Sau 1975, tôi học được
một điều, mà đến nay vẫn thấy chí lý. Đó là, người chiến thắng tuyệt đối đúng. Lịch sử
thuộc về người chiến thắng. Chân lý cũng thuộc về người chiến thắng luôn. Đánh thắng cả 3 tên đế quốc đầu sỏ, sao lại
không đúng?
Cái gì không có nội
dung, mới cần tới hình thức là thế. Người chiến thắng tự hào là đúng rồi, nhưng
tự hào cả những cái sai. Sai mà cứ tưởng mình đúng. Chuyện “tủ lạnh chạy đầy
đường” chỉ là chuyện khôi hài, chuyện nhỏ. Cái “sai mà tưởng đúng” mới làm đất
nước ra nông nỗi thế này, di lụy chẳng biết bao giờ mới hết.
Các quán nhậu
vỉa hè dọc kênh Nhiêu Lộc dạo này nhiều người hát rong, cũng ampli, loa, micro
không dây, nhạc đệm,… Họ chỉ hát toàn nhạc xưa, nhạc sến, với điệu rumba,
bolero nghe tưởng như đồng hồ đếm ngược.
Lần trước về
Sàigòn, tôi đã ngồi quán vỉa hè, nghe những bài ca vỉa hè như thế… Lặng cả
người, “…Buồn vào hồn không tên, thức giấc nửa đêm nhớ chuyện xưa vào đời.
Đường phố vắng đêm nao quen một người, mà yêu thương trót trao nhau trọn lời…”.
Tôi chợt nhớ những
ngày sau tháng tư 1975, đám bạn bỗng nhiên làm đám cưới chớp nhoáng, lấy vợ lấy
chồng để “đối phó” với thời cuộc, rồi vội vã tìm đường vượt biên. Có đứa vượt
qua biên giới, nhưng cũng có đứa về bên kia thế giới. Những người ở lại tưởng
họ đã đến bến bờ thiên đường.
Bước lên tàu là
ngàn khơi sóng vỗ, không phải là chuyến xe Sàigòn - Đà Lạt. Có khi Hà bá mời
xuống chơi, có khi tủi nhục trên đường vượt biển, phần còn lại là may mắn. Mà
có may mắn lọt vào xứ người cũng chưa hết.
Cô bạn
tôi cao chưa quá thước rưỡi, với tay đưa khay bánh vào ngăn, trượt chân, u đầu
sứt trán. Quên cả đau, vội vội vàng vàng lượm bánh xếp lại vào khay. Bà xếp Tây
mắng, “Xứ này không ăn dơ như thế”.
Cũng có người
đi làm nail, tiền tươi thóc thật, dồn hết cho con ăn học. Hy sinh đời bố, củng
cố đời con, hiểu sát nghĩa đen là đây, là mồ hôi trộn nước mắt.
Tiền gửi về nhà, người
thân trong nước tưởng đâu bên đó kiếm tiền dễ như ăn cơm sườn, xin thêm thứ này
thứ nọ. Có biết đâu đó là tiền chắt chiu, có khi là tiền thí mạng, không mua
bảo hiểm y tế.
Nhưng
cũng có người kiên nhẫn vừa làm vừa học, thành danh nơi xứ người. Nhưng cho dù
thế nào nơi xứ người, vẫn còn ít nhiều cơ hội, có chịu nắm hay không mà thôi.
Trong nước thì coi như bế tắc.
Hồi đó, tôi dạy
kèm thêm luyện thi đại học, dạy nhóm 5- 7 học sinh. Có em học xuất sắc, bài thi
làm không chê vào đâu được. Vậy mà rớt. Em là con “ngụy”, thứ “ngụy” còn trong
trại cải tạo, làm sao vào đại học nổi, em rớt ngay từ... bãi gửi xe.
Em đến báo tin,
thầy trò ngồi uống cà phê vỉa hè, buồn ứa nước mắt. Đất nước này không dung
những tiềm năng như em…
Số phận đời
người chứ đâu phải trò chơi chính trị. Sao lại có thể xây dựng đất nước bởi
những con người bằng thiệt học giả? Những năm sau 1975, đói khổ và ê chề thấy
rõ. Giáo sư, bác sĩ, ông này bà nọ xuống đường ra chợ trời hết, người đạp xích
lô, người bơm mực bút bi, bán bún riêu, buôn hàng lạc xon,… Lanh hơn thì buôn
hột xoàn đổi đô la,…
Năm 1978, tôi gặp một
phụ nữ ăn mặc lam lũ, nhưng đẹp, qúy phái, không quá 30, trên chuyến tàu chợ.
Chị kéo lê 2 bao than ra gần cửa tàu, ngước mắt nhìn tôi, nói như năn nỉ: “Lát
nữa gần đến ga Bình Triệu, anh làm ơn đạp dùm tôi 2 bao than này xuống”. Chị
buôn lậu than, đến ga sẽ bị tịch thu. Đôi mắt chị buồn và nhẫn nhục quá, làm
tôi nhớ đến đôi mắt của bà mẹ trong một tác phẩm của C. V. Gheorghiu. Cảnh sát
bắt bà mẹ vào bót để tra hỏi nơi ẩn nấp của con bà. Gheorghiu đã mô tả đôi mắt
của bà cũng buồn và nhẫn nhục như thế.
Có lần đi
chơi khuya, tôi gặp Bùi Giáng ở ngã ba Trần Quang Diệu - Trương Minh Giảng, ăn
mặc chắp vá màu mè như phường tuồng, cầm cây chổi cùn múa may, chặn đầu xe tôi
lại, “Cho trẫm điếu thuốc”. Hoàng thượng đã chiếu cố xin thuốc dân đen, dân nào
dám cãi. Tôi rút điếu thuốc và cung kính châm lửa cho hoàng thượng. Ngài rít
một hơi rồi phẩy tay, “Cho lui…”. Lui rồi, ngoái cổ lại, thấy hoàng thượng tiếp
tục múa chổi đi quyền.
Bùi Giáng đã có
mầm mống bất thường từ trước rồi, sau 1975 nặng hơn, lang thang khắp chốn. Cái
điên của Bùi Giáng thật hay giả, cũng khó biết. Mất trí như ông vậy mà hay, ý
thức buồn vui làm chi cho khổ?
Mà Sài
Gòn lúc đó sao lắm người điên thế! Cũng không phải điên, họ có phá phách gì ai
đâu. Tôi thường gặp vài ông ăn mặc lịch sự lắm, áo sơ mi trong quần, có ông còn
đeo cà vạt, đi đi lại lại ở khu Lê Công Kiều, nơi bán sách cũ. Vừa đi vừa khua
tay, lảm nhảm rồi lại gật gù, nào là Marx, Hegel, Mounier, Sartre,…
Người bạn
tôi qua được tới bến bờ, vừa làm vừa học, gửi về cho tôi thùng quà chừng 1,5 kg
kèm bức thư ngắn: “Gửi mày mấy hộp thuốc tây, bán đi mà lai rai. Còn lọ nhỏ để
uống, đừng bán. Thuốc an thần đó”. Tâm thần phải chăng là lối thoát của con
người với thực tại quá phũ phàng?
Ngẫm lại,
một nhà chính trị tài giỏi là người có thể đưa đất nước tới mục tiêu mà ít đổ
máu nhất, chứ đâu cần phải đốt cả dãy Trường Sơn, đánh tới người cuối cùng.
Mạng người quá bèo. Bèo thì cũng đành, nhưng hệ lụy cho người còn sống, cha mẹ
vợ con họ mới là nỗi đau gặm nhấm cả đời.
Cả đất
nước sống bằng khẩu hiệu, đất nước ta dân chủ gấp vạn lần,… Nghe riết rồi quen,
nghe tai này lọt tai kia cũng quen luôn. Không quen lỡ có ngày phát điên thì
sao?
Người lẽ ra
phải điên mà không chịu điên, đó là mấy bà. Cầm có tí tẹo tiền, xách giỏ đi
chợ, loanh quanh đầu chợ cuối chợ cả tiếng đồng hồ, có khi chẳng mua được thứ
gì.
Mà có tiền đi
chợ là còn may, có người chỉ khoai sắn, rau lang, bí đỏ,… quanh năm. Ăn để sống
sót thì thứ gì chẳng nhét vô bụng được. Bột ngọt khi đó là thần thánh.
Mấy ông
“tù cải tạo” coi vậy chứ chỉ khổ cái thân, chứ cái đầu chưa đến nỗi. Có biết
bên ngoài thế nào đâu mà khổ, mà lo.
Vợ một bác sĩ
quân y đi thăm nuôi, dúi vào tay chồng ít tiền. Thăm nuôi lần sau, thấy tiền
vẫn còn nguyên, ông chồng không dám xài. Bà than, “Tội nghiệp cho cả gia đình
tôi! Ở ngoài vợ con nhịn đói để nuôi tù, ở trong nhịn đói vì không nỡ nuốt cái
đói khát của vợ con”. Não lòng đến thế là cùng! Nước mắt nuốt ngược thế này,
chỉ bị nghẹn mà không phát điên, bà này chắc có căn phần phúc đức.
Nghe nói
mấy ông “ngụy cải tạo” định lập ra ngày vinh danh mấy bà vợ. Không đủ đâu mấy
ông. Mấy bà này chắc phải
phong... Thánh.
Tháng tư
năm nay, Sàigòn nóng khủng khiếp. Sàigòn không mưa nhưng Đà Lạt mưa. Những ngày
cuối tháng tư năm nào Đà Lạt cũng mưa, mưa mù mịt che khuất cả đồi thông ở
Couvent des Oiseaux đối diện nhà, nhưng mưa chỉ vào lúc trưa chiều, tối tạnh.
Đà Lạt 8 giờ
tối đã như 12 giờ khuya ở Sài Gòn. Tôi vẫn thích đi bộ mỗi khi có chút hơi men
thế này. Con đường dốc về nhà như kéo theo mệt mỏi của đời người. Tựa lưng vào
cửa nhà, hoa lá trong vườn yên tĩnh như đêm.
Dưới ánh đèn
đường rọi qua hàng rào, bóng của lá cây ngọc lan chập chờn trên mặt sân. Cuối
tháng tư rồi. Người ta sẽ đốt pháo hoa ở Sàigòn để ăn mừng. Ai vui xin cứ vui.
Nhưng còn chút tâm tình này của kẻ buồn, không nói cho thế hệ sau biết những
buồn bã sau 1975 là như thế đó, lòng dạ nào yên?
Năm 1975
là ngã rẽ của đời người. Bạn bè, người thành danh, đứa bầm dập, và cho dù có ở
phương trời nào, tây hay ta, nỗi khổ vẫn theo số mệnh mà đến. Giờ đây, đứa nào
cũng chạm tay vào buổi hoàng hôn cuộc đời rồi?
Tháng tư,
tôi thắp ngọn nến trong lòng. Thoảng trong mùi hương ngọc lan, tôi hát theo,
hát thầm bài hát nghe được ở quán rượu “…Cuộc đời là hư vô, bôn ba chi xứ
người, khi mình còn đôi tay…” (*)
Vũ Thế Thành
(*) Lời ca trong bản tình ca "Xin thời gian qua mau" của Lam Phương. (Người đăng bài thêm chú thích nầy)
Thưa ông Thành, ông Bùi Giáng tính khác người nhưng ông là người khôn lắm đó. Nhà thơ Bùi Giáng từng là bạn của cựu đại đức Thích Huệ Nhựt, ô. Bùi Giáng (BG) là người khuyên ô. Thích huệ Nhựt (THN) đọc Kinh Thánh dù rằng biết THN đã tốt nghiệp Phật học Viện Nha Trang và đại học Vạn Hạnh. Dù tu hành nhưng ô. THN thấy rằng " đi tu như thế vẫn không diệt bớt tội lỗi trong tôi. Nếu có địa ngục chắc tôi phải vào trước nhất", ông thất bại trong đường tu nên bỏ tu ra đời. Vì là Phật tử, lúc đầu ô. không có thiện cảm với kinh thánh, nhưng nghe lời BG ông thử đọc, rồi càng đọc Kinh Thánh( KT) ông THN "càng thấy lời Chúa rõ ràng và thực tế..." và ô. nhiều lần được Chúa nhậm lời cầu nguyện nên cuối cùng ô. cựu đại đức tin Chúa. Ô. bị công an VC bắt và ô. làm chứng cho 2 công an tin Chúa, cho gia đình ô. 30 người tin Chúa. Những bạn của ô. THN như đại đức Từ Vân, đại đức Trí Dũng , đại đức Ngộ Thiện và ni cô Diệu Thiện cũng đều tin Chúa. Ô. Bùi Giáng thấy ô. THN tin Chúa được phước dẩn dắt nhiều người theo Chúa nên ô. BG cũng tin Chúa. Ô. BG chọn Chúa để được cứu rỗi là quá đỗi khôn ngoan , không điên đâu. Còn ô. THN ngày nay đã trở thành mục sư Tin Lành Nguyễn Huệ Nhựt.
ReplyDeleteXin quí vị mở linh dưới đây để đọc thêm chi tiết về cuộc đời ly kỳ dẩn đến việc tin Chúa của cựu đại đức Thích Huệ Nhựt .( page 1and 2.)
https://vuongquocducchuatroi.net/vi-khao-khat-tim-chan-ly-mot-cuu-dai-duc-phat-giao-gap-chua/
Bà Châu San Diego