Cũng như đêm cuối cùng của Đường
Tăng trằn trọc không sao ngủ được, chờ
ngày mai vào yết kiến Như Lai để lên kiếp Phật.
Cụ Phúc đêm nay cũng vậy. Ngày mai cụ tuyên thệ
vào quốc tịch Mỹ. Cụ nằm trăn trở nghĩ
đến cả mười năm trời dằng dẵng,
từ khi đủ năm để hợp lệ nạp
đơn đến những đêm đứa con trai
đi làm về chở cụ đi học lớp luyện
thi vào quốc tịch ở văn phòng USCC. Cụ nghĩ
nó như con thoi giữa 2 thế hệ. Trong tuần
đưa cụ đi học tiếng Anh, bắt cụ phải
trả lời điện thoại "hello" chứ nói
"tôi nghe đây" làm sao Mỹ hiểu được.
Cuối tuần đưa con đi học tiếng Việt,
mắng con gọi xe " fire truck" là " xe lửa
" , phải nói là "xe cứu hỏa" hay "xe chữa
lửa" chứ. Nhiều lúc cụ thấy phải chi
mà thằng chắt đi học tiếng Anh, còn cụ
đi học tiếng Việt thì mới đúng theo lý tự
nhiên của trời đất.
Thoạt đầu cụ tưởng cả lớp luyện
thi vào quốc tịch này, đầy những cụ tuổi
gần đất xa trời, học để giết thì
giờ, cho bớt nỗi buồn xa xứ. Vậy mà ngày bà
cụ Ngà thi rớt, cả lớp xôn xao lên như ngày Mỹ
rút quân ra khỏi Việt Nam. Thực ra thì bà này rớt cũng
đáng đời lắm. Đời thuở nào ông quan tòa
hỏi tổng thống Mỹ là ai, bà cụ lại trả
lời là Nguyễn văn Thiệu thì đậu làm sao
được .
Sinh nhật người nào trong lớp, bà cũng làm cho một
cái bánh gà-tồ rồi bắt các cụ vây quanh hát "Happy
Birthday". Cụ không biết đến ngày chết thì
người ta có hát "Happy Deathday" không, bởi vì cụ
nhớ bên quê nhà những ngày kỵ giỗ mới thật
là quan trọng. Con cháu tụ họp ăn uống 2, 3 ngày
liền. Chứ ngày bước vào trần thế khổ ải
này, người ta phải dày công tu hành để thoát ra khỏi
vòng luân hồi, thì mừng rỡ ngày sinh để làm gì ?
Vậy mà thời gian thấm thoát qua đi, rồi cũng đến ngày cả lớp đi thi. Các cụ sáng sớm đã ngồi đầy ra ngoài phòng đợi của sở di trú trong tòa đô sảnh thành phố. Cụ nghĩ ngày xưa đi thi Hương, thi đình cũng chỉ nhộn nhịp đến thế là cùng. Con cháu đem theo cho nào là bánh trái, nước uống, cả ghế xếp để ngả lưng, như thi vào quốc tịch đến mấy ngày trời. Bây giờ trí nhớ các cụ kém cỏi, học được tiếng Mỹ chữ nào, vài bữa lại quên hẳn đi không biết phát âm làm sao. Cho nên đi thi, cụ nào cũng viết chi chít, như xâm mình trên tay, các câu trả lời phiên âm ra tiếng việt. Thằng cháu cụ Tốc thì cứ nhắc đi, nhắc lại ngoại nhớ ngày lễ quan trọng nhất của Mỹ không phải là Tết, mà là ngày Độc Lập. Cụ lại kéo tay áo lên lẩm bẩm kiếm chữ IN ĐẺ BÊN ĐÀNG (Independant). Bà cụ Ngà hỏi với qua "có phải là ngày Tây về nước không, cụ Phúc ?". Cụ đành thở dài, biết ông tòa muốn đánh rớt thí sinh nào thì chỉ cần bắt hát bài quốc ca Mỹ là thí sinh đó rớt ngaỵ .
Vậy mà Giời phù hộ, cả lớp đậu hết.
Cụ còn nhớ ngày ăn mừng tân khoa, cụ nào cũng
hí hửng như những đứa trẻ con vừa lên lớp,
cầm vẫy lá cờ Mỹ để chụp hình lưu
niệm. Bà cụ Ngà hôm ấy đẹp hẳn ra, mặc
cái váy đầm thay cái quần đen vừa nói "Con gà
tui lội sông" (congratulations), vừa high-five, vừa
"hug" mọi người. Cụ thấy mọi
người như trẻ ra dến cả chục tuổi.
Có thể là vì cái ôm nồng nàn da thịt của bà cụ
Ngà làm cụ thấy trong người đổi thay như
cả một mùa xuân hừng hực kéo nhau về. Có thể
là vào quốc tịch mới, làm người ta tưởng
như đổi thành một kiếp người khác, trở
lại cái tuổi tập ăn tập nói, nên hồn nhiên
như một đứa trẻ thơ.
Thế mà đêm nay cụ lại trằn trọc. Một
phần là vì cụ cứ nghĩ đến ngày mai ở
tòa đô chính, ông thị trưởng thành phố tổ chức
nghi lễ tuyên thệ vào quốc tịch riêng cho cộng
đồng người Việt, để đánh dấu
một chặng đường gần phần tư thế
kỷ tàn cuộc chiến tranh của người Mỹ tại
Việt Nam. Ông chủ tịch mấy hôm nay hăm hở nhắc
nhở bà con mặc đồ cho đẹp để lên
truyền hình. Mọi người học thuộc lòng câu
"I am proud to be American" để khi báo chí radio người
Mỹ phỏng vấn thì tỏ ra cộng đồng
người Việt mình mau hội nhập hơn các cộng
đồng sắc tộc khác .
Cụ cứ nghĩ tới lúc trước cử tọa cả
nghìn người, có thống đốc tiểu bang, nghị
sĩ, dân biểu quốc hội, quan chức các ngành,
người ta gọi tên cụ lên khán đài nhận bằng
công dân Mỹ, là cụ lại xốn xang trong người.
Chả vì cụ ngang bướng giữ cái tên cúng cơm của
cụ. Tên họ trong tờ khai sinh cụ là Dư Quí Phúc. Ở trại tỵ nạn, cụ đã bao nhiêu lần cãi gàn cãi
bướng với mấy người thông dịch viên là
tên cụ phải có dấu mới là tên của cụ Tiếng
Việt một chữ có hằng chục nghĩa nếu
không bỏ dấu. Thí dụ như LO có thể là lờ, lợ,
lờ, lơ, lộ, lô, lố, lồ, lồ, lo, lọ
,lò, ló, lõ . . . Vậy mà có ai nghe cụ đâu, người
ta cứ điền vào tên trước họ sau.
Cho đến hôm cụ còn nhớ mãi ngày nhà thờ First
Bapstist Church bảo trợ gia đình cụ đến thành
phố này. Hôm ấy chủ nhật, nhà thờ đông
đảo chật cứng đến nỗi người
ta phải đứng lan ra ngoài hành lang. Ông mục sư trịnh
trọng giới thiệu gia đình cụ mới dịnh
cư. Cứ mỗi lần tả cảnh gian khổ gia
đình cụ trải qua, cả nhà thờ lại xướng
ầm lên Alleluja có nghĩa là ngợi khen Chúa. Cuối cùng
ông mục sư nói dõng dạc giới thiệu cụ:
Please welcome, Mr. Phuc Du, cái giọng ông oang oang lên "Phuc Du
!" Cả nhà thờ đang xôn xao bỗng im lặng
như chiếc xe lủa thắng gấp lại rồi lấy
trớn lao tới cười nghiêng, cười ngửa.
Ông mục sư ngơ ngác sửa lại gọng kiến,
nhìn xuống tờ giấy viết tay rồi đọc lại
tên cụ lần nữa Phuc Du Lần này đến phiên ông
mục sư gấp người lại làm đôi, cười
sặc sụa chảy cả nước mắt nước
mũi ra. Cụ Phúc chân ướt chân ráo, tưởng
đó là phong tục địa phương chào đón mình
đứng bụm hai tay đưa lên trán bái tứ hướng
để cảm ơn sự ưu ái của nhà thờ.
Sau này ông mục sư cho người đến đề
nghị cụ đổi tên gọi để lấy lại
sự nghiêm trang. Một là cụ lấy hẳn tên Mỹ
như John, Peter, Larrỵ . . .cho dễ gọi, hoặc phiên
âm tên cụ tiếng Việt Ông Phúc Dư ra tiếng Mỹ
là Mr. Foot Joy. Cụ bực lắm, tên cụ từ Việt
Nam là Quí Phúc, nghĩa là ơn phước quí báu của trời
phật ban cho, sang đến đây thì lại thành Túc Hân,
là bàn chân hân hoan. Cụ bỏ xứ sở ra đi, mất
hết chỉ còn một cái tên Việt là cái di sản gốc
gác của cụ mà đành phải mất luôn sao. Từ
đó cụ không đi nhà thờ Tin Lành nữa, nhưng tên
cụ thì cứ tạm thời giữ vậỵ Cụ
đi tỵ nạn vài bữa, khi nào quốc gia thanh bình thì
cụ lại dắt các con cháu về. Thà làm cụ Phúc
nước Việt, hơn làm cụ Túc nước Huê Kỳ.
Ngày mai cụ tuyên thệ vào quốc tịch Mỹ. Thế
mà cụ Phúc lại trằn trọc đêm nay không sao ngủ
được. Cũng bởi vì mấy hôm trước các
cụ tân khoa bàn về chuyện tiếp tân mừng ngày nhập
tịch Mỹ. Bế tắc từ đầu chỉ vì
các cụ phải chọn món ăn cho buổi tiệc. Món
ăn nào đãi khách vừa thích hợp với quốc tịch
mới, vừa có bản sắc dân tộc .
Ông Hai Bò lên tiếng ngaỵ Ông này tên việt nam là Cao
Văn Tự, trong giấy tờ viết là Tu Cao. Mỹ
đọc là " two cows "nghĩa là 2 con bò”. Từ
đó có tên Hai Bò. Vốn là dân thông dịch viên cho Mỹ ở
căn cứ Long Bình, sang bên này ông bán bảo hiểm nhân thọ
Cụ nào mà được ông kéo riêng ra góc phòng đều
sợ run lên như tử thần đến, vì ông Hai Bò cứ
thúc dục luôn "cụ thử nghĩ coi cụ còn sống
được bao lâu, trời gọi ai người nấy
dạ. Thú chết để da, người ta chết
để tiếng. Mấy cụ qua đây ăn phút tem thì
có tiếng gì mà để, chi bằng mua cái bảo hiểm
nhân thọ, đến khi chết để lại cả
bạc triệu cho người ta xây một cái chùa hay nhà thờ
có phải là tên tuổi mình khắc vào bia đá nghìn năm,
bất tử với đời không". Tưởng ông dọa
chết thì cóc ai thèm mua, thế mà từ ngày cụ Hanh mua
cái bảo hiểm nhân thọ đầu tiên, Hai Bò bỗng
đắt khách như tôm tươi.
Chả vì cụ Hanh mới đoàn tụ gia đình vài
năm nay. Mấy đứa con qua từ năm 75, nhà cao cửa
rộng, ngày cụ đến phi trường không thấy
đứa nào ra đón. Thằng Tư thì đùn cho chị
Ba, vợ thằng Bảy thì nói nhà nó có lầu cao, sợ ổng
già đi chỏng gọng, té bể đầu. Hôm ấy, cụ
Hanh lủi thủi đi với bà Mỹ USCC về ở cái
phòng trong khu housing Mỹ đen. Hôm nghe Hai Bò dụ mua bảo
hiểm nhân thọ, lại chịu lấy bằng phút-tem,
cụ Hanh mua ngay. Vài hôm tin đồn cụ có cái bảo hiểm
bạc triệu, mấy đứa con bỗng có hiếu hẳn
ra, tranh nhau mời cụ về nhà ở. Chồng con
Năm Thúy đánh lộn với thằng Tư chỉ vì tội
không để cho nó báo hiếu nuôi ông già vợ. Ngày nào cụ
muốn ăn thức gì, đám con rối rít đi mua về
ăn không hết. Có điều hơi lạ là không đứa
nào mua sâm cao-ly để cụ uống cho khoẻ người,
sống thọ thêm ra.
Thỉnh thoảng trái gió trở trời, cụ mới ho
hen cảm cúm nằm trên giương vài ngày là cả nhà xúm
lại bàn chuyện làm cái di chúc sao cho hợp lệ với
thủ tục tiểu bang, để lãnh tiền bảo hiểm
mà không phải đóng nhiều thuế.
Thấy cụ Hanh chỉ mua cái bảo hiểm nhân thọ
mà được con cái hậu đãi, đi học mặc
áo vest, tay cầm mô bai thì các cụ ngộ ra rằng tội
gì ở xứ cờ hoa này mà không làm triệu phú. Sống
trên đời mà không mua bảo hiểm nhân thọ, xuống
âm phủ biết có hay không, bèn ùn ùn theo năn nỉ Hai Bò
để được giá rẻ. Chết được
bonus một cái hòm cẩm lai của nhà táng xác tặng quảng
cáo.
Hai Bò bỗng dưng trở thành ân nhân của hội bô lão,
nên khi Hai Bò nói bất cứ cái gì, mọi người đều
lắng nghẹ Hai Bò trịnh trọng xoa 2 tay vào nhau. "
Cái tradition của người Mỹ từ trước
đến nay, party mà có tính cách dân tộc là phải có
barbecue. Barbecue là chữ ghép bởi 2 chữ "Barbaric"
and "cuisine" có nghĩa là cách nấu ăn cách mọi
rợ. Ám chỉ một sinh hoạt văn hóa bán khai của
người da đỏ ngày trước. Họ mới là
người Mỹ chính hiệu con nai vàng. Tuy những
người da trắng đến đây, dùng vũ lực
cướp hết đất đai của người da
đỏ để lập nên Hiệp Chủng Quốc,
người Mỹ luôn luôn nhắc nhở con cháu họ ông
tổ Mỹ là người da đỏ bằng cách ăn
barbecue. Do đó chúng ta trở thành công dân Mỹ, uống
nước nhớ nguồn, drinking water remember origin hole. Tôi
xin đề nghị món ăn barbecue".
Cụ Can't Do đứng lên khua tay phản đối. Tên
thật cụ là Đỗ Thành Cẩn. Viết theo lối
Mỹ thì họ tên lẫn tên đệm là Can T. Do. Bà cô dậy
Anh ngữ thấy cụ chả bao giờ chịu làm
homework, bèn đọc luôn là "Can't Do". Cụ là người
duy nhất không mua bảo hiểm của Hai Bò vì bà xã cụ
còn sồn sồn. Cụ chỉ sợ có bảo hiểm
nhân thọ thì nhiều khi chết sớm vì lâu nay cụ
Can't Do không còn hăng hái trong chuyện phòng the, mà vợ cụ
còn xuân xanh lắm. Ngày xưa bán bánh cuốn ngoài chợ Thị
Nghè, vợ cụ ngồi xổm nhiều nên cái bàn mông mẩy
ra tròn trịa to như hai cái lồng bàn. Ở Việt Nam
thì cái quần đen với cái áo bà ba che hết đi, qua Mỹ
mặc cái quần jean vào nó lồ lộ, khêu gợi làm sao.
Thế mà cụ Can't Do lại cứ cố tình phớt lờ
như thể cụ là một nhà hiền triết đạo
mạo. Ngày nào cụ cũng tập Tai Chi cho cứng gân cứng
cốt, mà hễ cứ gần vợ cả người cụ
rủ nhau mềm nhũn ra như bún. Lần nào vợ cụ
cũng thở dài thườn thượt, bảo cụ
chết quách cho xong. Nói vậy thì cụ mua bảo hiểm
nhân thọ để làm quái gì. Nghe Hai Bò trình bày món ăn
barbecue, cụ Can't Do gạt phắt đi".
Miếng thịt Barbecue là biểu tượng cái đầu
óc thực dân, kỳ thị của người da trắng.
Họ coi sự chinh phục những người bản xứ
da đỏ là một chiến thắng vĩ đại
trong lịch sử Hoa Kỳ. Món barbecue của người
Mỹ thường là do các đấng mày râu đứng
nướng để biểu lộ hùng tính và cương
vị thủ lãnh của phái nam, nhắc nhở chúng ta hình ảnh
các chiến sĩ xẻo thịt rồi xóc vào gươm
mà nướng để khao thưởng sau các trận mạc.
Nước Mỹ là nơi melting pot, hợp chủng quốc.
Món ăn tiêu biểu phải là hamburger, món thịt bằm hầm
bà lằng. Người Mỹ ăn hamburger còn để nhắc
nhở con cháu họ về cuộc chiến Nam Bắc phân
tranh tương tàn của họ. Tôi xin đề nghị
món thịt băm hamburger".
Bà Loan To, tên Việt là Tô thị Loan, Mỹ lại đọc
là Lôn To, đưọc dịp đứng lên phát biểu.
Bà này lại có chồng Mỹ da đen Frank Quaker, hoả
đầu quân của lính bộ binh Mỹ tham chiến thời
trước. Nên tên bà nay có thêm họ Mỹ là Loan To Quaker. Mấy
cụ trong lớp thì Việt Nam hoá tên bà là Lôn-To-Quá-Cỡ.
Bà Lôn To phát biểu "Dạ tui không biết nhiều về
lịch sử Mỹ, chỉ biết ngày đầu tiên về
nhà chồng được ông xã tôi cho ăn món Hot Dog. Tui thấy
hot dog mới là biểu tượng đúng cho chức vị
siêu cường quốc, hùng mạnh của nước Mỹ.
Tui xin đề nghi Hot Dog, mà size loại Jumbo à nghen".
Bà cụ Ngà ngồi bên đắc ý hùa theo "Cùng là bò mà thịt
bò Mỹ nó khác thịt bò Việt Nam chị ạ. Để
cả tuần trong tủ lạnh, bỏ ra nó cứ đỏ
ửng lên. Còn thịt bò Việt Nam mình để từ sáng
đến trưa nó tái hẳn đi như thịt trâu ấy".
Các cụ ông lấm lét nhìn nhau không biết bà cụ Ngà
đang bàn về văn hóa của những miếng thịt
hay nói xéo qua về những đồ gia dụng hàng ngày của
các cụ ông.
Cụ Quýnh trưởng ban tổ chức thấy mọi
người nhao nhao lên, nên theo tinh thần dân chủ của
Mỹ đề nghị là sẽ có cả 3 món barbecue,
hamburger và hot dog. Ông Hai Bò lại có thêm ý kiến để
có tinh thần Mỹ Việt đề huề, các món ăn
trong thực đơn phải dịch ra tiếng việt.
Cụ Quýnh sẽ cho ghi bên cạnh là barbecue (thịt nướng
kiểu mọi), hamburger (thịt bằm dập), hot dog ( thịt
chó nóng) .
Đã gần nửa đêm mà Cụ Phúc chưa thấy ai
lên tiếng về phần món ăn việt nam. Có thể là
vì người việt mình ở Tây phương trong những
xã hội tự do nhất hoàn cầu lại cảm thấy
mình như côi cút, lạc lối, xa lạ cả với
chính tình tự quê hương của mình. Từ xưa
đến nay cụ vẫn tự hào về bản sắc
văn hóa riêng biệt của người Việt. Ra ngoại
quốc cụ thấy rằng cái mà xưa nay ta vẫn
tưởng là Việt tính, nay chỉ còn lại chẳng
bao nhiêu là Việt, mà tính cũng chẳng còn là bao; cái mà
xưa nay ta vẫn tưởng là của ta, ngờ đâu
chỉ là cái đàn cha, đàn chú, đàn anh của ta vay
mượn từ lâu của ngoại nhân. Với cái hoang
mang đo, cụ nghĩ đến câu văn hào Paul Valry
"Muốn biết văn hóa của giống dân nào thì cứ
nhìn vào sinh hoạt hàng ngày của giống dân đó". Cụ
nghĩ nếu đãi khách bằng một món ăn có bản
sắc dân tộc, biểu tượng cho người Việt
thì phải chọn là món ăn gì. Không gì Pháp bằng crêpe,
không gì Mỹ bằng hamburger, không gì Ý bằng pizza ,không gì
Đức bằng bratwurst, không gì Mễ bằng taco, không
gì Nhật bằng sushi. Còn Việt nam là phở ư ?
Ở bên này Cụ thấy hầu hết những đám cưới, đám hỏi người ta giữ đủ phong tục nghi lễ cổ truyền mà có đám nào đãi ăn phở đâu mà gọi là món ăn dân tộc? Hay là tại sao mình không tổ chức tiếp tân tại nhà hàng Tàu cho tiện. Chỉ có thế thôi mà giông bảo nổi lên trong phòng hội chỉ vì sự khủng hoảng về hiện tượng bám víu thê thảm vào cái tính đồng nhất riêng biệt của hành trang ý thức và tình cảm quê cha đất tổ.
Trời đã quá đêm. Ánh trăng còn lại một chút
trên khung cửa ẩm uớt hơi sương. Cụ Phúc
vẫn còn nằm trăn trở không sao ngủ được
. . .
Không rõ tác giả
No comments:
Post a Comment