Những nhận xét về người Mỹ, Việt Nam hay Tây, hay Tàu phần lớn
dựa trên tài liệu, sách vở. Mà sách vở thì thay đổi theo thời gian, hoàn
cảnh, kinh nghiệm, thực tế. Ví dụ, bài viết nổi tiếng “An Nam ta gì
cũng cười” của cụ Nguyễn Văn Vĩnh trong Đông Dương Tạp Chí, cách đây gần
một thế kỷ, bây giờ đâu còn thích hợp với tình trạng của người dân
trong nước (đang khổ đau dưới ách thống trị của Coco Việt Cộng) hay
ngoài nước (ngày cày hai jobs) làm sao mà cười cho nổi?
Chưa kể thành kiến, cảm tính của những nghiên cứu
gia đối với các đối tượng mà họ không mấy ưa. Từ thành kiến đến kỳ thị
mấy hồi. Bọn Tàu Phù xâm lược, từ thời Hai Bà Trưng cho đến hôm nay,
nhất là hôm nay, đã không bao giờ khen người Việt, trái lại còn xem như
kẻ thù man di mọi rợ. Ví dụ nữ anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh, bị
chúng gọi xách mé là Triệu Ẩu, và miệt thị là một người xấu xí có “vú
dài ba thước”, vậy mà sách vở của ta vẫn lặp lại y chang và tin như thế.
Ngày nay, bọn lãnh đạo VC tự phong bán nước, Nguyễn Phú Trọng, Trần Đại
Quang… bị Tập Cận Bình khinh bỉ hơn cả chó ngựa. Cũng vậy, hồi còn Tây
đô hộ, trong sách giáo khoa cho những học sinh trường Pháp, vào thập
niên 50, có đăng hình một cô gái, hình như người Thượng, đen thui, cục
mịch, và ghi chú một cách mất dạy: “une belle jeune fille Annamite de Ha
Noi” (một thiếu nữ đẹp Hà Nội).
Ngược lại, người An Nam ta cũng là tổ sư kỳ thị. Ví
dụ, các vua triều Nguyễn sau Gia Long gọi Tây thực dân là “bạch quỷ”.
Câu ca dao ám chỉ việc công chúa Huyền Trân bị gả cho Chế Mân, “Tiếc
thay cây quế giữa rừng / Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo”, nếu không
là kỳ thị, thì là cái gì vào đây, hả Trời? Ghét, hay khinh ai, người
mình, nói chung, có tật gọi họ bằng thằng tuốt luốt: thằng Chệt, thằng
Tây, thằng Mẽo, thằng Thượng, thằng Chàm, thằng Mên (Miên), thằng Lèo
(Lào). Sau 1975, thằng VC răng đen mã tấu đã mở hết công xuất để chửi
thằng Diệm, thằng Thiệu, thằng Kỳ, thằng Ngụy, thằng Kennedy, thằng
Johnson, thằng Pol Pot…
Ngoài ra, tại Mỹ, bây giờ, ai cũng lo ngại không dám nêu hết cái xấu, cái man rợ, ví dụ của đám radical Muslims quá khích, vì sợ có thể ăn bom hay chặt đầu. Cả về từ ngữ, người Mỹ rất kỵ chữ black khi nói về dân da đen, và thay bằng African-American, nghe chả ra sao cả, nhất là từ khi một ông Mỹ lai Kenya được bầu làm tổng thống Hoa Kỳ. Dùng chữ negro (nègre trong tiếng Pháp) thì càng phạm thượng hơn. Chữ negro, thực ra, bắt nguồn từ tĩnh từ Latin, nigger, nguyên thủy chỉ có nghĩa đen là đen, được dùng tại Mỹ từ khuya, kể cả thời Martin Luther King còn tranh đấu cho quyền của người nô lệ Phi Châu. Sau này nó mới hàm nghĩa khinh bỉ và làm người ta lo sợ. Rồi nữa, đen hay trắng cũng là màu, đẹp xấu tùy người đối diện, nhưng tại sao gọi white thì OK, mà black thì không? Chữ nghĩa, cũng như súng ống, tự nó vô tội. Chỉ những người dùng một cách điên khùng, ngu xuẩn, hoặc với tà tâm mới gây ra rắc rối, hoặc thảm kịch. Nhưng không vì những cá nhân này mà cấm đoán công dân mua súng hoặc dùng chữ black, negro. Hay, để mở ngoặc, chữ yellow, vàng, chỉ dân Á Châu, đặc biệt Nhật. Trước 1975, quả vậy, một quyển sách của Austin de Croze, có tựa đề Le péril jaune et le Japon, Paris, 1904, bàn về cuộc chiến tranh Nga-Nhật, trong đó Nhật được xem là một sức mạnh nguy hiểm.
Người Mỹ nói chung cũng bị kỳ thị và gọi là “Yankee” (chỉ binh lính của Union trong thời nội chiến), hay “Ah! ces Ricains” bởi người ngoại quốc bài Mỹ, giống như người Pháp bị gọi là “Gaulois” (từ thời đế quốc La Mã khi nước Pháp bị chiếm đóng và mang tên Gallia, La Gaule, có họ hàng với gallus, con gà trống) hay “frog” (vì cái tật khoái nhậu thịt ếch) vậy. Mỹ trắng bị đặt nickname là “honkie”. Người Mỹ nào kỳ thị thì bị gọi là “redneck” (cổ đỏ, tiếng lóng trước kia dùng để chỉ những trại chủ Miền Nam đối xử hà khắc với nô lệ). Mễ Lậu vượt tường, là “wetneck” (cổ ướt, vì mệt nhọc, chảy mồ hôi?), Mỹ Vàng, An Nam, có tên là “gook” (chữ được chế ra bởi lính Mỹ tại VN từ chữ “goo”, chất dơ bẩn, bùn lầy?), Nhật, là “Jap”, Tàu, là “Chink”, Tàu Cộng, là “Chicom” v.v…
Chuyện khác. Những ông Mỹ lấy vợ An Nam thì bố bảo
không dám chê dân An Nam và nước mắm. Tỷ như anh chàng thượng nghị sĩ
Dân Chủ Jim Webbs, trước kia làm bộ trưởng, thứ trưởng gì đó có bao giờ
ngó ngàng gì đến đám Việt Kiều thiểu số đâu, năm 2016, ngấp nghé ra ứng
cử tổng thống, vì nhu cầu hốt phiếu và có lẽ bị bà vợ Việt véo đùi, nên
cũng phải tỏ ra ta đây hòa đồng với người Việt quốc gia tỵ nạn, tuyên
bố chống Cộng cùng mình.
Chỉ có phe ta mới biết rõ phe mình. Cả tốt lẫn xấu.
Cũng như Mỹ biết rõ Mỹ, Tây biết rõ Tây, Tàu biết rõ Tàu… một cách cụ
thể, mà không cần đọc làm chi tài liệu vớ vẩn của những nhà nghiên cứu
ngoại quốc.
1) Làm thế nào để biết đó là nhà người An Nam?
Tôi có một người bạn mần nghề đi dụ người ta mua nhà,
bán nhà, mà văn chương trữ tình gọi là chuyên viên địa ốc. Một hôm ghé
nhà tôi chơi. Chợt nhìn thấy một căn nhà bên kia đường, bèn nói:
– Tôi cá với anh nhà đó là của một người Việt Nam.
Tôi ngạc nhiên:
– Ủa, sao hay vậy cha? Đúng là nhà của một gia đình đồng hương ta…
Anh ta vênh mặt lên, hả hê:
– Nghề của chàng mà! Hễ thấy trước nhà nào có một hay
hai cái xe Toyota đời mới, cáu cạnh, nếu bự càng chắc ăn hơn, và trước
cửa nhà một đống giày dép thì nếu không phải là nhà Việt Nam ta thì chặt
đầu tôi đi.
Từ đó, thỉnh thoảng buổi chiều đi bộ tập thể dục
trong xóm, tôi cũng chú ý nhìn một vài nhà có xe toyota và một đống giày
dép trước cửa… Lại thêm tiếng nhạc rền rỉ lê thê như có đám ma và giọng
hát nhão nhoét của Chế Linh hay Thanh Tuyền xông ra, cùng với mùi xào
tỏi với nước mắm từ cái bếp trong garage mở cửa hôi rình điếc mũi, tôi
không khỏi thầm thán phục anh bạn chuyên dụ bán nhà có con mắt tinh đời.
Hoặc nữa, nếu thấy khách đến nhà ai, mà được chủ nhà dẫn vào bằng cửa garage, thay vì cửa chính, thì chém chết tôi cũng cả quyết đó là nhà của một đồng hương An Nam thứ thiệt.
Láng giềng sát cửa của tôi là gia đình một anh Việt kiều trẻ mới đến Mỹ độ vài năm. Anh ta hiền lành, tử tế, nhưng ngặt một nỗi là năm nào cũng nuôi gà mà không làm chuồng, thả chúng chạy rong trong sân –rất hôi thối, mất vệ sinh, và chúng cứ gáy loạn lên bất kể giờ giấc. Cũng như bên tôi, nhà anh ta có ba miếng sân: sân sau và sân hông trái giáp với nhà hai người Mỹ. Anh ta cũng khôn, không dám nuôi ở hai sân đó, sợ bị Mỹ kiện thưa. Mà nhè nuôi trong sân hông phải bên nhà tôi, mới chết chứ, bởi, chắc anh ta nghĩ, dù gì đồng hương cũng dễ chịu, và dễ nói chuyện, hơn. Còn lâu. Tôi định bụng, một ngày đẹp trời, chịu không nổi nữa mùi phân gà, nhất là vào mùa hè khí trời oi bức, sẽ sang gõ cửa, nói chuyện phải quấy trước, tiên lễ… rồi tùy theo thái độ của anh ta mà hậu binh…
2) Người Mỹ xấu xí, nghĩa đen:
Người Mỹ mà tôi muốn nói ở đây không phải là nhân vật
Homer Atkins trong quyển tiểu thuyết sặc mùi chính trị The Ugly
American của Eugene Burdick và William Lederer viết năm 1958 và đã được
quay thành phim năm 1963 với Marlon Brando. Mà là những ông Mỹ già trong
phòng gym Cascade 205 Portland của tôi. Từ khi về hưu, bị bác sĩ hăm
dọa, bảo sẽ chết sớm nếu không uống rượu vang và không tập thể dục, mỗi
ngày tôi đành phải đến tập khoảng một tiếng rưỡi. Phòng tập rộng thênh
thang, có hơn 100 dụng cụ, một hồ bơi lớn, và một phòng tập tạ và tập
Tai Chi. Tập khách, hay khách tập, đa số là dân Mỹ trắng trên sáu, bảy
bó như tôi, và, cũng như tôi, chắc đã về hưu, hoặc thất nghiệp, và cũng
sợ chết. Có cụ mặt mũi hồng hào, trông oai vệ, không bác sĩ thì cũng
luật sư, giáo sư, tiến sĩ, nha sĩ, dược sĩ etc. Có vài ông bà Tàu, lúc
nào cũng ồn ào, gọi nhau ơi ới, mặc dù có thông báo nhắc không được nói
chuyện lớn.
Có hai phòng vệ sinh, tắm rửa, và thay đồ (locker
room) kế cận nhau, một Nam, một Nữ, rất rộng, có hai mũi tên to tổ bố
nhắc nhở đừng ai cố tình đi lộn. Trước và sau mỗi buổi tập, tôi phải vào
khu Nam, dĩ nhiên, hai lần, để rửa tay, thay giày và quần áo tập. Và
nơi đây, phải hai lần đối diện với sự thật trần truồng (the naked truth /
la vérité nue) –hoàn toàn theo đúng nghĩa đen– của các cụ ông, lúc nào
cũng dập dìu, vào ra, như đi hội chợ Tết, “vô tư” nói chuyện om sòm
trong khi tất cả đều trần như nhộng, tồng ngồng, trên răng dưới lắc lư
hai quả lựu đạn mini. Có cụ tắm gội, phải trần truồng, thì không nói
chi. Có cụ vào trong đó cạo râu, đánh răng, khạc nhổ, sấy tóc, chắc muốn
đỡ tiền nước, tiền điện ở nhà, hoặc tiết kiệm thì giờ, cũng thông cảm
được. Nhưng có cụ vừa tắm xong, còn đang lau mình mẩy, hoặc đôi khi đang
thay đồ, cứ để nguyên y phục Adam đi vòng vòng kiếm người quen cũng
trần truồng như nhộng, sà vào tán dóc, và cười rổn rảng, nhe cả hai hàm
răng giả.
Phần tôi, ngày đầu còn tò mò liếc qua cho biết sự tình, lâu ngày phát ngán, vào lẹ, rồi vội vàng cút ra ngay. Vì thấy các cụ hành nghề người mẫu, triển lãm thân thể, và của nợ, mà ớn đến tận óc. Các cụ ugly, xấu xí thật (theo nghĩa đen thui), bụng như thùng nước phở xe lửa, búng đâu ra mỡ đó, mông teo, vú xệ. Rồi một dàn súng cá nhân, nhắm vào nhau, hoặc vào tôi, loại súng dành riêng cho những tên phản chiến, peaceniks, hạng gộc, cỡ Jane Fonda, Tom Hayden, Bob Dylan hay John Kerry và Co, nghĩa là ngưng bắn, đồng loạt chĩa xuống sàn nhà. Có cụ còn thẹn thùng, rụt đầu ngoẹo cổ, làm bộ em chã, em chã, trơ trọi, không cây lá ngụy trang, trông cực kỳ thảm não. Các cụ càng lớn tuổi thì súng càng có hình dáng tân chế, hiện đại, nghĩa là nhỏ xíu, nòng cụt ngủn, giống như cây Colt 45 mới mua của tôi, không biết bắn có chết ai không.
Ấy là tôi chưa nói đến việc vài cụ có cái mông và cái lưng đầy ghẻ, mụt nào cũng đỏ bóng và “to đùng”. Trước kia, tập xong, tôi thường vào hồ bơi, vui sướng như cá gặp nước, ngoài ra còn được tắm kế bên vài em Mỹ nõn nà, mặc dù tay, chân, ngực, vai, đùi các em xăm đầy rồng rắn, xanh như da con thuồng luồng. Thế nhưng, một hôm, thấy một cụ có cái lưng ghẻ trông rất “chất lượng”, rất “ấn tượng”, rất “hoành tráng” vào tắm chung, tôi thấy… hãi quá, và tự nhiên thấy nổi ngứa khắp người. Bèn dẹp cái vụ bơi, từ đó.
Nói thế không có nghĩa tôi ngon lành hơn ai. Trái lại, cũng tàn tạ quá cỡ rồi. Nhưng từ lâu, tôi có một nguyên tắc bất biến: không thoát y nơi công cộng, kể cả khi còn khỏe, trẻ, và phong độ, ví dụ, tắm tại hồ nước tập thể ở quân trường Thủ Đức, hay sau này, tắm suối trong những trại cải tạo. Huống chi bây giờ, khi bóng đời nghiêng đổ và trăng lu xế nửa mái tình sầu (Huy Cận). Tục ngữ ta có câu: xấu che đẹp khoe. Đẹp cũng còn phải che, nói chi xấu. Hay là có che nó mới trở thành đẹp? Dưới cặp mắt ngu của tôi, thân thể người ta, kể cả tiên nữ, nếu để nguyên si, trần trụi, sẽ không còn đẹp, mặc dù những ông văn sĩ, thi sĩ, triết gia, học giả thất tình, hoặc uẩn ức sinh lý… ca tụng đó là tuyệt tác của Thượng Đế về mọi mặt. Còn tôi nghĩ khác: đẹp có nghĩa là phải bắt tôi tưởng tượng, phải gây mơ và gây mê, phải ru vào mộng mị. Không thể phô bày thực tế một cách lộ liễu, phũ phàng như các cụ Mỹ ở gym. Thực tế trần truồng chỉ chấp nhận trong phòng ngủ, phòng tắm, không ở những nơi công cộng. Tóm lại, phải hấp dẫn, quyến rũ, qua quần áo mặc vào luôn luôn, và cởi ra có lúc có nơi. Nắng Sài Gòn em đi cũng phải có áo lụa Hà Đông. Phải có áo em sứt chỉ đường tà hay qua cầu gió bay mới gợi chuyện yêu đương, hay trăm năm. Phải có em cười nâng tà áo đưa lên gió (Thế Lữ). Hay tôi thấy xiêm nghê nổi gió lùa (Xuân Diệu). Phải là người đẹp nhờ lụa / Lúa tốt nhờ phân, như một câu tục ngữ khác gợi nhắc. Tôi không hiểu cảm hứng của những họa sĩ vẽ tranh lõa thể bắt nguồn từ đâu, và cái đẹp hoàn toàn thể xác ấy nằm ở chỗ mô. Cho nên, tôi thích những bức vẽ madones của Botticelli và tranh đồng quê của Raffaello với những nàng thiếu nữ mặt hoa da phấn, tóc rẽ đường ngôi ở giữa, và áo quần chất chồng, kín mít.
Đời sống vợ chồng cũng thế. Tưởng lấy nhau rồi là
xong, là lơi lỏng, không giữ gìn như thuở chờ đợi, ôi, thời gian rét lắm
(Huy Cận) hay Chưa gặp em anh đã nghĩ rằng / Có nàng thiếu nữ đẹp như
trăng (Đinh Hùng). Vì vậy mới dễ chán nhau và rồi xa nhau. Vì vậy mà
những cặp uyên ương trẻ sống thử một thời gian với nhau thường bai bai
nhau sớm. Gần đây, trên những tờ báo giấy nào cũng có mục phòng the phụ
trách bởi những ông bà ăn tiền già, hưỡn quá, hoặc mất ngủ, và những câu
trả lời của họ thường thường dựa trên những lý do vu vơ vu va vớ va vớ
vẩn mà quên yếu tố chính yếu: buông thả quá, người ta sẽ nhàm chán. Đã
lâu rổi, tôi được đọc cuốn sách về cuộc đời bà Jackie Kennedy, kể rằng
mỗi khi vào toilette, bà mở hết các robinet nước, để làm át những thứ
tiếng khác.
Có lẽ cũng vì thế mà trong Kinh Thánh, sau khi Adam
và Eve phạm tội, Chúa phạt hai người biết mắc cỡ, lấy lá che thân và
đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Bắt sống đời trần tục, nghĩa là mặc quần áo
đường hoàng, vì Chúa biết quá tạo vật mà Người dựng nên, nếu cứ ở với
nhau tồng ngồng suốt ngày, như hai con nhộng thế kia, thì còn gì hấp
dẫn, còn gì hứng thú để thực hiện lời Chúa phán: hãy sinh sản ra loài
người, nhiều như sao trên trời, như cát dưới biển?
3) Người Việt xấu xí, nghĩa bóng:
a) tại Oregon:
Một buổi chiều, cô người quen đi làm về kẹt xe trên
freeway, gọi điện thoại khẩn cấp nhờ tôi đi đón giùm đứa con học mẫu
giáo ở trường gần nhà. Đến nơi, thấy dọc hai bên đường quanh trường, xe
đậu kín mít, tôi phải bỏ xe tít mãi đàng xa. Đi bộ đến cổng, tôi thấy
còn một khoảng cách trống hẹp giữa hai xe và một người đàn bà Việt Nam,
gọi là không tên số 1, còn trẻ, đang cố gắng cho chiếc Toyota bự, dài,
láng cón chen vào, mấy lượt mà không được. Chiếc xe sau, đang đậu, cũng
loại Toyota bự và tài xế cũng là một phụ nữ Việt Nam không tên số 2,
tuổi sồn sồn, mặt hiền như sư tử đang ngái ngủ, sợ bị đụng bèn de một
chút cho trống chỗ, nhưng chíếc Toyota của cô số 1 kia dài quá cũng
không thể vào được. Bà tài xế số 2 quay kính xuống bắt đầu quát, bằng
tiếng Việt, tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi, rất êm ái: “Đồ cà chớn, dzô sao
được mà dzô, bộ đui hả?”. Cô không tên số 1 vẫn cứ ráng, vì chuông
trường reo rồi và không thể nhúc nhích đi đâu được nữa. Phía sau xe bà
không tên số 2 là hai xe khác, nên bà này không còn cách nào hơn là cho
xe dọt ra luôn. Đi lên ngang hàng, bà không quên ngừng lại, giữa đường,
nhìn chòng chọc vào mặt cô không tên số 1 thiếu điều ăn tươi nuốt sống,
và hét lên, chửi, lần này bằng tiếng Đan Mạch, nguyên văn: “Bà mẹ mày,
con ngựa! Chỗ chật mà mày cứ chen dzô. Ở đây là trường học, tao nhịn, ở
chỗ khác tao xuống xe xé xác mày ra cho biết.” Tội nghiệp cô không tên
số 1, cứ xin lỗi mãi, mà không biết lỗi gì.
Nếu không thấy tận mắt, nghe tận tai, thì cho kẹo tôi
cũng không dám kể chuyện này, vì sợ bị chửi là thằng cha già mất nết
bịa chuyện nói xấu phụ nữ đồng hương yêu quý, con cháu của ông vua Lạc
Long Quân và bà tiên nữ Âu Cơ.
b) tại Nha Trang:
Năm 2006, mẹ mất, tôi về Nha Trang thọ tang gấp. Tại
nghĩa trang, sau khi mộ mẹ được lấp xong, tôi, trong tư cách trưởng nam,
thay mặt tang quyến nói đôi lời cám ơn cha chánh xứ và thân bằng quyến
thuộc đã đi đưa tiễn. Ai nấy lộ vẻ ngạc nhiên. Một người bạn học cũ, sau
đó, giải thích:
– Văn hóa xã hội chủ nghĩa không có cái mục cám ơn và xin lỗi.
– ?
– Người dân, nói chung, không mang ơn ai cả, ngoại
trừ mang ơn Bác và Đảng. Cụ thể hơn, làm hay cho ai cái gì, đó là bổn
phận của anh, không ơn nghĩa gì ráo. Còn xin lỗi? Còn lâu à. Xe đụng
chết người, bỏ chạy luôn, hoặc nếu thấy chưa chết, cũng de lại cán cho
chết luôn. Vì nạn nhân chết, họ chỉ bồi thường một lần là xong, còn bị
thương, tàn tật, phải nuôi nạn nhân suốt đời, lỗ vốn nặng. Cây cầu đang
xây bị sập, chết bao nhiêu người, nhưng lãnh đạo tỉnh bơ, không lên
tiếng xin lỗi, nói chi từ chức.
Cũng trong lần đó, tại Hòn Chồng gần nhà tôi, một phụ nữ khá lớn tuổi, vẻ lam lũ, cố gắng đẩy một chiếc xe ba gác chất đầy kẹo bánh lên dốc, mấy lần bị tuột và rớt đồ. Nhiều người đứng gần trông thấy, nhưng chỉ giương mắt ếch ngó. Đi ngang qua, tôi ngừng lại, đến bên phụ đẩy giùm cho chị ta. Xong xuôi, theo truyền thống xã hội chủ nghĩa cao quý, chị không nói cám ơn, dĩ nhiên, nhưng hỏi:
– Ông ở nước ngoài dzìa?
– Sao chị biết?
– Chỉ người nước ngoài dzăng minh mới biết đẩy giùm xe cho người khác.
c) tại Paris:
Còn nhớ năm 1987, lúc đang là sinh viên Ph.D và dạy
tại University of Oregon, tôi vào một nhà hàng Việt Nam ở Paris 13.
Trong tiệm có bốn cô tiếp viên đang tía lia đấu hót, cười giỡn với nhau.
Hôm ấy, theo thói quen, tôi ăn mặc cẩu thả, bụi đời, quần jeans, áo
polo, giày ba ta, tất cả rất cũ kỹ. Liếc mắt thấy tôi, các cô vẫn tỉnh
bơ, tiếp tục nói chuyện, không chào đón, hỏi han. Tôi vẫn không lên
tiếng, ngồi yên, để xem sao. Đúng mười lăm phút sau, một cô bước tới,
hỏi một cách cộc lốc:
– Bộ ông ở đảo mới tới phải hôn?
– Không, tôi từ Mỹ đến.
Cô ngạc nhiên, hỏi tiếp:
– Ủa, thiệt hả? Mà ông làm gì bên đó?
Tôi điềm tĩnh, thành khẩn khai báo:
– Vừa là sinh viên vừa là giáo sư Pháp văn tại một đại học.
Cô khựng lại, vuốt ngực, làm như bị nghẹt thở, dòm kỹ tôi từ đầu tới chân xem tôi có phải là thợ nổ không. Và hỏi thêm:
– Ủa, mà sao anh không nói cho tụi em biết trước?
– Không ai hỏi, làm sao tôi dám nói.
Rồi oang oang, cô gọi ba đồng nghiệp:
– Mấy chị ơi, lại đây coi anh sinh viên kiêm giáo sư từ Mỹ, thứ thiệt…
Cả bốn cô xúm xít quanh tôi, hỏi đủ thứ chuyện về nước Mỹ, trừ câu hỏi tôi đang chờ đợi: ăn món gì? Một cô dụ khị:
– Em nghe nói ở Mỹ sướng lắm. Tụi em được tàu Pháp dzớt
phải qua Pháp cực quá. Làm tiền ít mà bị mấy thằng Tây và Dziệt kiều
Tây qua trước kỳ thị, vì không gành (rành) tiếng Pháp. Tụi em mê qua Mỹ
muốn chết. Hay là anh làm hôn thú với em, giả cũng đặng, gồi (rồi) anh
đưa em qua đó sống nghe anh, gồi hạp mình tiến tới luôn, không hạp thì
ô-gơ-voa, mất mát chi đâu…
4. Khi người Pháp kỳ thị:
Người Pháp, tôi nhận xét, không kỳ thị, hoặc không kỳ
thị nhiều, về màu da, sắc tộc, giới tính, giàu nghèo, sang hèn… cho
bằng về ngôn ngữ, nghĩa là nếu anh nói tiếng Pháp không rành, không đúng
văn phạm, không đúng accent Tây, thì xin mời anh đi chỗ khác chơi liền.
Những ví dụ về điều này khá nhiều, nhưng bữa nay, tôi chỉ thuật lại hai
chuyện nhỏ thôi.
a) tại gare de Lyon:
Số là một anh bạn Mỹ của tôi tại Portland đến gare
de Lyon, hỏi, bằng tiếng Pháp dĩ nhiên, một anh nhân viên phụ trách
Customer Service (nhưng mặt mày khó chịu, như tất cả mọi anh công chức
Tây trên đời), rằng mấy giờ chuyến TGV (tàu nhanh) đi Lyon sắp tới sẽ
khởi hành. Tôi biết trình độ Pháp ngữ của anh ta cũng không đến nỗi tệ,
nhưng anh Tây nọ không thèm ngẩng mặt lên dòm anh Mỹ kia, vẫn tiếp tục
cúi xuống đọc báo, và lạnh lùng trả lời: “Ici, on parle pas allemand” (ở
đây người ta không nói tiếng Đức).
b) trên chuyến xe TGV đi Grenoble:
Năm 1990, một hôm tôi đáp xe lửa từ Paris về
l’Université de Grenoble, nơi tôi được học bổng theo học khóa tu nghiệp
Sư phạm Pháp. Một bà già Pháp ngồi bên, thuộc loại giết giặc, mặt khó
đăm đăm, thỉnh thoảng liếc nhìn tôi với vẻ khinh bỉ, không thèm che
giấu, mặc dù tôi chả làm gì mất lòng bả. Gần đến Lyon, một nhân viên
(contrôleur) đến kiểm vé từng người. Vé tôi có trục trặc gì đó, nên tôi
phải giải thích một hồi với ông này, và bà giết giặc chăm chú nghe. Sau
đó, bà mới hỏi tôi:
– Cậu từ đâu đến?
– Từ Mỹ.
– Vraiment? Ở Mỹ, mà cậu biết nói tiếng Pháp thông thạo vậy sao?
Tôi bắt đầu nói phét, để chọc tức:
– Chứ sao? Bên Mỹ, mọi người đều nói tiếng Pháp, và hay hơn tôi…
Ngạc nhiên, bà la lớn:
– Ô ciel! Mais c’est incroyable! Absolument fantastique! Mà cậu đi Grenoble để thăm ai?
Đến đây, tôi không nổ chơi nữa, phải nổ thật:
– Tôi đang tu nghiệp Sư phạm tại l’Université Stendhal III và ở nội trú trong trường.
Cả hai chuyện trò rôm rả, và tôi thấy bà bỗng dễ thương một cách “đột xuất” và kỳ lạ. Đến ga Grenoble, thì tôi đã biết, qua bà, độ 98 phần trăm gia cảnh của bà: chồng tên André Bertin, bà tên Claire, và đứa con gái duy nhất tên Catherine, có chồng, là Guillaume, ba con, là Jean, Paul và Thèrèse, ở Bordeaux. Cụ André là quản thủ thư viện Grenoble, về hưu đã trên mười năm, thèm nói tiếng Latin, bỏ lâu ngày quá sợ rỉ sét, bà mách, và mê thơ Horace lắm, mà không biết ai để nói cùng, may mà có cậu, chúng tôi mời cậu thỉnh thoảng đến chơi và dùng cơm nhé… blablabla…
Từ đó, suốt chín tháng học ở Grenoble, tôi trở thành bạn tâm giao của gia đình Bertin, và mỗi hai tuần được họ mời đến nhà uống chùa cognac, ăn ké pâté gan ngỗng, rồi kể chuyện bên Mỹ cho cụ bà nghe và nói tiếng Latin với cụ ông.
Portland, 19/3/2018
No comments:
Post a Comment