I. Tháng
Chín, ba mươi hai năm trước, 1972 đã là lần lịch sử chuyển mình, núi rừng, đất
trời miền Nam đồng vang dội chiến công.
Quân Nam
quyết liệt xốc tới nơi những chiến trường Quảng Trị, Bồng Sơn, Kon-Tum, An Lộc…
hiện thực một lần nghĩa vụ linh thiêng muôn thuở của Người Lính – Bảo Quốc An
Dân – Sứ mệnh không hề nói thành lời, và được hiện thực với chính máu xương của
những con người vô danh cao thượng mà Ðằng Phương, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy mấy
mươi năm xưa đã viết nên những dòng máu lệ ngợi ca hùng tráng,
Nội dung
vĩ đại trên được thực hiện qua những cảnh tượng hùng tráng: Ngày 25 Tháng Sáu
1972, chiến dịch tái chiếm Quảng Trị khai diễn với các đơn vị: Biệt Ðộng Quân,
Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, lực lượng diện địa của Tiểu Khu Quảng Trị, phối hợp
với các chi đoàn chiến xa, thiết quân vận của Quân Ðoàn I, được yểm trợ bởi các
đơn vị pháo cơ hữu, và của vùng chiến thuật dưới quyền chỉ huy của Tướng Quân
Ngô Quang Trưởng.
Ðoàn quân
quyết tử phục hận đồng vượt tuyến xuất phát Sông Mỹ Chánh tiến theo trục chính
Bắc với mục tiêu cuối cùng – Cổ Thành Ðinh Công Tráng hay Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu
Quảng Trị – mà quân ta phải tạm lìa bỏ từ 29 Tháng Tư do những ước tính sai lầm
của những cấp chỉ huy, giới chức lãnh đạo.
Từ Ngã Ba
Long Hưng, cửa ngõ phía Nam Quảng Trị, điểm tiến quân cao nhất của Tiểu Ðoàn 7
Nhẩy Dù trong ngày 7 Tháng Bảy 1972, đến Cổ Thành Ðinh Công Tráng đoạn đường
dài khoảng một cây số, và bề ngang từ nhà ga phía cực Tây đến làng Công Giáo
Trí Bưu phía đông, khoảng cách cũng có bề rộng tương tự. Trên khoảng đất rộng
hơn cây số vuông kia, mười lăm ngàn người lính của những đơn vị kể trên đã thay
phiên nhau bò, trườn, ẩn núp, gọi pháo, đánh bom, ném lựu đạn, đánh cận chiến
ngày lẫn đêm suốt đoạn thời gian liên tục 67 ngày, để đến Ngày 14 Tháng Chín
1972 những người lính của các tiểu đoàn TQLC đồng lần siết chặt mục tiêu, dựng
ngọn Cờ Vàng bay lộng trên gạch đá điêu tàn, giữa tiếng đạn, khói thuốc súng của
trận chiến đang hồi kết thúc.
Chiến tích
kỳ diệu trên ắt phải được nung nấu từ một nguồn thúc giục vô vàn mãnh liệt mà
không thể mua bằng một giá biểu lương bổng nào dầu cao đến bao nhiêu, chắc chắn
cũng không do từ một huy hiệu, cấp bậc tưởng thưởng… Người lính đã bậm chặt
môi, nghiến răng xốc tới bởi từ dưới những đụn cát loang lổ vùng Hải Lăng, Giáp
Hậu, chen giữa những xác chết nặng mùi có những dạng người cử động… Những người
sống sót từ lần thảm sát khi rời bỏ Quảng Trị trong ngày 29 Tháng Tư, trên đường
chạy về Huế, lọt vào ổ phục kích vùng hỏa tập tiên liệu của đơn vị cộng sản, chín
cây số Nam La Vang kéo dài đến cầu Câu Nhi Phường, xã Giáp Hậu, quận Hải Lăng.
Những người sống sót hồi sinh với tiếng nói đứt khúc, thì thầm hấp hối… Lính tới…
Lính Cộng Hòa tới…
II. Sau 30
Tháng Tư 1975, những người lính kể trên có thể đã chết (theo một tỷ lệ khả thể
rất lớn) theo lần sụp vỡ quê hương.
Không phải
với cách chết bình an lành lặn, nhưng chết với xác thân bị dầm xé, những tay
chân gãy gập, đứt đoạn, xương cốt dập vỡ… Những người chết bị kết án, sỉ nhục từ
những ngày sống thoi thóp, và chết đi trong uất hận căm hờn rung động đến cùng
tận đất trời. Tiếng gào đau nầy đã dậy lên suốt tuổi trẻ trên từng trang sách của
hơn ba-mươi năm qua… Bởi bản thân vẫn mãi mãi và luôn chỉ là – Người Lính của một
quân đội hằng sống, chết vẹn toàn để thực hiện sứ nhiệm báo ân cùng dân tộc khổ
nạn trên quê hương điêu linh – Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Nhưng có
những con người – Những người lính vẫn tồn tại. Phải tồn tại. Họ không chỉ là
những người lính bình thường với nỗi truân chuyên, gian khổ, nguy nan đặc thù
riêng của đời lính mà là những quân số chịu phần oán nghiệt khốc liệt nhất
trong toàn tập thể quân đội – Những thương phế binh bị loại ra khỏi cuộc chiến
từ lúc chiến tranh đang nặng độ. Ðây lại là những thương phế binh của một quân
đội thất trận, ở lại sau cùng khi những người chỉ huy đã tráo trở đầu hàng, tan
hoang tháo chạy, hoặc cùng đày bó tay bẻ súng, vị quốc vong thân. Không vũ khí,
không đủ cả giác quan, tay chân, họ ở lại hứng trận đòn báo thù hèn hạ từ một tập
đoàn thắng trận bạo ngược tàn nhẫn nhất trong lịch sử Ðông-Tây, mà thông thường
khi cuộc chiến chấm dứt, những phe lâm chiến hằng đối xử nhau một cách văn minh
với tính bình đẳng huynh đệ… Pháp-Ðức, Mỹ-Nga, Hoa-Nhật… Nhưng, ở Việt Nam, nơi
miền Nam, một bên, kẻ thắng trận, tổ chức bạo lực phát động chiến tranh, giành
luôn quyền giết người và thực hiện tội ác vì “độc lập, tự do, hạnh phúc cho đời
đời con cháu mai sau!!” và một bên, tập thể những con người trần trụi tuyệt vọng,
đối tượng của một chính sách bức hại thâm độc vô nhân tính không cơ may được
khoan thứ, không phương tiện chống giữ, không hy vọng thoát thân.
Ðau thương
hơn nữa, họ không chịu riêng một mình mà kéo theo những người thân thích, nói rộng
ra, một lần với miền Nam thất trận cùng đành. Cái chết cũng vô nghĩa và không
thể thực hiện được bởi khả năng cuối cùng này đã hoàn toàn bị tước bỏ. Họ thật
tận chết từ trong mỗi ngày giờ hiện sống, qua bức hại, thanh trừng, lưu đày,
hành hình trên chính quê hương từ những người gọi là đồng chủng tộc…
Chúng ta
hãy cùng sống lại từng bước của buổi trường chinh vô hạn khốn cùng của mỗi đơn
vị người gọi là Thương Phế Binh, với những người mẹ, vợ, và những đứa con của họ.
Những trẻ nhỏ hoàn toàn vô tội và vô hại cho dù xét xử dưới bất cứ chế độ chính
trị, xã hội nào.
– “Ðứa nhỏ chết dưới đường cống Sài Gòn.” Nầy đây, chúng ta hãy nghe thương phế binh Nhị Nguyên viết về hai con nhỏ của tử sĩ Nguyễn Văn Thuận, đơn vị sư đoàn Nhảy Dù, quê Long An… “Thằng Nô, 12 tuổi, Phát 14 tuổi cùng mẹ đi vùng kinh tế mới ở Ðồng Tháp Mười, nhưng đời sống quá cực nhọc và không đủ ăn, bà mẹ dẫn hai đứa con về Sài Gòn sống lang thang. Nô và Phát thường khoe với chúng tôi rằng, cha chúng đi lính mặc áo hoa rừng chết vào mùa mưa 1972. Mẹ chúng đã khóc như mưa lúc nhận xác cha, nên mỗi khi vào mùa mưa, chúng cảm thấy buồn buồn. Gần đến ngày giỗ cha, chúng cố “làm ăn” cho có nhiều tiền để về Long An thăm mẹ. Thường khi các bạn đồng lứa bắt đủ cá xong trở lên mặt đường ngủ thì chúng nó tiếp tục lặn dưới các ống cống thành phố để tìm thêm cá. Có những buổi sáng, chúng tôi thấy hai anh em rét run vì ngâm dưới nước quá lâu.
Vào một
đêm nọ, tôi thấy hai anh em thằng Nô, Phát lặng lẽ mở nắp cống chui xuống, khoảng
vài ba giờ sau thì sấm chớp rầm rầm, chúng tôi choàng thức dậy tìm chỗ trú mưa.
Một trận mưa như vũ bão đổ ào xuống thành phố và kéo dài cho đến sớm. Bình thường,
hai anh em thằng Phát ở lâu hơn bạn bè dưới cống, nhưng sao giờ nầy chúng nó vẫn
chưa lên? Thôi rồi, tôi hốt hoảng hiểu ra mọi sự… Anh em chúng tôi báo động với
nhau, hỏi thăm những đứa trẻ đang ngủ gà, ngủ gật cạnh những đống rác “giữ chỗ”
cho công việc sáng hôm sau (để moi, nhặt rác). Chẳng đứa nào thấy hai anh em thằng
Nô. Cho đến một hôm, ba mươi – ba ngày sau, một đứa khác đang lội bì bõm ở ống
cống gần chợ Cầu Ông Lãnh tìm cá, bất ngờ đụng phải một cái gì giống như “trái
dừa,” nó nhặt lên, soi dưới ánh đèn, hét tiếng lớn và bỏ chạy. Sợ quá, nó chui
đại lên miệng cống ngay gần chợ trước sự kinh ngạc của bạn hàng, nó vừa lượm một
cái đầu lâu. Cả chợ hay tin đó liền kêu đội dân quân gác chợ mở cống tìm xác
hai đứa nhỏ, nhưng cuối cùng chỉ nhặt được một khúc đùi đã thối rữa, và nửa
thân người còn lại. Bọn trẻ nhận ra cái quần đùi màu đỏ của thằng Phát, bên trong
còn ít tiền gài kim băng cẩn thận. Tiền đó thằng Phát để dành về quê giúp mẹ
làm đám giỗ cha.
– “Về
những người vợ lính.” Chúng ta nghe tiếp về những người vợ lính, vợ thương
phế binh… Ðấy là những người đàn bà bình thường, đơn giản, trú ngụ ở các trại
gia binh của các đơn vị quân đội. Những người đàn bà chỉ ao ước mỗi tháng được
mua hàng quân tiếp vụ, thăm chồng nơi chốn hành quân xa với tay xách đựng vài ổ
bánh mì, nải chuối, biểu lộ tình nghĩa vợ chồng qua tiếng lời trung hậu, tội
nghiệp… Cũng chính họ đã gánh chịu tai họa chiến tranh ngang tầm của người chồng
trong cách thế im lặng, thụ động và cam phận… Những buổi sáng tinh mơ trước khi
đoàn xe lăn bánh ra khỏi hậu cứ, họ đã có mặt với những đứa con còn ẵm ngửa, đứa
dắt tay. Họ biết nói gì với chồng trước mỗi lần đi ngoài lời thầm xin cầu nguyện…
Mong lần đi có khi trở lại, và nếu người chồng trở về với những thương tật
không thể bù trừ, những mất mát không hề được tái sinh, họ chấp nhận sự thiệt hại
đau thương, giá máu đổ xuống một cách khắc kỷ cao thượng qua lời nói nhẹ tênh…
“Ừ thôi, ba hắn không chết là tui mừng rồi, còn vợ, còn chồng là được.” Và đời
họ, người chồng lính, những đứa con sẽ kéo dài bình an chìm lặng từ nỗ lực đôi vai,
chiếc lưng ngồi hằng ngày nơi phố chợ, hoặc với quang gánh nhọc nhằn trên đường
xa. Tất cả khổ đau hoạn nạn được quên khuất nhanh chóng với câu nói bình thản…
“Ba sắp nhỏ dù đui què, mẻ sứt chi mà còn sống là tui cũng yên lòng.”
Tất cả mối mong ước bình an chịu đựng nhỏ bé nầy đồng bị đổ nhào, lật ngược một cách tàn nhẫn nơi ngày 30 Tháng Tư, 1975… Chồng chị Liên là anh Hơn, phế binh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh, cụt một chân và lao phổi nặng. Một hôm đi bán nhang chẳng may băng qua đường bị trợt té, một chiếc xe hàng chạy qua thắng không kịp, đầu anh bị cán nát, lòi cả óc ra ngoài. Dẫu chồng chết, chị Liên cũng đã lây bệnh ho khậm khẹt và không hiểu sao chị sợ màu đỏ quá. Nó giống máu hòa trong nước miếng của chồng chị nhổ ra sau mỗi cơn ho, nó cũng giống màu cờ đỏ treo khắp thành phố. Liên cùng chị Mạc, vợ một phế binh khác, và chị Nguyệt lên Long Khánh buôn củi lậu. Cả ba đi tàu chui và khi gần đến ga Bình Triệu thì tuôn củi xuống, Liên có đứa con trai lớn tên Ðức, nhanh nhẹn giúp đỡ mẹ rất đắc lực, nhưng chị Mạc với bé Hoa mới 5 tuổi thì thật là khó khăn, nguy hiểm khi nhảy tàu, vừa bế con, vừa tuôn củi. Liên khuyến khích bạn, “Chị đừng lo, thằng Ðức con tôi sẽ cõng con Hoa nhảy giùm cho….” Nhưng sự “may mắn” không đến với chị Liên được mãi, tai họa đã xẩy ra như một điều tự nhiên của nghiệp khổ phận người Việt Nam.
Một hôm,
trời mưa tầm tã, bảo vệ chia nhau ngăn chặn các toa xe. Ðể cứu lấy món hàng, Ðức
và những đứa nhỏ leo lên trần xe và chuyền những bó củi qua cửa sổ. Một đứa tuột
tay bị cuốn vào bánh xe lửa, thân thể bị nghiền nát vụn dọc theo đường tàu. Về
đến ga Thủ Ðức, chị Liên vẫn không thấy thằng Ðức đâu, hỏi thăm lũ nhỏ, có đứa
bảo thấy thằng Ðức leo mui xe lửa trốn bảo vệ. Nhưng đến ngày hôm sau, Liên mới
biết được rằng, khi xe qua cầu Biên Hòa, con chị đã bị đà ngang đánh vỡ đầu,
rơi xuống đường ray, thây xác bây giờ không biết nằm đâu… Cuối cùng, chị Liên
gia nhập lực lượng “tình nguyện hiến máu.” Chị có ý định sau khi gom được số tiền
bán máu chị sẽ đi buôn lại như xưa vì bây giờ nghe nói Cộng Sản không còn “ngăn
sông cấm chợ.” Chị đã đến các trung tâm tiếp huyết Thủ Dầu Một, Bình Dương, lên
tận Lộc Ninh rồi vòng qua Biên Hòa để bán máu. Nhưng vì muốn mau thoát khỏi kiếp
sống hè phố chị đã quên chính mình, thân xác càng ngày càng suy kiệt, mặt chị
xanh xao, đi không vững, bị xây xẩm luôn. Một đêm chị ngủ trên ghế đá một công
viên ở Chợ Lớn, sáng mai người ta tìm thấy xác chị cứng đơ. Khi đem xác đi
chôn, số tiền để dành trong túi chị bị công an tịch thu vì không có chứng minh tài
chính hợp lệ.
– “Cảnh
sống/chết đọa đày của Gia Ðình Thương Phế Binh.” Ðây, lời kể của chứng nhân
Bùi Anh Sáu về lần “Ghetto, Làng Phế Binh Thủ Ðức” bị triệt hạ: “Ba giờ sáng
ngày 1 Tháng Bảy, 1975, Làng Phế Binh Rạch Chiếc Thủ Ðức bị đánh động, vây chặt
bởi một đơn vị bộ đội đông đúc có cả xe tăng yểm trợ. Một đoàn xe chờ sẵn để dồn
mọi người lên vùng kinh tế mới Sông Bé (Phước Long cũ)… Kinh tế mới là gì, chẳng
ai biết? Sông Bé ở đâu, người người bàn tán xôn xao. Trẻ nít khóc rân, người lớn
nháo nhác hốt hoảng dồn đồ đạc, áo quần dưới ánh sáng luồn sục, thúc giục của
đèn xe và đèn pin và lời quát tháo chửi mắng… “Chúng mầy là gia đình bọn ngụy
quân, lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân, chúng mầy không được
quyền ở đây, phải trả lại tài sản cho nhà nước và nhân dân!”
Chen trong
chuỗi la ó hỗn loạn kia có những âm thanh nổ bùng, sắc gọn sau tiếng la hét uất
hận… Những thương phế binh tự sát cùng với gia đình, từ chối lên vùng kinh tế mới.
Ðến sáng, toàn khu làng phế binh ngày thường sầm uất nhộn nhịp nay vắng hoe,
heo hút những đám cháy nhỏ gồm những vật gia dụng bộ đội không cho đem theo; chỉ
còn những đơn vị bộ đội đứng gác và các toán đi lại, vào từng nhà kiểm kê. Một
đoàn xe khác từ Sài Gòn đến, sau khi đã chất đầy những đồ đạc để sẵn ngoài sân,
phủ bạt kín, chạy ra xa lộ, hướng về phía Bắc.”
Gần một năm sau, tất cả những gia đình đi kinh tế mới ở Sông Bé đồng trở về vì không chịu đựng nổi cảnh sống quá cực khổ ở vùng núi rừng hiu quạnh. Có gia đình về không đủ như lúc ra đi vì đã để lại thân xác nơi rừng sâu; có gia đình thì đông hơn trẻ nít, nhưng tất cả đều ốm yếu, nước da vàng vọt, người đầy ghẻ chốc. Họ không còn nhà, nên thường cất những chòi bằng giấy cứng quanh nghĩa địa. Người sống và người chết chen nhau. Vào ngày nắng gắt hoặc mưa giông, nghĩa địa bốc mùi tanh nồng nặc, dần dần ai nấy đều có nước da tai tái như người chết. Nhà cửa khu trại gia binh bị trưng thu, vùng kinh tế mới sống không nỗi, lấy nghĩa địa làm nhà, lề đường là vùng sinh sống, đám dân cùng khổ biến thành “tệ đoan xã hội,” đối tượng của chính sách dồn ép và quét sạch để “làm đẹp tổ quốc giàu, mạnh, xứng đáng thành phố mang tên bác kính yêu.”
Chúng ta
nghe tiếp lời của phế binh Bất Hạnh, hiện ngụ tại Khánh Hội, Sài Gòn: “Những cuộc
truy quét thu gọn rầm rộ được phát động trong những xóm lao động, dài theo đường
phố Sài Gòn, những vật dụng ăn cướp của đám bần dân bị công an quăng đầy lên xe
cây: cây dù, tủ thuốc lá, xe xay nước trái cây, xe bán nón, đòn gánh, rỗ bánh
tráng… Chưa hết, bên cạnh những chuyến xe chở hàng tịch thu là những chiếc xe
bít bùng chở đầy người già, trẻ nít, người tàn tật, những bà mẹ cùng những đám
con thơ nheo nhó đỏ hỏn bế trên tay… Tất cả đồng đưa về trại tập trung về tội
“lấn chiếm lề đường.” Nầy đây, một cuộc bố ráp điển hình ở Khu Hàng Xanh: “Tôi
(Bất Hạnh) không may lọt ổ phục kích, chưa biết phải làm gì trước tình huống
thì một xe công an từ đâu phía sau chạy tới, một tên nhảy xuống, giật thùng đồ
nghề (vá xe) quăng lên xe. Thế là trắng tay! Làm sao để sống đây hở trời? Những
nơi khác, quanh Ngã Tư, tiếng la hét, khóc than vang lên tới tấp. Một chị phụ nữ
la thất thanh, chị đang giằng co với một tên công an thúng trái cây, bên cạnh
bên chị, hai cháu bé, đứa khoảng 5 tuổi, đứa chừng 3 tuổi bò lăn trên những
trái mận, ổi, khóc vang khi thấy mẹ bị tên công an đá quay lông lốc…”
– “Ðối mặt với một chính sách diệt chủng.” Sáng ngày 1 Tháng Năm 1975, một địa ngục có thật mở ra trên miền Nam, càng đậm sắc với những người tàn phế ở các quân y viện… Một toán Việt Cộng tiến vào Bệnh Viện 3 Dã Chiến buộc chúng tôi rời viện ngay tức khắc. Bọn người nầy chửi bới chúng tôi là phản quốc, tay sai đế quốc, v.v… Phản quốc nào, quê hương chúng tôi bị chúng xâm chiếm. Tay sai đế quốc nào khi dân tộc chúng tôi, thân thể chúng tôi bị đạn Nga, Tàu gây thương vong. Những chiếc “nón cối” nầy đại diện cho ai mà dám la hét: “Cút, cút ra khỏi đây. Bọn ngụy chúng mầy không được nằm tại đây. Ðồ lính đánh thuê, lũ quân bán nước!” Chúng tôi người nầy đỡ người kia khập khễnh ra khỏi trại, có những chiến hữu vết thương đang rỉ máu bị vất trần truồng tênh hênh trên lề đường… Gia đình mừng rỡ thấy tôi trở về, nhưng trong hoàn cảnh nầy ai cũng lo âu cho tương lai của mình.
Hằng ngày
tôi thấy trước mặt từng đoàn người, già có, trẻ có và những đám con nít thay
phiên nhau giành giựt những thùng đồ hộp, gạo sấy, máy móc từ trong những nhà
kho. Dòng người đổ xô tràn vào những kho tồn trữ dưới chân cầu Tân Thuận bị những
người đội nón cối xả súng bắn thẳng… Nhiều người giãy giụa dưới đất, trong vũng
máu. Dân chúng chạy tản trốn, nhưng vài phút sau họ lại tràn vào đông hơn, bất
kể súng đạn, ai bị thì té xuống, những người khác thì cứ nhào lên cậy cửa… Khi
những ngày hỗn loạn đầu Tháng Năm 1975 qua đi, những thùng đồ hộp bọn em đem về
dần cạn, người phế binh phải ra đường kiếm sống với những “nghề cứu đói,” vá lốp
xe đạp, sửa hộp quẹt gaz, bán nhang…
Và cuối
cùng, đi xin ăn. Nhưng tất cả không thể kéo dài khi Ba Nhiệm làm trưởng ban
“Truy quét tệ nạn xã hội” với một bộ phận kinh hoàng, “Nhà nuôi Thị Nghè” được
dựng nên để làm địa điểm chuyển tiếp giải quyết tất cả những đối tượng đang
sinh sống trên, với vỉa hè, số lượng nầy càng tăng vọt khi tiếp nhận thêm hàng
vạn người từ miền Bắc túng đói tràn vào…. Tuy gọi là “nhà nuôi” nhưng thật ra
nơi đó là nhà giam theo đúng nghĩa, những người bị đưa vào đây đều bị coi là “tội
phạm hình sự,” do đó bị tra tấn và hành hạ thường xuyên. “Tội phạm” là những
người bị bắt trong các đợt bố ráp lề đường, họ không có quyền khiếu nại là bị bắt
trái phép hay không và cũng không có án phạt rõ ràng; thời gian ở đây được coi
như để “nuôi dạy” nên không hạn định thời hạn giam giữ, nhiều người đã ở lại
đây vĩnh viễn. Mỗi nhà nuôi có có vài căn trại, mỗi căn rộng chừng 200 thước
vuông, với khoảng chừng 100 con người bị giam. Tối tối mọi người phải thay nhau
chỗ nằm và ngồi quạt cho nhau. Sáng khi nghe kẻng điểm danh, người nầy gọi người
kia, ai nằm im không cục cựa thì đem đi hỏa thiêu tại lò thiêu Bà Quẹo. Người sống
thì đi lao động, kể cả người tàn tật, mù hai mắt, cụt tay, chân.
Nếu sống
sót từ các “nhà nuôi,” trở về lại Sài Gòn, tình cảnh cũng chẳng sáng sủa hơn và
cuối cùng tất cả đồng “chọn” một biện pháp “không còn chọn lựa”… Hoàng Thụy và
Sơn, hai phế binh do quá kiệt sức vì bệnh lao và cụt hai chân nên được ra khỏi
“nhà nuôi số 4” Phú Giăng, Sông Bé. Họ không dám đi ăn xin, chỉ “xin ăn” lại từ
những người sống trong nghĩa địa.
Một buổi chiều, hai anh ra bến Bạch Ðằng, ngước mắt nhìn tượng Ðức Trần Hưng Ðạo một hồi lâu rồi nắm tay nhau nhảy xuống dòng nước chảy xiếc. Xác hai anh được vớt lên, cha anh Sơn đang bán bánh ú, bánh tét quanh chợ Bến Thành hay tin, đến nhìn xác con. Nhưng ông chỉ im lặng đứng chung với đám người hiếu kỳ, không dám nhận là thân nhân người xấu số vì không có tiền mai táng con mình. Ông đứng thẫn thờ nhìn chiếc xe chở xác con ông đi khuất rồi mới dám khóc.
Hoàng Thụy
và Sơn không chết một mình, những người lính tàn phế lần lượt “chọn” cho mình
những phương tiện và thời điểm thích hợp… Anh Thơm khi ngồi dưới chân cầu Sài
Gòn, gần Ngân Hàng Quốc Gia có suy nghĩ rằng, do vợ chồng anh thiếu quan tâm
nên đứa nhỏ con anh mới chết vì suy dinh dưỡng; mẹ nó đang “đi khách” ngoài chợ
Bến Thành để dồn tiền cho anh làm vốn đi bán nhang… Anh quá mệt mỏi để nghĩ tiếp…
Cuối cùng, anh mở hai tuýp thuốc ngủ trút hết vào miệng, bị say thuốc, anh ọc mửa
đầy hết áo quần, xong dẫy mấy cái và ngủ luôn dưới chân cầu. Lộc “què” mắc bệnh
ho lao, thắt cổ chết trong một toa xe lửa bỏ hoang ở Biên Hòa. Quý “Ðốc-tưa
Zivago” không nuôi nổi mẹ già 80 tuổi, bất lực nhìn mẹ hằng ngày cầm lon ra chợ
xin thức ăn nuôi thân và nuôi con, nên thắt cổ chết lè cả lưỡi ra. Thanh “liệt”
thì mài dao tự cắt cổ, cứa mãi không đứt vì sợ đau, đâm bực mình liền chĩa mũi
dao đâm cái phọt vào tim… Nhưng trong những thân thể thương tật kia, ý chí chiến
đấu của người lính không hề tàn lụi, họ vẫn giữ nguyên bản lĩnh kiêu hãnh của một
quân đội, một đơn vị hằng tạo dựng những chiến tích lừng lẫy, cho dù hành động
phản ứng tuyệt vọng bi tráng của họ chắc chắn sẽ đưa đến hậu quả khốc hại cuối cùng
với cái chết ghê rợn nhẫn tâm…
Câu chuyện
sau đây của phế binh Khát Vọng, hiện ngụ tại Long Hải, Phước Tuy có thể dùng để
tạm kết về buổi thụ nạn đau thương của thương phế binh QLVNCH với tất cả bi
hùng mà chỉ người trong cuộc mới có thể viết nên, kể lại: Khu chính trị trại
Xuân Lộc, Long Khánh thường xảy ra nhiều chuyện đau buồn. Anh Trần Văn Ðược,
trung sĩ nhất Thủy Quân Lục Chiến, cụt một chân và mù một mắt trong trận tái
chiếm cổ thành Quảng Trị, Mùa Hè 1972 bị bắt chung với Trung Úy Phạm Tấn Dũng,
binh chủng Nhảy Dù, bị thương năm 1974 trong trận tái chiếm đồi 1062, Thường Ðức,
Quảng Nam vì tội “Hội họp bất hợp pháp, âm mưu lật đổ chính quyền.”
Một hôm,
viên cán bộ quản giáo quê Nghệ Tĩnh vừa được chuyển tới, ra lệnh anh Ðược quét
sân. Vì giọng nói người nầy khó nghe, nên anh Ðược vẫn ngồi yên uống nước trà.
Gã cán bộ nhào tới xỉ vã và đánh anh một bạt tai. Nổi nóng, anh Ðược cầm lon
guigoz dựng nước nóng tạt vào mặt nó và chỉ tay nói: “Mày là giống gì mà mất dạy
quá vậy? Bộ tao là súc vật à, ai cho mầy vô phép dữ vậy?!! Tao tuy tàn tật
nhưng không để cho mầy sỉ nhục đâu. Ðồ quân mất dạy, con tao còn lớn hơn mày nữa
mà…” Ðược chưa nói hết câu, tên cán bộ nhào tới đánh anh vào đầu ào cổ, và chưởi
rủa những tiếng khó nghe. Anh Ðược bị té xuống đất, nó liền đá vào đầu vào bụng
anh. Thấy vậy, anh Dũng cà thọt chạy tới can, bị mất thăng bằng, anh níu áo tên
cán bộ nầy và cả hai ngã xuống đất. Tức thì, bảy tám cán bộ quản giáo khác từ
trong nhà chạy ra vây đánh hội đồng, cả hai anh lăn lộn chịu đòn trên mặt đất.
Dũng hốt cát ném vào mặt mấy tên cán bộ, đang lúc chúng còn đang dụi mắt, Dũng
nắm chân một tên kéo xuống, xong thúc cùi chõ vào mặt y.
Một tên
khác đi tìm một khúc tre làm cột phơi áo quần quất tới tấp vào mình, đầu anh
Dũng. Tiếng bình bịch, bồm bộp vang lên khô khan, máu từ đầu và vết thương cụt
của anh Dũng bê bết trên đất. Trại viên chạy ra năn nỉ xin tha, đám cán bộ chĩa
súng đòi bắn, lùa tất cả mọi người vào phòng; Dũng và Ðược bị kéo lên văn phòng
trại.
Trời bắt đầu
tối, không ai còn lòng dạ nào để ăn cơm, từ phòng tra tấn đến phòng giam tập thể
không xa nhau lắm, nên chúng tôi nghe được câu còn câu mất…
Nội dung
những tiếng la hét, tra khảo và trả lời đại khái như sau:
– Mầy đeo
cái gì tòn ten dưới cổ hả thằng kia?
– Thánh
Giá.
– Cởi nó
ra khỏi cổ ngay lập tức.
– Còn lâu.
Không ai có quyền buộc tôi phải bỏ nó ra. Bộ muốn cấm đạo hả. Cây thánh giá nầy
là tượng trưng cho tín ngưỡng của tôi, không ai có quyền buộc tôi bỏ ra.
Tức thì tiếng
huỳnh huỵch vang lên, có lẽ chúng đá vào người anh Dũng. Tên cán bộ người Nam
nghiến răng hằn học (chúng tôi chỉ nghe rõ tiếng Nam của tên nầy)… Ðạo hả… Ðụ
má đạo… đạo nè…
Bớ người
ta chúng đánh người… Họ giết chúng tôi! Anh Ðược gào lên nửa chừng rồi tắt nghẹn.
Những tiếng “huỳnh huỵch… bồm bộp” lấn át tiếng la của Ðược. Chúng tôi chỉ nghe
những tiếng rên rỉ dứt khoảng rồi im bặt.
Sáng hôm
sau, cán bộ quản trại cho hay, hai anh Dũng và Ðược đã “hành hung cán bộ và cắn
lưỡi tự tử chết.” Chiều tối, chúng tôi hỏi bốn người hồi sáng đi chôn Dũng và
Ðược thì biết rằng xác hai anh đầy vết tím bầm, mắt của Ðược bị sưng tím đen, mặt
Dũng thì máu đóng cứng. Hai anh có lẽ chết vì những vết thương ở đầu, máu dưới
tóc cứng khô, cạy mãi không được. Khi bó xác, bốn người phải ký giấy chứng nhận
các anh tự tử mới cho phép chôn.
III. Người
phải lên Tiếng Nói…
Trong thời
gian dài chiến tranh nơi miền Nam, dẫu trên chiến địa hung hãn, bản thân chúng
tôi chưa hề thấy lính miền Nam hành hạ tù binh, đừng nói tù binh bị thương. Một
trong những bức hình nổi tiếng của Nguyễn Ngọc Hạnh, có một tấm ảnh ít người kể
ra: Cảnh một lính Dù vác thương binh Việt Cộng ở mặt trận Chợ Lớn hồi Mậu Thân,
1968. Thế nhưng, bức hình Tướng Loan bắn tên đặc công lại được phổ biến khắp
cùng báo Mỹ và thế giới. Hình như tác giả tấm hình đã có giọt nước mắt muộn
màng hối lỗi. Quả thật, thế giới đã từ lâu im lặng đồng lõa cùng tội ác ở Việt Nam
một cách quá đỗi hèn hạ và bất công. Phải, người phải lên tiếng nói, nếu không,
sự im lặng sẽ là một biểu lộ cứng lòng nhẫn tâm đáng kết án. Thế nên, trong những
năm qua, từ Tây sang Ðông thế giới đã hằng có những tấm lòng xa xót cùng nỗi
đau của người lính thương trận nơi quê nhà… Nhưng quả thật, tất cả đóng góp nầy
chỉ mới là phần cứu nạn khẩn cấp, chứ so cùng thống khổ vô vàn kia vẫn còn rất
nhiều thiếu sót.
Và kỳ diệu
thay, nguồn mạch tình thương việt tộc-nghĩa đồng bào luôn tồn tại sắt son liên
lụy mối đau thương kia đã chạm tái tim người – Những người không tham dự cuộc
chiến, chưa hề mặc áo lính, nhưng lương năng khởi động từ trái tim xót đau –
Trường hợp người tuổi trẻ, Bác Sĩ Phan Minh Hiển – Một của những gương mặt hãnh
diện đích thực của cộng đồng Người Việt Hải Ngoại với những đóng góp nhiệt
thành tích cực, hiệu quả trong hàng loạt công tác suốt hơn hai mươi năm qua là
một điển hình… Cứu cấp người vượt biển, mất tích, trên biển Ðông; cứu trợ người
tỵ nạn ở các đảo, ở Pháp; giúp trẻ mồ côi, gia đình nghèo khó, người tàn tật (chủ
yếu ở miền Nam), và cuối cùng, khi những thành phần vừa kể tạm có đời sống ổn định,
Phan Minh Hiển dồn nỗ lực yểm trợ với đối tượng Thương Phế Binh Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa, thành phần hứng chịu khổ nạn nặng nhất, sớm nhất từ cuộc chiến,
mà dẫu quê hương đã im tiếng súng hơn hai mươi năm, nỗi cùng khổ kia vẫn chưa
có dấu hiệu được bù trừ, như phần cơ thể mất đi không thể tái sinh, như người
chết không hề sống lại. Chúng tôi đã là một thế hệ thất bại, nhưng chúng tôi
không hề thất vọng bởi luôn giữ vững mối tự tin. Chính chúng tôi chứ không ai
khác, là người lính thuần thành hằng thực hiện sứ nhiệm Bảo Quốc An Dân. Sự xác
chứng nầy hiện thực trong lòng mỗi người dân và chiến hữu chúng tôi xứng đáng nhận
lãnh lòng tri ân, phục hồi danh dự và nhân phẩm, bởi chính họ là những Chủ Thể
góp máu, xương trong ý nghĩa thực tế, cụ thể nhất để miền Nam đã một lần sống động
Dân Chủ, Tự Do – Tự Do được trả giá bằng đời sống đã mất đi theo tuổi trẻ, hy vọng
và sự sống của chính mỗi người lính.
Phan Nhật Nam
(Trích trong KBC Hải Ngoại)

No comments:
Post a Comment