Thursday, October 3, 2024

Tuổi Thơ - Nhạc Lê Thương - Tiếng Hát Minh An - Youtube Vũ Công Hiển

Mời xem hình ảnh trẻ thơ hồn nhiên nô đùa trên những cánh đồng hoa  Việt Bắc của nhiếp ảnh gia Vũ Công Hiển để tạm quên cuộc đời ô trọc nhiễu nhương.

Wednesday, October 2, 2024

An Tịnh Tuổi Già - Minh Lương

Nâng Cấp OSin - Khuyết Danh

Hình minh họa

1.
Đã một tuần ăn chực nằm chờ trong bệnh viện, nhưng tôi vẫn không thể nào thích nghi được với không khí ở đây. Từ khoa điều trị của mẹ muốn xuống căng tin phải đi qua lối vào nhà xác. Mỗi lần hai mẹ con dìu nhau đi, tôi cứ phải cố dấn bước cho nhanh và mắt nhìn thẳng tắp. Để bảo vệ chút mạnh mẽ còn lại mà không đổ gục. Nhà tôi, mẹ góa con côi, nếu tôi cũng quỵ, sẽ chẳng còn ai làm chỗ dựa cho mẹ.

Hết một tuần, tất cả kết quả xét nghiệm đều đi đến chung một kết luận: Khối u của mẹ lành tính nhưng bắt buộc phải phẫu thuật.

Nỗi vui mừng chưa kịp nhen nhóm thì số tiền dự tính phải chi trả đã tàn bạo bóp nghẹt trái tim tôi lần nữa.

Tôi có bán răng, bán tóc, bán máu, bán cả nhà cũng không thể đủ một nửa con số trăm triệu đồng. Huy động tất cả người thân, bạn bè quen biết được vỏn vẹn hai chục triệu. Cây vàng mẹ định để dành làm của hồi môn cho tôi phải bán đúng lúc giá chạm đáy cũng chỉ gom thêm được bốn chục triệu nữa. Con số sáu mươi triệu đồng còn lại cứ như cái thòng lọng treo lơ lửng trên đầu tôi.

Không có nó, mẹ không thể phẫu thuật được. Thời gian càng kéo dài, xác suất an toàn sẽ càng giảm. Chưa bao giờ tôi lâm vào tình trạng quẫn trí như lúc này.

Sao các đại gia không vào hành lang bệnh viện mà tìm tình một đêm? Năm trăm đô, hai trăm đô cũng được. Tôi cao 1m68, ba vòng đủ chuẩn, mặt xinh, da trắng. Tôi sẽ bán tôi ngay để đủ tiền phẫu thuật cho mẹ.

***
Mỗi buổi sáng, bác sĩ điều trị cho mẹ đi qua thăm khám đều hỏi han về tình hình chuẩn bị của chúng tôi. Tôi chưa bao giờ khóc trước mặt bác sĩ, nhưng sắc mặt tôi trông còn thảm hơn cả khóc, nên bao giờ anh cũng ái ngại quay đi.

Phòng bệnh của mẹ có mười hai người, chen chúc trong sáu cái giường cá nhân. Buổi sáng hôm thứ sáu, bác sĩ điều trị của mẹ đi vào, mang theo mười hai cái phong bì, bảo là của các nhà hảo tâm gửi tặng. Mười một cái đều chỉ có một triệu đồng, riêng cái của mẹ tôi là năm triệu đồng, kèm theo tín hiệu "bí mật". Có nhiều tiếng khóc cùng lúc sụt sùi. Bác sĩ thấy ngại sao đó mà đi ra ngay, còn bảo tôi cuối giờ lên khoa gặp.

Ai đã từng vào chăm bệnh nhân trong viện mới cảm nhận được hết cái thấp thỏm trong câu hẹn gặp với bác sĩ. Thường là vì tình trạng bệnh tiến triển không tốt bác sĩ điều trị mới phải gặp riêng người nhà. Cũng có khi vì phí điều trị tự nhiên lại đội lên quá cao. Với người giàu mà nói, đây không phải là khó khăn gì ghê gớm. Nhưng với dân nghèo như chúng tôi, mức độ sát thương của nó như các cư dân mạng hay nói, đúng là "vô đối".

Cho nên, suốt cả ngày hôm ấy tôi hết đi ra lại đi vào, giơ tay xem đồng hồ liên tục, đến mức chính mẹ cũng bị lây cảm giác căng thẳng. Khi kim giờ chỉ đúng số năm, tôi lao như tên bắn qua hành lang bệnh viện. Ngồi trong phòng của anh rồi, hơi thở vẫn chưa điều hòa nổi, lòng bàn tay tôi túa mồ hôi lạnh toát.

Không có tiên liệu xấu nào cả. Anh chỉ cho tôi thêm một con đường sống.

Tôi phải cấp tốc mua bảo hiểm cho mẹ, trước thời gian phẫu thuật. Anh thậm chí còn giới thiệu người có thể giúp tôi đẩy nhanh và hợp thức hóa các thủ tục. Tôi trào nước mắt cám ơn. Anh lại lúng túng: Cũng không giúp được gì nhiều đâu, vì ca mổ của mẹ em là tự nguyện, nên bảo hiểm chỉ trả giúp một phần viện phí. Giảm được khoảng 20% tổng chi phí là cùng!

Tôi lẩm nhẩm trong óc, 20% của 120 triệu nghĩa là hơn hai chục triệu. Nghĩa là nỗi lo của tôi giảm xuống chỉ còn hơn ba chục triệu nữa thôi. Một triệu đồng lúc này cũng quý, nói gì đến hơn hai chục triệu.

Nhưng một tuần sau đó tôi vẫn không biết làm cách nào để xoay ra hơn ba chục triệu đồng.

Túng quá hóa liều. Tôi một lần nữa gõ cửa phòng bác sĩ điều trị chính. Trong tay là một hợp đồng đã soạn sẵn, ký sẵn. Tôi mạo muội đề nghị anh bảo lãnh cho ca mổ của mẹ tôi. Tôi biết điều này là bất khả thi. Trong bệnh viện lúc nào cũng có người nghèo. Mạng ai cũng quý. Ai cũng muốn nhờ bác sĩ bảo lãnh. Mà bác sĩ thì không là thánh.

Nhưng tôi có một niềm tin mơ hồ: Hình như anh để ý đến tôi. Có để ý mới đưa phong bị dày hơn những người khác. Có để ý mới nói giúp việc làm bảo hiểm, không bác sĩ nào rỗi hơi lại đi mách bệnh nhân cách lách luật rắc rối và có phần trái quy tắc như vậy?

Trong hợp đồng thảo sẵn, tôi đề nghị làm giúp việc không công cho gia đình bác sĩ trong 3 năm, bảy ngày trên tuần, ba giờ mỗi ngày. Không ngờ, anh nhìn tờ giấy rồi cười, đẩy lại phía tôi không nói gì. Cuống quá, tôi nói thẳng tưng mà không hề đỏ mặt: Hay là anh mua em đi, toàn quyền sử dụng trong một năm. Em cam tâm tình nguyện!

Lần này, anh đơ ra một lúc, mặt đỏ bừng.

Tôi gần như tuyệt vọng, thiếu chút nữa thì nằm lăn ra phòng anh ăn vạ. Một lúc sau anh bảo tôi chuẩn bị, thứ ba sẽ mổ cho mẹ. Tôi gần như bay ra khỏi phòng anh, bất chấp nỗi ê chề bán thân vô tiền khoáng hậu kia. Trước mắt tôi chỉ còn viễn cảnh mẹ sẽ được phẫu thật, sẽ khỏi bệnh, khỏe mạnh trở lại. Tôi làm gì còn người thân nào khác trên đời này!

Ca phẫu thuật của mẹ rất thành công. Lúc này tâm trí tôi mới trở lại trạng thái bình thường. Nghĩ đến cái hợp đồng vẫn bỏ lại trong phòng anh, không khỏi ngượng ngùng. Nhưng mãi vẫn không thấy khổ chủ đòi nợ. Gần ngày mẹ ra viện, tôi lần nữa vác mặt mo đi đề nghị người ta "nghiệm thu" mình.

2.
Tôi ngoài ba mươi tuổi. Bác sĩ của một bệnh viện lớn. Độc thân nhưng hình như không có duyên lắm với phụ nữ. Lần đầu nhìn thấy em đã rung rinh. Em rất đẹp, lại hiếu thuận. Chăm chút mẹ từng li từng tí.

Làm việc trong bệnh viện lâu rồi, tôi đã chứng kiến không ít cảnh các ông bố bà mẹ cô đơn vò võ điều trị nội trú, toàn bộ việc chăm sóc phó mặc cả cho điều dưỡng viên, con cái một tuần tới điểm danh một lần đã là nhiều. Thế nên, hình ảnh của em ngày ngày chăm chút mẹ tận tâm tận lực lại khiến tôi để tâm. Mẹ em phải phẫu thuật, lần lữa mãi mà không thu xếp đủ tiền, tôi cũng có chút động lòng.

Mẹ tôi năm nay ngoài bảy mươi tuổi. Bố tôi mất đã năm năm, sở thích còn lại duy nhất của bà là chăm tôi và làm từ thiện. Lương hưu của bà không đáng là bao, ngày ngày bà may áo, đan len, rồi cứ gom lại từng tí một, thành một chục là hớn hở mang cho trẻ con nghèo.

Trước đây, mẹ cũng hay mang vào viện tôi nhưng từ khi tôi bảo: Bệnh nhân thường họ không thiếu mấy thứ mẹ cho, cái họ thiếu nhất là tiền, thế là mẹ chuyển mục tiêu sang mấy xã ngoại thành và các xã vùng núi theo chường trình của Hội Chữ thập đỏ.

Gần đây, mẹ vận động được cả các cô chú và bạn bè ở nước ngoài gửi tiền về làm từ thiện, thỉnh thoảng được một cục, mẹ lại tất tả đem cho. Tháng trước, mẹ đi đường bị xe tông gãy chân, thế là phải nằm một chỗ, không đi lại được. Cục tiền của mẹ, tôi phải làm nhiệm vụ mang vào viện phân phát. Thực lòng, tôi không quen làm việc này nhưng trước sức ép của mẹ, đành chia ra các phần bằng nhau, đem chia cho phòng điều trị của mình, năm phút là xong. Riêng phong bì của mẹ em, tôi cố tình nhét thêm bốn triệu đồng. Cũng như muốn bỏ bể mà thôi!

Tôi chưa bao giờ tưởng tượng được em lại đề nghị "bán mình" cho tôi với cái giá như vậy. Nhất thời không biết phản ứng thế nào nên cứ ngồi ngậm hột thị. Nhìn gương mặt tuyệt vọng của em, tôi biết mình chẳng còn lựa chọn nào khác. Thế là rút tiền túi ra giúp bệnh nhân. Cũng chẳng phải vì lòng tốt như mẹ tôi, mà là vào cái thế không thể rút chân ra được nữa.

Ngày mẹ em ra viện, em lần nữa nhắc lại chuyện phải "thanh toán" hợp đồng. Tôi lại lần nữa bị ép phải nói rằng: "Cứ coi như nợ anh, khi nào có tiền thì trả!". Không ngờ em "chốt hạ" ngay: Thế này vậy, nếu anh đã chê em thì làm theo phương án thứ nhất đi! Em biết mẹ anh đang ốm, cũng cần người giúp đỡ. Từ tuần sau, sau giờ làm em sẽ đến nhà anh giúp việc nhà. Em biết địa chỉ rồi, anh đừng ngại!

Em làm Ôsin cho nhà tôi được đúng sáu tháng thì mẹ tôi một hai đòi nâng cấp em làm con dâu.

Đến nước này tôi mà còn vờ vịt lập topic "có nên siết nợ bằng cách cưới con nợ hay không?" thì thật nhảm!!!./.


Khuyết danh 

Nâng cấp Ô sin

Đông Tây Khác Biệt, So Sánh Giữa Tây Và Ta


Cách đây hơn 100 năm, một văn-sĩ người Anh, Rudyard Kipling (1865-1936) viết bài thơ với câu mở đầu:

" Oh, East is East, and West is West, and never the twain shall meet…"

Đó là vì Đông Tây dặm ngàn cách trở, đi lại khó khăn nên cái khoảng cách đó tưởng như khó lắm mới nối nhau được. Nay thì thời đại tân tiến, có máy bay phản lực, có điện thoại vô tuyến, có internet, Đông Tây hẳn gần nhau hơn. Sự hoà hợp đó có khi làm cho ta khó phân biệt đâu là Đông, đâu là Tây nữa.

Dù vậy khi xét cho kỹ thì suy nghĩ Đông Tây còn rất nhiều khác biệt.  

Xin ghi lại đây một số nhận xét.:

- Khởi đầu với cách xã giao, người Tây phương gặp nhau chào hỏi thì bắt tay nhau. Người mình gặp nhau thì bắt tay của chính mình, tức là chắp tay vái một hai vái. Cách này nay ta còn thấy nơi mấy vị cao niên, nhất là các cụ bà.

- Gặp những người quyền quý thì người Tây phương họ đứng dậy tỏ niềm kính trọng. Người Việt mình ngày xưa thì lại lạy xụp xuống để tỏ lòng cung kính.
Vào những chốn tôn nghiêm thì người Tây phương họ cởi mũ, giở nón ví dụ như khi vào nhà thờ. Người mình thì bỏ giày, tháo dép. Lệ này ta còn giữ đến ngày nay, thường được nhìn thấy ở những đền chùa.

- Tây coi trọng ngày sinh nhật. Ta coi trọng ngày giỗ.

- Về cách ăn mặc thì vào ngày cưới cô dâu Việt thường chọn màu áo đỏ, màu xanh. Cô dâu Tây phương thì muốn chọn màu áo trắng. Vào dịp tang thì bên Tây phương lấy màu đen nhưng người Việt lại cho màu trắng là màu tang.

- Ngay cả bố cục ngôi nhà thờ, tượng trưng cho lối kiến trúc Tây phương thì thiết kế theo chiều dọc và chiều cao. Ngôi chùa, tượng trưng cho lối kiến trúc phương Đông thì bài trí theo chiều ngang và chiều sâu.

- Về cách viết thì người mình xưa dùng chữ Nho và chữ Nôm viết theo hàng dọc, từ phải sang trái. Chữ người Tây phương thì viết theo hàng ngang từ trái sang phải. Sách xưa của người Việt thì lại giở trang từ trái sang phải, sách Tây thì giở trang từ phải sang trái.

- Về tiền bạc khi nói đến in the red hay in the black thì người Tây phương coi màu đen là tốt, màu đỏ là xấu. Màu đen là bội thu, màu đỏ là lỗ lã. Người Việt trong vấn đề vận mệnh may rủi, thì ngược lại, xem màu đỏ là vận tốt, tiền tài dư giả, màu đen là vận xấu, thua thiệt, hao tốn.

- Ngày Tết nhất thì cách ăn mừng của Ta và của Tây cũng khác nhau nhiều.

- Đêm Giao thừa dương lịch, dân Tây đổ ra đường ăn chơi nhậu nhẹt rất náo nhiệt, đầy mùi trần tục. Có nơi mở tiệc lớn, chỗ thì bắn pháo bông. Trong khi đó Giao thừa âm lịch của người Việt tuy cũng có cái không khí mong đợi nhưng rất êm ả.

- Người ta có nhóm họp thì tựu trung chỉ trong phạm vi gia đình hay là đi lễ đình chùa nhuốm chút thiêng liêng. Trong nhà có bận rộn thì chỉ vì việc bếp núc và sắm sửa làm cỗ cúng gia tiên chứ không ai khui rượu ăn mừng vào đêm Giao thừa. Ngược lại sang ngày Mồng Một thì tết tây im lìm, lặng lẽ, phố xá vắng ngắt. Các cửa tiệm thì hầu như đóng hết. Ta thì khác. Tuy không mấy ai mở hàng ngày mồng một nhưng người dân thì ùa ra đường “du xuân” dạo phố, thăm viếng nhau. Tiếng pháo lách tách nổ. Trong nhà thì rượu trà, bánh mứt ăn mừng no say, hoàn toàn trái ngược ngày Tết phương Tây.

*****     Có lẽ điểm dị biệt đáng kể nhất giữa Ta và Tây là cách ăn uống.     *****

- Khi ăn, Tây để đĩa bát nguyên trên bàn, dùng dao nĩa mà ăn. Ta thì phải bưng bát lên miệng rồi và cơm. Nếu chỉ để bát trên bàn mà dùng đũa không thôi thì bị hỏi: “Tay đâu không bưng bát mà phải vục đầu xuống ăn như thế?” Người Tây phương thì bưng bát đĩa lên đến miệng là điều tối kỵ, vô phép.

- Khi dùng bữa, Tây họ ăn món nước trước tiên (như súp là món khai vị), ta lại ăn món nước sau cùng (tức canh). Có lẽ là vì các cụ ta xưa có câu: “Khôn ăn cái, dại ăn nước” nên thường thì phần cái phải đi trước. Phần nước là thêm thắt. Hơn nữa ai lại muốn mang tiếng “dại” làm gì.

- Các món ăn thì vậy nhưng cách phân biệt cái/nước, ăn/uống ta cũng thấy ngay cái ưu tiên trái ngược của thức ăn và thức uống khi so sánh lối ăn của người Việt và người Tây phương.

- Vào tiệm ăn Âu tây, ta thấy ngay họ bưng nước uống ra trước, thức ăn ra sau. Ta thì khác. Các quán ăn Việt thì thường bưng thức ăn ra trước, thức uống ra sau. Cà phê, nước chè nếu gọi thì đợi ăn xong tô phở, đĩa cơm mới uống ngụm nước vậy.

- Nói đến nước chè và cà phê thì người Âu Mỹ thích uống cà phê nhưng lại gọi cái muỗng nhỏ là muỗng nước chè/trà teaspoon. Ta thích uống nước chè/trà mà lại gọi cái muỗng nhỏ là muỗng cà phê!

*****     Cái lớn, cái nhỏ, việc to, việc bé, quan điểm Đông Tây có khác nhau nhưng đối với người Việt hải ngoại sinh sống giữa phương trời Tây này thì Đông Tây dường như lẫn lộn, trộn vào nhau như một ổ bánh mì tây kẹp chả lụa ta, thêm đồ chua rồi rắc Maggi vậy! Mong rằng sự kết hợp đó đóng góp thêm phần đa dạng rực rỡ chứ không làm phai nhạt những đặc điểm văn hoá của chúng ta.     *****


Duyệt Phố Nguyễn Anh Hoàng

Trọng Đi, Lâm Đến - Nguyễn Duy Phước


Tuesday, October 1, 2024

…Như Một Đóa Hồng Nhung - Ỷ Nguyên


Một thoáng suy tư: (Revised 3/23/22)

Ỷ Nguyên                                                                                                                                

Xin được mở đầu bài viết bằng một ca từ của nhạc Trịnh:

                                   “Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng,

                                    Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau …”

     Vâng, tôi vốn được sinh ra từ một miền đất mà ngày xưa được gọi là Tràng An - Kinh Bắc. Nhưng rồi một ngày, khói lửa lan tràn đến quê tôi, tôi không còn được sống an vui như những ngày còn được ôm bầu sữa mẹ: cuộc đời từ đó đổi thay theo vận nước nổi trôi cùng với bao nhiêu người từ những con “tầu há mồm” đến một vùng đất hứa:

                            “Quang cảnh lạ tháng năm dài,

                             Đêm đêm nghĩ tới ngày mai giật mình …” (Thơ TTKH).

      Nhưng… không hẳn là như thế!      

Sau hai mươi năm hội nhập vào cuộc sống mới, nếp văn hóa Nam Bộ như đã thấm sâu vào tâm hồn tôi từ lúc nào không biết…    

      

Tôi bắt đầu thấy mến mộ người miền Nam, thích ăn các món ăn miền Nam, thích nghe mấy cô gái miền Nam hát hò và nhất là bộ môn Cải Lương tôi mê lắm. Phải nói, giọng nói khác lạ của người miền Nam nghe thật hay, rất lạ tai.Tôi muốn học cách phát âm như họ nhưng tập hoài học mãi, nói ra vẫn cứng ngơ cứng ngắc chẳng giống ai. Mấy cô gái giúp việc nhà cho tôi đều gốc người miền Nam. Các cô đều mê nghe hát cải lương vọng cổ, nên hễ lúc nào rảnh rỗi hay những lúc ngồi giặt giũ quần áo, nấu ăn là vặn radio lên để nghe…Lần sinh cháu út , tôi nghe hát cải lương nhiều nhất.  Mỗi sáng đi chợ về, bé Ba đặt rổ đồ ăn xuống bàn là vặn radio lên nghe. Dù muốn dù không tôi cũng phải chấp nhận, vả lại mình cũng thích nghe nên cứ lờ đi. Tuy nhiên càng nghe tôi càng thấy thích thú như có một sức lôi cuốn vô hình nào đó. Vì vậy tôi nhớ khá nhiều tên của các nghệ sĩ cải lương nổi tiếng như Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được,  Minh Cảnh … Về phía nữ, gọi là đào cải lương tôi nhớ có: Út Bạch Lan, Thanh Nga, Ngọc Giàu, Lệ Thủy, Phượng Liên…Tôi bị lôi cuốn không chỉ vì giọng ca trầm bổng, luyến láy điêu luyện của các đào kép mà còn vì tình tiết của vở tuồng. Các soạn giả tuồng cải lương biên soạn những vở tuồng rất có ý nghĩa, câu ca giản dị, bình dân, dễ hiểu hợp với giới bình dân, nội dung câu chuyện rất thâm thúy mang tính cách triết lý xã hội hiện đại, lịch sử thời chiến quốc bên Trung Hoa hay lịch sử nước Việt Nam qua bao thời đại. Nói đến hát cải lương thì chỉ có người miền Nam mới có thể diễn đạt được đặc tính của môn nghệ thuật độc đáo này. 

     

Sở dĩ tôi kể cà kê dê ngỗng như trên là vì   tôi muốn ghi lại đôi dòng cảm tưởng và cảm xúc của riêng mình sau cái chết tức tưởi và oan nghiêt của người con gái tài sắc, đức hạnh là ca sĩ Phi Nhung mà tôi đã từng ngưỡng mộ giọng hát của cô từ ngày cô bắt đầu trở thành ca sĩ cho đến ngày cô ra đi, 28 tháng 9 năm 2021.         

      

Lần đầu tiên chúng tôi gặp ca sĩ Phi Nhung khoảng năm 1990 khi Phi Nhung sang trình diễn tại thành phố Albuquerque, NM. Giọng hát trong trẻo vút cao của Phi Nhung trong những bài dân ca đã thu hút được nhiều cảm tình của khán giả. Chúng tôi đã chứng kiến cảnh cô ngồi chồm hổm bên rìa sân khấu để giao lưu với khán giả, sau khi màn nhung khép lại, như biểu lộ vẻ tự nhiên chân chất, bình dân của cô. Hình ảnh này làm chúng tôi nhớ mãi. 

      

Phi Nhung sang Mỹ định cư theo diện con lai khi vừa 17 tuổi.  Sau ba năm bôn ba trên xứ lạ, cô đã trở thành ca sĩ một cách tình cờ. Trong 20 năm làm nghệ thuật trên sân khấu hải ngoại cũng như ở trong nước, Phi Nhung đã thực hiện rất nhiều màn trình diễn nhạc Dân Ca, Tân Cổ Giao Duyên , Vọng Cổ, Cải Lương, Hài kịch, Bi kịch, diễn viên điện ảnh. Tất cả những vai trò cô đảm trách đều đã được thực hiện hoàn hảo và thành công rực rỡ. Cô là môt cô gái  có giọng nói hiền hậu của người miền Nam mặc dầu cô sinh trưởng tại Pleiku, giọng hát của cô do đó đã lột hết được cá biệt của môn cải lương qua sáu  câu vọng cổ thiệt mùi. Khán thính giả bắt đầu để ý đến cô ca sĩ có khuôn mặt hai giòng máu, xinh xắn, làn da trắng mịn, đôi mắt to tròn, chiếc mũi dọc dừa và miệng luôn nở nụ cười hài hoà dễ mến. Họ thương mến cô không những chỉ qua giọng ca tiếng hát của một người ca sĩ đơn thuần, nhưng vì lòng từ tâm bác ái cô chia sẻ cùng những người thiếu may mắn.

     

Cô là một người đàn bà gan dạ với tấm lòng hỉ xả bao dung đã đứng ra nhận làm mẹ nuôi cho 23 đứa trẻ mồ côi hoặc không có điều kiện tài chánh để tiếp tục việc học hành.  Một việc làm qúa phi thường đối với một người đàn bà đơn độc như cô. Phải nói cô phải có một tấm lòng bác ái vô biên mới dám dấn thân đảm nhận một sứ mệnh cao cả và thiêng liêng đến chừng đó. Có nhiều fan ái mộ đã tôn vinh cô như một vị Bồ Tát tại thế nhưng cô đã phủ nhận điều này. Cô rất khiêm nhường vì nghĩ rằng danh xưng đó phải dành cho những bậc thánh nhân, riêng cô cảm nhận thấy mình chưa xứng đáng với cái tên đặt ấy, cô mong khán giả hãy thông cảm đừng gọi cô như thế e sẽ ảnh hưởng không tốt đến tên tuổi của cô. Vốn lớn lên từ một ngôi chùa Phật Giáo, theo lời răn dậy của hiền mẫu, và sau này tham gia vào công tác từ thiện tại nhiều ngôi chùa ở trong nước cũng như tại hải ngoại cho nên cô nói năng theo chánh niệm, hành xử theo chánh Pháp, hạnh phúc trong cái hạnh phúc của tha nhân. Được hỏi làm thế nào để cô có thể duy trì tình giao hảo thân thiện giữa người chủ là cô và nhân viên phục vụ trong nhà hàng Buddha Chay? Cô chia sẻ: “Trước tiên, tôi hoàn toàn tin tưởng vào nhân viên làm việc trong nhà hàng. Tôi muốn mọi người đều được đối xử đồng đều như nhau, do đó tôi xem họ như người nhà, xem như anh em của tôi để giữa chúng tôi không có sự phân biệt chủ và người làm. Tôi mong họ sau này sẽ trở thành ông chủ bà chủ như tôi khi họ học hỏi được kinh nghiệm kinh doanh để có một cuộc sống tự lập, một cuộc sống thảnh thơi hơn là đi làm công.” Đó là tất cả chân tình mà Phi Nhung đã chia sẻ với quí thầy cùng hàng nghìn sinh viên đến tham dự Khóa Tu Tuổi Trẻ Hướng Phật tại chùa Giác Ngộ, Saigon, ngày 4 tháng 3 năm 2018. 

     

Thực tình mà nói, trước kia tôi thích tiếng hát của ca sĩ Phi Nhung cũng như bao nhiêu ca sĩ tân cổ nhạc khác, nghe để mà nghe, nghe để giải trí. Nhưng từ ngày cô nằm xuống tôi mới tìm nghe lại những Album ca nhạc của cô nên cảm nhận được một chân tài đáng trân quí từ giọng hát thiên phú sâu lắng của cô qua những loại nhạc vàng trữ tình và giai điệu Bolero. Phi Nhung quá tuyệt vời trong những loại nhạc  dân ca Nam Bộ cũng như vọng cổ, hay cải lương. Khi nghe cô hát với tất cả sự chú tâm của mình, tôi càng mến mộ cô nhiều hơn, nghe mà thấy lòng nhức nhối, xót thương, tiếc cho một ngôi sao chói sáng trên vòm trời âm nhạc bỗng nhiên vụt biến mất, Như Một Đóa Hồng Nhung sớm rụi tàn. Cô có nhiều cuốn Album đặc sắc, nhiều lắm không kể xiết, nhưng tôi ưa cuốn “Phi Nhung, Tiếng Ca Để Đời”, trong đó hầu hết là thể loại dân ca, bài nào cô cũng diễn đạt tuyệt đỉnh với lối luyến láy tự nhiên, càng nghe càng thấy thích thú: “Trái Mồng Tơi”, “Yêu Dấu Hà Tiên”, “Năm Mười Bẩy Tuổi”, “Bông Bưởi Hoa Cau”, v.v… Hình như những bài hát cô chọn lựa đều như có liên hệ đến tình cảnh của cô, cho nên cô đã dồn hết tâm hồn vào bài hát khiến người nghe cảm nhận như có chính mình ở trong đó.

    

Nói đến Phi Nhung thì không thể không nhắc đến ca sĩ Mạnh Quỳnh vì giữa hai ca sĩ này có một sự trùng hợp hết sức kỳ thú.Thứ nhất cả Phi Nhung lẫn Mạnh Quỳnh đều là những người con mang hai giòng máu,  bố là người  Mỹ, mẹ là người Việt, mồ côi từ thuở nhỏ, và lớn lên trong cảnh nghèo khó như nhau.  Họ diễn xuất rất tâm đắc với nhau qua lời ca và cách trình diễn thắm thiết trong những bản Tân Cổ Giao Duyên đến nỗi có nhiều khán thính giả nghĩ họ là cặp đôi ở ngoài đời.  Nhiều lần Phi Nhung đã phân bua rằng cô và Mạnh Quỳnh chỉ là cặp tình nhân trên sân khấu. Vì khi diễn xuất, cô muốn khán thính giả sẽ có cảm nghĩ màn diễn như là thật . Ý cô là phải nhập vào vai diễn của mình cũng như đem hết khả năng của một người nghệ sĩ để cống hiến khán giả một cách trọn vẹn. Phi Nhung thường gọi Mạnh Quỳnh là người chồng không bao giờ cưới trong những buổi phỏng vấn livestream của hai người. Nhưng khi bước ra khỏi sân khấu họ đều coi nhau như bạn. Để chứng mình cho sự ngay thẳng của cả hai, Phi Nhung thường nói chính cô là bà mối đã giới thiệu bạn gái của cô cho Mạnh Quỳnh. Hiện nay Mạnh Quỳnh đang  có cuộc sống hạnh phúc trong một mái ấm gia đình bên người vợ hiền lành, đảm đang và hai quí tử Nhân, Tâm tại Washington State. Màn Tân Cổ Giao Duyên ăn khách nhất của hai người là “Căn Nhà Mầu Tím” và họ được nổi danh cũng chính do bài hát này. Hai người như đôi chim Sơn Ca thánh thót trên bầu trời âm nhạc bay bổng từ hải ngoại về đến quê nhà. Những vở tuồng cải lương mà PN và MQ diễn xuất chung với nhau hay nhất phải nói đến “Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài”, “Truyện Tình Lan Và Điệp”, “Về Quê Em”, “Hải Âu Phi Xứ” và “Bến Đợi”, v.v... Khi đề cập đến các pha diễn của hai danh ca này, người viết không đủ thời gian và giấy mực để ghi chép lại được hết như mong muốn vì chính họ đã được khán giả hâm mộ và thần tượng như Ông Hoàng, Bà Hoàng Tân, Cổ.

      

Câu chuyện Phi Nhung qua đời vì COVID-19 biến thể quả là một hiện tượng đau buồn đối với giới hâm mộ tiếng hát cũng như sự hy sinh và lòng can đảm của một ca sĩ danh tiếng như cô, đã không quản gian nan nguy hiểm, đem cả mạng sống của chính mình để đánh đổi cho công việc từ thiện cao quí. Sở dĩ tôi gọi là một hiện tượng vì Phi Nhung hiện đang là một thần tượng của khán giả qua tinh thần tương trợ cao cả bất vụ lợi của cô trong lúc bệnh dịch đang lây lan quá mức tại Việt Nam. Cơn dịch tàn khốc này đã cướp đi không biết bao nhiêu mạng sống trên toàn cầu. Một số ca sĩ Việt Nam tên tuổi ở hải ngoại cũng như ở trong nước đã chịu chung cố phận như Phi Nhung, nhưng chưa có một người nào được nhắc nhở và được thương tiếc nhiều như cô. 

     

Ngay khi Phi Nhung nằm xuống, một số ngôi chùa Phật Giáo tại Việt Nam đã cử hành những buổi lễ cầu siêu thật long trọng cho cô. Tên cô đã được nhắc nhở và ca tụng trước đồng bào Phật Tử và những người ái mộ.  Để thấu hiểu thêm về con người thật của  Phi Nhung đã chinh phục hàng triệu con tim không phải là chuyện không tưởng mà nó đã trở thành môt sự thực hiển nhiên không thể phủ nhận. Cũng như thế, một vài nhà Thờ Thiên Chúa Giáo đã cho đăng trên Youtube những lời ca ngợi về đức hạnh cao cả của cô. Trong một bài giao giảng tại Thánh Đường …, LM Vinh Sơn Đỗ Minh Thăng đã nói về sự sống đẹp và chết đẹp, sống tốt và chết tốt của CS Phi Nhung.  Đúng là những lời khen dễ thương cho những người dễ thương ...

      

Thực sự là thế, từ ngày nữ ca sĩ Phi Nhung từ bỏ khán giả và cuộc sống buồn nhiều hơn vui của cô để đi về Cõi Vĩnh Hằng, trên trang mạng đã có không biết bao nhiêu thông tin về cô, đã có không biết bao nhiêu clips đăng tải những hình ảnh và lời ca của cô với những lời thương yêu nồng nàn thống thiết cũng như đã  có không biết bao nhiêu giọt lệ tràn dâng khóe mắt tiếc thương một con người với đúng cái nghĩa của nó. Một cụ bà ước chừng tuổi ngòai 70, sướt mướt khóc thương Phi Nhung: “Thương con nhỏ quá, nó đẹp, nó hát hay, nó giầu lòng bác ái, giúp đỡ bao nhiêu người khốn khó, nuôi con người ta làm con mình, công đức của nó nhiều như thế mà tại sao ông Trời lại cay nghiệt bắt tội nó chết oan uổng như thế. Trời ơi, nếu đổi được tuổi thọ của tôi để nó sống lại, tôi sẵn sàng đổi liền.”  Câu nói của bà lão đã làm xôn xao trên mạng và hình ảnh của Phi Nhung dường như đã tràn ngập trên Youtube khắp bốn bể năm châu nơi nào có người Việt nơi đó có người ca tụng đến tài đức của cô.                                         

     

Lòng nhân ái của ca sĩ Phi Nhung đã tỏa sáng trên bầu trời âm nhạc ở hải ngoại cũng như ở Viêt Nam từ lúc cô còn sống cũng như lúc cô qua đời. Những ai đã từng theo dõi sự việc này đều nhận thấy rằng Phi Nhung đã thực xứng đáng được mọi người ngưỡng mộ và thương mến. Do đó, tang lễ của Phi Nhung đã được cô Tô Ngọc Thủy, GĐ trung tâm TN đứng ra tổ chức thực chu đáo, và trang nghiêm không khác gì như một buổi đại nhạc hội tại khuôn viên chùa Huệ Quang, California. Những vòng hoa phúng điếu, đủ hình đủ sắc, cùng 30 tấm hình bán thân thật đẹp của PN đã được phóng đại và trang hoàng trong căn lều dựng bên hông chùa. Hũ tro cốt có in hình PN mà vợ chồng nghệ sĩ Hương Việt/Hoài Phương  đem từ Việt Nam về Mỹ ba ngày trước đây được cô con gái Wendy của Phi Nhung trịnh trọng đặt trên bàn thờ trước ảnh Phật Di Đà, khói nhang nghi ngút. Người đến thăm viếng phân ưu đứng xếp hàng nối đuôi nhau đợi đến lượt mình, để được thắp cho cô một nén nhang mến mộ chân tình, được thì thầm to nhỏ với cô cũng như được san sẻ nỗi niềm cùng Wendy, người con gái duy nhất của PN. Buổi tang lễ đã được tổ chức rất qui mô và tôn nghiêm theo truyền thống Phật Giáo Trung Bộ, dưới sự chứng minh của các Đại Lão Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni tại chùa Huệ Quang trên đường Westminster, Santa Ana, California vào ngày thứ Ba, 12 tháng 10 năm 2021. Người tham dự rất là đông, ngồi chật kín trong chánh điện ra tới ngoài cổng chùa. Chúng tôi có cảm tưởng tang lễ của ca sĩ Phi Nhung còn lớn hơn cả đám tang của nhiều thân hào nhân sĩ trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Ngay dù đám tang của các vị trưởng lão Hòa Thường như thầy Quảng Thanh trụ trì chùa Bảo Quang cũng không thể so sánh bằng.  Đúng là “Trâu chết để da, người chết để tiếng”.  Trong phần văn nghệ “Đưa Tiễn Phi Nhung” đã có khá nhiều ca sĩ đến phân ưu và hát tặng Phi Nhung lần cuối. Nhưng cảm động nhất là giây phút Nguyễn Hồng Nhung, Mạnh Quỳnh và Minh Tuyết nói lời chia tay với đồng nghiệp của họ.Từ những hàng ghế phía dưới người ta thấy nhiều bà nhiều cô đưa khăn giấy lên chậm nước mắt. Tôi đã dành khá nhiều thì giờ để theo dõi toàn bộ Video clip thâu hình của buổi tang lễ. Lâu lắm rồi tôi cứ ngỡ ở vào cỡ tuổi thọ như tôi thì làm gì còn nước mắt, nhưng khi xem đến đoạn – NHN, MQ, MT và vợ chồng Hương Việt-Hoài Phương khóc sướt mướt khi nói lời chia tay với PN làm tôi không sao cầm lòng, vậy là nước mắt cứ thế rơi rơi trên bàn computer. Tôi đã khóc, khóc thực sự.

      

Mặc dầu chương trình tang lễ kéo dài suốt một ngày, nhưng vào lúc 8 giờ tối, người tham dự vẫn còn ở lại rất đông để thắp nến cầu nguyện cho hương linh của ca sĩ Phi Nhung sớm cao thăng Phật Quốc. Cuối cùng mọi người đặt một nụ hồng thương tiếc lên trên chiếc xe Limousine mầu đen sầu thảm chở tro cốt của Phi Nhung đưa về Tịnh Thất Giác An trên đường Garden Grove, Santa Ana, CA. Lúc sinh thời Phi Nhung thường nói cô bị thất học nên cô ước muốn có cơ hội giúp các trẻ em nghèo khó được ăn học đến nơi đến chốn, vậy nên Wendy đã thay mặt mẹ để tiếp giữ lời hứa này là sẽ nhờ Tịnh Thất Giác An tạo dựng một lớp học Việt Ngữ mang tên “PHI NHUNG” trên khuôn viên Tịnh Thất. Cũng như thế, theo lời trăn trối của PN, tất cả tiền phúng điếu và tiền bán 30 tấm hình của PN sẽ được Wendy dùng vào việc thành lập một lớp học Việt Ngữ tại Hoa Kỳ và giúp những người dân gặp hoạn nạn vì Covid ở VN.

     

Đã hơn một tháng qua đi kể từ khi Phi Nhung ra đi, tôi chưa thể quên được hình ảnh người con gái có vóc dáng mảnh mai, nụ cười hiền hòa cởi mở, giọng ca truyền cảm từng chinh phục hàng triệu trịêu trái tim như vẫn còn quanh quẩn ẩn hiện trên màn computer của tôi mỗi buổi sáng khi tôi mở Youtube lên. Rồi nỗi buồn từ đâu lại đến. Tôi cảm thấy thực buồn như chưa từng buồn. Điều gì đã thuyết phục và lay động tôi đến thế?  Vâng, chính lòng bác ái và vị tha của Cô đã để lại trong tôi một hình ảnh thật đẹp!

    Phi Nhung ơi! Tịnh Bình ơi!

                                     “Bao nhiêu năm rồi, còn mãi ra đi

                                      Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt!” (TCS)

     Cô hãy bình an trong cõi Tịnh nhé!  Cuộc đời dâu bể này không còn là chỗ để Cô dấn thân.  Cô là một nghệ sĩ với tấm lòng Bồ Tát. Cô xứng đáng được vinh danh như vậy.

NAM MÔ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT – Tác đại chứng min

 


Ỷ Nguyên

Maryland- October 2021

Quấn Quít - Trầm Vân

Còn Những Tấm Lòng - Tràm Cà Mau

 

Ngày đầu tiên trình diện sở làm, Mai được dẫn đến gặp ông Dan. Ông nầy mới trên năm mươi tuổi mà Mai tưởng ông đã già lắm, vì thấy tóc ông màu bạch kim trắng xóa, và khi nói, thì ông run run cái cằm nhiều lần mới phát ra được những tiếng lắp bắp. Ông bị cà lăm mà Mai không biết. Buổi chiều về nhà Mai nói với chồng:

“Ông chỉ huy của em trông tội nghiệp lắm.””

“Sao vậy?””

“Ông ta đã quá già, già lắm rồi mà còn phải đi làm việc. Tóc ông trắng phau,  già đến nỗi nói không ra hơi.””

Gần một năm sau, Mai mới biết tuổi tác của ông, và biết ông bị bệnh cà lăm, chứ không phải là già đến nỗi nói lập bập không ra hơi. Ông Dan là kỹ sư trưởng công trình, chỉ huy năm người khác, trong đó có Mai.

Mai đã ba mươi tuổi, vừa học xong đại học, may mắn được tuyển dụng sau ba tháng tung đơn tìm việc đi khắp nơi. Đây là công việc đầu tiên của Mai trên nước Mỹ. Khi còn ở Việt Nam, Mai cũng đã đi từng làm rồi, nhưng vì lương bổng trong thời xã hội chủ nghĩa không đủ ăn sáng, sửa xe đạp,  mà còn phải ngửa tay xin thêm tiền cha mẹ để chi tiêu, cho nên liều mạng bỏ ngang. Mai khai bệnh đau bao tử, để xin nghỉ việc mà khỏi bị rắc rối về mặt chính trị. Nhờ nghỉ việc, nên có nhiều thì giờ chạy theo các tổ chức vượt biên đào thoát ra khỏi xứ. Đến Mỹ, Mai theo lời khuyên của bạn bè đi học lại, vì theo họ, học hành là một lối đầu tư dễ dàng nhất, và chắc chắn nhất cho tương lai.


Ông Dan bụng phệ, căng tròn, to như đàn bà có bầu sắp sinh con. Cái thắt lưng chạy vòng xệ xuống, nâng đỡ cái quần nhăn nhúm đằng sau, bao lấy một vùng mông teo rí, trớt lợt. Nụ cười của ông thường mở rộng toe toét. Ông hay nói chuyện khôi hài cho mọi người cười vui. Được một cấp chỉ huy cởi mở như ông Dan, Mai cũng khá yên lòng. Trong nhóm đồng nghiệp nầy, chỉ có ông Bill là đáng ngại. Ông nầy cao lớn, đầu trọc lóc, cằm bạnh ra, và đôi môi mỏng dính, miệng như một cái khe nứt, quặp xuống. Ánh mắt của ông lạnh lùng, ông có vẻ kỳ thị ra mặt. Lần đầu ông Dan giới thiệu Mai với mọi người trong nhóm, các ông khác đều cười vui, nói lời chúc mừng, mà ông Bill thì chỉ hự một tiếng trong cổ họng thôi.


Mới vào làm việc, Mai e dè, nhút nhát, nói nhẹ như hơi thở, và khi nào cũng sợ mất lòng mọi người chung quanh, tưởng như ai cũng có quyền đuổi Mai ra khỏi sở nầy. Là dân tị nạn, ăn nói còn lọng cọng, ngọng nghịu, việc làm chưa quen. Mai cố gắng làm sao cho khỏi mất lòng mọi người chung quanh. Mai là phái nữ duy nhất trong nhóm nầy. Thấy thái độ nhút nhát, sợ sệt của Mai, ông Dan cười mà nói:

“”Cô Mai, cứ yên tâm. Công việc chưa quen thì học, học thì biết và làm được. Làm xong một vài dự án, thì về sau không có chi khó khăn cả. Hồi tôi mới ra trường, cũng chưa biết gì cả. Nhờ các đồng nghiệp khác, dẫn dắt, như nắm tay dắt đi.  Mọi người trong nhóm nầy đều tốt cả.””


Nói câu đó xong, ông Dan liếc mau về phía ông Bill, mà ông Bill thì nhìn lơ, không nói năng gì cả. Nhờ câu nói của ông Dan mà Mai yên lòng. Lần đầu tiên đi làm, nghe câu nói tử tế của ông chỉ huy, Mai nhớ suốt một đời, và không quên ơn ông. Về sau, khi nào gặp một đồng nghiệp mới, Mai cũng đem lời ông Dan ra mà trấn an, làm họ bớt lo lắng, bớt bỡ ngỡ trong thời gian đầu.


Một hôm ông Bill lục lọi trong đám hồ sơ cá nhân của ông, tìm ra một thông cáo tuyển dụng kỹ sư vào cuối thập niên 1950 và đưa cho Mai đọc. Bên dưới hàng chữ thông cáo tuyển dụng kỹ sư, có ghi thêm một giòng đậm“’Không chấp nhận đàn bà’. À, thì ra nước Mỹ vào thời đó, còn kỳ thị nam nữ đến thế. Mai chuyển tờ thông cáo qua cho ông Dan đọc. Ông Dan nhìn ông Bill với ánh mắt trách móc và nói:

“ “Chuyện nầy xưa lắm rồi. Ông đem ra làm chi, đừng để cho người khác hiểu lầm, tội nghiệp. Bây giờ mà kỳ thị nam nữ là mệt lắm đó.””


Ông Dan biết tiếng Anh của Mai còn kém, chưa nghe và nói thông thạo, nên mỗi khi nói chuyện, hay đưa chỉ thị,  ông thường gắng nói rất chậm rãi, rõ ràng, và vì mang tật nói lắp, nên ông càng nói lắp nhiều hơn nữa. Khi Mai nói chuyện, thì các ông khác đều hiểu, không biết có hiểu hết hay không, nhưng ông Bill thì luôn luôn lắc đầu bảo rằng, ông không hiểu Mai nói gì. Ông Dan cố tránh, không để Mai làm những công việc chung với ông Bill.

Vì nhỏ con, không mua được áo quần cho vừa, nên Mai phải mua loại dành cho con nít mà mặc. Tóc Mai cắt ngắn, khuôn mặt lại đầy đặn mà không son phấn, nên trông có dáng dấp của một em bé  Mỹ mới chín mười tuổi. Một hôm gần lễ Tạ Ơn, nhiều người đem con cái đến sở chơi, một ông cụ nhân viên cũ cũng ghé lại thăm. Ông  tưởng Mai  là con gái của một đồng nghiệp nào đó vào chơi, ông chạy đến xốc nách Mai đưa lên cao và hỏi:

“Cháu là con của ai đây? Trông dễ thương quá !””


Ông Dan hốt hoảng la ơi ới, bảo: “Đừng, đừng”, và cho biết cô nầy là kỹ sư mới vào làm mấy tháng nay. Ông cụ bỏ Mai xuống, và xin lỗi rối rít. Mai cũng đỏ bừng mặt, và nói cho ông cụ bớt ngượng:

“ “Không có chi. Tuổi bố tôi cũng gần bằng tuổi ông. Tôi xem ông như bố tôi vậy.””

Cả nhóm cười vang. Ông khách nói chuyện thêm vài câu, rồi vội vàng chạy qua nơi khác. Mấy hôm sau, một bà đồng nghiệp người Trung Hoa ghé lại văn phòng nói chuyện tào lao chơi, bà cho Mai địa chỉ mấy tiệm bán áo quần đàn bà tại phố Tàu San Francisco, cho những người nhỏ con và  thấp. Sau này Mai mới biết, đó là hảo ý của ông Dan, ông nhờ bà Trung Hoa nầy chỉ dẫn cho Mai nơi bán áo quần  mặc cho vừa tác người.


Một hôm trong giờ giải lao, có người đến thu góp tiền cứu trợ, để mua nước và thức ăn đặt rải rác dọc theo các vùng sa mạc gần biên giới Mỹ và Mễ. Cho những người nhập cư bất hợp pháp khỏi bị chết đói, chết khát khi băng qua biên giới. Ông Dan móc tiền ra hăng hái đóng, Mai cũng bắt chước đóng theo. Ông Bill phản đối, bảo đừng tiếp tay giúp bọn nhập cư bất hợp pháp vào phá rối và làm hỗn loạn nước Mỹ. Ông Dan nói với ông Bill:

“ “Tổ tiên ông cũng từ đâu đó bên châu Âu đi tìm đất sống mà vào đây lập nghiệp. Nếu ngày xưa, họ không cho tổ tiên ông vào Mỹ, thì ông nghĩ sao?””

“ “Không nghĩ sao cả. Việc nhập cư đã có chính sách của chính quyền. Có luật pháp quy định. Đóng tiền mua thức ăn và nước uống cho những kẻ nhập cư bất hợp pháp, là vô tình phạm vào luật.””

Ông Bill quay qua Mai, hỏi với giọng xoi mói:

“Thế thì trường hợp của cô ra sao? Sao không ở bên xứ cô, mà lại vào đây? Cô vào đây bằng cách nào?””

”Tôi đi tị nạn chính trị. Được chính quyền Mỹ chấp thuận cho vào đây tìm tự do sinh sống.””

“Tị nạn chính trị ? Như cô, thì làm được cái gì mà phải đi tị nạn?””

“Không sống nổi với chế độ độc tài, tôi ra đi. Chín phần chết một phần sống, đi tìm tự do.””

“Không có tự do thì không sống được sao?””

Mai giận, không cần giữ lịch sự nữa, nói gằn lại, mà nước mắt rưng rưng:

”Đúng. Không có tự do thì có sống cũng tệ hơn chết. Nè ông Bill, nếu chính quyền tịch thu nhà ông, lấy hết tài sản ông, lấy sạch tiền trong  chương mục trong ngân hàng của ông, rồi đuổi ông lên rừng ở, hoặc bắt ông đi tù khổ sai, vì ông có một chút của cải. Không cho ông đi từ thành phố nầy qua thành phố khác. Công an luôn luôn dòm ngó, báo cáo và hạch hỏi từng hành động, từng lời nói của ông, sống trong lo âu sợ hãi, thì ông có muốn đi tìm tự do không?””

Ông Bill trề cái môi dưới ra dài, nói mai mĩa:

“Cô tưởng tôi là trẻ con năm sáu tuổi hay sao mà nói những chuyện hoang đường ngô nghê vô lý như thế được?””


Một ông trong nhóm cũng cười khành khạch, và hóm hỉnh nhìn Mai, có lẽ ông ta cũng đồng tình với ông Bill, mà cho rằng Mai đặt điều một cách ngô nghê ấu trỉ. Mai rưng rưng nước mắt, biết là không thể nói cho ai tin được. Phải có sống mới biết. Nói theo giọng ông Hồ Chí Minh, là phải “kinh qua” mới biết rõ. Mai nói, giọng đầy cả nước mắt:

“Tôi đi tìm tự do. Tôi xác định. Các ông không tin thì tôi cũng không cần. Nước Mỹ cho tôi đến đây để được tự do sinh sống, tránh độc tài, áp bức. Nếu không có độc tài áp bức, thì tôi không bao giờ bỏ quê hương mà ra đi, đón nhận trăm ngàn hiểm nguy, chín phần chết, một phần sống. Các ông có biết gần nửa triệu người Việt Nam chúng tôi đã bỏ mạng trên biển không? Anh trai tôi, và em gái tôi cũng đã chết trên đường đi tìm tự do.””

Nói đến đây, Mai không cầm được xúc động, và òa khóc. Tiếng khóc của Mai làm cho mọi người trong phòng tái mặt, sợ hãi. Ông Bill bỏ đi ra khỏi phòng.


Chiều hôm đó, sau khi mọi người về hết, chỉ còn Mai và ông Dan trong phòng làm việc. Ông Dan ôn tồn nói:    

“Tôi hiểu hoàn cảnh của cô. Không ai muốn lìa bỏ quê hương mà ra đi cả. Khi đã quyết định ra đi, dù cho vì bất cứ lý do nào, thì cũng là chính đáng. Bố mẹ tôi đã lìa bỏ Ái Nhĩ Lan, đem tôi qua đây khi còn bé, cũng vì không sống nổi nơi quê nhà. Cô có nghe cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào năm 1929 không? Có lẽ cô còn nhỏ tuổi, không biết đâu. Khủng hoảng kinh tế thế giới, người người không có công ăn việc làm. Ở Ái Nhĩ Lan không đủ ăn. Lúc đó tôi mới vài ba tuổi gì đó thôi. Bố tôi bán sạch hết nhà cửa, đồ đạc, vay mượn thêm tiền, mua vé tàu thủy đem mẹ con tôi qua Mỹ để kiếm ăn, có ông cậu tôi đi theo. Nghe đâu đi cả mấy chục ngày rề rề trên biển mới thấu Mỹ, đến hải cảng New York. Dạo nầy, ngay cả dân Mỹ cũng thất nghiệp tràn đìa. Hàng ngày, thiên hạ xếp đuôi dài, chờ hàng ba bốn tiếng đồng hồ để được bố thí một bữa ăn. Dân địa phương còn chưa kiếm ra việc làm, thì bố mẹ tôi mới đến, lạ nước lạ cái,  làm sao tìm ra việc để sinh sống. Thế nhưng dân Âu Châu vẫn cứ ùn ùn kéo đến Mỹ, vì bên Âu Châu cuộc sống vô cùng khó khăn. Tôi không biết bố mẹ tôi làm sao mà sống còn qua thời gian đó. Dạo nầy, chưa có một chương trình trợ cấp xã hội nào cả.  Gia đình chúng tôi, bữa no, bữa đói thường trực. Tôi không biết sau đó bao lâu, thì vì tuyệt vọng quá, bố tôi một mình, tách qua Úc Châu, hy vọng kiếm được việc làm, và dành dụm tiền, đưa gia đình qua sau. Chắc khi chia tay, bố mẹ tôi buồn khổ lắm. Nhưng không còn đường nào hơn. Bố tôi đi, mẹ tôi gánh hết trách nhiệm nuôi hai con và ông cậu tôi. Không biết làm sao mà mẹ tôi đã vượt qua những ngày tháng khốn khó đó được. Dạo nầy, tôi  còn nhỏ quá, không biết, và không nhớ chi tiết về tin tức của bố tôi. Nhưng hình như một thời gian sau, chúng tôi bặt tin của ông. Không biết ông bệnh chết hay gặp tai nạn ở một nơi nào đó rồi. Cũng có thể ông gặp khó khăn quá, khốn khó quá, và biết không thể làm gì hơn để giúp đỡ vợ con, nên vắng luôn tin tức. Mẹ tôi khổ nhọc cùng cực, và không kiếm ra việc làm, đành nhắm mắt đưa chân, đem con và em theo đoàn người xuyên lục địa đi về miền Tây nước Mỹ. Nghe nói miền Tây đất đai mầu mỡ, thưa người, công ăn việc làm dễ kiếm hơn. Mẹ tôi dừng chân phiêu bạt lại thành phố San Francisco. Ở đây, bà kiếm ra được những việc lao động tay chân tại các tiệm giặt, tiệm ăn và tiệm bán rau cải để nuôi con và nuôi em. Bà làm lụng cực nhọc đến phát bệnh lao phổi mà chết. Để chúng tôi lại cho ông cậu, khi đó ông mới mười sáu tuổi, ông đưa lưng ra gánh lấy trách nhiệm nuôi nấng hai đứa cháu thơ dại. Ông cậu thay bố mẹ nuôi chúng tôi, chắt chiu có nhau trong tình thương. Ông đã hy sinh cả tuổi trẻ để nuôi nấng các cháu. Ông làm lụng đầu tắt mặt tối để nuôi chúng tôi ăn học, gây dựng tương lai cho chúng tôi.  Ông cậu thường khuyên rằng, nếu không có một tài ba nào đặc biệt, thì phải lo học để tương lai khá hơn, đó là con đường dễ dàng nhất cho mọi người thoát cảnh đói, nghèo.  Ông không có một thú vui riêng nào, cũng không có bạn bè, trai gái, chăm sóc chúng tôi như con ruột. Hai anh em tôi cứ nhởn nhơ trong bảo bọc cực nhọc của ông cậu, và buồn bã không nguôi vì nhớ mẹ, thương cha . Khi chúng tôi đã khôn lớn, đã lập gia đình, và có con cái, thì mới biết thấm thía  công ơn khó nhọc của ông. Và ông vẫn ở mãi trong tình trạng độc thân cho đến già. Tôi cũng chưa làm được gì để báo đáp ơn ông, thế mà thỉnh thoảng còn vay mượn tiền của ông nữa. Ông khi nào cũng hào phóng, hết lòng hết dạ với các cháu.””


Ông  Dan thấy Mai liếc nhìn đồng hồ trên tường, ông ngưng nói, cất giấy tờ vào cặp, chuẩn bị ra về. Trước khi ra cửa, ông nói thêm:

“Thế hệ di dân thứ nhất, thường phải chịu trăm ngàn khó khăn, đôi khi tưởng như không qua được, và ai cũng phải nỗ lực, cố gắng để vươn lên. Nước Mỹ nầy, có nhiều cơ hội tốt cho bất cứ ai, nếu họ quyết tâm. Tôi nghĩ, những người di dân ngày nay, có nhiều thuận lợi và được giúp đỡ nhiều hơn chúng tôi ngày xưa. Đó là những chương trình phúc lợi xã hội, những trợ cấp tài chánh mà ngày trước không hề có.””


Mai không ngờ ông Dan cũng thuộc thế hệ di cư thứ nhất. Ông cũng đã từng đói, khổ, gặp khó khăn trên đất mới, có lẽ nhờ vậy nên ông đối xử đầy tròn với những người đồng cảnh ngộ đi sau. Trên vùng đất mới nầy, Mai chưa hề một lần đói, lạnh. Dù khó khăn ban đầu thì tràn ngập, nhưng lại được no ấm, đầy đủ. Được trợ cấp một thời gian khi mới đến, và công việc làm ăn lúc ban đầu, thì cũng có khó khăn, nặng nhọc, nhưng cũng không phải khó khăn trăm bề như những người di cư thuở trước. Bây giờ, còn có thể vay tiền đi học, làm việc bán thời gian tại trường đại học, đủ cho cuộc sống của sinh viên nghèo.


Có lần vui, ông Dan đưa hình vợ con cho Mai xem. Ông có một người con trai và ba cô con gái. Mấy cô con gái mặt mày thanh tú, thân hình đẹp dẽ, có hai cô được chọn vào ban múa để reo hò, tán trợ tinh thần các đội thể thao thành phố nhà. Tấm hình vợ ông hồi trẻ sắc sảo và đẹp như minh tinh màn ảnh thuở xưa. Mai hỏi:

“Làm sao mà ông làm quen được với một người đẹp như thế nầy? Tôi nghĩ, sắc nước hương trời như bà, thì có biết bao nhiều người theo đuổi, ông làm sao mà chinh phục được trái tim  bà, giỏi thế?””

Ông cười, nụ cười vui vẻ, thỏa mãn:

“Vợ tôi là bạn học của cô em tôi. Bà nầy gốc người Nicaragua, Nam Mỹ. Hai cô chơi thân nhau lắm.””

“À, thì ra thế. Cô em của ông chắc cũng đẹp lắm? Bây giờ bà ấy ở đâu?””

Ông Dan lặng người đi một chốc, rồi đưa ngón tay chỉ lên trời, run run nói:

“Tôi tin, bây giờ, em tôi ở trên đó, nước Chúa. Bình yên và vui thú hơn khi còn sống ở trần gian.””

Rồi ông kể cho Mai nghe cuộc đời của cô em ông. Chồng của bà chết vì tai nạn xe. Bà buồn và quẫn trí mất một thời gian dài. Mỗi tuần hai lần, ông vào bệnh viện tâm trí thăm, và an ủi bà. Khi xuất viện, đầu óc bà không còn được bình thường nữa. Cứ bị mất việc hoài, mỗi việc, bà làm được năm sáu tháng thì bị đuổi. Rồi cách đây hai năm, bà chết vì bị uống lạm thuốc. Người ta nghi bà tự vẫn, nhưng ông không tin như vậy, vì bà có đạo, và ngoan đạo, mà luật đạo thì cấm hủy hoại thân thể. Khi kể đến đây, hai con mắt ông đỏ hoe, tiếng nói lắp bắp nhiều hơn. Ông lắc đầu, hạ giọng buồn bã:

“Không có gì mệt hơn chăm sóc một người bệnh tâm thần. Thà bệnh gì khác, người bệnh còn nghe, còn biết. Người bị tâm thần họ suy nghĩ cách khác, và không chịu nghe ai cả.””


Suốt trong hai năm liên tiếp, trưa nào ông Dan cũng vội vã cầm miếng bánh mì, rời sở sớm chừng mười phút trước giờ nghỉ ăn trưa. Không biết ông đi đâu, không ai dám hỏi, mà cũng không ai muốn xen vào đời tư của người khác. Đúng giờ làm việc, ông Dan trở lại với mồ hôi lấm tấm. Cả những ngày mùa đông ướt át, lạnh lẽo, ông cũng hấp tấp ra đi. Mai nghĩ, không chừng ông nầy có một bà tình nhân, che dấu ở đâu đó. Mấy ông có vẻ hiền lành bên ngoài, thường hay lén lút làm chuyện động trời. Sau nầy, ông khai ra là mỗi ngày đi thăm ông cậu tại viện phục hồi. Cậu của ông bị bệnh teo bắp thịt, và không còn đi lại được, phải nằm trên giường. Mỗi ngày, ông đón xe buýt đến thăm, và an ủi ông cậu, để ông nầy bớt thấy cô đơn. Ông cậu đã già, không vợ không con. Thật ra, những năm sau nầy, ông có một bà bạn. Hai người muốn kết hôn mà không được, vì bà nầy li dị, mà chồng cũ thì còn sống. Họ đều là những người theo đạo Chúa thuần thành, luật đạo không cho phép tái giá nếu khi người chồng, hay người vợ cũ còn sống.


Một ngày thứ hai trong tuần, ông Dan vui vẻ rộn ràng, cứ cười cười hoài. Mai hỏi ông có chuyện gì vui không. Ông Dan cười tươi và nói:

“Tuyệt vời. Một cái đám cưới tuyệt đẹp, hiếm hoi.””

“Đám cười của ai ?””

“Đám cưới ông cậu của tôi. Ông rể nằm trên giường, cô dâu mặc áo dài thụng đứng bên cạnh.  Cả cô dâu và chú rể đều trên bảy mươi tuổi. Tội nghiệp cho hai người, thương nhau gần cả chục năm trời, mới được phép kết hôn. Họ lo làm gấp, sợ không kịp nữa, vì ông cậu tôi đã yếu lắm rồi.””

““Thế thì... ông chồng cũ của bà  ấy vẫn còn chứ?  Họ vượt  qua cái luật khắt khe của đạo là đúng”  Mai bàn luận.

“Không. Ông chồng cũ bà ấy mất cách đây chừng mươi ngày””


Mấy tuần sau, cậu của ông Dan chết. Có lẽ được lấy vợ trước khi chết, cũng là một an ủi lớn cho ông già nầy. Mai có đi đưa đám. Ông nằm thanh thản trong quan tài, mặt xương và tái, miệng hơi cười. Bà vợ già của cậu ông Dan khô đét như con mắm, mặt nhăn nheo như một tờ giấy vò nát. Nghĩ đến tấm lòng nhân hậu của cậu ông Dan mà Mai cảm phục, và nghĩ đến các ông Thánh. Đời có những vị thánh sống không ai biết, không ai xưng tụng, ca ngợi, có lẽ họ cũng không cần các thứ đó. Trong tang lễ, Mai gặp bà vợ ông Dan. Bà nầy bị bệnh  run rẩy tay chân. Run bần bật không ngừng. Bà không còn một nét đẹp nào trong những tấm hình mà ông Dan đã cho Mai xem. Thỉnh thoảng bà gắt gỏng than phiền những chuyện không đâu. Ông Dan cứ thì thầm với bà: “Xong, xong rồi, mọi việc xong cả rồi. Bà đừng nói nữa.””


Nhà ông Dan ở phía Bắc của cầu Golden Gate, một thành phố nhỏ hiền hòa. Ông Dan cùng một nhóm đồng nghiệp đi xe chung. Mỗi khi có họp ra trễ,  không kịp  cùng về xe chung, thì ông phải dùng phương tiện chuyên chở công cộng. Từ sở về nhà, phải thay bốn tuyến xe, chưa kể đi bộ và chờ đợi. Về đến nhà thì đã gần mười giờ đêm. Thế mà có khi ông phải nấu ăn vào giờ đó, vì bà vợ bị bệnh run rẩy tay chân, không làm được, sợ tai nạn. Không hề nghe ông than van khổ nhọc, khó khăn.


Nhiều lúc Mai thấy ông Dan vất vả quá, khuyên ông nên lái xe đi làm vào những ngày có họp, hoặc những khi biết không về kịp với chuyến xe đi chung. Ông Dan lắc đầu cho biết, từ mấy năm qua, ông không có xe. Không thể mua xe, vì có xe thì bà vợ dành lấy mà lái. Bà run tay chân, và tâm trí không còn bình tĩnh, bà đã gây nhiều tai nạn. Các hãng bảo hiểm khước từ, không bán bảo hiểm tai nạn cho ông. Dù bà đã bị rút bằng lái, nhưng bà vẫn cứ lái xe. Bà không sợ ai cả. Ông không muốn bà bị tù, và nếu bà có ở tù, thì ông còn khổ hơn bà nữa. Không có xe là giải pháp tốt nhất. Mai rùng mình, không thể tưởng tượng được một người sống trên đất Mỹ mà không có chiếc xe để đi làm ăn.

" Thế thì làm sao mà ông đi chợ, đi mua hàng hóa?"

Ông cười nói:

"Đi chợ? Cứ đẩy chiếc xe có bốn bánh từ chợ về nhà như mấy ông vô gia cư, rồi đem xe trả lại. Khi nào thuận tiện, gặp lúc ông bà hàng xóm đi chợ, thì xin đi theo."

" Bất tiện quá nhỉ!"

" Thì cũng phải chịu, chứ làm sao bây giờ?"

                                                 

Nhiều buổi sáng ông Dan vào sở với hai con mắt đỏ ngầu, dáng điệu mệt mỏi, tay che miệng ngáp lia lịa. Ai cũng đoán biết là đêm qua ông bị bà vợ quấy phá, không cho ngủ. Bà ngủ gà ngủ gật suốt ngày, nên ban đêm không ngủ được, quấy quả, làm ông mất ngủ theo. Bạn bè khuyên ông nên ngủ riêng, vì ông cần ngủ đủ, để có sức khỏe mà đi làm. Ông thường nói rằng:

"Vợ chồng, những khi đau yếu cần có nhau, an ủi nhau. Khi khỏe mạnh thì ngủ chung, khi đau yếu thì ngủ riêng sao được?"

Không ai dám bàn thêm gì cả. Có người thì chê ông vụng tính, nếu không lo giữ gìn sức khỏe, khi gục xuống, lấy ai lo cho cả hai ông bà? Có người thì khen ông là người nhân hậu, tình nghĩa.

 

Có lần ông Dan lái xe sở đi công tác ở một thành phố cách xa hơn một trăm dặm, hai ba ngày sau vẫn chưa thấy về, cũng không nghe ai nhắn gì cả. Toàn sở nhốn nháo kêu điện thoại tìm ông. Kêu điện thoại về nhà ông, không có ai trả lời. Sở phái người đến nhà gõ cửa, cũng không ai mở. Cuối cùng, người ta tìm ra ông nằm trong bệnh viện ở thành phố mà ông đi công tác. Ông ngất xỉu, được đem vào phòng cấp cứu,  bác sĩ quyết định giải phẫu ngay. Mai hỏi đồng nghiệp trong sở xem ông bị bệnh gì. Một ông cười cười, đưa bàn tay chặt ngang phía dưới một nhát, và bảo : "Đi đong, không còn gì nữa. Chẳng còn là đàn ông, mà cũng chẳng là đàn bà". Mai không dám hỏi thêm nữa. Ba tuần sau, ông Dan trở lại làm việc, trông ông hồng hào hơn cũ. Mai không dám đả động đến cái bệnh của ông Dan, sợ ông xấu hổ. Mai chỉ biết chúc mừng ông trở lại, và nói vài lời an ủi. Về sau, Mai biết ông bị xuất huyết bao tử vì quá lo lắng, và phải giải phẫu gấp.


Mấy người con của ông Dan cũng gây cho ông không biết bao nhiêu rắc rối, mà ông phải gánh chịu. Anh con trai đi lính, bị đuổi khỏi quân trường, về nhà ở với ông hơn cả năm, không làm ăn gì cả. Ông phải vay mượn tiền của ngân hàng, để cho anh nầy hoàn trả cho quân đội. Cô con gái lớn, lấy chồng được mấy năm, có một đứa con, thì li dị. Cô nầy cũng dọn về ở với ông bà, và gây cho ông nhiều rắc rối nhất. Ông nói với Mai:

"Khi có con, thì trách nhiệm và tình thương còn đeo đuổi mãi, có nhắm mắt nằm xuống, may ra mới hết được. Con cái, dù nó có tội lỗi, có tù đày, mình cũng cứ thương."

Có lần, ông Dan xin  nghỉ phép một tuần, để đi vào miền núi xa, hoang vắng. Thuê một căn phòng nhỏ trong một tu viện để tĩnh tâm, để được ngủ yên, và không còn suy tư, không còn lo lắng, bận rộn gì nữa. Ngày hai lần xuống phòng ăn của tu viện dùng bữa, được các bà phước dọn sẵn. Tạm quên đi cuộc đời nhiều rắc rối bất hạnh của ông. Thì ra, ông không hề đọc sách thiền, mà ông cũng biết chuyện thiền, để rũ bỏ phần nào khổ đau đang gánh nặng. Mai có đưa quảng cáo các lớp học thiền, do các vị tăng sư tổ chức, ông chỉ cám ơn, mà không tham dự.


Rồi ông Dan đột ngột tuyên bố về hưu, làm Mai choáng váng, buồn, như sắp mất đi một cái gì quý báu. Mười mấy năm làm chung với ông Dan, Mai chưa hề nghe ông thúc hối, to tiếng la rầy, hoặc tỏ thái độ bực mình với ai. Vì cách đối xử nhã nhặn, lịch sự, dịu dàng của ông, nên ai cũng cố gắng làm việc, làm hết lòng, không chờ ông nhắc nhở. Hoàn cảnh gia đình ông  như vậy, khó khăn và rắc rối triền miên, mà khi nào ông cũng giữ được phong thái bình tĩnh, nhẹ nhàng, không đem cái cáu bẵn từ nhà vào sở. Khi nào cũng nói lời tử tế, như : " Anh , chị có vui lòng làm giúp tôi việc nầy không?” Hoặc: “Việc nầy họ thúc hối quá, không biết mình làm có kịp hay không, thôi thì rán làm đến đâu hay đến đó, đừng quá lo lắng, không kịp cũng chẳng chết ai”. Với cách nói tử tế đó, không ai nỡ phụ lòng tốt của ông. Để đáp lại,  gặp những lúc công việc khẩn cấp, Mai bỏ cả giờ ăn trưa, bỏ cả giờ nghỉ xả hơi, gắng làm cho xong việc, kịp hạn định. Ông không thúc hối, không làm áp lực. Mười mấy năm làm việc với ông, Mai cảm thấy thong dong, nhẹ nhàng, và trong cái văn phòng nầy, có sự ấm áp, có yên ổn, an bình. Bây giờ, ông Dan tuyên bố về hưu, không biết người chỉ huy mới có tạo được cái không khí thoải mái, dễ dàng nữa không. Bởi vậy, nên Mai buồn.


Ông Dan cho biết, mấy năm sau nầy bệnh vợ ông trở nặng, ông phải đem vào nơi chăm sóc đặc biệt, cho bà ở hẳn trong bệnh viện. Chi phí mỗi năm tốn gần trăm ngàn đồng. Ông không đủ tiền để trang trải chi phí, nên phải xin nghỉ hưu sở nầy, và đi làm việc cho nơi khác. Nếu cả tiền hưu sở nầy, cọng với tiền lương sở mới, may ra mới đủ chi phí chăm sóc bà vợ. Ông ra làm kỹ sư cho hãng thầu xây cất, đứng giữa trời gió bụi, nắng mưa và xe cộ nguy hiểm. Thời khắc làm việc lại bất thường, không kể ngày đêm, mà tuổi già thì bệnh hoạn, mệt mỏi. Những công tác xây cất xa lộ, thường làm đêm khuya khoắt để tránh kẹt xe. Ông Dan vẫn không ngại ngần, thức trắng đêm trong khói bụi công trường.

Có lần Mai hỏi ông Dan rằng, trong đời, có khi nào ông được thong dong, thanh thản hay không? Ông Dan cười trả lời rằng:

"Mình phải tự tạo lấy cái thong dong, thanh thản. Chứ cuộc đời là một chuỗi dài khó khăn, trắc trở, đau buồn. Nhưng mình cũng có những khoảng trống xen lẫn, để mà tự tạo lấy niềm vui, nắm lấy vài phút giây hạnh phúc. Nếu không, thì gục ngã ngay.””

Nhìn vào cuộc đời ông Dan, Mai tự thấy mình quá hạnh phúc, quá sung sướng, được trời dành cho vô vàn ân sũng, nên thường không dám đòi hỏi gì hơn, chỉ mong được yên bình khỏe mạnh là đủ./.


Tràm Cà Mau