Chiều cuối năm, Minh cố gắng xem lại hồ sơ bệnh lý một vài người bệnh
nặng, dặn dò y tá các chỉ dẫn cần thiết để chuẩn bị những ngày nghỉ Tết dài.
Giữa cái không khí đặc biệt của những giờ phút cuối cùng năm Nhâm Tý (1972),
trong niềm nôn nao chuẩn bị và chờ đợi, có một chút gì thiêng liêng, khi mỗi
người đều đi vào thế giới thầm kín của riêng mình, từ cuối trại bệnh vọng lại
mồn một, tiếng hát thật tâm tình:
“Con biết bây giờ mẹ chờ
tin con, khi thấy mai đào nở vàng bên nương. Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về‚
nay én bay đầy trước ngõ, mà tin con vẫn xa ngàn xa.”
“Ôi nhớ xuân nào thuở trời yên
vui‚ nghe pháo giao thừa rộn ràng nơi nơi‚ bên mái tranh nghèo ngồi quanh bếp
hồng, trông bánh chưng chờ trời sáng‚ đỏ hay hay những đôi má đào.”
“Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm‚
mái tranh nghèo không người sửa sang‚ khu vườn thiếu hoa vàng mừng xuân, đàn
trẻ thơ ngây chờ mong anh trai, sẽ đem về cho tà áo mới, bao ngày xuân đi khoe
xóm giềng.”
”Con biết không về mẹ chờ em trông‚
nhưng nếu con về bạn bè thương mong, bao lứa trai cùng chào xuân chiến trường‚
không lẽ riêng mình êm ấm. Mẹ ơi, con xuân này vắng nhà!”
Tiếng hát ngừng trong giây lát, rồi lại tiếp tục vang lên trở lại như cố
gửi về đâu đó tâm tư mình qua lời ca bản nhạc.
Trong cái vắng lặng chiều ba mươi Tết, tiếng hát nghe thật ngậm ngùi,
xót xa đã được mọi người đón nhận với tất cả tâm tình. Ghi xong những chỉ dẫn
cần thiết trên những hồ sơ bệnh lý cuối cùng, Minh tò mò tìm đến chỗ phát ra
tiếng hát.
Trước mặt Minh, một thương binh trên chiếc nạng gỗ, vai tựa vào cột hành
lang trại bệnh, mặt nhìn về một phương trời xa thật là xa. Anh ta mải mê với
tâm tình bản nhạc, nên không biết Minh đang tiến về phía anh cũng như bất cứ
chuyện gì xảy ra xung quanh. Khi khoảng cách chỉ còn độ mươi bước chân, không
muốn phá tan không khí thiêng liêng của người thương bệnh binh, Minh đã quay
trở lại văn phòng, thả mình xuống chiếc ghế dựa. Một cảm giác buồn man mác bỗng
nhiên xâm chiếm tâm hồn Minh. Ðã bao năm rồi không về quê vui hưởng những ngày
đầu xuân với ba mẹ già, bản nhạc rõ ràng cũng đánh động ngay cả đến Minh.
********
Trí óc đem Minh về những lần đón xuân đã qua đi trong đời, nào là thời
thơ ấu khi gia đình còn ở bên kia vĩ tuyến 17. Mỗi lần chuẩn bị đón xuân về
thật nhộn nhịp và linh đình, khi những người giúp việc làm thịt chú heo, thế
nào họ cũng để dành cái bong bóng để phơi khô cho Minh. Cái bong bóng chẳng dễ
bể tý nào nầy Minh chẳng ưa gì mấy, vì còn phải qua bao nhiêu ngày chờ đợi mới
được sử dụng, hơn nữa, trông nó chẳng trơn tru, mỹ thuật tý nào. Thế nhưng cái
đuôi heo mà năm nào Minh cũng được dành phần cho, có lẽ tại Minh là con út
trong gia đình thì Minh thích hơn nhiều. Tay cầm cái đuôi heo chạy tung tăng
khắp nhà, vừa chạy vừa gặm thật là thích, hơn nữa khi gặm nghe sần sật thật
khoái miệng.
*****
Minh nhớ đến những năm học tại Sao Biển, nhớ đến những đêm chờ sáng gần
như không ngủ. Minh thì chẳng phá phách gì, nhưng một số bạn thì đúng như trong
thành ngữ: “nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò”. Những người ở trong danh sách
nghịch ngợm, phá phách này ai mà chẳng biết, huống hồ gì thầy giám thị, thế
nhưng không lẽ thầy lại thức suốt đêm canh chừng, vả lại đêm cuối cùng trước
khi rời trường, thôi thì cũng đành lơ đi cho mấy ông tướng, miễn là đừng có
quậy lắm thì thôi!
Ðây là đêm mà các bợm nghịch phá ra tay! Có người đã chuẩn bị từ nhiều
tháng trước những gì họ cần để chỉ dùng cho đêm cuối này, hầu thỏa mãn tính phá
phách, tinh nghịch đã bị dồn nén bao nhiêu tháng trời, khi phải nép mình trong
kỷ luật khắt khe của nhà trường. Họ phải thực hiện quỉ kế như thế nào để thu
hút được sự chú ý và tham gia của những người khác, gây rối làm sao để không bị
bạn bè biết, và cũng chẳng làm thiệt hại gì đến cho ai, và nhất là làm sao để
thầy giám thị không phát giác được mình.
Minh nhớ đến bữa điểm tâm vội vã, hình như chẳng còn ai muốn ăn gì nữa.
Tất cả chỉ chờ tiếng chuông báo hiệu bữa ăn chấm dứt. Sau câu kinh đáp cám ơn
“Deo Gratias” và “Amen”, cùng với các bạn, Minh như đàn chim non túa ra khỏi
sân trường, tung tăng trên khắp các nẻo đường, tìm về tổ ấm trong niềm vui sum
họp những ngày xuân.
*****
Minh nhớ đến lần cùng đáp chuyến xe đò với Hường về quê ăn Tết năm Ất Tỵ
1965, dạo hai đứa mới quen nhau. Năm ấy Minh học đệ Nhất ở Pétrus Ký và Hường,
đệ tam Nguyễn Bá Tòng. Hai đứa đều lấy xích lô để đến bến xe lục tỉnh nằm trên
đường Pétrus Ký. Minh đi một mình, trong khi Hường có hai cô bạn đưa tiễn.
Những ngày cuối năm trời buổi sáng se se lạnh, tuy thế bến xe thật tấp nập. May
mà Minh đã mua vé cho cả hai từ hôm trước, chứ không thì cũng không dễ gì có
được một chỗ trên chuyến xe hôm đó.
Trời còn tờ mờ sáng, xe đã chuyển bánh. Chiếc xe chạy qua những con
đường phố nhộn nhịp ngập đầy các loại xe từ xe đạp, xe xích lô thường và gắn
máy, xe ba gác, xe scooters, xe lam ba bánh, xe đò, xe vận tải. Tất cả đều cố
tranh nhau chạy trên những con đường chật hẹp. Ngoài chiếc còi xe bác tài xế
bấm gần như liên hồi kêu inh ỏi, các chú lơ xe, đứng trên hai cửa ra vào, trước
và sau, một tay nắm chặt vào thành, một tay đập mạnh liên hồi vào thùng xe,
miệng không ngừng kêu la bai bải để mọi người tránh đường cho xe chạy.
Âm thanh, cùng với hình ảnh sinh hoạt trên con đường từ Sàigòn ra xa lộ
Biên Hòa, và các tỉnh miền Trung lúc trời vừa sáng có một nét rất đặc biệt. Ai
đã có dịp chứng kiến một lần trong đời sẽ không làm sao có thể xóa nhòa trong
tâm trí được. Trời đã sáng hẳn khi xe vượt địa phận thị trấn Thủ Ðức, chạy bon
bon trên xa lộ Biên Hòa đi qua các xóm đạo với những nóc giáo đường khang
trang, những phố thị sầm uất nối tiếp nhau, qua những khu vườn cây ăn trái xanh
tươi, các rừng cao su bát ngát, trồng trên những mảnh đất đỏ mầu mỡ chạy dài
hết cây số này đến cây số nọ.
Dầu xe chạy nhanh Minh cũng có thể thấy các công nhân đang thu hoạch mủ
cao su từ những chiếc tô hứng, đặt trên những thanh sắt hình dấu hỏi thật lớn
gắn ở giữa thân cây, hay đang dùng những dụng cụ trông như chiếc liềm để nạo
trên những đường mương hình xoắn ốc ở thân cây làm cho mủ cao su. Chất nhựa
trăng trắng, tựa như những dòng sữa tuôn chảy từ vỏ cây theo đường mương xuống
tô hứng.
Khi nhà cửa bắt đầu thưa dần, thay vào đó bằng các xe chở gỗ nằm rải đó
đây, thì cũng là lúc núi rừng lần lần xuất hiện. Ðường xá trở nên xấu hơn, cạnh
quốc lộ số 1 mọc đầy những cây cao khoảng hai ba thước, người ta gọi là những
cây kè với những chiếc lá như những chiếc quạt to thật là to đâm thẳng lên trời
cao đang mãi vui đùa, phe phẩy với gió.
Xe chạy qua những khúc đường bị phá hoại chưa được sửa sang kịp thời.
Những cơn mưa đem nguồn nước đến tắm mát vạn vật sau những tháng nắng hạ oi
bức, giúp những khu rừng cây lá xanh tươi, nhưng cũng đã làm cho tình trạng con
đường huyết mạch nối liền Nam Bắc trở nên lầy lội, khó sử dụng. Chiếc xe chạy
thật vất vả, khi lắc lư vượt qua những hố sâu, bắn tung bùn vương vãi lên trên
các cây cỏ quanh vệ đường, khi chồng chềnh làm hành khách nghiêng hẳn về một
phía, chiếc xe như muốn vật ngã xuống bên đường vì mệt mỏi.
Người tài xế điều khiển chiếc xe một cách hết sức bình tĩnh, tài tình và
điêu luyện qua những đoạn đường cam go. Vượt qua đoạn đường xấu, bắt đầu tăng
tốc độ, mọi người thở ra thoải mái vui mừng, bỗng dưng chiếc xe chạy chậm dần
và cuối cùng ngừng hẳn lại.
Trong xe nhôn nhao chẳng biết chuyện gì xảy ra. Một đôi phút qua đi
trong khi mọi người xì xầm nhỏ to từ đầu đến cuối xe, thế rồi không ai bảo ai,
tất cả đều im lặng. Tất cả các hành khách trên xe, như đã hình dung ra chuyện
gì phải đối phó, đang gần như nín thở chờ đợi chuyện xảy ra và cầu mong sự bất
hạnh ấy không xảy đến với mình.
Minh có thể nghe được tiếng tim đập trong lồng ngực mình, nhìn Hường ái
ngại, chàng không lo cho mình bằng cho Hường, vì biết rõ những gì sẽ xảy ra nếu
sự bất hạnh chẳng may xảy đến cho mình hay cho Hường. Những giây phút chờ đợi
quả thật là lâu. Im lặng vẫn bao trùm trên toàn chiếc xe. Người ta có thể nghe
cả tiếng thở của một vài người nhát dạ.
Thế rồi Minh nghe tiếng người nói chuyện đang tiến dần về phía xe, sau
đó chú lơ cùng với mấy người ăn mặc không giống bất cứ một binh chủng nào của
quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đầu đội mũ tai bèo, bị gạo quấn chéo từ vai qua
hông đối diện, chân đi dép râu, tay cầm súng xuất hiện. Họ đi ngang qua phía
ngoài xe từ trước ra sau, hình như để kiểm chứng lại lời khai người lơ xe. Tất
cả mọi người đều nín thở chờ đợi số phận. Tim Minh đập mạnh như muốn nhảy ra
khỏi lồng ngực khi họ đi ngang qua hàng ghế chàng và Hường ngồi. Chỉ có chưa
đầy một phút mà Minh cứ tưởng như hàng giờ trôi qua.
May quá, họ không mời một ai xuống xe, cũng như không bắt bất cứ một
người nào trong xe ở lại, có lẽ nhờ lời khai người lơ xe, hay vì họ không gặp
đối tượng tìm kiếm. Sau khi kiểm soát, xe được tiếp tục chuyển bánh. Cùng với
tất cả hành khách trên xe, Minh và Hường cùng thở ra nhẹ nhõm. Giá mà họ trở
lại khám một lần nữa, chắc tim Minh rụng ra khỏi lồng ngực mất.
Nhìn ra cửa xe, Minh có thể thấy một số người chắc cũng thuộc nhóm người
này ở rải rác trong các bụi cây dọc đường. Ðó là lần đầu tiên Minh thấy tận mắt
những người trong quân đội Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Cái cảm giác sợ hãi
kèm theo một ít hiếu kỳ ban đầu đã nhường chỗ cho một chút nào nể vì, bởi những
gì Minh nghe đến trước đây về họ đã không xảy ra: không cướp bóc, không hiếp
dâm, không bắt bớ bất cứ một ai. Minh và Hường có thể dễ dàng trở thành nạn
nhân nếu việc ấy xảy đến.
Ngoài chuyện gặp bộ đội giải phóng ở Rừng Lá, khu rừng chạy dài hằng mấy
mươi cây số nằm giữa Long Khánh và Phan Thiết, chuyến xe đã không găp một rắc
rối nào khác. Minh và Hường về đến quê trước sự ngỡ ngàng của tất cả mọi người,
vì tuy là láng giềng, cả hai chưa quen biết thân thiết đến độ cùng đáp chuyến
xe từ Sàigòn về quê ăn Tết một lần với nhau.
*****
Minh nhớ đến Tết Mậu Thân, 1968. Năm ấy vì tình hình mất an ninh, gia
đình Minh không về quê ăn Tết với ba mẹ và các anh chị. Ðang ngủ yên giấc thì
cộng quân đã bắn bừa bãi hỏa tiễn 122 ly vào Sàigòn. Minh đã ôm Anh Tuấn, dạo
ấy mới có mấy tháng tuổi nằm tránh đạn dưới giường. Sáng hôm sau khi đi ngang
trên đường Bắc Hải, Minh đã chứng kiến tận mắt cảnh hãi hùng gây ra, khi một
trong số các hỏa tiễn rơi vào nhà một gia đình thường dân vô tội. Trái hỏa tiễn
oan nghiệt đâm thẳng từ mái xuyên qua căn gác, nổ tung ở sàn nhà gây thiệt mạng
cho toàn thể mọi người trong căn nhà kém may mắn ấy, để lại một hố thật sâu
ngay giữa nhà, như là môt trong những chứng tích giải phóng dân lành của họ.
Ngoài ra còn bao nhiêu cảnh chiến tranh ngay tại đường phố Sàigòn, cảnh trực
thăng cobra và các chiến đấu cơ oanh kích vùng bị địch chiếm.
Ðau lòng nhất là cảnh Minh phải vào nghĩa địa Hòa Hưng kiếm xác người
anh rể, theo lời yêu cầu của chị Loan. Chị kể với Minh, anh Linh, chồng chị rời
nhà trưa mồng 2 Tết, với ý định trở lại đơn vị sau khi được đài phát thanh
Saigon loan báo tin cộng quân, bất chấp lệnh đình chiến đôi bên thỏa thuận nhân
dịp Tết, đồng loạt tấn công trên gần như khắp các tỉnh miền Nam kể cả thủ đô
Sàigòn, các quân nhân được lệnh trình diện đơn vị mình gấp để đối phó với tình
hình chiến cuộc.
Phục vụ tại Trung Tâm Tiếp Huyết, một đơn vị chuyên tiếp tế máu và huyết
thanh cho nhu cầu các thương bệnh binh ở các quân y viện, đơn vị anh nằm cạnh
Tổng Y Viện Cộng Hòa ở ngay ngã Ba Chú Ía. Căn cứ vào tin tức trên đài phát
thanh sau đó cho biết, đoạn đường anh đi qua đã rơi vào tay đối phương, khi
chúng tấn công Bộ Tổng Tham Mưu. Mỗi ngày từ sáng đến tối, xe chở xác chết tìm
thấy được trên khắp các đường phố kế cận về tập trung tại đây. Ða số họ là các
sĩ quan hay cảnh sát, vì thi hành lệnh gọi trình diện, đã bị hạ sát khi đi qua
những đường phố cộng quân chiếm đóng.
Minh không khỏi bùi ngùi nhìn thấy một thiếu phụ khóc ngất bên xác
chồng. Chị làm sao tin được chồng chị đã không ngã gục tại chiến trường sau bao
nhiêu năm chiến đấu vào sinh ra tử, mà lại chết tức tưởi trên đường phố Saigon,
kế cận Bộ Chỉ Huy toàn thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một nơi được xem như là
bất khả xâm phạm, an toàn nhất trên toàn lãnh thổ miền Nam.
Chị ôm xác chồng vừa khóc vừa kể lể, nào là mặc cho chị khuyên anh nên
xem xét tình hình ra sao đã rồi trình diện, nhưng anh viện lẽ bổn phận và trách
nhiệm của mình khi đất nước lâm nguy, hứa với chị sẽ xem xét công việc tại sở,
sẽ trở về nhà ngay để vui xuân với chị và các con, sau đó anh nhảy lên chiếc xe
jeep, phóng như bay ra khỏi nhà để lại bao nhiêu lo âu cho chị; nào là anh mới
ôm hôn chị, các con đây sao bây giờ đã chết tức tưởi như thế này, chị phải giải
thích với các con ra sao? Chị tiếp tục khóc và kể cho đến khi ngất lịm bên xác
chồng. Cảnh chị khóc đã làm mủi lòng tất cả những ai có mặt tại đó.
Xác chết ngày qua ngày vẫn được tiếp tục chở về. Ngoài số các sĩ quan,
chiến binh và cảnh sát đã được thân nhân nhận đưa về nhà lo việc tống táng, còn
rất nhiều xác thường dân vô thừa nhận. Nhà xác không đủ chỗ chứa ở trong, đã
phải đặt bừa bộn ra cả trên sân bên ngoài. Ruồi nhặng bám đầy, xác nằm chờ đợi
lâu ngày bắt đầu trương sình, tỏa ra một mùi hôi thối hết sức khó chịu bay ra
khắp những vùng dân cư kế cận. Gia đình anh chị Ðiểm Liên ở ngay tại khu vực kế
cận, đã phải tạm dọn đến ở nhà anh chị Linh Loan để tránh mùi hôi thối từ nghĩa
địa toát ra này. Minh vẫn ngày ngày vào kiếm xác anh Linh, không biết là may
mắn hay xui xẻo, anh đã không nằm trong số các xác được đưa về Hòa Hưng.
Khi lệnh thiết quân luật được tạm thời giải tỏa một thời gian rất ngắn
ban ngày, để dân chúng có thể đi lại mua sắm thức ăn, thuốc uống và các vật
dụng cần thiết. Chị Loan đã nhờ Minh đưa chị đi tìm chồng. Tình hình không biết
rõ như thế nào, tiếng súng vẫn chưa chấm dứt ở một vài nơi, hơn nữa tin tức
không được chính xác lắm, tuy thế vì tình thương Minh đã dùng chiếc xe
Lambretta của mình đưa chị đi qua vùng lửa đạn tìm chồng.
Không có gì thay đổi khi Minh lái xe qua những khu dân cư ở Ngã Ba Ông
Tạ ngoài việc phố xá đóng cửa, sinh hoạt thương mãi đình trệ, thế nhưng, càng
tiến về gần khu Tổng Tham Mưu, càng có nhiều hàng rào ngựa cản, xe thiết giáp
án ngữ và đó đây mọc lên các nút chặn kiểm soát. Sự hiện diện các binh sĩ nhảy
dù dọc bên đường đem đến cho Minh một chút nào an tâm, tuy thế cũng làm cho
Minh lo sợ, vì đó là những dấu chỉ chiến cuộc vẫn chưa yên.
Tại các nút chặn, sau khi được biết lý do, các binh sĩ đã mở rào cản để
cho hai chị em tiếp tục đi tiếp, tuy thế khi được hỏi đường đến Ngã Ba Chú Ía
có an toàn hay không, họ không biết trả lời gì hơn là đề nghị cứ đi tiếp xem
sao. Qua bao nhiêu nút chặn và rào cản hai chị em càng lúc càng tiến gần đến
mục tiêu tìm kiếm. Những chứng tích về các cuộc giao tranh vừa xảy ra lần lần
hiện rõ trên khu vực Bộ Tổng Tham Mưu trên đường Võ Duy Nguy nối dài. Hàng rào
và cổng chào loang lổ vết đạn. Nhiều nơi đã bị phá tung, thay vào đó là những
con ngựa cản và xe thiết giáp bảo vệ với họng súng đen ngòm chĩa ra đường.
Hai chị em thở ra nhẹ nhõm khi thấy cổng Trung Tâm Tiếp Huyết. Chưa kịp
mừng cả hai đã hú hồn khi nghe một tiếng động rất lớn phát ra từ căn nhà bên
cạnh đường. Hồn vía cả hai chị em lên chín tầng mây. May quá từ phía phát ra
tiếng động, xuất hiện một anh chiến sĩ Biệt Ðộng Quân. Anh khoát tay ra dấu
không có gì nguy hiểm, đừng sợ. Thật là một phen hú vía!
Khi cánh cổng Trung Tâm Tiếp Huyết được mở ra cho hai chị em, chị Loan
rất đỗi vui mừng gặp lại chồng. Nhờ ơn trên phù hộ, anh đã may mắn đi qua vùng
hiểm nguy vào một lúc nào đó mà không bị hại đến sinh mạng. Minh vui lây nhìn
thấy anh chị quấn quýt bên nhau. Chị Loan kể hết bao nhiêu đêm không ngủ thao
thức lo cho tính mạng chồng và những gì Minh đã làm trong lúc tìm tin tức của
anh. Cuộc hội ngộ thật cảm động nhưng ngắn ngủi, vì hai chị em còn phải trở về
nhà trước giờ giới nghiêm.
*********
Tiếng gõ cửa văn phòng mang Minh khỏi cơn nhật mộng về với thực trạng.
Người y tá trưởng nhanh nhẹn cho Minh biết nguồn gốc tiếng hát xuất phát từ
trại bệnh, mặc dầu không hề được giao cho nhiệm vụ điều tra. Trung, tên người
thương bệnh binh trẻ đã hát với tất cả tâm tình bản nhac “Xuân Này Con Không
Về,” quê mãi tận Phú Quốc.
Là con út trong gia đình, có nhiều anh em. Tất cả đã lập gia đình nhưng
không ai chịu ở với mẹ. Trung tình nguyện sống và phụng dưỡng mẹ già cho đến
khi bị gọi nhập ngũ vì đến tuổi động viên. Không biết lý do nào mà Trung bị
thuyên chuyển về mãi tận Trung Đoàn 56, Sư Đoàn 3, Quân Đoàn 1. Về đơn vị đã
hơn một năm rồi, vì nhu cầu chiến cuộc, Trung chưa có một lần nào về thăm mẹ.
Trong một cuộc giao tranh với đối phương, anh bị trọng thương ở chân phải, được
di chuyển từ Tổng Y Viện Duy Tân về Trung Tâm I Hồi Lực chưa được một tháng.
Trong lần khám vừa rồi, anh năn nỉ Minh cho nghỉ 29 ngày tái khám về quê ăn
Tết, nhưng Minh từ chối vì vết thương chưa lành.
Phúc trình người y tá làm cho Minh cảm thấy ân hận. Mặc dầu quyết định
của Minh đúng, nhưng chàng không ngờ có thể ảnh hưởng Trung đến như vậy. Trước
khi rời văn phòng về vui hưởng những ngày nghỉ Tết dài, ngoài việc dặn dò người
y tá trưởng chịu khó tận tình thuốc thang cho tất cả các thương bệnh binh, Minh
nhấn mạnh đến việc chuẩn bị hồ sơ cho những người ra hội đồng sau Tết, trong đó
có cả hồ sơ của Trung.
Lần này Minh muốn để cho các đồng nghiệp quyết định. Hy vọng sau một vài
tuần vết thương tốt hơn, Trung có thể về quê thăm mẹ già trong không khí vẫn
còn Xuân.
Sau tết trở lại Hồi Lực, Minh an lòng khi Trung được cho nghỉ 29 ngày
tái khám, lần họp đầu tiên sau Tết theo đề nghị của Minh. Hôm Trung khập khễnh
trên đôi nạng gỗ rời trại bệnh, Minh không khỏi bùi ngùi liên tưởng đến cảnh
sum họp giữa người con thương binh trở về từ vùng địa đầu giới tuyến đầy lửa
khói và người mẹ già đã bao ngày mòn mỏi chờ mong tin con.
Chợt nghĩ đến bản nhạc ”Ngày Trở Về” của Phạm Duy, Minh thầm hát
như để tiễn đưa Trung, cũng như hàng vạn người thương binh của cuộc chiến tương
tàn về trên muôn nẻo đường đất nước: “Ngày trở về, anh bước lê trên quãng đường
đê đến bên lũy tre. Nắng vàng hoe, vườn rau trước hè cười đón người về. Mẹ lần
mò ra trước ao, nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ. Tiếc rằng ta, đôi mắt đã
lòa vì quá đợi chờ.”
Mấy hôm sau, Minh rời Trung Tâm I Hồi Lực để lên đường nhận một sứ mạng
mới, trở lại tăng phái Thiết Giáp.
Tống Viết Minh, YKSG65/72, HD 19 trích từ Một Thời Để Nhớ của cùng một tác giả xuất bản tại Hoa Kỳ ngày 15/5/2011
No comments:
Post a Comment