophia. Bà bị thấp khớp từ lâu rồi, không may lại bị cơn bão quất mạnh vào
thành chiếc xe nên chiếc mũi bà bị dập sưng vù lên.
Bà phải nghĩ làm hơn 2 tuần mới bớt .
Kể từ đêm đó, mọi người cứ trêu chọc tôi là
skeleton (bộ xương) nên mới bị gió cuốn đi. Cái tên nick name của tôi " Gone with the wind
"(Cuốn theo chiều gió) ra đời từ đó. Nhưng trong cái rủi có cái may.
Sau biến cố đó, tự dưng tôi được cưng thấy rõ. Cô
chú anh chị hôm nào cũng mang đồ ăn cho tôi tẩm bổ cho mập lên. Bà Sophia
còn bảo tôi khỏi đem cơm theo, mỗi ngày bà xúc hai phần ăn, cho bà và tôi.
Năm cuối cùng học pharmacy, tôi đành nghĩ làm hãng
kéo sợi vì bài vở quá nhiều và phải tập trung ôn thi tốt nghiệp. Tối cuối
cùng ai nấy đều đến chia tay và chúc tôi mau ra trường. Bà Sophia ôm tôi thật lâu. Bà
nói đùa " Mỗi lần soi gương nhìn chiếc mũi này, I will miss you
".
Ngày tháng trôi nhanh. Thấm thoát mà tôi đã ở đất
nước này hơn 25 năm.
Tôi nhận ra một điều là một xã hội tốt với môi
trường sống tốt luôn sản sinh ra những con người tốt. Tôi không phàn nàn về cuộc sống
vất vả trong những năm đầu đặt chân đến Canada, mà tôi thầm cám ơn
đất nước này đã tặng cho tôi những kỹ niệm đẹp về lòng tốt của con người.
Cám ơn You - những bà Hayam đã giúp đỡ khi nhận cô bé chân ướt chân ráo
ngày đầu tiên bỡ ngỡ nơi xứ người, mặc dù biết trước rằng tôi sẽ chẳng
làm được bao lâu.
Cám ơn You - những ông John đã lên tiếng bênh vực cộ học trò vừa làm vừa
ngủ gục, nhằm giúp tôi không bị mất việc.
Cám ơn You - những ông Michael đã tặng cho cô bé hiếu học bữa ăn miễn phí
để có sức mà vừa học vừa làm.
Cám ơn You - những anh Robert, những bà Sophia đã quên thân mình hết lòng
cứu giúp cô bé gầy khiu trong cơn bão tuyết.
Và cám ơn YOU - cám ơn Canada, đất nước của tự do và công bằng đã sản sinh
ra những con người tuyệt vời.
Hoàng Thanh
Cảm ơn tác giả đầy lòng chân thành, đã nói lên sự biết ơn đến với đất nước thứ hai và người bản xứ. Tôi vừa mới chuyển lời trần tình của cô đến một người bạn ở Nauy, với lời ghi chú: Quý báu lắm, may mắn quá, chúng ta có được một vị bày tỏ tình sâu, nghỉa nặng.
ReplyDelete