Saturday, May 27, 2023

Câu Chuyện Chiếc Nhẫn Của Một Người Tù - Kenneth Miller - Trần Bình Nam phóng thuật

Trại tù Stalag VII, ảnh mang tính minh họa


Cuộc đổi chác diễn ra qua hàng rào dây kẽm gai tại trại tù Stalag VII-A của Đức Quốc xã trong Thế chiến 2. Bên kia là trại giam tù người Ý, bên này là trại tù binh đồng minh. Một người lính Ý có hai thỏi kẹo chocolat và gạ đổi chiếc nhẫn bằng vàng của Thiếu úy David C. Cox. Đói, Thiếu úy Cox thèm đường. Cơm tù chỉ gồm canh lểnh loãng đầy sâu và bánh mì đen lẫn cát .

Thiếu úy Cox nhìn hai thỏi chocolat thèm chảy nước miếng. Nhưng nhìn xuống chiếc nhẫn anh tiếc. Anh nhớ lại ngày anh có bằng phi công, ngày cưới vợ – cô Hilda tóc vàng xinh đẹp – và ngày lên đường theo đơn vị đi Âu châu bố mẹ cho anh chiếc nhẫn. Cox là con một chủ trại cưa gỗ làm ăn phát đạt tại Greensboro, bang North Carolina. Vào đại học chưa xong một học kỳ anh bỏ học nhập ngũ, đăng vào ngành Không quân của Bộ binh để học bay. Chiến tranh bùng nổ, Thiếu Úy Cox được điều qua Âu châu lái máy bay phóng pháo B-17 oanh tạc lục địa Đức và vùng Pháp bị Đức chiếm. Tháng Ba năm 1943 máy bay anh bị bắn cháy, anh liều chết lái máy bay đáp xuống đất Anh. Năm trong 10 phi hành đoàn tử thương. Thiếu úy Cox được ban thưởng Huy chương Bay Danh dự (Distinguished Flying Cross) một huy chương cao quý nhất trong ngành bay của quân đội Hoa Kỳ. Tháng 7 năm đó phi cơ anh bị bắn hạ trong vùng Đông Nam nước Đức. Thiếu úy Cox bị bắt khi dù vừa chạm đất. Anh bị giam tại trại Stalag Luft II, một trại tù dành cho sĩ quan Không quân đồng minh. Tại đây phòng trại tươm tất và ăn uống đầy đủ. Tù nhân có đủ thì giờ chơi thể thao, ca hát và hoạt động văn nghệ. Một số sĩ quan lợi dụng sự dễ dãi của trại bí mật đào hầm trốn trại. Vụ trốn trại năm 1944, có 76 tù nhân tham dự. Giám đốc trại ra lệnh biệt giam tất cả tù còn lại. Một Đại Tá Mỹ phản đối (cho là trái với quy ước Geneva về tù binh) bị viên sĩ quan giám trại bắn chết tại chỗ. Trong số 76 người đi trốn, chỉ thoát 3 người. 73 sĩ quan bị bắt lại. Đích thân Hitler ra lệnh xử bắn 50 sĩ quan chủ chốt bằng súng liên thanh .

Qua năm 1945 tình hình chiến tranh diễn biến thuận lợi. Phòng tuyến Âu châu xích dần về phía Đông mang đến một không khí lạc quan trong trại .

Thình lình khuya ngày 27 tháng Giêng năm 1945, giữa mùa Đông đầy tuyết và lạnh giá trưởng toán thông báo các tù binh phải sẵn sàng hành trang để chuyển trại trong vòng nửa giờ. Toán sĩ quan Không quân và hơn 10.000 tù binh khác bị buộc đi bộ suốt đêm hôm đó và 2 ngày kế tiếp. Ai không đi nổi bị bắn hoặc bỏ chết trên băng tuyết. Sau đó đoàn tù được xe chở như súc vật trong 2 ngày đêm nửa đến trại Stalag VII-A cạnh thành phố Moonsburg trong tỉnh Bavarian. Trại có khả năng giam 10.000 tù nhân, thì hiện có 80.000 sống chen chúc trong các khu nhà tiền chế và lều vải dơ bẩn.

Sau 2 tháng ở trại VII-A, Thiếu úy Cox – dù mới 26 tuổi – mất sức dần và nếu không có gì bổ dưỡng chắc anh sẽ bỏ mình trong trại giam.

Nhìn hai thỏi kẹo chocolat bên kia hàng rào dây kẽm gai anh biết đó là vật cứu sống mình. Vừa tháo chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay anh nghĩ đến Hilda và tất cả tình thương bố mẹ gởi gắm nơi chiếc nhẫn khi tiễn anh đi rồi chìa chiếc nhẫn qua cho người tù binh Ý.

**
Con trai đầu của Cox, David C. Cox Jr., làm nghề bán dụng cụ y khoa năm nay 68 tuổi thuật lại: “Chiến tranh chấm dứt, ở tù về Ba tôi thuê làm một chiếc nhẫn khác giống như chiếc nhẫn gốc để đeo, và mỗi khi kể chuyện tù cho con cái nghe ông không quên nhắc đến chuyện chiếc nhẫn đổi kẹo chocolat , đồng thời mân mê tháo nhẫn ra ướm lỏng lẻo vào ngón tay của chúng tôi và cười một cách thoải mái. Ông nói, chưa bao giờ ông thấy kẹo chocolat ngon như hôm đó. Để cho kẹo tan trên lưỡi, nuốt dần vào cuống họng, chất ngọt đi đến đâu mình biết đến đó thật là kỳ diệu.”

Tháng Tư năm 1945, Sư đoàn 14 thiết giáp của tướng George Patton chiếm trại tù VII-A. Thiếu úy Cox trở về North Carolina đoàn tụ với Hilda và 10 tháng sau Cox Jr. ra đời. Sau Cox Jr. có thêm em trai, Brad và một em gái, Joy.

Sau khi giải ngũ Thiếu Úy Cox cùng với một người anh mở dịch vụ đắp bánh xe cũ và trở nên giàu có. Cox Sr. mua nhà tậu xe, sống thoải mái, nhà không khi nào vắng bóng bạn bè, party, yến tiệc .

Bề ngoài Cox Sr. có vẻ thoải mái, nhưng không ai biết ông mang tâm bệnh do những phi vụ bỏ bom và những năm tháng tù đày căng thẳng, một chứng bệnh bây giờ gọi là bệnh “Loạn tâm thần do áp lực tinh thần” (Post-traumatic Stress Disorder- PTSD,) hồi đó y khoa chưa xác định bệnh trạng .

Mấy người con không biết cha bị bệnh chỉ biết ông càng ngày càng khó tính không chịu được. Buổi sáng nhại lính Đức canh tù ông rang rảng đánh thức các con dậy bằng cách hét vào tai chúng Raus, Raus (tiếng Đức Raus là dậy, dậy). Trong buổi cơm chiều nếu con hay vợ quên dùng ruột bánh mì vét dĩa cho sạch là ông đem chuyện đói trong tù ra giảng luân lý cho cả nhà nghe giờ này qua giờ khác. Sau giờ làm việc ông ngồi nơi phòng khách, trầm ngâm uống rượu, điếu thuốc không rời khỏi môi. Bà Hilda dặn các con đừng sinh chuyện gì trong những lúc đó. Một lỗi nhỏ là cớ để ông la mắng suốt buổi. Sau khi bác sĩ phát hiện bà Hilda bị bệnh khó thở (emphysema), ông Cox vẫn hút thuốc nhả khói đầy nhà làm cho quan hệ vợ chồng giữa ông bà trở nên lạnh nhạt dần. Ông nói: “Bà ấy bệnh chứ tôi có bệnh đâu mà bảo tôi phải bỏ thuốc lá.” Ở sở ông Cox sinh sự với nhân viên đến độ anh ông phải chia phần hùn và bảo ông nghỉ việc. Ông Cox đầu tư vào kinh doanh khác, nhưng thất bại và gia đình trở nên túng bấn.

Đầu thập niên 1960, khi Cox Jr. vào tuổi 16, 17, bệnh tình ông Cox trở nên nặng. Ông uống rượu nhiều hơn, nếu không la mắng vợ con thì ông ngồi yên miệng lẩm bẩm về những phi vụ bỏ bom xuống những người dân vô tội.

Năm 1984 bà Hilda qua đời, Ông Cox đưa chiếc nhẫn giả cho Cox Jr đeo. Mỗi khi nhìn chiếc nhẫn lỏng lẻo nơi ngón tay, David Jr. vừa tự hào vừa buồn vì cha. Năm 1993 bác sĩ xác định ông Cox bị “bệnh lú lẫn” (dementia) và David đưa cha vào một khu giúp nuôi người bệnh (assisted-living facility) tại thành phố Raleigh. Năm sau ông Cox 75 tuổi bị đột quỵ qua đời.

**
Mười chín năm sau Mark Turner và vợ Mindy ở Kansas dọn gia đình qua định cư ở Hohenburg, một khu phố nhỏ ở thành phố Ansbach, Đức quốc. Mark Turner, 45 tuổi vừa được nhận làm kiểm soát viên không lưu tại căn cứ Không quân Hoa Kỳ ở Ansbach. Cạnh nhà là hai vợ chồng người Nam Tư, quốc tịch Đức. Martin Kiss là họa sĩ chuyên vẽ hình nhà thờ và có một khu triễn lãm tác phẩm trong nhà. Ông Kiss tuổi quá lục tuần, tính tình cởi mở, đẹp lão và cặp vợ chồng Martin, Regina rất hiếu khách.

Một buổi tối tháng Bảy năm 2013, vợ chồng ông Kiss mời vợ chồng ông bà Turner dùng cơm tối và xem phòng triễn lãm tranh. Sau bữa cơm trang nhã ngon miệng, ông Kiss hướng dẫn khách xem tranh. Tranh gồm nhiều hình Chúa hy sinh trên cây thánh giá làm bằng gỗ và thạch cao, hình lịch sử truyền giáo tại Âu châu qua các thời kỳ hưng phế, và tranh họa các nhân vật tôn giáo.
Trước khi tiễn khách ra về, ông Kiss vào phòng mang ra một hộp plastic nhỏ và nói với ông bà Turner : “Tôi có vật này muốn ông bà xem cho biết.” Ông Kiss mở hộp lấy ra một chiếc nhẫn bằng vàng, trên có chạm hình một chiếc máy bay cánh quạt, một con ó và mấy chữ Anh. Ông Kiss kể chuyện rằng, ông sinh ra và lớn lên tại Nam Tư dưới chế độ cộng sản. Ông bà nội ông có một khách sạn nhỏ bên bờ sông Danube và sau đó để lại cho bố mẹ ông trông coi. Năm 1971 ông di cư sang Tây Đức hành nghề họa sĩ. Trước khi đi, bà nội cho ông chiếc nhẫn này nói là của một người lính Nga thế tiền thuê phòng khách sạn của bà trước khi về nước. Bà nội ông nói chiếc nhẫn có thể mang lại may mắn cho ông. Nếu không qua Đức bán đi cũng có ít Đức Mark mà xài.

Thời gian đầu ông Kiss đeo chiếc nhẫn để cầu may như lời bà nội. Sau đó ông tháo cất đi sợ nghề vẽ của ông làm dơ chiếc nhẫn. Ông vẫn thắc mắc về gốc gác của chiếc nhẫn. Trên nhẫn có ghi dòng chữ “Mother & Father to Davis C. Cox Greensboro, NC. 10-4-18-42” nên ông đề chừng rằng nó là của một quân nhân Mỹ.

Ông Kiss nói với Mark Turner: “Ông có thể giúp tôi tìm ra chủ của chiếc nhẫn hay ít nhất là thân nhân của ông ta không ?” Ông Turner hứa sẽ làm.

Vào Google trên máy điện toán, Mark Turner tìm thấy một luận án cao học của ông Norwood McDowell viết về hành động anh hùng của một phi đội do Thiếu úy Cox chỉ huy trong thế chiến 2, trong đó vỏn vẹn có 4 dòng nói về chiếc nhẫn và hai thỏi kẹo chocolat . Mark Turner E-mail hỏi ông McDowell có biết ông David C. Cox hiện ở đâu không và ông McDowell cho biết ông là con rễ của David Jr. con trai của Thiếu úy Cox trong luận án, và nói luận án của ông dựa vào cuốn nhật ký chiến tranh của David Cox cha để lại sau khi qua đời. Mark E-mail cho David Cox Jr. kể tự sự chiếc nhẫn ông đang có trong tay. Cox Jr. thuật lại rằng, “đọc mail tôi thấy lạnh người, tưởng là mộng mị. Tôi không tin mắt mình.”

Để kiểm chứng hai bên E-mail qua lại trao đổi hình của chiếc nhẫn thật và chiếc nhẫn giả. David Jr. giải thích các con số chạm trên chiếc nhẫn là ngày sinh của cha và năm ông ấy nhận chiếc nhẫn. Thiếu úy Cox sinh ngày 4 tháng 10 năm 1918. Trong một mail khác David Jr. gởi ông Kiss xin nhận lại chiếc nhẫn và bồi hoàn theo thời giá. Ông Kiss từ chối không nhận tiền bồi hoàn kể cả lệ phí bưu điện.

Hai tuần sau, ngày 16/8/2013 David Jr nhận được chiếc nhẫn trong một chiếc hộp. Ngày mở hộp David Jr gọi đủ vợ con, gia đình em gái gồm Joy, chồng, 3 con và ba nhà báo. Người em trai đã chết năm 1999 vì chứng nghiện rượu. Ông run run kéo chiếc nhẫn ra khỏi lớp giấy bọc sau cùng, trong khi em gái ông kêu lên “đẹp và kỳ diệu quá!” qua nước mắt.

David nói: “Cha tôi thấy chiếc nhẫn này lần cuối cùng khi trao nó qua hàng rào giây kẽm gai. Phải chi ông còn sống để thấy nó trở về như chuyện trong mơ!”

David chưng hai chiếc nhẫn thật và giả trong tủ kính nơi phòng khách. Thỉnh thoảng ông mang ra cho bạn bè thân thiết xem và nói ông sẽ giữ nó cho con cháu như bằng chứng của một phép lạ.

David tâm nguyện khi điều kiện cho phép ông sẽ sang Đức thăm hai cặp vợ chồng tốt bụng Mark-Mindy và Martin-Regina. Ông nói món quà tôi sẽ mang theo là kẹo chocolat.


Nov. 12, 2014

Trần Bình Nam phóng thuật

No comments:

Post a Comment