Đã lâu lắm tôi không về lại Việt Nam. Nói vậy không có nghĩa là tôi không nhớ quê hay nhớ ít hơn những người đi đi về về từ mấy năm nay. Không, tôi nhớ quê tôi lắm chớ. Tôi nhớ đâu ngay từ khi mới vừa đặt chân xuống ghe trong đêm vượt biển. Nỗi nhớ như những lọn máu nhỏ từ đời kiếp nào vẫn chảy rì rầm trong trái tim héo mỏi. Tôi có quên đâu. Thấp thoáng giữa đám lau lách của trí nhớ bội bạc, quê hương vẫn còn đó, lẻ loi như một bông cúc vàng nở muộn, đẹp đến xót xa. Tôi nhớ như một người tình bị phụ rẫy nhớ lời đay nghiến, như người thương phế nhớ một phần thân thể đã thất lạc. Nhớ từ cơn đổ vở nhớ đi. Nhớ trong hồi đoạn lìa nhớ lại. Vậy mà tôi không về. Hay chưa về lại đó một lần. Nghe thì rắc rối như bày đặt. Nhưng mà cuộc đời cũng có suôn sẻ gì đâu.
Những
năm mười tám, đôi mươi từ tỉnh nhỏ lên Sài-gòn trọ học, cách quê đâu
chừng trên trăm cây số gì đó là tôi đã bắt đầu thấy nhớ. Hồi đó bạn bè
cứ sửa câu hát ru em mộc mạc thành câu hát trêu chọc: “Đèn Sài-gòn
ngọn xanh ngọn đỏ. Đèn lục tỉnh ngọn tỏ ngọn lu. Mới đi xa anh khóc lu
bù. Chừng quen con nước bắt bỏ tù anh cũng đi”. Dĩ nhiên con trai
mới nhổ giò nhổ cẳng, đứa nào chẳng có lần mơ mộng làm những chuyến
giang hồ vặt để cứ tưởng mình đã lớn. Lẩn quẩn trong cái phố chợ nhỏ xíu
đi tới đi lui chưa mỏi cẳng đã thấy vòng lại chỗ cũ, lòng cứ nôn nao
những chuyến đi xa. Đọc hành Nguyễn Bính thấy mê làm sao cái hình ảnh
hào tráng của người khách lữ, rũ áo phong sương một chiều cuối năm trên
gác trọ, rượu say ngất ngưởng rồi cười khinh mạn mà nhắc tới mấy con mắt
trắng với mắt xanh. Chưa hết đâu, còn cái hình ảnh não nùng của người
em gái sầu muộn bên song cửa cứ vò võ trông chừng từng cánh nhạn đưa
tin. Trời ơi được làm người tình cho người ta chờ đợi như vậy có nhuốm
bụi cũng cam. Mơ thì mơ toàn chuyện động trời như vậy mà mới xách va-li
đi khỏi nhà được đâu trăm cây số chừng đôi ba bữa là đã thấy nhớ cồn cào
cả người. Có lạ không.
Vẫn
có những chiều đang lang thang giữa phố, lòng bỗng nhiên chùng xuống
khi chợt thấy chân mình lỡ đạp trùng lên mấy lọn nắng cũ vàng hoe. Hay
những sớm thức dậy bỗng thấy buồn ngang vì một tiếng xe thổ mộ lăn lóc
cóc đều đều như gõ nhịp vào thiên cổ. Cái thằng đang vui đời đô thị bỗng
trở buồn ngang xương vì vệt nắng hoang, vì tiếng xe ngựa sao giống y
như bóng nắng tiếng xe ở quê nhà. Có một cái gì trùng lẫn ở đâu đây.
Dường như mấy góc phố nhỏ, cây me già cỗi, đêm mưa tỉnh lỵ, giọt trăng
châu thổ… vẫn là một dù người ta đã thay nơi đổi chốn. Người đi bỏ lại
hình ở chốn cũ mà quên bóng cứ lúc thúc theo sau. Có lúc giả bộ ngoảnh
mặt mà thật ra có làm ngơ được đâu. Nó cặp kè, lẩn lút, chỉ đợi dịp là
ló mặt ra trêu chọc. Bởi vậy mà trong khi đầu tôi thì háo hức lo đuổi
bắt mấy cái bóng sắc mới lạ thì lòng tôi lại trì trì những kỷ niệm cũ
xì. Cứ như vậy mà giằng co níu kéo hết tháng sang năm lòng vòng chơi mãi
cái trò bắt trốn. Hết nhớ rồi quên. Hết quên rồi lại nhớ. Riết rồi tôi
cứ thả mặc cho dòng đời xốc nổi, bởi gốc vốn từ đất ruộng bốc bụi bay đi
thì làm sao chẳng có lúc tấp lại bên đường mà không nhớ xó đất quê!
Vậy đó, suốt mấy năm lang bạt ở Sài Gòn, mặc dầu lúc nào cũng tỏ ra là “tay chơi”
sành sõi, nhẵn mặt khắp đầu trên xóm dưới, như một dân Sài-gòn chính
hiệu, tôi vẫn cứ là một tên nhà quê đặc sệt ở trong lòng. Hở ra là nhớ.
Nhớ từ cọng cỏ ướt sương nhớ đi. Nhớ từ bụi lúa trổ đòng đòng nhớ lại.
Người tình đầu đời sao tôi quên cái một. Mà khoảnh đất quê nhà sao tôi
lại nhớ hoài. Có lúc tôi thấy thèm về ngồi lại trên bực đá lở bên bờ
sông Cái, một buổi trưa hè nào đó, lượm đá thảy lia thia trên mặt sóng
mà đầu thì thả lông bông như một người vô tích sự. Có lúc tôi muốn được
quay lại bãi cỏ xanh cạnh ngôi đền văn miếu cũ, chắp hai tay sau gáy nằm
dài ra đó ngủ dật dờ ngó lơ mơ mặc cho cuộc đời xoay trở chung quanh.
Cả cái tỉnh nhỏ mà gần như ai nấy đều biết mặt nhau, ở thì rầu muốn chết
mà đi xa thì nhớ đến đứt ruột. Tôi cũng không biết tại sao. Có phải cái
đó là cái mà mấy ông văn sĩ gọi là tình quê đó chăng?
Tôi
nhớ những con đường lặng lẽ duổi dài theo bóng mấy hàng sao, tôi nhớ
cái châu thành nhỏ xíu như chiếc khăn tay với những căn nhà xây cất nửa
tây nửa ta, nhớ mấy quán sinh tố góc chợ chiều có mấy cô chiêu đãi quê
mùa gọi mời đon đả. Tôi nhớ ngôi trường Tiểu Học với cái sân chơi lầy
lội, ngôi trường Trung Học im ỉm uy nghiêm và tiếng trống gọi trường
nghe dồn dập đến thót tim mỗi lần ham chơi tụ tập lê la ngoài phố. Tôi
nhớ như in dãy phố tàu. Bạn bè dăm đứa rủ rê nhau. Áo phanh ngực đón mùi
hương lạ. Háo hức chia nhau khói thuốc đầu. Còn nữa, còn nhiều lắm, làm
sao kể hết. Ngay cả những thứ có lúc thấy tầm thường, nhạt nhẽo gì đâu
mà sao cứ… nhớ ơi là nhớ!
Như
cái bến phà Mỹ Thuận vậy đó, tôi đã đi qua lần đầu đâu thuở chín mười
tuổi rồi cứ nhớ hoài mặc dầu sau này, lớn lên đã qua không biết bao
nhiêu là bến đợi khác. Có một cái gì lạ lắm như nối kết tôi, thằng con
trai sinh ra và lớn lên ở bên này sông cứ nhìn ngó bên kia sông như chót
đỉnh của một giấc mơ phiêu lãng. Có phải con sông lớn mênh mông đó như
một ranh giới vô tình đã chằng giữ những cơn mơ tuổi nhỏ. Có phải những
con sóng cuồn cuộn đó đã một thời đẩy đưa hồn tôi phiêu lưu đến những
chân trời xa tít, miễn phí và không nguy hiểm. Bằng lý do nào, thì đó
vẫn là nơi ưa thích nhất và cũng là nơi tôi nhớ nhiều nhất, nhất là từ
lúc biết mình khó có dịp qua lại nữa.
Những
năm mới bỏ xứ ra đi, năm ba hôm là lại chiêm bao thấy mình về quê cũ.
Mà lần nào cũng vậy, mỗi lần lại thấy đứng đợi phà qua bến Mỹ Thuận.
Nghĩ cũng lạ. Lội sông lội suối cũng nhiều mà rồi cũng chỉ nhớ có khúc
sông trắc trở đó thôi. Dĩ nhiên điều đó chắc không ăn nhằm gì với cái vị
trí quan trọng của nó trong việc thông thương ở miền Tây. Quốc lộ số 4
từ Sài Gòn xuôi Nam đến đó là phải khựng lại. Sông rộng mênh mông, tách
nguồn từ Tiền giang ở phía bắc chảy nghiêng nghiêng theo hướng Tây Nam
đến đó phát đổ ròng ròng đến phát sợ. Thuở ấy, tiền bạc và kỹ thuật chắc
còn non yếu quá, người ta chưa đủ sức bắc cầu. Xe đò, xe hàng tới đó là
phải đậu lại, sắp hàng dài thậm thượt đợi lượt qua sông. Gặp lúc có
công-voa nhà binh chiếm ưu tiên là thôi chờ đợi dài người ra. Xe cộ phì
phò hục hặc, khách khứa nhốn nháo, mấy chú lơ xe hấp ta hấp tấp xách
thùng xuống sông múc nước đổ máy cho hạ hỏa, mấy bà mấy cô cũng vội vội
vàng vàng chạy tìm mấy chỗ giải thủy cho nhẹ mình, khi thì bờ ruộng lúc
lại mấy lùm cây khuất khuất hở hở. Cái hoạt cảnh ồn ào náo nhiệt không
có chỗ nào giống được. Lạ lắm.
Làm
như đó là một nơi người ta rất mong cho mau tới, mà tới rồi lại cứ mong
cho mau đi. Nói vậy mà không đi mau được là cũng vui vẻ như thường. Có
khi thấy xe kẹt nhiều quá là thiên hạ cứ miệng lầm thầm rủa xả mà chân
thì xắn xả nhắm hướng mấy cái quán nước thân tình. Hàng quán thì bán đủ
thứ thượng vàng hạ cám. Người đi xa lỡ độ đường không sợ đói. Cơm nước
trái cây bốn mùa, mùa nào thức nấy. Cứ nhìn mấy giỏ mận hồng đào chín
mọng là bắt khát nước, mấy giỏ ổi xá-lỵ căng da xanh mướt mà phát thèm.
Điệu nghệ hơn nữa, những xâu chim trao trảo quay vàng ngậy chảy mỡ bóng
lưỡng chấp chới trong lồng kiếng quyến rũ còn hơn cao lâu Chợ Lớn, mấy
miếng thịt sườn nướng than tại chỗ bốc mùi thơm thấu tới thiên đình. Kề
đó mấy chai bia con cọp sắp hàng dọc ngang như nghinh nghinh thách đố ai
mà chịu nổi. Bởi vậy mà khách giang hồ qua đó thế nào rồi cũng phải có
lần ngả bàn nhậu dọc đường. Mà bởi vậy khách đa tình qua đó cũng không
thiếu người vướng lại những cuộc tình tứ chiếng. Bà lớn bà nhỏ em gái em
nuôi gì không biết chớ chuyện ghen bóng ghen gió vẫn xảy ra hà rằm làm
cho cái bến đổ vốn đã ồn ào lại được thêm phần… ầm ĩ.
Nhưng
mà tại sao là Mỹ Thuận mà không là một cái bến khác. Dọc theo miền Tây
còn bao nhiêu là bến phà. Vàm Cống, Cần Thơ, Rạch Miểu, Chợ Gạo, Cổ
Chiên… sao không nhớ. Mà chỉ nhớ rặt có Mỹ Thuận? Hay tại tôi cũng nòi
tình như ông Cò quận chín trong tuồng cải lương Tuyệt Tình Ca
có bà vợ nhỏ ở Vĩnh Long đã chèo xuồng đưa chồng qua sông Mỹ Thuận về Mỹ
Tho thăm vợ lớn rồi biệt tăm biệt tích luôn mấy chục năm trời. Không,
tôi biết cái bến phà đó từ lúc còn rất nhỏ, chưa tới tuổi có một vợ chớ
đừng nói tới vợ hai. Kỷ niệm của tôi với cái bến phà đó không dính líu
gì hết tới mấy cái chuyện tình duyên tấm mẳn. Nó chỉ dính líu tới cái
tuổi nhỏ mà mộng lớn của tôi thôi. Vốn là quê tôi cách bến phà Mỹ Thuận
đâu chừng chín mười cây số gì đó. Con đường nối liền bến nước với tỉnh
lỵ chạy qua những thửa ruộng nho nhỏ cắt chia bằng mấy bờ đê lúp xúp,
ngang qua vài xóm nhà lá lụp xụp và một hai chiếc cầu xi-măng bắt cong
cong rất điệu. Con đường hiền lành thơ mộng một cách quê mùa, cũng chẳng
có gì là đặc sắc.
Chỉ
có điều con đường đó là cái ngõ thoát êm đềm nhất để chạy trốn nhịp
sống đều đặn nhàm chán của tỉnh nhỏ buồn hiu. Con đường là cái gạch nối
ngắn nhất đưa đứa con trai mới lớn từ thực tế vây khốn đến mộng mị phiêu
lãng qua trung gian là cái bến phà rộn rịp đầy khách lữ hành xuôi
ngược. Lần đầu tiên qua đó một lần năm chín tuổi là bắt mê ngay cái
không khí chộn rộn, tất tả, lăng xăng của kẻ đến người đi, của người qua
kẻ lại làm như ai nấy đều vội vã lắm. Người ta sốt ruột trông cho mau
đến, đến rồi sốt ruột trông cho mau đi, đi hấp ta hấp tấp như chỉ sợ trễ
một chuyến qua sông là sẽ trễ luôn cả một cuộc đời. Làm như cuộc sống
không chịu ngừng lại một chút, cứ phải là những chuyến lên đường.
Ờ,
những chuyến lên đường! Hình ảnh những khách bộ hành lật đật xuống xe,
tay xách nách mang kéo nhau đi như chạy qua phà là cái biểu lộ tuyệt
diệu nhất cho sức hút của dặm trường thiên lý, của kiểu đời gạo chợ nước
sông đã làm tôi mê mẩn suốt một thời mới lớn.
Hình
dung trở lại đứa trẻ sinh ra ở một tỉnh nhỏ lần đầu tiên được cha mẹ
dẫn cho đi Sài Gòn. Chuyến xe tài nhứt khởi hành đâu khoảng bốn giờ
sáng. Trời gần Tết đẫm sương. Lòng xe tối mò. Hơi khói xăng xông lên mũi
kích thích. Đứa bé cố nhướng mắt thật to để nhìn cho hết con đường mơ
trước mặt. Mà có được đâu. Cơn mê ngủ đậu chực trên mí mắt cứ đè sụp
xuống hoài làm nó lắc lắc đầu như để phủi đi mà không phủi được. Tiếng
xe chạy ù ù càng như ru thêm. Nhưng mà mới ngủ gà ngủ gật đâu được một
chút đã giựt mình nghe tiếng anh lơ la oang oang. Bà con cô bác xuống xe qua đò. Có ăn gì thì xả rác trong xe bà con ơi… Đứa
bé giựt mình mở choàng mắt dậy. Ôi thôi đâu mà đèn đuốc sáng trưng.
Người qua lại rộn rịp, kêu réo thúc hối kèn cựa tự nhiên như giữa chỗ
không người. Đứa bé ngơ ngác tưởng trong chiêm bao. Đâu mà mới chút nãy
còn ở giữa đồng hoang tối mịt, mới ngủ quên một chút, bừng con mắt dậy
đã thấy ở ngay giữa bữa chợ đông.
Bỡ ngỡ,
chớp chớp con mắt mấy cái là tỉnh như sáo sậu. Nó khoái chí dòm cái
hoạt cảnh mới thấy lần đầu. À thì ra người ta có ngủ như nó đâu. Người
ta đi đi lại lại, chạy tới chạy lui, cười giỡn nạnh hẹ nhau suốt đêm
suốt ngày. Cái cõi người lớn này lạ thiệt. Đêm hào hứng như vậy cách chỗ
nó ở có bao xa, bằng đâu một chớp mắt thôi. Vậy mà ở nhà mới chạng vạng
ba má đã bắt nó phải lên giường ngủ một mạch cho tới sáng trưng. Như
vậy ở ngoài căn nhà nó ở, ngoài con đường tráng nhựa nó đi tới trường
hàng ngày, ngoài ngôi chợ lớn cạnh bờ sông thỉnh thoảng có mấy gánh sơn
đông về múa võ bán cao đơn hoàn tán, ngoài cái rạp xi-nê chiếu phim cao
bồi bắn lộn với mọi da đỏ… còn có cả một thế giới lạ lùng, vui tươi, rộn
rịp, chờn vờn một sức sống mãnh liệt bừng bừng ngay kề bên cái phố nhỏ
buồn hiu của nó. Đúng là cả một khám phá kỳ diệu.
Xe
chạy chậm lại rồi rà rà tìm chỗ đậu. Mọi người lục tục xuống xe. Thằng
bé nắm chặt tay mẹ nó đi những bước như nhảy. Nó cố làm ra vẻ người lớn
như để được hòa hết mình vào cái thế giới sôi sùng sục quanh nó. Nó nở
mũi hít thật dài một hơi không khí mát lạnh từ ngoài sông thổi tới, thấy
như hít luôn cả cái chộn rộn của đoàn người đang vội vã đi bên cạnh,
luôn cả cái mùi kỳ lạ pha trộn đủ thứ thập vật trần gian: hơi người, hơi
gà vịt treo buộc tòn teng dưới cặp đòn gánh của mấy bà bạn hàng, hơi
trái cây vừa mới hái đổ đống trên sạp, hơi nước lèo của mấy xe hủ tiếu
thơm phức, hơi xăng nhớt nồng nồng, cả hơi tinh sương của một ngày đang
trổi dậy. Trong khi đó đoàn xe chạy chậm chậm cẩn thận từng chiếc một
xuống phà theo sự chỉ dẫn của ông “xếp bắc”, miệng ngậm tu-huýt
mặt câng câng như tự thấy mình quá sức quan trọng. Mỗi chiếc xe bò lên
cầu từ tốn vừa chạy vừa run run chắc vì lòng cầu nhỏ quá chỉ vừa lọt chí
mí. Kề bên một anh lơ chạy lúp xúp tay cầm cục gỗ chặn như để sẵn sàng
can thiệp khi xe lỡ trớn.
Chiếc cầu sắt lót ván kêu rần rần dưới vòng bánh xe nặng trịch. Xe chạy tới đầu “bông-tông” thì ngừng lại, khục khà khục khặc như vừa thấy nguy hiểm chờn vờn trước mặt. Mà nguy hiểm thật. Ở giữa “bông-tông”
là một cái cầu quay hình chữ thập, bề ngang đâu cũng chỉ vừa lọt hai
bánh xe, cái nhánh thẳng nối với đường cầu đâu chỉ dài hơn chiều dài
chiếc xe đò một chút mà lại đâm thẳng ra dòng sông đang chảy cuồn cuộn.
Ngó mà thấy rùng mình. Hèn chi ngay đầu cầu lúc nãy thấy có một tấm bảng
đỏ ghi mấy hàng chữ trắng:”Coi chừng thử thắng xe qua phà”.
Điệu này không khéo xe chạy tuốt xuống sông như chơi. À thì ra tại vậy
người ta bắt bộ hành xuống xe đi bộ bỏ mặc chiếc xe với ông tài xế thử
thời vận. Mà chắc cũng không sao vì ông tài xế coi bộ bình tĩnh lắm,
miệng ngậm trệch điếu thuốc lá, từ từ rà thắng cho xe rề rề chạy xuống
tới mút bửng cầu thì ngừng lại đúng lúc ông kiểm soát khoát hai tay ra
dấu ngừng. Tất cả ăn khớp đúng phốc như dứt hết sáu câu mà rơi ngay đúng
nhịp song lang. Tức tốc, anh lơ xe chêm ngay hai khúc cây chặn cứng hai
bánh xe hết đường nhúc nhích.
Rồi
đợi đâu sẵn, bốn người phu đứng ngay bốn đầu cầu quay, người kéo người
đẩy vận sức xoay bàn cầu quay một phần tư vòng tròn cho đầu mũi xe hướng
ngay mũi phà đã hạ bửng đợi sẵn. Chiếc xe rú một hơi dài rồi chồm lên
chạy xuống phà. Vậy là xong một chiếc xe. Phà nhỏ chở được có bốn năm xe
là đầy một chuyến. Ông tài công ngồi tuốt trên phòng lái ra lệnh
dỡ bửng. Ai đó đánh một tiếng kẻng. Vậy là coi như nội ngoại bất xuất,
trên dưới không được lên xuống nữa, hành khách và xe cộ không được chộn
rộn chàng ràng nữa. Phà dỡ đõi rồi từ từ lùi ra bến. Trời hưng hửng
sáng. Gió bốc theo khói sóng thổi phần phật mấy tấm bạt che hàng trên
mui xe. Nước bắn tung toé hai bên thành phà làm ướt nhem mấy dãy băng
dành cho hành khách. Mặt trời hà tiện chút ánh sáng vàng cam không soi
nổi con sông lớn quẩy sóng đen ngòm. Phà chạy chậm như thong thả lắm hay
là tại không có sức nhanh hơn. Máy nổ rì rì đến sốt ruột. Ngồi trên mấy
cái băng gỗ có lúc người ta tưởng chừng như đang đứng yên một chỗ nếu
không có mấy dề lục bình trôi băng băng ngược chiều.
Gặp
mùa lũ chướng xem chừng còn nhàn nhã hơn nữa. Phà qua ngang không nổi,
phải thả trôi theo con nước xuống tuốt đuôi cồn rồi mới ì ạch vòng lên
bờ bên kia. Như vậy mà chắc ăn nếu không phà tròng trành có thể lật
ngang như chơi. Vậy mà thằng bé vẫn khoái như thường. Dễ chừng nó còn
mong cho lâu tới nữa. Đâu phải lúc nào cũng được đi trên sông một cách
nghênh ngang như vậy, ngó mấy chiếc tam bản chèo chống lê thê bị sóng
tàu nhồi đờ đẫn mà tội nghiệp. Nó ngửa mặt hứng mấy giọt nước bay trong
gió, tóc dựng đứng như bờm ngựa, lòng mơn man một nỗi vui kỳ lạ. Cùng
lúc trời lộ hết bình minh. Con sông hiện rõ dần, lớn lao, chói lọi, bất
trắc và mê hoặc như một huyền nhiệm. Đứa bé thấy con sông và bến nước
lần đầu tiên mà sao có cảm tưởng như sẽ thấy muôn đời. Tấm lòng nhỏ xíu
của nó như đã dành một chỗ rất lớn cho khoảnh sông nước đó. Nó chăm bẳm
cái hình ảnh của thiên nhiên cựa mình sống dậy như một khám phá bất ngờ.
Và lớn lên một cách đột ngột, từ đó.
Như
vậy mà tôi qua phà Mỹ Thuận lần thứ nhất. Tôi trở ngược lại qua phà lần
thứ hai ít ngày sau gì đó. Cũng y như lần đầu. Chỉ khác là vào buổi
chiều, trời sắp tắt nắng. Bóng đêm chực chờ càng làm con sông, chiếc phà
và người ta thêm gấp gáp. Cũng cái vội vã thêm một chút lo lắng. Cũng
cái ồn ào nhưng bớt đi một chút náo nhiệt. Nhưng không có vẻ gì là sắp
ngừng nghỉ. Sông nước có thôi chảy đâu. Và người ta cũng đâu có hết lên
đường. Ở đó là hình ảnh một dòng sống không có khởi đầu và cũng không có
kết cuộc.
Có
phải tại vậy mà tôi mê cái bến Mỹ Thuận hay không? Tôi đã giữ trong tôi
cái hình ảnh qua lại bất tận trên dòng sông bất tuyệt này rất lâu. Mãi
đến khi lên Trung Học, tôi vẫn thường trốn nhà những ngày nghỉ học đạp
cái xe đạp cà tàng chín cây số lên đó, đứng ngó ngu ngơ một đỗi rồi đạp
xe trở về. Mệt đừ mà lòng lại thấy vui sướng như vừa làm một chuyến đi
xa, hồn mê mải với cuộc mộng du tưởng tượng. Không biết có phải tại tôi
chịu ảnh hưởng của đứa bé mê nhà ga và xe lửa trong thơ Tế Hanh hay
không mà tôi cứ hay làm như nó. “Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt. Lòng buồn đau xót nỗi chia xa”. Cái hình ảnh đẹp và buồn đến dại người. Mà cũng dại thiệt. Tôi mê cái bến phà Mỹ Thuận đến dại dột.
Năm
học lớp Đệ Tứ, cô bạn gái cùng lớp thân thích với tôi như quít với cam.
Còn tôi thì cứ tưởng thiên hạ ai cũng mê thích kỳ quái như tôi. Lần đó
tôi rủ cô ta trốn học, hai đứa lén ra bến xe lam đi Mỹ Thuận. Cô ta nghe
tôi tả cái cảnh và cái tình của Mỹ Thuận nên cũng náo nức đi theo. Đến
chừng lên tới đó thấy phố xá lu bu, người ta lật đật, sông nước thì vô
tình cô ta đâm chán nản đòi bỏ về đi coi chớp bóng. Tôi đâu chịu. Thế là
giặc giã nổi lên đùng đùng. Cô bạn thường ngày phụng phịu dỗi hờn dễ
thương hết sức, hôm đó không biết nổi chứng gì mà quyết liệt còn hơn bà
Trưng thù nhà hận nước dứt khoát bỏ tôi lên xe trở về. Tôi tự ái ở lại.
Xui một cái là sau đó cô ta bị cha mẹ khám phá được chuyến giang hồ vặt,
chắc bị nọc ra đánh đòn rồi đày vào lãnh cung hay sao đó mà thề cự
tuyệt mặt tôi. Thế là “anh đi đường anh, tôi đường tôi…”
Nghĩ
cũng uổng, chỉ vì ba cái vụ lên xe xuống xe mà đành rẽ thúy chia uyên.
Nhưng mà tôi có tởn đâu. Tôi vẫn chứng nào tật nấy. Hể được cô nào thân
ái là tôi cứ cà rà mời cho được lên chơi Mỹ Thuận một lần. Ở đó tôi
huyên thuyên dẫn giải hoặc trầm ngâm tâm sự làm như chỗ đó là giang sơn
riêng của tôi vậy. Có cô cũng kiên nhẫn ngồi nghe nhưng đa số thì giẩy
nẩy đòi về. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì cũng đâu lỗi tại tôi. Nơi cái
thành phố tôi ở thuở đó có chỗ nào thơ mộng đâu mà hẹn hò. Chẳng lẽ đưa
nhau vào Văn Thánh Miếu, chỗ thờ ông Thánh Khổng chuyên trị lễ giáo mà
đi lạng quạng dưới mấy gốc mù u tối om để nỉ non tâm sự. Lỡ ổng nghe
được thì hóa ra tôi cũng lỗi đạo với bậc tiên sư. Nếu không thì dưới
bóng cây da Cửa Hữu có miếu Bảy Bà sơn thủy cũng hữu tình nhưng thời đó
nghe đồn bà hay xẹt đi xẹt lại thì càng nên tránh cái chuyện tới đó thề
non hẹn biển.
Còn
cái rạp xi-nê nhỏ như cái lổ mũi chuyên môn chiếu tuồng cao bồi đánh
nhau với da đỏ thì giữa cảnh tên bay đạn lạc đó thì còn đâu tâm trí mà
nói chuyện tâm tình. Vả lại ngay xuất chiếu buổi trưa rạp chẳng có máy
lạnh lại còn đóng cửa kín bưng nên cứ vừa coi phim vừa quạt phành phạch
thì hơi sức đâu nữa mà thủ thỉ. Chỉ có Mỹ Thuận của tôi là thượng hạng.
Vừa có gió sông lồng lộng, có phà trôi rập rình, có đủ thứ quà cáp trần
gian và nhất là có những vóc dáng giang hồ qua qua lại lại. Bến nước là
nơi tao ngộ của những tay tứ chiếng, là ngã tư gặp gỡ của trăm họ miền
Tây. Cà mau, Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà
Vinh… Họ băng ngang thì thôi chớ còn xổ dọc là gặp nhau ở đó. Không hẹn
mà gặp. Gặp không chào không hỏi. Gặp một lần trong một đời. Rồi thôi.
Rồi mất biệt như chưa từng đã gặp. Dĩ nhiên chắc họ cũng có trở đi trở
lại nhưng rồi có ai gặp lại ai đâu. Tôi đã thấy ở đó bao nhiêu là mặt
người, bao nhiêu là nhân dáng mà rồi có gặp lại ai bao giờ. Phải vậy không, ở đó giống y như cái cõi đời này mà một ông Tàu xưa đã cảm thán đến để rơi nước mắt: “tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giã, niệm thiên địa chi du du, độc thương nhiên nhi lệ hạ”.
Đó
là một quán trạm bên đường mà mọi người phải ghé qua trong cuộc hành
thiên lý dù có muốn hay không. Ghé qua một chút, vui vẻ hay buồn rầu,
nhẹ nhàng hay gồng gánh thì cũng phải ghé qua, đi tới đi lui, dòm ngó
loanh quanh rồi quay lưng đi mất biệt. Đó chẳng giống cái đường trần
thăm thẳm này sao mà khách lữ chính là chúng ta đó. Chúng ta đến rồi đi
có ai biết, dòng đời vẫn chảy đến biệt mù cũng chẳng làm sao hay. Thuở
ấy tôi đã triết lý vụn như vậy với bạn bè mà không ai chịu nghe tôi.
Riết rồi chỉ còn mình tôi là đi lại chung tình với cái bến phà-bến đời
náo nhiệt đó. Vậy mà hay, bởi vì ở đó tôi đã sống bao nhiêu cảnh tình mà
cả chục năm sau tôi cũng chưa hề sống lại được. Bãi trường năm 66, 67
gì đó, tôi từ Sài Gòn về quê nghỉ hè, cô bạn con nhà trọc phú được cha
mẹ lo cho đi du học ở Pháp, ngày đi quá bất ngờ cô ta đáp xe đò về tìm
tôi từ giã. Không biết lúc ấy lòng buồn đến đâu mà sau khi đưa cô ta qua
sông trở lại Sài-gòn, một mình đón phà ngược trở lại, bỗng nhiên tôi
khải ngộ được một điều thắc mắc từ thuở mới mê thơ. Đưa người ta không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong lòng.
Trời
ơi lần ấy tôi mới thấy hết cái tài hoa của người thi sĩ mệnh bạc. Đưa
người, ông không đưa qua sông mà nghe sóng vỗ ở trong lòng. Còn tôi đưa
người, tôi lại đưa ngang sông thì sóng vỗ biết cơ man nào mà nói. Con
tim dù lớn cách mấy cũng chỉ bằng nắm tay thì chỉ có nước chết đuối
thôi. Lần đó tôi tôn ông Thâm Tâm làm sư phụ. Mấy thằng bạn trời đánh
của tôi chỉ lo chạy xe lạng đào trong thành phố làm sao hiểu thấu được
cái lớn lao u trầm của người thơ. Đời mộng và thực như vậy đó bàng bạc
trên từng ngọn sóng, từng khúc quành, từng vết xe lăn, từng chuyến phà
ngang trắc trở. Sao không tới đó mà coi, không tới đó mà nghe tiếng đời
kêu réo. Phải rồi còn cái tiếng đời huyễn hoặc này nữa, tiếng độc huyền
của ông ăn mày mù ngồi trước hàng ba một tiệm nước. Ông ta ngồi đó tự
lúc nào tôi không biết.
Chỉ
biết khi tôi bắt đầu quến thật sự cái sinh hoạt của bến Mỹ Thuận thì
ông ta đã có ở đó rồi. Ông ta ngồi đó lặng lẽ, nhỏ nhoi, có mà như không
có, giống như cây cột đèn bữa cháy bữa không. Sự có mặt của ông có làm
bận tâm ai đâu họa chăng là mấy thầy phú-lít. Nhưng mà ông ta mờ nhạt
quá, cũ kỹ quá nên riết rồi người ta cũng lờ đi coi như là một vai câm
của vở kịch cứ đổi cảnh hoài. Như cái phần tĩnh của bức tranh động vậy.
Ông ta ngồi yên như một khúc gỗ đẽo sần sùi, lưng cong vòng, mặt nghiêng
nghiêng, đôi mắt sâu hoắm, hai chân xếp lại, gần như không nhúc nhích.
Chỉ có tiếng đàn của ông là bay lượn thảm sầu. Cái giọng ỉ ôi như kêu
rêu, như trách cứ mà cam phận, nghe nghèn nghẹn đến tức tưởi. Nó gần như
gom hết tất cả cái gì oan nghiệt nhất, cái gì đoạn trường nhất, cái gì
tang thương nhất của cuộc đời này lại rồi phát ra một lượt làm chết
điếng lòng người. Đàn chỉ có một dây thôi mà đủ hết mùi trường hận.
Tôi
khám phá ra ông một bữa về ngang trời đổ mưa bất chợt. Mọi người chạy
túa vào mấy cái mái hiên tìm chỗ đụt. Vừa tấp vào một quán nước tôi để ý
tới người đàn ông mù tức khắc. Có một vẻ gì lạ lắm toát ra trên gương
mặt vô tri như trét sáp. Ông ta ngồi đó, lặng lờ như một vệt khói, mặc
cơn mưa rào rơi lộp độp, mặc đám phàm nhân lao xao. Ông làm như không
hay biết gì hết, ông chỉ biết tiếng đàn của ông thôi. Mấy ngón tay xương
xẩu, đen đúa thoăn thoắt bắt nắm sợi dây đàn độc nhất, còn bàn tay trái
vặn vẹo cái cần gỗ đã lên nước bóng ngời. Tôi không biết ông đàn bản gì
chỉ nghe được cái não nuột của âm thanh như từng mũi kim chích thẳng
vào da thịt mình đến nhức buốt. Tiếng đàn thoát đi bay lượn lẹo trong
không khí ẩm đục nghe như tiếng khóc từ cõi âm vọng lại, kêu réo, van
nài làm tôi rùng mình muốn phát lãnh. Nó bay ra xa, uốn éo rồi vòng lại,
oằn oại. Nó vút lên cao, lanh lảnh rồi chùi xuống thấp, rụng rời. Người
ăn mày mù vẫn say mê đàn như không biết cái tiếng đàn ma quái đang
truyền nhiễm về đời bóng tối của u minh, dẫn đường cho những hồn oan kéo
nhau về lướt thướt.
Một
lúc mưa bỗng tạnh. Mọi người lục tục bỏ đi. Có bà nhón vài đồng bạc cắc
bỏ nhẹ vào cái hộp thiếc đặt trên góc chiếu. Còn đa số thì chắc quá vội
đi mà không kể gì đến tiếng đàn bỏ lại. Còn tôi sao tôi bỗng nhiên thấy
đi không nỡ. Sao tôi có cảm giác như thiên hạ quá vô lễ với nghệ nhân.
Người ăn xin mù đó đúng là một nghệ nhân. Con người đó, tiếng đàn đó sao
tôi thấy tài hoa đến tột vời. Mù đã là một thiệt thòi. Mù mà tài hoa
thì đúng là tội nghiệt. Có phải ông mù đã gởi tâm sự mình trong tiếng
đàn tận tuyệt đó không? Tôi quay vào quán, gọi một ly cà-phê bảo người
hầu bàn đem ra cho người ăn xin rồi đến ngồi trong một góc nhìn ra. Suốt
buổi chiều, tôi ngồi nghe lóm hết khúc này đến khúc khác, lòng cứ thắc
thỏm từng hồi theo mấy cung bạc mệnh. Mà thật ra tôi có biết bài bản nào
đâu.
Thuở
đó đối với tôi, những kim tiền bản, khốc hoàng thiên hay gì gì nữa cũng
là quê mùa hết. Tôi chỉ khoái rum-ba với lại xì-lô. Đã nói tôi còn dại
dột lắm mà. Vậy mà buổi chiều đó tôi ngồi im như chết trong góc quán,
hồn mỏi mê như bị ma ám, lần đầu tiên khám phá ra cây độc huyền quái
đản. Tại sao có loại đàn kỳ dị như vậy. Và tuyệt diệu như vậy. Còn người
mù đó nữa, có phải chính cặp mắt đục lờ đó mới nhìn thấu được tới vô
thanh để biến ngũ cung thành trăm bài kinh khổ? Đã có lúc tôi tưởng
chừng ông ta biến đi đâu mất tiêu mà chỉ còn tiếng đàn ở đó thay ông kêu
khóc. Hay có thể nói ông ta và đàn như nhập làm một. Làm sao có sự hóa
thân kỳ diệu đó nếu không là một bậc dị nhân. Có lúc thần trí tôi mê
hoang tưởng như Sư Khoáng đội mồ trở về vác đàn đi tìm bạn tri âm… Rồi
tiếng đàn dứt. Tôi giựt mình thấy mình ngồi ủ rũ. Trời ngoài kia đã
chạng vạng, bến phà cũng thưa bớt người qua.
Bữa đó khi ra về tôi đã dốc hết tiền còn lại trong túi cho ông ta rồi nhảy lên đeo xe hàng có giang về chợ.
Đấy
cái bến Mỹ Thuận nó hỗn mang như vậy đó, nó tập trung tất cả mọi hạng
người từ cùng căn mạt kiếp tới những tay đâm thuê chém mướn, coi trời
bằng vung, trước ngực thì xăm “hận kẻ bạc tình” sau lưng thì xăm “thù người hại bạn”
đến người cuồng sĩ tối ngày cứ đón phà từ bờ này qua bờ kia như để đón
đợi một người nào đó chưa bao giờ gặp mặt mà hể mở miệng ra là cứ “liên hoành” với “hợp tung”. Tôi đã thấy có ông tự chặt ngón tay thề thôi cờ bạc, có ông cầm dao đòi rạch bụng khi người yêu đòi “tách bến sang ngang”, có ông dẫn cô nhân tình bụng mang dạ chửa đâu từ dưới quê lên tới đó rồi “quất ngựa truy phong” bỏ cô ngồi khóc bù lu bù loa bên bờ sông “định mạng”.
Tôi đã thấy những anh lơ xe mở miệng ra là chửi thề thí mạng mà giữ chữ
tín còn hơn cả đám anh hùng Lương Sơn Bạc, những em bé bán hàng rong
nhỏ như ngón tay út tối ngày chạy theo mấy chuyến xe đò ép nài từng xâu
mía ghim để nuôi bà mẹ tật nguyền. Mấy ông già ngồi bán báo mà thông
hiểu trời đất không sót một mảy may, bình chuyện đời xưa không thua gì
Mao Tôn Cương hay Kim Thánh Thán. Thôi thì đủ thứ cảnh đời mà có học đến
già người trong trường lớp cũng không làm sao biết được. Bởi vậy tôi
yêu mến Mỹ Thuận như một người tình chung thủy, như một người thầy lão
luyện đã dạy tôi bao nhiêu ngón khôn khéo mà cũng không biết bao nhiêu
món đoạn trường. Có lúc tôi tự thấy mình giàu có như một tay hào trưởng.
Bởi vậy bỏ đi xa rồi mới thấy mất mát biết bao nhiêu.
Ở
đây xa quá lắm lúc nhớ quê, tôi hay làm thơ kể lể. Có khi nhắc tô canh
chua tôm nấu với bông sua đũa, nhắc tộ cá lòng tong kho khô rắc chút
tiêu thơm, có khi nhớ dĩa cơm sườn ram mặn, nhắc tô hủ tiếu của chú
Thoòng có cái bụng to bằng thùng nước lèo, có khi thèm nghe lại một điệu
vọng cổ mà hồi trước cứ chê lên chê xuống. Trời ơi bây giờ mà cho tôi
chui vào rạp Miếu Quốc Công đeo tòn teng mấy chiếc cột chỗ hạng cá kèo
mà coi tuồng cải lương Nửa Đời Hương Phấn chắc là tôi sướng
lắm. Nhưng mà sướng hơn nữa nếu được về đứng lại dòm ngó ngu ngơ hai bên
bờ sông Mỹ Thuận như ở tuổi mới vào đời.
Vậy
đó tôi vẫn nhớ quê như mọi người nhớ quê của họ. Tôi còn nhớ thêm cái
bến nước ơn nghĩa của tôi nữa. Nơi mà không ai chịu nhớ tới chỉ bởi cái
tội nằm ở giữa một chặng đường. Người ta chỉ nhớ nơi đi và nơi đến. Đâu
ai bỏ công đi thương nhớ một trạm dừng. Rồi bây giờ nghe đâu người ta đã
bỏ luôn cái bến phà đó nữa. Người ta đã cất cầu treo ở trên dòng sông
lớn. Những chuyến phà chắc đã kéo vào ụ hay rã ra đem bán sắt vụn. Hàng
quán hai bên bờ chắc cũng phải đóng cửa. Mấy người chủ quán chắc đã đổi
nghề khác làm ăn. Con đường đá chạy xuống phà chắc bây giờ bỏ hoang cho
cỏ dại mọc lan. Tôi không về nên chỉ tưởng tượng được thôi. Sông kia rày
đã nên đồng. Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai. Đêm nghe tiếng ếch
bên tai. Giựt mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. Đấy ông Tế Xương ngày xưa
cảm khái như vậy đó sau khi con sông ở Nam Định quê ông bị Tây tới lấp
đi. Nghe mà thấy tội tình. Tôi nghĩ ông chưa nói hết những điều muốn
nói. Ông không chỉ nhớ tiếng gọi đò thôi đâu. Chắc chắn ông còn rất
nhiều kỷ niệm khác mà ông giữ kín cho riêng mình. Bởi vì nói ra cũng
không hết được. Mà lắm khi còn bị bĩu môi là hoài cổ, là không thức
thời.
Cũng
như tôi bây giờ vậy, tôi cứ bị người thân kẻ lạ rầy rà, lắm khi mắng
nhiếc khi thấy tôi cứng đầu cứ khư khư giữ riết lấy cho mình những hình
ảnh cũ, những thương tiếc này, những ngậm ngùi nọ. Chi mà mệt vậy. Quên
phứt cái cho được việc. Cuộc đời còn hàng trăm chuyện phải lo, hàng ngàn
chuyện phải làm, nhắc làm chi cái chuyện đất nước cũ xì, mốc thếch.
Chuyện đời thay ngôi đổi chúa là thường tình, trăm họ có khốn khó thì
cũng là vận số thôi. Thì vâng. Nhưng vận số gì mà quái đản. Kẻ quyền thế
dư ăn dư mặc thì cứ ngày một phủ phê. Còn bạn bè anh em tôi vốn dĩ
nghèo đói ngu dốt thì cứ tiếp tục trần ai khổ lụy. Nếu tin được vào vận
số thì cũng phải tin vào một quyền lực thiêng liêng nào đó. Mà hễ thiêng
liêng thì phải có công bằng. Đằng này chuyện bất công ngang trái cứ xảy
ra nhan nhản. Như vậy thì đâu phải là vận số nữa. Mà cái này đúng là
chuyện thế gian rồi. Ai đời một dân tộc với đức kiên nhẫn, tánh cần cù,
lòng đạm bạc đã đi vào huyền thoại mà mấy mươi năm rồi vẫn không ngóc
đầu lên nổi thì thử hỏi có lạ không. Đã không còn giặc giã để đổ thừa,
cũng không ai chen vào phá đám. Vậy thì tại sao? Chắc chắn không phải
tại đám con đỏ đang chạy gạo từng bữa toát mồ hôi, càng không phải tại
đám con ghẻ lang bạt kỳ hồ tứ tán ngoài cõi tạm. Vậy thì tại ai? Hỏi thì
cứ hỏi chớ câu trả lời đã sờ sờ ra đó.
Gần
đây bè bạn ân cần gởi cho mấy tấm hình chụp chiếc cầu trên sông Mỹ
Thuận. Cầu mới tinh, cất theo kiến trúc và kỹ thuật tân kỳ, thoạt nhìn
ngất ngưởng chẳng thua gì Kim Môn Kiều ở Cựu Kim Sơn, chỉ thiếu có một
chút sương muối lửng tha lửng thửng là lẫn lộn như chơi. Cũng mấy cột
tháp cao treo mấy sợi dây cáp cong cong. Nhìn trong hình chắc không đẹp
bằng cảnh thực. Ngoài đó có con sông lớn, có gió lồng lộng, có mặt trời
dát vàng buổi sáng, có mặt trăng dát bạc đêm rằm chắc còn đẹp hơn nữa. Ở
xa tôi hình dung xe cộ qua lại suôn sẻ, khách đi đường khỏi phải lên xe
xuống phà lôi thôi. Nghĩ tới nghĩ lui thấy cũng mừng. Mặc dầu trong
bụng vẫn có chút nao nao khi biết đã mất rồi nơi chốn cũ. Bến phà xưa
không còn nữa thì những vóc dáng xưa chắc cũng đã biệt mù. Chén cơm nóng
lỡ đường, giỏ ổi làm quà đường xa, ly nước mía mới ép ngọt lịm, người
chủ quán hay kể chuyện Tam Quốc mấy buổi trưa ế khách, những cuộc tình
xốc nổi, những gặp gỡ bất chợt, người hành khất mù và ngón đàn tận
tuyệt… tất cả rồi sẽ được xếp vào loại chuyện cổ tích mà người kể nào
cũng bắt đầu bằng hai tiếng “hồi xưa…”.
Có
thể mấy chi tiết mà tôi vừa nhắc đã mất đâu từ nhiều năm trước. Có thể
trong thời buổi gạo châu củi quế người ta phải vội vã hơn trước, ăn uống
nhín nhút, nói cười dè sẻn chớ không còn bung thùa như thuở tôi còn đi
lại. Có thể cái bến nước đó đã mất phong độ từ lúc mới đổi đời. Nếp tinh
thần đã khác thì nếp sống cũng khác theo. Người đi lại ơ thờ thì sông
nước cũng chỉ là một cõi bơ vơ có lấy gì làm thân thiết. Nếu bây giờ
đường đi phải rẽ qua hướng khác để đắp cao dốc cầu, bỏ lại xóm cũ hắt
hiu thì cũng chỉ là nối tiếp một cách hợp lý cái cuộc sống đã bị bỏ quên
từ lâu lắm. Bởi vậy mà càng nhìn tấm hình chiếc cầu mới, tôi càng thấy
buồn hơn vui. Chiếc cầu được xây cất bằng vốn liếng tiền bạc và kiến
thức của người nước ngoài để nối hai bờ con sông trắc trở. Mừng thì có
mừng cho việc đi lại đỡ phần vất vả nhưng sao vẫn tiếc cho một nếp đời
đã ăn sâu trong lòng của một số không ít người.
Và
nhất là cứ tự hỏi, sao còn hàng chục triệu chiếc cầu lỗi nhịp trong
lòng người mà không chịu lo bắc lại để mọi tấm lòng người Việt không còn
những bờ bến phân chia?
Chính vì những chiếc cầu lỗi nhịp đó mà tới giờ này tôi chưa trở lại được quê nhà.
Cao Vị Khanh
https://www.tongphuochiep.com
No comments:
Post a Comment