Tôi tới phòng phòng tập thể dục có
thể nói là hằng ngày. Mỗi ngày không tới là tôi cảm thấy bức rức, khó chịu. Đó
là một thói quen từ 10 năm nay. Tới để chạy bộ trên máy 30 phút, vừa chạy vừa
đọc sách hay xem TV, hay ngắm mấy em Mỹ, Mễ,
Việt, Đại Hàn... khoe thân thể. Các bà các cô vào phòng tập thể dục cũng là dịp
để khoe thân thể một cách hợp pháp. Trong phòng tập có hồ bơi, có phòng spa,
phòng tắm hơi, phòng xông hơi. Các bà, các cô mặc sức khoe thân hình, xấu đẹp "tùy
người đối diện". Nào áo tắm hai mảnh khoe bờ vai tròn lẵng và cả tấm thân
trần mượt mà.
Có bà tuổi cũng gần năm, sáu bó,
nhưng cũng bikini hai mảnh, nhìn đến rợn người. Hãy tưởng tượng cái thân hình
béo phì bị co thắt bởi bộ áo quần tắm chật chội, trông như đòn bánh tét bị bó
quá chặt. Những cũng có những em mười tám đôi mươi, thân hình thon thả gợi cảm
không chê vào đâu được. Tuy nhiên, dù xấu, dù đẹp, thế nào đi nữa thì tôi cũng
cám ơn những vóc dáng đó. Nhờ nó, tôi đi tập khá đều đặn.
Nơi đây là nơi tập trung đủ hạng
người trong xã hội, từ luật sư, bác sĩ, học giả, nhà văn, nhà báo, họa sĩ, nhạc
sĩ, học sinh, du học sinh, thợ neo, sinh viên, sư ông, linh mục, mục sư, giáo
sư...đủ cả, nên câu chuyện cũng "tả pín lù".Vào đây con người thật
bình đẳng, không còn nghèo, giàu, sang, hèn. Ai khi đi tắm cũng ở truồng, hay
khi vào xông hơi, chỉ còn trơ cái quần xà lỏn hay cái "sịp", thì cái
hào nhoáng, cái bảnh chọe, hãnh tiến, từ nghề
nghiệp ngoài đời cũng trở thành vô nghĩa...
Buổi chiều khoảng từ 4 giờ, thường
là đông người tập nhất, tại vì lúc này các hãng, xưởng tan tầm, nên công nhân
tấp vào đây, trước khi về nhà. Vào "xã xú bắp" trên máy chạy bộ,
trong hồ bơi, trong phòng spa, cho khỏe thêm được chút nào tốt chút đó, để đối
diện với cuộc sống bù đầu trong công việc. Công nhân vào tập, bơi, spa, xông
hơi thì huyên thuyên đủ mọi chuyện, nào là thằng supervor Hùng hồi hôm vợ cho
ra ngủ sofa hay sao mà hôm nay vào hãng trông mặt ngầu dữ, sắc thái sát khí
đằng đằng. Thằng litđơ "Sáu bọ chét" la hét tùm lum, nó la lối, hãy
làm nhanh tay lên, phải làm đủ chỉ tiêu... như là đang sống trong trại tù cải
tạo cộng sản. Tổ cha nó chớ, toàn người Việt "đì" người Việt thôi,
đâu như mấy thằng Mỹ. Đó là ý kiến của bà Hiền, một công nhân làm assembly
trong một hãng điện tử.
Đám HO sồn sồn thì thường ngồi chung
quanh phòng spa hay quanh hồ nước nóng. Mấy ông ngồi ngâm chưn hay ngâm thân
thể, cho vòi nước đấm vào lưng, vào bụng, cũng mê tơi. Chuyện mấy ông HO sồn
sồn cũng chỉ xoay quanh ba chuyện quốc gia, cộng sản, chuyện đánh giặc hồi còn
chiến tranh và chuyện tù cải tạo. Chuyện tù cải tạo của mấy ông là chuyện dài,
kể hoài cũng không bao giờ dứt.
Nhờ thế, tôi là người chỉ đi tù
trong Nam, không đi tù ở Bắc, mà tôi cũng thấy được cảnh khổ của tù nhân ngoài
bắc ra sao. Nhất là các tù nhân ở trại
Hoàng Liên Sơn hay trại Vĩnh Phú. Cuộc tù tội trâu ngựa làm những người tù ghi
ở trong tim mình những vết hằn rướm máu, không thể nào quên. Cho nên gọi đây là
pho truyện dài hay là truyện sử ca ngàn người viết cũng không ngoa, không sai
chạy chút nào.
Một hôm tôi vô tập sớm, buổi trưa,
sau khi đã chạy bộ 30 phút, tôi vô xông hơi và ngồi trên hồ nước nóng, thả chân
xuống nước cho nước đánh vào chân cũng nghe khoái tỉ. Độ này tôi thấy hay đau
nhức đôi chân, hay tê tê dưới lườn bàn chân nên tôi hay đến ngồi đây để cho
nước ấm dội vào.
Buổi trưa nên khu spa hơi vắng, chỉ
có đối diện tôi một người đàn ông không quen mặt. Có lẽ ông này mới vào phòng
tập thể dục hay sao. Nơi đây biết bao người đã đến rồi đi. Hệ thống tập thể dục
này có cả toàn thế giới, ghi danh ở đây nhưng có thể tập ở bất cứ chi nhánh
nào. Còn chuyện "đến" rồi đi" của mấy ông sồn sồn, ông già, cũng
là chuyện thường. Họ có thể ngã quỵ ở nhà hoặc ở đâu đó, rồi được gia đình an
táng, mà người quen ở khu thể dục này không thấy mặt nhiều tháng, là biết có
thể là họ đã "đi đong".
Ông sồn sồn ngồi đàng kia cũng đang
thả chân xuống hồ nước nóng ngâm chân. Mắt ông lim dim như thả hết tâm hồn vào
cái khoái cảm, khi những tia nước nóng bắn mạnh vào chân. Tôi tôn trọng ông dù
buồn miệng nhưng không dám hỏi. Tôi cũng đang ngồi lan man, lim dim như ông. Tự
dưng ông mở mắt ra, rồi hỏi tôi:
- Anh tập ở đây lâu chưa?
- Cũng 10 năm rồi.
- Lâu dữ hén.
- Ừ, thì lâu, từ ngày khu tập thể
dục này còn ở bên kia, sau này đổi sang bên đây, mới có hồ bơi, hồ nước nóng...
- Thế à, tôi vào đây mấy ngày, hồi
trước tôi tập bên Balỳ.
- Sao anh không tập bên đó nữa?
- Bên đó 11 giờ đêm đã đóng cửa nên
tôi thấy không tiện, nhiều đêm ngủ không được tôi muốn vào đây, có khi 12, 1
giờ sáng, tôi cũng vào.
Tôi thấy ông sồn sồn này nói cũng là
chuyện lạ, nhìn kỷ ông, dáng dấp ông còn khỏe mạnh, chỉ mái tóc hơi bạc lác
đác, thân hình tương đối còn cứng cáp, tuy nhiên nét mệt mỏi như đọng lại trên
khuôn mặt. Tôi nghĩ có lẽ ông sồn sồn này có tâm sự buồn sao đây mà muốn vô tập
thể dục những lúc vắng người, nhất là đêm hôm khuya khoắc khi mọi người đều an
giấc. Như để phá vỡ suy nghĩ của tôi, ông tiếp:
- Tôi độ rày sao khó ngủ dữ, mà ban
đêm khó ngủ là một nổi khổ, nên tôi thường vào đây, tắm hơi, xông hơi, ngồi spa
này, về là nằm xuống ngủ êm đến sáng, khỏi nghĩ ngợi viễn vông.
Tôi trả lời ông:
- Tôi rất may là không mất ngủ, có
lẽ cũng nhờ hằng ngày đi tập thể dục nên tôi đến lên giường là ngủ ngay.
Ông sồn sồn lại nhắm mắt, cả thân
hình ông chìm trong nước chỉ chừa lại cái đầu. Bọt nước bắn vào mặt ông, ông
cũng mặc. Ông ngồi im như tận hưởng những cảm giác êm dịu, nhẹ nhàng từ nước
dội vào người. Tôi cũng thường thích những cảm giác như thế.
Ngày hôm sau tôi cũng đi vào giờ
trưa. Tự nhiên tôi thích ông sồn sồn này. Ông có cái gì đó rất riêng tỏa ra mà
tôi không hiểu được, có lẽ là một nỗi u uất nào đó, mà ông giữ kín trong lòng.
Buổi trưa khu tập thể dục thường
vắng. Tôi đến thì ông sồn sồn đã ngâm nước xong, ông đứng lên ra chiếc ghế dài
kê gần đó ngồi. Tôi mon men lại hỏi:
- Hôm nay anh đi sớm?
- À, sớm chút, tôi thích đi giờ này
vì vắng.
- Tôi cũng vậy.
Tôi bước xuống hồ nước, nước nóng
khiến tôi rùng mình. Tôi rà chân đến chỗ có vòi nước dội mạnh nhất và ngồi
xuống. Ông sồn sồn đột nhiên hỏi:
- Hồi trước anh có đi lính không?
Tôi đáp ngay:
- Có chứ, lớp tuổi mình sao tránh
khỏi. Đi sĩ quan, sau đi tù cũng 6 năm mới qua được đây đó chứ.
- Thế à, anh ở trại nào, có ra Bắc
không?
- Không, tôi ở trong Nam. Anh có đi
tù không?
- Có chớ, tôi “bọ tam” nên gần 10
niên. Ra tận bắc.
- Ồ, vậy anh cũng đi HO.
- Không, tôi đi Ô Đi Ghe.
- Anh vượt biên?
- Vượt biên thừa sống thiếu chết.
May mà đến nơi chứ không cũng bỏ mạng ngoài biển khơi cho cá ăn rồi.
Chỉ như vậy mà tôi khoái ông sồn
sồn. Ông Thịnh. Có lúc tôi thấy ông cô đơn quá đổi, có lúc ông vui vẻ không
cùng. Thế nên tôi hay la cà nói chuyện với ông riết rồi thành thân.
-------
Khi toán tụi tôi lên tàu đi Bắc, gồm
những tay có máu mặt, dân Võ Bị, dân CTCT chiếm đa số, phần đông nắm đại đội
trưởng trở lên, hay an ninh quân đội, cảnh sát, Phượng Hoàng.
Phải nói là cái tàu chở chúng tôi đi
bắc là tàu chở súc vật. Đám tù nằm ngồi la liệt lúc nhúc như những thây ma,
sống dỡ chết dỡ. Thật là khốn nạn không thể tưởng tượng được. Nhưng sự sinh tồn
của con người cũng thật lạ lùng, có những cái tưởng mình không vượt qua được mà
mình cũng vượt qua. Cuối cùng rồi chúng tôi cũng cập bến và lên bờ. Những chiếc
molotova cũ kỹ ì ạch chở tôi đến trại Hoàng Liên Sơn.
Khi vào trại, bọn tôi có 4 đứa họp
làm một toán, chúng tôi ăn cơm chung với nhau, thề quyết không bỏ nhau, dù có
chuyện gì xảy ra, thằng Cường, nhảy dù, Chiến, Thủy Quân Lục Chiến, Thịnh là
tôi, Biệt động quân, và Tuấn, sư đoàn bộ binh. Trước đó ở trong Nam, chúng tôi
đã nằm gần nhau, “ca cóng” cùng nhau, ăn uống cùng nhau nên trở nên thân thiết.
Khi chuyển ra bắc vào trại Hoàng Liên Sơn, may mắn là chúng tôi lại cùng ở
chung đội, 3 thằng kia nằm đầu dãy lán, tôi nằm đàng phía trong, nhưng chúng
tôi vẫn ăn cơm chung, dù lúc đó cơm tù chẳng có gì, nhưng ngồi nhai mấy miếng
cơm hẩm với nước muối, mà có những thằng bạn cùng mình nói chuyện thì cũng đỡ
buồn. Khi vào trại Hoàng Liên Sơn, tôi thấy đời mình đến đây đã là ngày tàn,
không biết bao giờ thoát khỏi khu rừng núi thâm sơn cùng cốc này. Nơi khỉ ho cò
gáy mà ngày còn ngồi học lớp nhất bậc tiểu học, tôi đã biết rặng Hoàng Liên Sơn
là núi cao nhất VN và ngọn Păng Xi Păng cũng là ngọn núi cao nhất nước.
Bọn CS đem chúng tôi nhốt vào nơi đây chắc chắn là chúng tôi sẽ phơi xương nơi
chốn này, không có một ngày về với gia đình.
Chúng tôi vào rừng đốn tre, đốn gỗ lập
thành lán trại. Tù tự lập nhà tù nhốt mình là thượng sách, thằng nào lên cai
trị cũng lấy phương châm này là kim chỉ nam, tù cai quản tù, mà CS dùng một
danh từ là “hệ thống tự quản”, trên có Ban Thi Đua, do 1 tên tù tổ sư, có nghề
“cong lưng”, làm tay sai, la hét anh em, dưới sự chỉ bảo của bọn quản
giáo.Những tên Trưởng Ban Thi Đua qua các trại tôi biết, những tên này hồi
trước cũng một thời hò hét với lính lác, cấp bậc có thể là trung tá, thiếu tá,
đại úy, đủ cả. Bọn cai tù cũng có nghề coi
tướng, thấy tay nào có tính lăng xăng, nịnh bợ, kiếm điểm, là bọn nó nối kết
ngay, trước là cho làm ăn teng, báo cáo vài chuyện vặt vãnh,sau nâng lên cho
làm trong tổ tự quản, khỏi đi lao động tại hiện trường, được ăn cơm no, thỉnh
thoảng lại được bọn cai tù cho vài cọng rau, củ khoai, gọi là bồi dưỡng, là bọn
nó mừng húm lên, quyết chí làm tay sai, ra sức đàn áp anh em tù bên dưới.
Bọn tôi 4 người, cùng ăn cơm chung,
ai đi lao động tại hiện trường kiếm được nắm lá giang, hay cải tau bay thì mang
về nấu lên cho có chút rau tươi, chia nhau mà húp nước. Cũng có thể đó là những
ngày hạnh phúc của bọn tù chúng tôi.
Một hôm, 4 chúng tôi đang ngồi nhai
mấy miếng bo bo, vừa nói chuyện, thì ở đâu, tay Biển cùng lán, xăm xăm lại:
- Mấy “toa” nói chuyện gì mà vui quá
vậy, cho tôi mượn ống điếu hút ké một điếu thuốc lào thử coi.
Thuốc lào là môn giải trí độc nhất
vô nhị ở đây, 1 năm qua không có thuốc lá, thuốc rê, vì chúng tôi chưa được gia
đình thăm và tiếp tế lần nào, nên chỉ một số ít người còn chút tiền đem theo,
nhờ mấy tay vệ binh mua cho thuốc lào, nên thuốc lào còn quý hơn vàng. Tay Biển
sà tới, xởi lởi lấy trong túi áo bọc ny lông có chứa một bịch thuốc lào. Chúng
tôi ai cũng sáng mắt lên, trước tiên Biển làm một điếu, hít đầy buồng phổi và
thở ra một cách khoái trá, đến các bạn tôi, rồi tôi, ai cũng được hít “chùa” đến
phê, một bi thuốc lào cở bự, thiệt khoái không sao kể siết.
Biển vừa nằm lim dim đôi mắt, vừa kể
lể:
- Tôi là Navy lieutenent colonel,
hồi tháng tư 75, tôi chỉ huy chiếc tàu đi từ
Nha Trang ra Đà Nẵng để yểm trợ cho quân đoàn 1 tái chiếm Đà Nẵng, không ngờ
theo lệnh Mỹ, “tông tông” nhà ta bỏ Ban Mê Thuột, rồi bỏ vùng 2, lúc đó tôi ra
đi dễ dàng, nhưng mình là sĩ quan chỉ huy, mình không thể bỏ chiến hữu của mình
lại được, cuối cùng tôi lên bờ nên bị kẹt lại, mẹ kiếp!
Thật ra chuyện Biển nói với chúng
tôi, tôi cũng nghe nhiều lần rồi, đi đâu, tay này cũng oang oang cái lỗ miệng
về cái back round của mình, cái back round đó thì mỗi người mỗi vẻ, dĩ nhiên
khi còn quyền hành trong tay, tôi cầm quân trong binh chủng “cọp ba đầu rằn”,
tôi cũng hách xì xằng lắm chớ bộ, nếu mà quân đội một mực chiến đấu thì chưa
chắc ai thắng ai. Chúng tôi bỏ súng là do lệnh trên, điều này ai cũng biết vậy,
nên nay đành phải “ngậm một mối căm hờn bên củi sắt.”
Biển đổi giọng, nói tiếp:
- Mấy “toi” cho tớ ngồi ăn cơm chung
với nhé, đàng kia, bọn nó hổn quá, tớ chịu không nỗi. Ăn chung trò chuyện cho
vui cửa vui nhà mà. Có gì đâu.
Thiệt ra, chúng tôi nghĩ, bọn tôi 4
tên là vừa, nhiều quá gây ồn ào, mà tên Biển này nghe anh em tù cũng lao xao
bàn tán là một tay hay bốc phét, lại mỗi khi gặp “quản giáo” hay “vệ binh” thì
y một điều “thưa cán bộ”, hai điều “thưa cán bộ”, nên đám tù không ưa. Nhưng mà
chúng tôi đã mắc quai “mấy bi thuốc lào” của tên Biển, nên biết ăn làm sao nói
làm sao bây giờ. Chúng tôi đành ậm ự cho qua. Thế là từ đó, cứ mỗi lần chia cơm
xong, thì tên Biển mang qua ngồi với chúng tôi, chúng tôi cũng chỉ coi gã như
một bạn đồng tù.
Qua mùa đông u ám của năm 76, mùa
xuân hé mở với chúng tôi một mùa xuân tươi rói của đất trời, nhưng khi nhìn đi
nhìn lại, chúng tôi vẫn thấy không có 1 hứa hẹn của ngày về. Điều mà trên thông
cáo, ai cũng nghĩ là chúng tôi đi học tập chỉ 1 tháng thôi.Chuyện “thăm thẳm
chiều trôi” này làm nãn lòng anh em chiến hữu đồng tù không ít. Ai cũng có hoàn
cảnh riêng, ai cũng lo cho ngày về của mình xa tít vời vợi, còn vợ dại con thơ ở nhà ra sao đây? Một hôm, Cường “dù” nói
nhỏ với tôi:
- Tau phải dọt thôi, không thể chôn
vùi đời trai mãi ở đây được, trước sau gì tau cũng tìm cách dọt, mày có tính
“đi” cùng tau không?
Thật ra,nhìn quang cảnh trại tùvới
rừng núi mênh mông bạt ngàn tôi quá ngại, nên tôi nói nhỏ với Cường “dù”.
- Tau thấy bọn nó nhốt mình ở đây
thâm sơn cùng cốc quá, biết đường đâu mà đi.
Cường cương quyết:
- Bắt đầu từ bây giờ, tau quyết chí
phải dọt khỏi nơi này. Vợ con tau đang đói ở nhà, tau chịu không nổi nữa.
Chuyện này tau chỉ nói riêng với nhóm mình thôi, tụi bây đừng hé môi cho ai
biết nhé.
Tôi gật đầu. Có lẽ, trong 4 đứa còn
lại, Cường “dù” cũng nói riêng cho từng đứa, nên tôi thấy sau đó thằng nào cũng
tỏ ra nhấp nhỏm, ăn miếng cơm hẩm trong miệng cũng cố nhai cho thật lâu để khỏi
phải nhìn thằng kia. Chúng tôi im lặng sống trong lúc Cường “dù” cũng im lặng
lo cho cuộc vượt thoát của mình.
Thằng Biển, sau đó 1 tháng, nó rời
bỏ nhóm, về lại bên kia, nó nói, bây giờ nó muốn ăn một mình để ngẫm nghĩ sự
đời. Nó đi rồi, tụi tôi lại thong thả hơn, vui vẻ hơn, nói năng khỏi phải giữ
mồm, giữ miệng. Có tin đồn râm ran, nó hay lên nhà của mấy tay quản giáo một
mình. Nó lên làm gì ai mà biết, tuy nhiên anh em cũng chỉ bàn ra bàn vào, vậy
thôi.
Hôm Cường “dọt” là một đêm khuya,
khu trại tù Hoàng Liên Sơn sương mù phủ dày đặc, đưa bàn tay sát mắt mà không
thấy. Hôm đó tình cờ sao buổi chiều có thằng Biển qua ngồi hút thuốc lào. Cường
thì thầm vào tai 4 đứa:
- Tối nay tau dọt, một chết, một tự
do. Tau có chết bọn mày có về nhớ báo cho vợ con tau biết.
Biển rít xong điếu thuốc lào rồi
đứng dậy ra về.
Đêm xuống mịt mùng tối đen bao quanh
khu trại tù Hoàng Liên Sơn. Tôi nằm lơ mơ cầu nguyện cho bạn mình vượt thoát, rồi ngủ quên đi lúc nào không hay, đến khi
đâu nửa khuya, nghe ầm vang lên tiếng nổ của những loạt
đạn AK, chúng tôi mới giựt mình tỉnh giấc.
Chúng tôi bị đánh thức cả lán trại.
Cường dù bị bắn gục ngay khi vượt qua hàng rào. Cường dù là một sĩ quan chỉ
huy, một đại đội trưởng dù nỗi tiếng, tại sao anh bị bắn ngay từ phút đầu vượt
trại? Tôi nghĩ, có bị bắt, hay bị bắn, ít ra cũng ra khỏi nơi này, ngoài kia
núi rừng thâm u, chứ ở đây, đã biết giờ giấc lịch trình của vệ binh canh gác,
Cường dù đâu có dại để bị bắn ngay từ đầu như vậy.
Tụi tôi sau cái chết của Cường dù,
đã bị bọn quản giáo kêu lên kêu xuống biết bao nhiêu lần. Tuy nhiên, riết rồi
chúng tôi cũng thoát. Thằng Biển sau đó được anh em chuyền tai là một tên “ăn
teng hạng nặng”, nó đã báo cho quản giáo biết bao nhiêu chuyện của anh em trong
lán. Sau vụ Cường dù bị bắn, Biển được chuyển lên trên khung gác nhà máy điện,
nên sau cái tên Biển “hói”, Biển “ăn teng”, nó
còn có tên Biển “điện”.....
Chúng tôi trở về sau gần 10 năm ở
tù, quyết chí trả thù cho Cường dù, một chiến sĩ quân lực VNCH xuất sắc và kiên
cường đã bị thằng “ăn teng mạt hạng” Biển “hói” báo cáo khi vượt trại. Nhưng
tin tức của thằng Biển ra trại ở đâu vẫn biệt vô âm tín.
Qua đây chúng tôi lần mò tìm tin tức
thằng Biển, nhưng nó cũng vô tăm vô tích. Chúng tôi 3 thằng bạn đồng tù cũ đã
lên lịch, thông báo với những anh em khác cố tìm cho ra tung tích thằng chó đẻ.
Khi nghe thoáng đâu nó cũng được qua Mỹ, không dám ở khu người Việt đông, có
anh em H.O đông, nó trốn như chạch ở đâu bên PA, rồi cũng thay đổi hình tích
nhân dạng liên tiếp.
Nghĩ đến Cường dù gục ngã trước làn
đạn đạn của thằng vệ binh Việt cộng do thằng Biển báo cáo, chúng tôi tức sôi
gan lên, muốn băm vằm nó ra từng mảnh.
Sau cái chết của Cường dù một tháng,
thằng sáu Đờn, quản giáo, lên giọng dạy bảo, lên lớp đám tù: "Các anh muốn
về sớm không? Các anh còn tinh thần phản động quá lắm mà, các anh đừng hòng
vượt thoát ra khỏi nơi này, cái chết của thằng Cường là 1 tấm gương tày líp,
các anh hãy phản tỉnh lại đi,về đoàn tụ với gia đình sớm hay muộn là tự các anh
thôi. Như anh Biển, cấp bực hơn các anh, vậy mà ảnh là người gương mẫu, học tập
tốt lao động tốt, các anh hãy lấy anh Biển làm gương.
Thế đó, thằng Biển chó đẻ, nó đã
giết thằng Cường dù, bạn thân nhất của tôi, của Chiến, của Tuấn, những thằng ăn
cơm chung suốt mấy năm, làm sao không đau lòng và uất hận cho được. Khi ở
tù, nói sợ thì ai cũng sợ cái uy lực của bọn Việt cộng đè xuống đầu mình, gia
đình mình, nhưng khi nỗi căm phẫn đã lên đến tột đỉnh, nói “lên gân” một chút
là chúng tôi sẽ “biến đau thương thành hành động”.
Sau khi qua Mỹ,chúng tôi đã mua mỗi
đứa 1 khẩu súng, thủ sẳn trên xe, hễ gặp mặt “thằng chó đẻ” đó bất cứ ở đâu,
bất cứ nơi nào là chúng tôi sẽ “bùm” ngay. Thằng Chiến, thằng Tuấn và tôi đồng
lòng như vậy. Tôi biết luật pháp nước Mỹ này không chấp nhận điều này, chúng
tôi có thể bị tử hình hoặc chung thân, gia đình chúng tôi sẽ khổ sở trăm
bề,nhưng tôi nghĩ đến đôi mắt trợn trừng không khép đươc của thằng Cường “dù”
khi bị bọn cai tù bắn gục, tôi không thể nhẫn nhục được. Thằng Chiến thủy quân
lục chiến, trong một cuộc nhậu, nó đã cầm khẩu súng lên rồi tuyên bố 1 câu xanh
rờn:
- Tìm được thằng cho đẻ, tau sẽ xử
nó thế này, kê khẩu súng này vào ngay cái trán hói của nó, cái trán hói chứa
chất bên trong cái não bộ, vận hành toan tính cách hãm hại anh em tù, tạo phải
“đoành” một phát vào trúng trung tâm não bộ của nó, cho văng tung toé óc não
của nó ra, thì tau mới hả giận. Thằng Tuấn đại đội trưởng bộ binh thì nói:
- Tau dùng khẩu súng này nhắm vào cái miệng tham ăn, tham nói, tham báo cáo
hãm hại anh em, viên đạn sẽ xé toạt cái miệng nó ra, cho nó hết thời ăn cứt.
Còn tôi thì trong lúc ngà ngà say,
cơn giận thằng chó đẻ hãm hại bạn tù này cũng lên cực độ, tôi nói:
- Tau sẽ kê súng ngay hạ bộ thằng
cho đẻ, bắn tanh bành nó ra, để nó về chầu diêm vương hết thời làm điếm đực,
làm chỉ điểm.
Thế mà thằng Biển chó đẻ vẫn biệt vô
âm tín.....
Nghe chuyện kể của ông sồn sồn tôi
cũng nổi da gà, chuyện “ăn teng” trong tù cũng là chuyện dài nhiều tập, tôi
cũng nghe nói nhiều người có tiếng tăm của chế độ cũ, khi vào tù cũng cam tâm
làm “ăn teng” mạt hạng cho bọn quản giáo, vệ binh, để được chút ưu tiên. Tuy
nhiên chuyện báo cáo cho bọn cai tù biết ngày giờ của người bạn mình vượt trại,
để bạn mình bị bắn chết gục ngay dưới hàng rào kẽm gai, cũng là một điều không
thể tha thứ. Nợ máu phải trả bằng máu là chuyện đương nhiên, là đúng. Nghĩ vậy,
tôi hỏi tiếp ông Thịnh:
- Vậy cuối cùng, đến nay nhóm bọn
anh có tìm ra tông tích thằng “ăn teng chó đẻ” đó không?
Ông Thịnh mỉm cười, nụ cười ông trở
nên hiền hòa vô cùng, ông kể:
- Không, à mà có. Suốt mười mấy năm
tụi tôi mai phục, tìm kiếm tông tích nó, đến độ cây súng tôi bỏ trong thùng xe
bị hoen rỉ đi. Thằng chó đẻ vẫn biệt vô âm tín. Sau nhiều năm cư ngụ ở
vùng tây bắc, tôi quyết chí đưa gia đình về CA, vì tôi nghe thằng chó đẻ đã dời
về ở đây. Bỗng một hôm, vào buổi sáng, tôi đọc trên một tờ báo Việt ngữ, thấy ở
Las Vegas, tiểu bang Nevada, có tin 1 tai nạn xe hơi khủng khiếp, làm chết một
người đàn ông và một người đàn bà. Xem kỹ tin này thì biết, chính người đàn ông
chết đó là thằng Biển “ăn teng”, Biển “điện”. Nó từ PA về Cali, vì sợ quá nên
trốn chui trốn nhũi, vợ bỏ nên nó tấp vào con mẹ chủ chợ cá ở Bolsa, con mẹ này
hay lên đài ban đêm chửi bới đủ thứ. Thằng Biển “cặp” con mẹ này nhắm vào cái
chợ con mẹ có hùn hạp làm ăn, nào ngờ cái chợ đang đà phá sản. Hai tên này buồn
tình hay sao mà sa vào trò đỏ đen ở Las Vegas. Không biết làm sao, có phải là
oan hồn của Cường “dù” nhập vào, để trả thù món nợ chết oan năm xưa hay không,
mà thằng Biển lái xe chạy quá tốc độ, khiến xe đâm phải vào cột đèn, làm 2 đứa
chết không toàn thây.
“Thằng chó đẻ” chết đã 2 năm rồi. 3
tụi tôi họp nhau lại nhậu một bữa đã đời, để ăn mừng chiến thắng, cũng mừng may
mắn là tay chúng tôi chưa nhúng vào máu. Sau đó chúng tôi quẳng súng xuống
biển, coi như ông trời đã thay tụi tôi “tính sổ” thằng cho đẻ. Suy cho cùng,
cái gì cũng có nhân quả của nó hết, phải không ông?
Trần Yên Hòa
No comments:
Post a Comment