Saturday, November 30, 2024

Đau Khổ Là Một Mầu Nhiệm - Bửu Uyển

Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở Huế


Năm 1993, khi mới đến Mỹ, gia đình chúng tôi đến  văn phòng Hội USCC San Diego để làm một số giấy tờ của người mới định cư. Trong khi đang chờ đợi bỗng có một nhân viên ở đó đưa cho tôi tờ nhắn tin như sau:

“Quí vị nào biết gia đình ông Bửu Uyển ở đâu, xin liên lạc  với:

Lê Văn Thành, điện thoại số 2514468353

Địa chỉ 428 E Church St., Atmore, AL 36502

Tôi vô cùng ngỡ ngàng và cảm động vì Thành là bạn thân của tôi từ lúc chúng tôi còn nhỏ.

Khi hoàn tất các giấy tờ ở Hội USCC, tôi vội vàng trở về nhà, gọi điện thoại ngay cho Thành. Ở đầu dây bên kia, giọng Thành cảm động:

-Cậu đó hả! Tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức Mẹ, cuối cùng mình cũng gặp lại nhau.  Mình tìm kiếm cậu khắp nơi từ bao lâu nay.  Thế gia đình cậu qua Mỹ lúc nào vậy?

-Mình mới qua được 5 ngày.

-Được rồi, đọc lại số điện thoại của cậu  và cho mình địa chỉ, vợ chồng mình sẽ qua thăm cậu.

Một tuần sau, vợ chồng Thành qua San Diego thăm chúng tôi.  Thành ôm chầm lấy tôi, xúc động nói:

-Thật vui mừng được gặp lại cậu,  Trông chờ mãi, lắm lúc mình nghĩ có lẽ không bao giờ gặp lại nhau.  Cậu ốm qua, nhưng không sao, qua Mỹ một thời gian sẽ mập ra thôi.

Thành quay ra giới thiệu: “Đây là Thoa, vợ mình.”

Tôi hơi ngạc nhiên, Thành nói ngay:

-Đây là vợ sau của mình.  Câu chuyện dài dòng lắm, để lát nữa mình sẽ kể cho cậu nghe.

Tôi trò chuyện với Thành, còn Thoa vui vẻ chỉ dẫn cho vợ tôi một vài kinh nghiệm sống ở Mỹ.  Mới gặp nhau lần đầu nhưng Thoa và vợ tôi thân mật như đôi bạn quen nhau từ lâu.

Thành kéo tay tôi: “Để cho hai bà nói chuyện áo quần, bếp núc.  Tụi mình đi kiếm gì ăn, rồi mua về cho mấy cháu.”

Ngồi trong một tiệm ăn Việt Nam, khi chờ thức ăn mang lên, Thành nhìn qua cửa sổ, trầm buồn nói với tôi:

-“Anh nhớ không, từ nhỏ, tụi mình thân nhau như an hem ruột; cùng sinh hoạt Hùng Tâm, Dũng Chí ở Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở Huế, cùng giúp lễ cho cha Đài, cha Ngà, cha Nghiễm, cha Phục.  Năm 1964, tôi bị động viên vào Thũ Đức, ra chuẩn úy, về phục vụ Sư đoàn 1. Năm 1968, tôi lập gia đình với Chi.  Hai năm sau, chúng tôi có con gái đầu long, là bé Oanh. Sau đó chúng tôi có thêm một cháu trai và một cháu gái nữa,

Ngày 30-4-1975 ập đến, như một cơn lốc cuồng loạn, thổi phăng hạnh phúc của gia đình chúng tôi.

Tôi quyết định không trình diện cải tạo, ở lang thang nay đây mai đó trong thành phố Đà Nẵng, hành nghề xe đạp ôm để phụ với vợ nuôi con.  Còn Chi thì mua bán áo quần cũ ở Chợ Cồn.  Vì cuộc sống vất vả, ăn uống thiếu thốn, lại lo buồn cho chồng, cho con, một năm sau, Chi nhuốm bệnh.

Không được bồi dưỡng, không thuốc thang, nên năm 1978, Chi qua đời.  Đám tang của Chi là một đám tang nghèo nàn, tẻ nhạt và cô đơn hơn  tất cả những đám tang trên thế gian này. Chồng của Chi là tôi, đi theo sau quan tài của vợ mà phải đi xa xa, sợ công an phát hiện. Nhìn 3 đứa con với vành khăn tang trên đầu, khóc lóc đi sau quan tài của mẹ, tôi muốn đi lên.”

Thành quá xúc động, lấy khăn tay lau nước mắt, rồi anh kể tiếp:

- Sau đó, 3 đứa con tôi được các Soeurs dòng Thánh Phao Lồ đem về nuôi như những trẻ mồ côi khác.

Buồn khổ quá, tôi thất thểu đạp xe vào nhà thờ Đà Nẵng, đi đến trước hang đá.  Tôi ngước lên nhìn tượng Đức Mẹ, bỗng nhiên nước mắt tôi chảy ra ràn rụa, tôi khóc; khóc thành tiếng, mặc cho người chung quanh nhìn tôi, tho co nôi thấy lòng vơi bớt sầu khổ. Tôi lại nhìn lên tượng Đức Mẹ. Tôi nghe như Đức Mẹ an ủi tôi: “Hởi con, hãy can đảm lên, phấn đấu để sống cho con và các con của con; chúng rất cần sự yêu thương của con.  Con hãy trông cậy vào Chúa.  Chúa không bỏ con đâu".

Tôi như bừng tỉnh. Tôi tạ ơn Đức Mẹ.

Cuộc sống của tôi thật vô cùng khốn khổ nhưng ngày nào tôi cũng đến viếng Đức Mẹ và càu xin Đức Mẹ từ bi  nhơn hậu phù hộ, cứu giúp cho cha con chúng tôi.

Bỗng một hôm, mẹ vợ của tôi đến gặp tôi khi tôi đang đón khách ở chợ Cồn.  Bà hốt hoảng bảo tôi: Con nên rời khỏi đây ngay, họ đã biết có con ở đây.  Mấy hôm nay họ đã lùng sục ở mấy nhà quen rồi, hiện nhà mình bị canh chừng kỹ lắm.  Con nên đi vô Nam, trong đó đất rộng, người đông, không ai biết ai, dễ sống. Ba đứa nhỏ đã có các Soeurts và mẹ lo, con cứ yên tâm đi đi.

Tôi về ngay nhà trọ, lấy vội cặp áo quần cũ với vài vật dụng linh tinh, cho vào một giỏ đệm, treo lên ghi đông xe đạp, rồi đạp xe đi về hướng Nam.  Nghĩ lại, thật nực cười cho tôi vì tôi tính đi vào Sài Gòn bằng chiếc xe đạp cũ kỹ của mình.

Nhưng ngày qua ngày. Tôi đến Tam Kỳ, rồi Quảng Ngãi. Đi đến đâu, hành nghề xe đạp ôm đến đó để sống.

Tôi đi lần vào Nam. Hơn một tháng sau, tôi đến thị trấn Tam Quan, tình cờ khi tôi đang lân la ở bến xe để đón khách, tôi xin một xe chở hàng cho tôi đi quá giang vào Nha Trang.  Xe đến Nha Trang lúc 7,8 giờ tối gì đó.

Tôi mua một ổ bánh mì, ăn vội, rồi lửng thửng đạp xe đi trong một thành phố hoàn toàn xa lạ đối với tôi.  Khi đi ngang qua một nhà thờ, tôi ghé vào nhưng nhà thờ đã đóng cửa, tôi đi ra hang đá ở cuối nhà thờ, quì xuống. Tôi lại khóc.  Không hiểu sao cứ mỗi lần nhìn tượng Đức Mẹ và cầu nguyện với Đức Mẹ là tôi khóc, khóc sướt mướt như một đứa trẻ làm nũng với Mẹ vậy.

Trong hoàn cảnh tuyệt vọng của tôi, nếu không có trông cậy vào Đức Mẹ, chắc tôi không sống nỗi.

Rời hang đá trong gia đình của những người con Đức Mẹ,tôi tiếp tục đạp xe đi lang thang trong thành phố Nha Trang đã lên đèn.

Quá mệt mõi và chán nản, tôi dừng xe trước  một căn nhà đã đóng cửa đi ngủ.  Nhà ấy có một mái hiên khá kín đáo, có thể giúp tôi ngủ qua đêm được.  Dựng xe đạp vào vách tường, tôi nằm lăn ra ngủ.  Đến quá nửa đêm , tôi giật mình thức giấc vì người trong nhà ấy đã thức dậy.  Tôi ngạc nhiên  vì trời còn tối (có lẽ khoảng 3,4 giờ sáng gì đó), họ thức dậy làm gì mà sớm vậy! Nhưng chỉ một lát sau, khi nhìn những túi xách nhỏ, gọn gang của họ; nhìn những gương mặt ngơ ngác, lo lắng, sợ sệt của những người trong gia đình …tôi hiểu ngay: họ đang chuẩn bị vượt biên.  Một người đàn ông ra mở cửa để đi, họ thấy tôi ngồi đó, ai cũng ngỡ ngàng , pha chút bối rối.  Tôi đánh bạo nói: Các bác đi đâu cho tôi theo với.

Người đàn ông quay nhìn vợ, ngần ngừ một lát rồi ông ta quyết định:

- Được rồi! Anh muốn đi, tôi cho đi, cùng sống cùng chết với nhau.

 Ngay lúc đó, một chiếc xe Lam 3 bánh dừng lại trước nhà, đưa gia đình ấy và tôi  đến một bãi biển khá xa thành phố. Mọi người lên một ghe nhỏ, chèo tay, đưa ra một ghe lớn đậu tít  ngoài khơi.  Trước lúc trời sáng, ghe nổ máy ra đi.  Người đàn ông chủ ghe tên Đông, giao cho tôi nhiệm vụ tát nước, khi dưới khoang thuyền có nước.  Khoảng 15 phút sau, ghe chạy đều đều trên biển, tôi làm dấu thánh giá và đọc kinh, tạ ơn Đức Mẹ. Tôi biết, tôi tin, chỉ có Đức mẹ mới sắp xếp được cho tôi  một chuyến vượt biên kỳ lạ như vậy.

 

Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, chúng tôi được tàu kéo đến trạ Palawan bình yên.  Ỡ trại một thời gian, tôi được IOM cho đi định cư ở Mỹ. Vì tôi không có thân nhân ở Mỹ nên Hội USCC đã nhờ Linh mục  Michael  ở Alabama bảo trợ cho tôi.  Cha Michael là cha xứ của Họ đạo "Our Lady of Perpetual  Help Church" ở thành phố Atmore.  Cha Michael  cho tôi làm công việc chăm sóc cây cảnh, vườn cỏ của giáo xứ với mức lương tôi không dám mơ ước: 600 đô la một tháng!  Mỗi tháng, tôi gởi một ít tiền về cho cơ sở  Dòng Thánh Phao Lồ ở Đà Nẵng để quí Soeurs lo cho các trẻ mồ côi, trong đó có 3 con của tôi.  Trong những ngày chăm sóc cây cảnh cho giáo xứ, tôi thấy một bé gái khoảng 9,10 tuổi thường đến xem tôi làm việc.  Thấy cháu bé có nét mặt người Việt Nam, tôi tò mò hỏi: cháu tên gì? Em bé ngạc nhiên, vui mừng nhìn tôi và hỏi lại : Bác là người Viêt Nam hả? Từ đó tôi có một người bạn nhỏ và duy nhất  vì trong giáo xứ toàn người Mỹ.  Tên của cháu bé là Kathrine.

Giáo xứ có một nhà kho khá rộng, cha Michael sơn quét sạch sẽ rồi cho tôi làm chỗ ở. Mùa đông 1981 tôi bị cảm cúm nặng, nằm liệt giường. Một hôm, tôi thấy  bé Kathrine đi thơ thẩn ngoài vườn hoa của giáo xứ, có lẽ cháu đi tìm tôi. Tôi cố gắng ngồi dậy, mở cửa gọi cháu. Kathrine chạy đến, thấy tôi tiều tụy xanh xao, bé ôm lấy tôi và khóc rưng rức. Tôi kể cho bé Kathrine, tôi bị cảm cúm mấy hôm nay, nhưng không biết nhờ ai đi bác sĩ. Bé Kathrine chạy vội về nhà, một lát sau trở lại với một bà đứng tuổi, tôi đoán là mẹ của cháu. Vừa gặp tôi, bà ấy nói ngay: Bác là bác Thành phải không? Tôi thường nghe con gái tôi nói về bác, cháu nó mến bác lắm. Cháu vừa cho biết bác bị cảm cúm mà không ai đưa đi bác sĩ. Tôi là người đồng hương với bác, để tôi giúp bác.

Từ đó, tôi có thêm một người bạn, ngoài cháu Kathrine. Bà ấy tên là Thoa. Năm 1969, bà ấy kết hôn với một sĩ quan Không quân Mỹ ở Biên Hòa. Năm 1971, bà theo chồng về Mỹ.  Không may cho gia đình ấy, năm 1976, chồng bà qua đời vì một tai nạn xe cộ.

Ngừng một lát, Thành kể tiếp:

Biết được hoàn cảnh của cha con tôi, bà ấy thường gởi tiền vè nuôi các con của tôi.  trước các dịp lễ lớn, như Noel, Tết…, bà gởi  về cho các con tôi những thùng quà rất giá trị . Quí Soeurs ở Việt Nam thường gởi thư qua cảm ơn vì quà của bà gởi về, ngoài 3 con của tôi đươc hưởng, Soeurs còn phân phát cho các em khác nữa. Tôi mang ơn bà ấy. Tôi còn nhớ, trong một party của giáo xứ nhân ngày đầu năm, Cha Michael gặp chúng tôi, nửa đùa nửa thật, cha nói với chúng tôi: Có gì ngăn trở đâu, sao ông bà không kết hôn với nhau?! Tôi nhìn bà ấy, bà mỉm cười.  Sau khi chúng tôi kết hôn với nhau, Thoa làm đơn bảo lãnh 3 con của tôi qua Mỹ.  Vì Thoa có quốc tịch Mỹ, lại có đầy đủ tài chánh nên chỉ một thời gian ngắn, cả 3 con của tôi đã đoàn tụ với tôi ở Mỹ. Việc đoàn tụ một cách lạ lùng của 3 cha con chúng tôi làm cho tôi tin rằng: Không có việc gì mà Đức Mẹ không làm được, nếu ta thành khẩn kêu xin.

Tôi nhớ lại ngày xưa, Cha Ngà (Dòng Chúa Cứu Thế) thường giảng rằng;  Đau khổ là một mầu nhiệm.  Lúc ấy, tôi không hiểu Ngài muốn dạy điều gì.  Nhưng sau mấy chục năm gian khổ của cuộc sống, với ơn Chúa giúp, với sự phù hộ của Đức Mẹ, tôi đã có thể chịu đựng và vượt qua mọi đau khổ, nhờ vậy, tôi thấy mình lớn lên trong đức tin, bền đỗ trong đức cậy và dạt dào lòng yêu mến Chúa.

Tôi cũng bắt đầu cảm nhận rằng: Lòng Mẹ Maria yêu thương tôi không những chỉ là những hồng ân tốt đẹp mà Mẹ đã ban cho tôi, mà ngay cả những đau khổ, khốn khó tôi đã gánh chịu, cũng nói lên lòng Đức Mẹ  yêu thương tôi biết dường nào!

“Xin tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức Mẹ.”


Bửu Uyển

Hãy Già Một Cách Khôn Ngoan - BS. Nguyễn Ý Đức


1. Đây là lúc mà ta phải tiêu hết số tiền mà ta đã để dành.

Hãy tiêu chúng đi và tiêu một cách hoan hỉ.

Đừng đưa tiền cho những người không ý thức vì ta đã khó khăn thế nào mới kiếm được.

Bây giờ cũng là thời gian không thuận lợi cho các đầu tư mặc dù việc đầu tư này rất chắc ăn. Đầu tư vào giai đoạn này chỉ mang lại lo âu và nhiều chuyện khó khăn. Đây là lúc mà quý vị cần tận hưởng một cách im lặng.

2. Đừng lo nghĩ tới tài chánh của con cái.

Hãy ngưng lo nghĩ về tình trạng tài chánh của Con Cháu mình và đừng cảm thấy có tội khi bạn tiêu tiền do chính mình làm ra. Quý vị đã nuôi chúng trong nhiều năm và đã chỉ dẫn cho chúng tất cả những gì mà quý vị biết. Quý vị đã giúp chúng về học vấn, thực phẩm, nhà ở và tiền túi. Bây giờ chính là lúc chúng phải lo kiếm tiền để tự túc.

3. Giữ gìn sức khỏe.

Tập thể dục vừa phải như đi bộ mỗi ngày, dinh dưỡng đầy đủ và hãy ngủ đều đặn.

Ở tuổi này, quý vị rất dễ bị bệnh và muốn được khỏe mạnh thì cần nhiều cố gắng khó khăn hơn. Vì thế quý vị phải giữ mình ở tình trạng tốt và hãy lưu ý tới các nhu cầu về sức khỏe.

Hãy giữ liên lạc với các Bác Sĩ bằng cách khám bệnh định kỳ, thực hiện các xét nghiệm mặc dù quý vị vẫn cảm thấy bình thường. “Cẩn tắc vô ưu”, cổ nhân vẫn dạy ta vậy. (đừng ra ngoài khi trời lạnh hoặc mưa gió ẩm ướt. luôn giữ ấm, ngủ sớm dậy sớm, uống nhiều nước..)

4. Mua dùng vật dụng tốt nhất. 

Luôn luôn mua vật dụng tốt nhất và đẹp nhất cho mình và những người thân. Phần thưởng mà quý vị mua những quà với tiền của chính mình thật là vô giá. Vào một ngày nào đó, một trong số những người thân của quý vị sẽ nhớ đến nhau và khi đó thì tiền chẳng cung cấp một điều quý giá gì cho nhau, vì vậy hãy cùng nhau tiêu tiền khi quý vị còn có thể sống với nhau.

5. Hãy bỏ qua những điều lặt vặt.

Trong đời sống, hãy bỏ qua những điều nhỏ nhặt. Quý vị đã từng vượt qua những điều như vậy trong suốt cuộc đời. Quý vị đã từng có những kỷ niệm vui buồn nhưng hiện tại mới là điều quan trọng. Hãy đừng để quá khứ dìm quý vị xuống và đừng để tương lai làm quý vị sợ hãi.

Hãy tận hưởng với những gì của hiện tại. Quý vị hãy quên đi những chuyện lặt vặt.

6. Luôn luôn làm sống lại tình yêu.

Dù quý vị ở vào tuổi nào, luôn luôn làm sống lại tình yêu và sự thơ mộng.

Hãy yêu mến người bạn đồng hành của quý vị, yêu đời sống, yêu gia đình quý vị, yêu hàng xóm, yêu chó hoặc yêu mèo và luôn luôn nhớ rằng:

“Một con người chẳng bao giờ già khi chúng ta có sự thông minh và tình thân ái”.

7. Hãy mạnh dạn tự kiêu?!? …

Hãy mạnh dạn và tự kiêu từ tâm hồn tới thể xác. Đừng ngưng tới tiệm hớt tóc, chăm sóc móng tay móng chân, đi khám bệnh ngoài da và đi nha sĩ, giữ đầy đủ đồ làm đẹp.

Khi quý vị đã tự giữ mình thì quý vị sẽ cảm thấy kiêu hãnh và tự tin.

8. Đừng để ý tới bề ngoài.

Ở tuổi của quý vị hãy đừng để ý tới vẻ bề ngoài.

Luôn vui khỏe yêu đời yêu người, hãy "xì tin" khi có thể 

Quý vị đã tạo ra một cái gì thích hợp với quý vị thì xin hãy giữ lấy nó và kiêu hãnh với nó. Đó là một phần của quý vị.

9. Luôn luôn theo dõi xung quanh.

Đọc báo, internet, youtube.. và hãy mạnh dạn viết ra và đăng những gì quý vị thích, đang quan tâm lên nhật ký, facebook... Hãy có một email, nick Facebook.. luôn hoạt động và cố gắng sử dụng chúng. Quý vị sẽ rất ngạc nhiên gặp những người bạn cũ. Giữ liên lạc với những gì đã xảy ra và tìm lại được những người mà quý vị đã biết là điều quan trọng dù quý vị có già.

10. Hãy tôn trọng thế giới trẻ

Hãy tôn trọng giới trẻ và ý kiến của họ. Và hy vọng rằng họ sẽ kính trọng quý vị. Họ có thể không có cùng quan điểm với quý vị nhưng họ sẽ là tương lai và hướng thế giới về phía họ.

Hãy góp ý mà chẳng nên chỉ trích và hãy cố gắng mà nhắc nhở họ rằng sự khôn ngoan, kinh nghiệm của quá khứ đã, đang và sẽ vẫn còn áp dụng.

11. Đừng bao giờ dùng câu: “Vào thời của tôi”.

Ngày của quý vị là bây giờ. Bao lâu mà quý vị còn sống, quý vị luôn là một phần của hiện tại. Quý vị có thể trẻ hơn, nhưng quý vị vẫn là quý vị. Hãy vui lên và tận hưởng cuộc đời.

12. Một số quý vị sẽ trìu mến những năm huy hoàng trong khi đó thì nhiều vị trở nên cay đắng và gắt gỏng.

Đời sống quá ngắn để bận tâm với những điều nhỏ nhen. Hãy chia sẻ với những người tích cực và vui vẻ. Điều này sẽ mang lại niềm vui cho chính quý vị và thời gian sẽ dễ chịu hơn. Sống với người yếm thế sẽ làm quý vị già hơn và khó mà sống với người khác.

13. Hãy dừng bỏ ý định sống với các con, hoặc các cháu, nếu hoàn cảnh tài chính cho phép.

Thực vậy, sống với người thân là điều tốt, nhưng chúng ta có nếp sống riêng tư. Chúng thích sống cuộc đời của chúng và ta cần cuộc sống của ta.

Nếu chẳng may mà quý vị mất người bạn đường ( chia buồn cùng quý vị, hãy kiếm một người sống cùng và giúp lẫn nhau. Và cả khi đó nếu quý vị thấy thật cần sự giúp đỡ và không muốn sống một mình.

14. Hãy đừng từ bỏ các thú vui.

Nếu quý vị không có thì hãy tạo ra một thú vui hợp với mình. Quý vị có thể đi du lịch, nấu ăn, đọc sách báo và khiêu vũ. Quý vị có thể nuôi một chú mèo, một con chó, làm vườn, đánh bài, chơi Domino, quần vợt. Quý vị có thể vẽ, làm việc thiện nguyện hoặc chỉ sưu tầm một loại đồ vật nào đó.

Hãy kiếm điều gì mà quý vị thích và tận hưởng niềm vui với chúng.

15. Hãy nhận lời mời mặc dù quý vị không muốn.

Hãy tới các lễ tiệc, hội họp, ra trường, sinh nhật, đám cưới và hội thảo...

Hãy ra khỏi căn nhà và gặp những người quen từ lâu mà quý vị chưa gặp lại.

Hãy trải qua điều gì mới hoặc cũ nhưng hãy đừng bực mình nếu không được mời.

Một vài hoạt động như vậy bị giới hạn vì phương tiện và quý vị nhớ cho rằng không phải ai cũng mời được như vậy.

Điều cần thiết là đôi khi hãy ra khỏi căn nhà. Hãy tới viện bảo tàng hoặc đi lang thang trong vườn bách thảo. Điều cần là hãy tạm thời ra khỏi căn nhà một khoảng thời gian nào đó .

16. Hãy tiết kiệm lời nói.

Nghe nhiều, nói ít. Có nhiều trong số quý vị liên tục nhắc lại quá khứ mà không để ý người khác có thích nghe không.

Hãy nghe trước và trả lời câu hỏi sau nhưng đừng quá kéo dài câu chuyện trừ khi được yêu cầu.

Hãy nói với giọng nhã nhặn và nên tránh than phiền hoặc chỉ trích nhiều quá trừ khi cần.

Hãy cố gắng chấp nhận hoàn cảnh khi việc xảy ra. Mọi người đều trải qua những hoàn cảnh như vậy và nhiều người khó chịu vì phải nghe các lời than phiền. Vậy thì hãy cố gắng tìm các điều tốt để nói.

17. Đau và khó chịu thường xuất hiện ở tuổi cao.

Không nên cố bám lấy nó và cho nó là một phần của cuộc sống mà mọi người phải trải qua. Hãy cố gắng giảm thiểu sự đau nhức và sự khó chịu ra khỏi trí óc. Chúng không phải tự nhiên mà quý vị có, chúng là những gì thêm thắt mà đời sống thêm vào cho quý vị. Nếu quý vị bận tâm đến nó, quý vị sẽ mất vai trò của quý vị. Hãy tha thứ.

Nếu quý vị bị người khác làm tổn thương, hãy quên đi.

Nếu quý vị làm người khác buồn, hãy xin lỗi. Đừng kéo dài sự bất mãn với chính mình. Nó chỉ làm quý vị cảm thấy mất vui và cay đắng. Ai phải cũng thế thôi.

Thực tế là:

“Giữ sự bực tức thì cũng giống như uống chất độc và hy vọng rằng người đó sẽ chết”.

18. Hãy tận hưởng niềm tin mãnh liệt nếu quý vị đã có.

Nhưng xin đừng cố thuyết phục người khác. Họ sẽ tự quyết định và quý vị sẽ bất mãn. Hãy sống với điều mà mình tin.

19. Hãy cười to lên, và cười thật nhiều, cười về mọi thứ, hài hước với chính cả bản thân mình.

Hãy nhớ quý vị là một trong những người có may mắn. Quý vị đã thu xếp để có một nếp sống, một nếp sống kéo dài. Nhiều người không bao giờ đạt được tuổi đó, chưa bao giờ hưởng trọn cuộc đời... Nhưng quý vị đã đạt được điều đó. Như vậy thì tại sao quý vị không vui cười to lên? Hãy mỉm cười trong bất cứ hoàn cảnh nào.

20. Đừng để ý tới lời bình phẩm của người khác về quý vị và đôi khi không thèm để ý tới những gì họ nghĩ về mình.

Họ sẽ luôn luôn bình phẩm và quý vị nên tự kiêu hãnh và những điều tốt mình đã, đang và sẽ thực hiện.

Hãy để họ nói và đừng quan tâm. Họ không hiểu tí gì về quý vị, về các ký ức của quý vị và đời sống của quý vị.

Có nhiều điều cần ghi lại vậy thì hãy viết và đừng phí thì giờ về những gì mà người khác có thể gán cho quý vị.

Bây giờ là lúc cần vui vẻ nghỉ ngơi và sống an lạc hạnh phúc càng nhiều càng tốt./


Bs Nguyễn Ý Đức

Thương Nhớ Mẹ Hiền - Minh Lương

Chạm Cửa Thiên Đường - Đoàn Xuân Thu

Vượt trùng dương, ngàn cơn bão, em đã đến Nam Dương, đất nước ngàn, vạn đảo; em chạm cửa thiên đường, cửa chưa mở; cơn sốt rừng ập đến, chiều thu buồn, em nằm lại Kuku!

Hòm Cao ủy, phủ thân người yêu dấu, thay vòng tay anh ấm: tấm nilong! Mộ chí đề tên, ngày em mất, mả lạn tàn phai sương gió thời gian; mộ chí khắc bằng dao để lòng đau, anh nhớ!

Rượu cay đắng mang theo, rửa cốt người yêu dấu, chiếc nhẩn cưới còn đây, thương hoài tay áp út!

Anh hú, anh kêu: tiếng hú chiều tuyệt vọng …Ôi em ơi! Ôi Đất hỡi; Trời ơi ! Sao nỡ đóng cửa thiên đường khi bàn tay em chạm tới.

Ba mươi năm về lại Ku Ku; chiều thu lá rụng; sóng biển khóc, khóc thương người uổng tử ! Rụng lá vàng, sao nỡ rụng lá xanh?

Bài thơ khóc em chiều Kuku ngàn thu vĩnh biệt; anh mang tro cốt em theo mình vĩnh biệt Kuku!

Tháng Sáu, năm 1982, sau một chuyến hải hành gian nan đã đến được Kuku, Nam Dương. Mừng vì đến được bến bờ tự do chưa thỏa thì đau đớn thay chỉ hai tháng sau, cơn sốt rừng ác tính đã mang vợ tôi đi mãi mãi!”

Triệu, một thuyền nhân tỵ nạn ở Ku ku ngày xưa hồi tưởng: “Tôi đã chôn theo em gương, lược, áo quần! Chiếc nhẫn cưới em vẫn còn đeo trên ngón tay áp út!”

Mộ em trên sườn đồi, cạnh bãi đáp trực thăng, là một vùng đất sét pha cát, khá xốp, chứ không phải đá núi nên chiếc quan tài của Cao ủy trong đó xác bọc bằng một tấm ni long lúc hạ huyệt cũng sâu tới hai thước đất. Một chiếc thánh giá bằng gỗ đơn sơ, tên em và ngày mất được khắc lên trên đó. 

Giờ khai quật, cẩn trọng đào xuống gần hai tiếng đồng hồ, chiếc áo quan hiện ra, nắp ván thiên đã mục rã thành cát bụi sau thời gian dài đăng đẳng. Trên nền xi-măng của bãi trực thăng dưới cơn mưa nặng hạt, tôi thu nhặt toàn bộ mẩu xương cốt, những di vật, gương lược và chiếc nhẫn cưới ngày xưa trên ngón tay áp út tôi đã từng chôn theo em, được bỏ trong chiếc bọc ni long.

Hài cốt được hỏa thiêu dần dần biến thành tro trắng! Cát bụi đã trở về cát bụi!

Nhìn lên đỉnh đồi phủ mờ mây trắng như một dải khăn tang nghìn trùng xa cách

Xin tạ ơn đất trời Kuku, dẫu quê người, vẫn rộng lượng cho xác thân em tạm nương náu suốt 37 năm qua.

Ngày xưa, khi chiếc tàu Cao ủy xa dần Kuku, tôi đã thầm nói lời từ biệt với em và hẹn ngày trở lại. Bây giờ tôi trở lại vì ai nỡ bỏ em mồ hoang cỏ lạnh cho đành!

Trời Kuku bỗng đổ một cơn mưa rừng nhiệt đới! Cơn mưa rừng nhiệt đới ngày xưa phân ly, tôi đi, em ở! Và cơn mưa rừng nhiệt đới chiều nay tôi trở về Ku Ku để tìm lại em…”

Xin hãy rót xuống một giọt rượu để giải oan cho những cái chết tức tưởi trong cuộc biển dâu nầy!

 

Đoàn Xuân Thu

Melbourne

Những Năm Tháng Ấy #4 - Một Buổi Sáng Mùa Đông - Nguyễn Giụ Hùng

 

Friday, November 29, 2024

Bạn Học Được Gì Nhân Mùa Thanksgiving - Sương Lam


Mùa Thanksgiving năm nay, người viết đã đọc được một bài viết rất cảm động về tình thương yêu và sự lao lực của một người mẹ đã được người con trai của bà thấu hiểu và cậu đã học được một bài học tuyệt vời khi được lau tay cho mẹ. Người viết xin được trích một đoạn để chia sẻ với bạn câu chuyện này và hy vọng bạn sẽ học được một bài học quý giá như cậu thanh niên này.


Bàn tay của Mẹ - Bài học của con

Một thanh niên học hành xuất sắc nộp đơn vào chức vụ quản trị viên của một công ty lớn.

Anh ta vừa xong đợt phỏng vấn đầu tiên, ông giám đốc công ty muốn gặp trực tiếp để có quyết định nhận hay không nhận anh ta. Và ông thấy từ học bạ của chàng thanh niên, tất cả đều tốt và năm nào, từ bậc trung học đến các chương trình nghiên cứu sau đại học cũng đều xuất sắc, không năm nào mà anh chàng thanh niên này không hoàn thành vượt bực.

Viên giám đốc: “Anh đã được học bổng của những trường nào?” Chàng thanh niên đáp “Thưa không” “Thế cha anh trả học phí cho anh đi học sao?” “Cha tôi chết khi tôi vừa mới một tuổi đầu. Mẹ tôi mới là người lo trả học phí.” Viên giám đốc lại hỏi: “Mẹ của anh làm việc ở đâu?” Chàng thanh niên đáp: “Mẹ tôi làm công việc giặt áo quần.”
 
Viên giám đốc bảo chàng thanh niên đưa đôi bàn tay của anh cho ông ta xem. Chàng thanh niên có hai bàn tay mịn màng và hoàn hảo.

Viên giám đốc: “Vậy trước nay anh có bao giờ giúp mẹ giặt giũ áo quần không?” thanh niên đáp:“Chưa bao giờ. Mẹ luôn bảo tôi lo học và đọc thêm nhiều sách. Hơn nữa, mẹ tôi giặt áo quần nhanh hơn tôi.” Chàng thanh niên đáp.

Viên giám đốc: “Tôi yêu cầu anh một việc. Hôm nay khi trở lại nhà, lau sạch đôi bàn tay của mẹ anh, và rồi ngày mai đến gặp tôi.” 

Ðến lúc ấy thì chàng thanh niên có cảm tưởng là công việc tốt này đang sẵn sàng là của mình. Về đến nhà, chàng ta sung sướng khoe với me, và chỉ xin được cầm lấy đôi bàn tay của bà. Mẹ chàng trai cảm thấy có điều gì đó khác lạ. Với một cảm giác vừa vui mà cũng vừa buồn, bà đưa đôi bàn tay cho con trai xem. 

Chàng thanh niên từ từ lau sạch đôi bàn tay của mẹ. Vừa lau, nước mắt chàng tuôn tràn. Ðây là lần đầu tiên chàng thanh niên mới có dịp khám phá đôi tay mẹ mình: đôi bàn tay nhăn nheo và đầy những vết bầm đen. Những vết bầm làm đau nhức đến nỗi bà đã rùng mình khi được lau bằng nước. Lần đầu tiên trong đời, chàng thanh niên nhận thức ra rằng, chính từ đôi bàn tay giặt quần áo mỗi ngày này đã giúp trả học phí cho chàng từ bao nhiêu lâu nay. 

Những vết bầm trong đôi tay của mẹ là giá mẹ chàng phải trả dài đăng đẳng cho đến ngày chàng tốt nghiệp, cho những xuất sắc trong học vấn và cho tương lai sẽ tới của chàng.

Sau khi lau sạch đôi tay của mẹ, chàng thanh niên lặng lẽ giặt hết phần áo quần còn lại cho mẹ.

Tối đó, hai mẹ con tâm sự với nhau thật là lâu.

Sáng hôm sau, chàng thanh niên tới trụ sở công ty.

Viên giám đốc còn thấy những giọt nước mắt chưa ráo hết trong đôi mắt của chàng thanh niên, ông hỏi: “Anh có thể cho tôi biết những gì anh đã làm và đã học được hôm qua ở nhà không?” 

Chàng thanh niên đáp: “Tôi lau sạch đôi tay của mẹ, và cũng giặt hết phần áo quần còn lại.” “Cảm tưởng của anh ra sao?” “Thứ nhất, bây giờ tôi mới thấu hiểu thế nào là ý nghĩa của lòng biết ơn: Không có mẹ, tôi không thể thành tựu được như hôm nay. Thứ hai, qua việc hợp tác với nhau, và qua việc giúp mẹ giặt quần áo, giờ tôi mới ý thức được rằng thật khó khăn và gian khổ để hoàn tất công việc. Thứ ba, tôi hiểu sâu xa được tầm mức quan trọng và giá trị của liên hệ gia đình.”

Viên giám đốc nói: “Ðây là những gì tôi cần tìm thấy ở nơi con người sẽ là quản trị viên trong công ty chúng tôi. Tôi muốn tuyển dụng một người biết ơn sự giúp đỡ của những người khác, một người cảm thông sự chịu đựng của những người khác để hoàn thành nhiệm vụ, và một người không chỉ nghĩ đến tiền bạc là mục đích duy nhất của cuộc đời. Em được nhận.”

Sau đó, chàng thanh niên làm việc hăng say, và nhận được sự kính trọng của các nhân viên dưới quyền. Tất cả nhân viên làm việc kiên trì và hợp tác như một đội. Thành tựu của công ty mỗi ngày mỗi được cải thiện.

(Nguồn: Trích trong bài viết Bàn tay của Mẹ-Bài học của con sưu tầm trên internet)

Theo thiển ý, cậu thanh niên này phải cám ơn ông giám đốc công ty đã mướn cậu vì nhờ có lời yêu cầu của ông giám đốc, chàng thanh niên mới biết được sự khó khăn, gian khổ khi hoàn tất công việc của người mẹ và thấu hiểu thế nào là ý nghĩa của lòng biết ơn.

Cũng nhân Ngày Lễ Tạ Ơn, người viết xin chân thành cảm ơn ban điều hành  ORTB, quý độc giả,  quý thân hữu đã chia sẻ vui buồn với người viết khi vào  đọc những lời tâm tình của người viết trong mục Một Cõi Thiền Nhàn này.  Nếu không được sự ưu ái giúp đỡ, khích lệ, ủng hộ  của quý vị, thì người viết sẽ không có phúc duyên thực hiện được tâm ý đem một chút niềm vui nho nhỏ đến cho người, cho mình trong chốn bụi hồng lao xao này.  Xin đa tạ lòng thương yêu, quý mến của quý vị đã dành cho người viết.

Cảm tạ

Cám ơn người ghé Cõi Thiền Nhàn

Cùng một tâm hồn, một cảm quan

Vô ngã, vô thường không bận trí

Có không, không có vẫn an khang

Cuộc đời phiền não thêm chi nữa

Trần thế an vui, bớt trái oan

Chia sẻ niềm vui, tâm tĩnh lặng

Bạn, tôi vui với Cõi Thiền Nhàn 

Sương Lam


Bây giờ là mùa lễ Tạ Ơn.  Sống trong cõi đời này chúng ta mang ơn rất nhiều người và cũng một đôi lần chúng ta đã làm cho người khác phải cám ơn ta. 

Đạo đức văn hóa Việt Nam đặt nặng việc tri ân báo đáp với những kẻ đã ban ơn cho ta

Chúng ta mang ơn Tổ tiên, cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục chúng ta khôn lớn thành người.

Chúng ta thường nghe những câu ca dao, tục ngữ như sau:

Con người có Mẹ có Cha

Như cây có cội, như sông có nguồn


Có những bài hát nhắc nhở chúng ta phải biết nhớ ơn tổ tiên, cha mẹ:

Uống nước nhớ nguồn

 Làm con phải nhớ

 Công Cha như núi Thái Sơn

 Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra 

Những người không biết nhớ ơn cha mẹ là hạng người bất hiếu.  Thật đáng trách!

Ngoài xã hội, chúng ta cũng đã từng mang ơn Thầy Cô giáo đã dạy dỗ và truyền trao cho chúng ta những kiến thức cần thiết để cho đời sống chúng ta được thăng hoa tốt đẹp:

Gươm vàng rớt xuống hồ Tây

Công Cha cũng trọng, nghĩa Thầy cũng sâu

Chúng ta mang ơn những chiến sĩ đã hy sinh vì tổ quốc để cho chúng ta được sống còn trong tự do, hạnh phúc.  Chúng ta cũng mang ơn những người dân bản xứ đã mở rộng vòng tay đón nhận chúng ta để chúng ta được sống an bình  nơi tha hương xứ lạ.  Chúng ta cám ơn những bạn bè thân mến, những thiện hữu tri thức đã chia sẻ với chúng ta những vui buồn trong cuộc sống.

Còn nhiều lắm những người chúng ta phải mang ơn trong cuộc đời này, phải không bạn?

Chắc hẳn Bạn sẽ đồng ý với tôi qua lời thơ dưới đây:

Tôi viết xuống đây bài thơ cảm tạ

Đến Phật, Trời ban hồng phúc thiện duyên

Giúp cho tôi hiểu nghiệp quả, nhân duyên

Nhận ân nghĩa, phải tri ân đền đáp.

Thơ Sương Lam


Trong việc cho và nhận đôi khi chỉ cần  hai chữ « cám ơn » cũng đã làm thay đổi hẳnc uộc đời của một tên cường đạo, nếu kẻ ấy biết giá trị của hai chữ Cảm Ơn.

Xin mời quý bạn đọc qua chuyện Thiền nho nhỏ dưới đây:

Trộm Cướp Giác Ngộ

Có một tên cường đạo đến đánh cướp Thiền Sư Thất Lý trong lúc Ngài đang công phu chiều:

-       Đưa tiền đây, nếu không ta sẽ lấy cái mạng già của ngươi.

-       Ta đang tụng kinh, tiền trong ngăn kéo, ngươi hãy tự lấy, nhưng nhớ chừa cho ta một ít để nộp thuế.

Tên cường đạo vơ vét tiền rồi bỏ vào bao tính chuồn đi.  Nhà sư bảo:

-       Nhận đồ người khác nên biết cám ơn chứ !

Hắn trả lời « cảm ơn »  rồi ra đi.

Sau đó tên cướp bị bắt vì đã gây nhiều tiền án, trong đó có khai là có lấy tiền của Thiền sư. 

 Quan cho mời Thiền sư đến đối chứng lời khai, bèn hỏi:

-       Tên này cướp tiền của ông phải không ?

Thiền sư nói:

     _  Hắn không có cướp tiền của tôi.  Tiền thì tôi cho hắn và hắn cũng đã cám ơn tôi rồi.

Sau khi mãn hạn tù về, tên cướp liền đến Thiền sư Thất Lý xin làm đệ t.

Lời bình: Bỏ đao xuống, đồ tể thành Phật.  Đó là việc khó có.  Dùng sức mạnh gì để khiến người bỏ đao xuống đây ?

(Nguồn : Trích trong Thiền là gì?  Biên soạn: Giác Nguyên)


Happy Thanksgiving 

Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.

 

Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

 

Sương Lam

 

(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 739-ORTB 1170-112724)

Sương Lam

Website: www.suonglamportland.wordpress.com

http://www.youtube.com/user/suonglam

https://www.pinterest.com/suonglamt/

Sinh Nhật Tự Tình - Đỗ Công Luận

Chuyện Ba Người Phi Công Tị Nạn - Trường Sơn Lê Xuân Nhị

Hình minh họa

Năm 1975, tôi đến trại Fort Chaffee với 2 đứa bạn trong phi đoàn: Thằng Tiến và thằng Hạnh. 3 đứa chúng tôi cùng ở chung một barrack. Thằng Tiến giường trên, tôi giường dưới, thằng Hạnh giường bên cạnh. Tiến và tôi là hai thái cực. Tôi xông xáo bao nhiêu thì nó tà tà bấy nhiêu. Thậm chí, ngày 30 tháng 4, nó đã vào phi trường Tân Sơn Nht rồi mà lại tính quay trở ra.Chúng tôi phải nhét nó lên tàu bay, cất cánh xong nó vẫn còn cằn nhằn là nếu mai mốt phải ra tòa án quân sự,"cả lò nhà chúng mày" phải chịu trách nhiệm. Tôi láu cá bao nhiêu thì nó thật thà bấy nhiêu. Thật thà đến độ nhiều khi tôi phải tự hỏi tại sao 1 thằng cù lần như vậy mà lái tàu bay được.

Thằng Hạnh thì khác, lớn hơn tôi vài tuổi, ít nói, hay suy tư và rất khôn ngoan. Nội chuyện nó có hai bà vợ ở Việt Nam mà không bà nào biết bà nào thì đủ hiểu con người nó ghê gớm ra sao. Nó khôn hơn tôi, dĩ nhiên, nhưng phải cái tính lười và hơi nhát gan, nên làm bất cứ chuyện gì cũng phải có tôi nhúng tay vào mới xong. Vì thế, trong 3 đứa, tôi luôn luôn được "giữ một địa vị quan trọng".

Những ngày đầu tiên nơi đất khách này, vốn tánh lo xa, tôi lo sợ cho tương lai lắm nên rủ chúng nó cắp sách đến trường học thêm Anh văn. Thằng Tiến mới đầu từ chối nhưng nằm nhà thấy chán quá bèn ôm sách vở theo tôi. Tôi biết tính thằng này, lè phè như nó mà học hành cái gì.Trong lớp học, sách vở và bài học nó chẳng lo mà cứ hết nhìn ngang rồi đến nhìn ngửa để kiếm vợ. Gặp em nào đẹp đẹp một chút là mắt nó sáng trưng, nhào tới thực tập câu Anh văn ruột chẳng hề biết mắc cỡ: "Are you married?". Tôi có than phiền với nó về chuyện này, nó còn lên mặt la mắng tôi:

- Đã ngu lại còn bày đặt đạo đức giả! Mình là dân nhà binh võ biền, suốt đời sống giữa chốn ba quân, mấy khi được may mắn lọt được vào một chỗ có nhiều...con gái như thế này?Phải biết lợi dụng thời cơ, đánh mau đánh mạnh, chốp ngay một em đem về nhà, để lâu thiên hạ đớp hết thì hối hận không kịp.

Tôi lắc đầu, gằn giọng đem một câu trong tam quốc chí rẻ tiền để dạy dỗ nó:

- Làm trai đứng trong trời đất, chỉ sợ mình không lập được công danh, đừng sợ không có vợ.

Thằng bạn dê sồm nhìn tôi cười nham nhở:

- Đù mẹ. Học Anh văn i tờ hạng bét mà cứ ham nói chuyện công danh, công danh cái búa. Đấy, mày cứ chăm chỉ đèn sách để lo công danh đi, ông thì ông cứ cắp sách đến trường để tán gái và kiếm vợ, để xem thử rồi thằng nào ngon hơn thằng nào.

Tôi lắc đầu ngán ngẫm và thấy tội nghiệp cho nó,nhưng mãi về sau này tôi mới thấy chính mình là kẻ đáng tội nghiệp chứ không phải nó. Người bạn còn lại, thằng Hạnh, mỗi ngày tôi thấy nó cứ sáng sớm là đã bỏ đi đâu mất biệt, đến chiều mới mò về, mặt mày hốc hác, mồ hôi mồ kê nhễ nhại.

Cuộc đời tị nạn của chúng tôi như vậy là coi như tạm yên sau vài tuần. Qua cơn khủng hoảng của thời gian đầu, bình tâm trở lại, chúng tôi cảm thấy... thèm nhiều thứ. Đi lính lâu năm, đứa nào lại chẳng mang tật "cà phê thuốc lá". Chúng tôi thèm ly cà phê và tô phở buổi sáng như người nghiện thuốc phiện nhớ bàn đèn. Phở thì chắc chắn không có rồi, chẳng ai dại gì mơ ước nhưng cà phê thì may mắn thay, nơi sân đá banh gần barrack của tôi có 1 chiếc xe phát cà phê và bánh ngọt miễn phí của Salvation Army. Tuy cà phê Mỹ mới uống vào thấy nhạt nhẽo nhưng "có còn hơn không", chúng tôi là khách hàng thường trực của chiếc xe ân huệ này. Khỏi cần nói, ai cũng có thể tưởng tượng được cái đuôi xếp hàng lãnh cà phê free của dân tị nạn nhàn rỗi nó dài ra sao. Trung bình là 1 tiếng đồng hồ và xui xẻo nhất là khi chỉ còn chục người nữa tới phiên mình thì cô hàng đóng cửa cái rầm sau khi xổ một câu gọn lỏn: "Sorry, no more coffee".

Ngày nọ, tôi và 2 thằng bạn quý đã đứng chờ được chừng hơn tiếng thì từ đâu một cơn mưa đổ ào xuống. Là trai đất Việt, chúng tôi "sương gió nào ngại chi" nhưng cái cô phát cà phê người Mỹ lại ngại mới là kẹt. Cô ta ngước mặt nhìn trời, rồi nhìn xuống đám tị nạn nghèo khổ chúng tôi lắc đầu. Lại câu nói cụt ngủn cố hữu: "Sorry, I am closed". Cánh cửa gỗ xập xuống nghe đến xầm một cái làm lòng tôi tan nát.Thế là tiêu hết một cữ cà phê. Không biết trút nỗi tức giận cho ai, tôi đành nhìn trời, ngạo mạn trách: "Ông trời hại anh em rồi, mưa gì mà độc vậy, chờ người ta lấy xong ly cà phê rồi mưa có được không?" Miệng cằn nhằn, chân chúng tôi chạy đều dưới cơn mưa miền Nam nước Mỹ đang trút xuống ào ạt.

Về phòng, tôi nằm trên giường suy nghĩ mãi. Mình xưa nay vẫn tự hào là người khéo xoay xở, sang trại tị nạn gần tháng rồi mà vẫn chưa tìm được cách nào để xoay tí tiền còm cà phê thuốc lá cho vui. Nhìn thằng Tiến đang dương cặp mắt ốc lồi ngó mưa rơi ngoài cửa kính tôi lại càng thấy động lòng hơn. Chúng nó dù không nói ra, đã đặt tin tưởng rất nhiều nơi tôi. Té ra tôi cũng chẳng hay ho gì. Còn mặt thằng Hạnh mới là sầu thảm. Tôi biết nó ghiền thuốc lá rất nặng. Con cá thiếu nước như thế nào thì nó thiếu thuốc lá cũng y như vậy. Đã có lần tôi ái ngại bảo nó:

- Mày không chịu khó lo học Anh văn để hôm nào ra trại còn kiếm việc làm, ngày nào cũng bỏ đi đâu mất biệt vậy?

Nó hằn học:

- Ông đíu cần học. "No cigarette no study."

Lại cái câu rẻ tiền ngày nào ở trại Tent City. Lúc ấy chúng tôi vừa mãn khóa Thủ Đức, được đẩy về đó để học Anh văn. Một ngày, vì lương phát trễ, chúng tôi vào lớp học làm ồn ào. Các ông giáo sư nhà binh Mỹ hỏi lý do, chúng tôi nửa đùa nửa thật đồng thanh nói: "No money, no Study". Bây giờ, nước mất nhà tan trên đất khách, ông thần ghiền thuốc lá này bản cũ soạn lại. Tôi lên mặt dạy dỗ:

- Ngu bỏ mẹ. Ở trại tị nạn không học, ra ngoài làm sao tranh đấu với đời.

- Học cũng cu ly, không học cũng cu ly. Mày có học cho lắm ra ngoài cũng đâu có hơn ông được mà làm tàng?

Câu trả lời của thằng Hạnh làm tôi giựt mình, thấy nó nói đúng quá. Những thằng giở thầy giở thợ như chúng tôi mai mốt ra ngoài biết làm gì để sống ngoại trừ cái nghề cu ly là nghề chẳng cần bằng cấp gì cả? Cả hai cùng im lặng. Một lúc sau, thằng Hạnh mới đứng lên, nhìn tôi cất giọng buồn buồn:

- Mày biết ông đi đâu không?

Tôi cười:

- Dâm đãng như mày thì chắc là phải đi kiếm em út.

Em con khỉ, cà bơ cà bấc như mình, trên răng dưới đồng hồ em chó nào nó thèm mê.

- Vậy mày đi đâu mà ngày nào cũng biền biệt vậy?

- Tao đi xin thuốc lá!

Tôi đang còn ngạc nhiên thì nó tiếp luôn:

- Tao có quen một thằng ở mãi tận building 1008 (cách đó chừng 3 hay 4 dặm). Sáng nào cũng cuốc bộ 2 tiếng đồng hồ lên đó để xin điếu thuốc. Không lý mình gặp nó, xin thuốc xong rồi bỏ đi về liền thì coi kỳ quá. Tao phải ở lại nói chuyện trời trăng mây nước cho ra cái vẻ mình nhớ bạn lên thăm. Hết chuyện nói mới bỏ về được. Đù mẹ mỗi ngày cuốc bộ 4 tiếng đồng hồ giữa trời nắng chang chang cực quá, lại hèn nữa, mà không có thuốc lá thì nhịn không được.

Tôi phẫn nộ:

- Bạn bè gì mà chó đẻ thế! Sao nó không cho mày vài đồng để mua thuốc lá?

Thằng Hạnh lắc đầu thảm hại:

- Hồi mới gặp, nó có dúi vào tay tao mấy đồng đó chứ, nhưng thấm vào đâu! Mày nghĩ coi, mình nhiều bạn bè mà đứa nào cũng nghèo hết, thằng này chĩa một điếu, thằng kia xin một điếu... Chỉ có mấy ngày là tao lại sạch túi. Xin nữa kỳ quá không được.

Thế mỗi lần lên đó, nó cho mày mấy điếu?

- Hút tại chỗ 2 điếu, 2 điếu nữa "sơ cua" mang về.

Tôi phê bình:

- Mày đúng là thằng có chí.

Chiều nay, nhìn cái mặt chảy xệ ra của nó, tôi biết nó nhớ cái gì. Bỗng tôi nẩy ra một kế vặt, ngồi nhổm dậy, la toáng lên:

- Xong rồi, có tiền cà phê thuốc lá rồi!

Thằng Tiến vẫn nằm yên nhưng con nhà Hạnh ngồi bật dậy ngay như cái lò xo, mặt mày hớn hở. Nó không lạ gì cái tài "an bang tế thế" của tôi từ những ngày còn ở biệt đội. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào, tôi vẫn luôn luôn nẩy ra vài cái kế độc để kiếm tiền lẻ ăn nhậu. Nó nhìn tôi cười cười:

- Mày có tư tưởng mới?

- Không có sao dám nói?

Nó bốc tôi một câu:

- Biết ngay mà. Tao biết trước sau gì mày cũng có kế độc. Nói anh em nghe coi.

Cả mấy thằng độc thân khác nằm gần đó cũng nhỏm dậy, ào tới vây quanh giường tôi. Đã lâu lắm rồi, kể từ ngày mất nước, lần đầu tiên tôi mới được trở thành một nhân vật quan trọng như vậy nên rất lấy làm khoái chí. Tôi vỗ hai tay vào nhau nghe đến đốp một cái:

- Phen này chúng mày cứ gọi là cà phê thuốc lá... mút chỉ thiên thần.

Thằng Hạnh hít hà, giục:

- Biết mày có tài rồi. Kế của mày là kế gì, nói nghe thử?Tôi kênh kiệu:

- Đứa nào còn thuốc lá lấy một điếu ra mồi hút thì tao mới có cảm hứng mà nói được.

Tôi nói câu đó và mắt nhìn thằng Hạnh. Tôi biết tõng nó còn thủ một điếu Pall Mall trong túi áo chờ đến ăn cơm chiều xong thì hút. Ông phi công tị nạn giả vờ lờ đi, dương cặp mắt "thủ đoạn" nhìn ra xa xôi.

Tôi liền xoay người nằm xuống giường trở lại:

- Đù mẹ, no cigarette no talk.

Thằng Hạnh chờ một lúc, thấy chẳng ai có gì thật, mới méo mặt móc điếu thuốc gia bảo ra:

- Đây, đù mẹ thuốc lá đây, nói đi thằng phi công mất dạy. Kế nghe mà không hay thì chết với ông.

Tôi ngồi bật dậy, cười hề hề sảng khoái:

- Chỉ cần vài ngày nữa là chúng mình tha hồ cà phê thuốc lá.

Chính tay thằng Hạnh bật lửa cho tôi. Điếu thuốc được chuyền tay nhau. Tôi lên tiếng:

- Tao có một kế hoạch này hay lắm, nhưng tụi mày phải giúp tao mới được. Tiền dư nhiều tao không biết nhưng tao bảo đảm chúng mình sáng sáng sẽ được vô Hitching Post uống cà phê, mỗi đứa có bao pall mall đỏ choét bỏ vào túi áo để dợt le với thiên hạ....

Ngoại trừ thằng Tiến là con người chẳng coi chuyện gì quan trọng, bốn năm cặp mắt cùng sáng lên một lượt với hình ảnh của người tị nạn hạnh phúc trong trại Fort Chaffee có bao Pall Mall đỏ trong túi áo. Chưa gì đã thấy có thằng muốn chảy nước miếng rồi. 

Thằng Hạnh giục:

- Nói mẹ nó đi, cứ úp úp mở mở hoài.

Rồi như chợt nhớ ra rằng tôi vốn là một thằng lém lỉnh láu cá chẳng thua gì nó, con nhà Hạnh giật mình, nghiêm sắc mặt nhìn tôi:

- Đù mẹ hay là mày lừa ông để hút thuốc lá lẻ. Có kế gì không, nói thật đi thằng nhóc, không có thì biết tay ông.

- Có chứ, phải từ từ để tao nói. Tao sợ mai kia mày không có đủ miệng để hút thuốc lá của ông.

- Kế gì?

- Ông mở tiệm hớt tóc tại đây!!!

Bốn năm cái miệng cùng ồ lên một lần.

Người Việt mình vốn có tinh thần mau thích ứng với hoàn cảnh mới. Chỉ sau vài ngày đến trại tị nạn, đã có nhiều tấm biển quảng cáo thương mại dán khắp nơi. Cái thì may sửa quần áo, cái thì hớt tóc, cạo gió, coi bói bài v.v.... Tôi có lần đã nghĩ về vấn đề kiếm tiền bằng cách hớt tóc khi nhìn thấy một bảng quảng cáo dán ở nơi nào đó với hàng chữ nguệch ngoạc: "Hớt tóc 50 cents. Con nít 30 cents" nhưng mãi đến hôm nay buồn quá mới nhớ ra.

Thằng Hạnh là người hớn hở nhất. Mặt nó tươi trẻ lại khoảng 10 tuổi, nhìn tôi... rất cảm tình:

- Mày hớt tóc được à? Có thật không?

Tôi phịa:

- Trước khi đi lính, tao có lần đã hành nghề hớt tóc.

Thằng Hạnh mừng rỡ ôm chầm lấy tôi, dáng điệu y hệt một thằng Mỹ con được quà. Nếu nó chịu khó điều tra một chút thì sẽ biết ngay rằng tôi chỉ nói phét. Tôi trẻ măng, sinh ra đi học từ nhỏ đến lớn, vừa rời ghế nhà trường là đi lính, thì giờ đâu đi làm phó cạo mà giở trò nói phét. Đúng ra, ở gần nhà tôi có một tiệm hớt tóc. Hồi nhỏ, những khi rảnh rỗi,tôi hay lang thang sang các tiệm hớt tóc để coi các ông thợ đánh cờ tướng hoặc húi đầu cho thiên hạ. Nhìn nhiều lần đâm quen. Tôi chưa bao giờ hớt tóc nhưng biết rõ từng động tác, từng điệu bộ của người thợ, cách thức đi tông đơ, cắt xén v.v....

Lớn hơn chút nữa, vì nhà nghèo quá, bố mẹ ít khi có tiền cho các con đi hớt tóc, nên tôi nẩy ra ý nghĩ mua tông đơ về hớt tóc cho các em. Hớt cho ai chứ cho em thì quá dễ. Lần đầu tiên, cái đầu của mấy thằng em khốn khổ của tôi loang lổ như những vườn hoa tươi đẹp bị bầy chó hoang vào quấy phá. Tội nghiệp các em tôi. Chúng nó buồn lắm mà chẳng dám hé răng vì biết tính tôi vốn hung dữ hà khắc. Đi học với cái đầu như vậy thì tránh sao nổi khỏi bị bạn bè cười chê. Nhưng nhà nghèo quá và "tài của anh tao chỉ có vậy" thì biết làm sao? Lần lần rồi tôi cũng cải tiến nghề được, nhưng chưa bao giờ lên đến trình độ đủ để sống bằng nghề đi cầm tông đơ.Hôm nay, đã mấy chục năm không rờ cái tông đơ, vì thèm cà phê thuốc lá vặt, tôi đã xâm mình trở thành ông thợ cạo. Tôi cũng còn đủ trí khôn để biết cái nghề hớt tóc của mình chỉ có trong trí tưởng tượng, nếu đem ra thực hành chắc chắn sẽ gặp rắc rối to nhưng lém lỉnh như tôi thì làm chuyện gì cũng phải có kế hoạch hẳn hòi. Có gì đâu, tôi sẽ dùng những thằng bạn ngô nghê đói thuốc này để thực tập trước. 

5 cái đầu là quá đủ cho tôi ôn lại và... học thêm nghề. Tôi lại nhớ đến những mái tóc loang lổ của các em tôi mấy chục năm trước. Bất giác tôi thấy thương những thằng phi công Việt Nam tị nạn này. Chỉ vì cái hình ảnh một người tị nạn hạnh phúc với gói Pall Mall trong túi áo do lời vẽ vời của tôi mà vài hôm nữa đây, có vài đứa sẽ trở thành những sư ông bất đắc dĩ. Tôi biết chắc, bàn tay vụng về của tôi mà thực tập cái đầu nào rồi thì chỉ còn nước đem đi cạo trọc. Một cái đầu nhẵn thín không có tí tóc nào coi vẫn còn đẹp hơn cái đầu loang lổ chỗ đen chỗ trắng. Không phải tôi là thằng vô lương tâm, tôi cũng biết thương xót chúng nó đấy chứ, nhưng việc này là việc chung: Tiền hớt tóc sẽ được mua thuốc lá cà phê chia đều cho tất cả. Nghĩ thế nên lòng tôi cảm thấy bớt đi cái mặc cảm tội lỗi.

Những thằng lính trẻ tội nghiệp này, chúng nó nào có biết những tai ương đang chờ sẵn, tất cả đều hăng hái bàn tán về cái tiệm hớt tóc của tôi. Chờ cho chúng nó ngớt tiếng ồn, tôi lên tiếng, giọng uy nghiêm sang sảng tựa hồ một ông tướng trước giờ ra quân:

- Tụi mày nghe kỹ đây. Sống ở đời, làm cái gì cũng phải có kế hoạch. Tao tuy ngày xưa là thợ hớt tóc, nhưng tụi mày biết tao lái tàu bay gần 5 năm, tay chân tao nó lạng quạng rồi, không còn khéo léo như những ngày chưa đi lính.

Thằng Hạnh mau mắn phụ hoạ ngay:

- Tao hiểu. Nhà binh nó làm chúng mình hư đi.

Một giọng khác rất cảm động của thằng Hùng tây lai:

- Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông....

Tôi quay lại nhìn nó và tự hỏi lòng mình rằng sao quân đội tôi có nhiều lý thuyết gia như thế này mà vẫn bị thua trận. Tôi đi mau vào phần rắc rối:

- Mình không làm thì thôi, nhưng đã làm thì làm cho đàng hoàng, không thể để khách hàng than phiền được. Mình đánh là phải thắng, không thắng không đánh. Bắt đầu ngày mai, tụi mày phải đưa... đầu cho tao thực tập trước.

Tôi im lặng chờ phản ứng. Chẳng có đứa nào nghi ngờ tài năng của tôi cả. Chỉ có thằng Hạnh, tinh mắt nhất, nhìn tôi với đôi mắt nghi ngờ nhưng trở lại nồng nhiệt ngay khi tôi nói:

- Dĩ nhiên. Mày biết mấy thằng đi xe đạp không? Đã biết đi rồi thì bỏ cả hai ba chục năm vẫn phóng lên xe lái phom phom như thường. Tụi mày đừng lo, ngày xưa tao lái tàu bay đẹp như thế nào thì bây giờ tao lái tông đơ cũng ngon như vậy.

Tôi nhìn quanh một lượt. Tốt, ngoại trừ thằng Tiến vẫn nằm lơ đãng nhìn ra ngoài, xem ra ai cũng tin tưởng nơi tôi hoàn toàn. Người Việt Nam mình quả thật là dễ tin, dễ bị lừa dối. Chả trách gì cả một nửa nước Việt Nam bị Việt Cộng lừa dối trong bao nhiêu năm. Tôi qua đề tài thứ hai, ít rắc rối hơn:

- Mình sẽ hớt ngay tại phòng ngủ này. Thứ nhất, chúng mình sẽ vô nhà tắm công cộng mượn tạm cái gương lớn đem về đây. Chơi 2 cái luôn, một cái trước một cái sau cho nó có vẻ nhà nghề. Khăn choàng thì thiếu mẹ gì, mấy tấm ra đây cứ tha hồ mà xài. Lược thì có đủ. À quên, còn thiếu cái kẹp. Ngày mai đứa nào ra dây phơi đồ chộp vài cái cho tao. Nhớ lựa cái mới mới mà chộp. Tiệm hớt tóc của mình "nốp bồ" mà.

Lúc ấy tôi chẳng hiểu "nốp bồ" là gì, nhưng cũng nói đại vì thấy người ta hay dùng chữ này để chỉ những sự gì sang trọng quý phái. Thằng Hưng mập đưa ý kiến:

- Mình cũng nên có mấy cái ghế để khách đến có chỗ cho họ ngồi chờ.

Tiên sư, chưa mở được tiệm đã tính đến chuyện cho khách ngồi chờ rồi. Sao mà lạc quan quá thế! Tôi nghĩ vậy nhưng lại nói khác đi, ra vẻ đồng ý với nó:

- Thằng Hưng nói đúng. Mình phải lấy thêm mấy cái ghế cho khách ngồi chờ. Tiệm mình "nốp bồ" thì cái gì cũng phải "nốp bồ", phải bắt đầu "nốp bồ" từ cách tiếp khách....

Bây giờ đến cái phần quan trọng nhất là moi tiền đâu ra để mua cái tông đơ? Tôi đã đi PX một lần để... ngắm cảnh, biết ở Mỹ họ không có bán tông đơ tay mà xài toàn tông đơ điện. Tông đơ điện hớt rất nguy hiểm cho những người lạng quạng như tôi. Sơ xẩy một tí là dám đi luôn gần nửa mái tóc của người ta. Thằng Hạnh kiên nhẫn chờ tôi trả lời về vấn đề then chốt này. Tôi nhìn chúng nó, thông báo tiếp kế hoạch gây quỹ khóc thần sầu của mình:

- Về vấn đề tông đơ, tao có biết ông Lãm làm sở Mỹ ở Barrack 1701. Cha này có tiền nhiều. Tao sẽ đề nghị với chả bỏ tiền mua tông đơ cho mình. Một cái đầu 45 cents, mình lấy 25 cents, chả lấy 20 cents là tốt chán.

Thằng Hạnh thở phào nhẹ nhỏm, xem ra mộng cà phê thuốc lá của tôi có cơ thành tựu được. Nhưng nó vẫn chưa hết thắc mắc:

- Mày biết chả có chịu không?

- Chịu là cái chắc. Nếu chả không chịu, tao kiếm người khác. Đất Mỹ hiếm nhân tài chứ thiếu gì tiền.

Thằng Hưng mập có ý kiến:

- Tại sao phải 45 cents? Người ta hớt 50 cents mà.

Tôi lên mặt dạy dỗ:

- Cạnh tranh. Thương mại là cạnh tranh tối đa. Thương mại mà không có cạnh tranh là... độc tài cộng sản. Chúng nó hớt 50, mình chặt nhẹ 45 thôi, chúng nó chơi 30, mình lai rai 25 là đủ. Có vậy mới câu khách được.

Thằng Hạnh nhìn tôi khâm phục. Nó không ngờ có thằng bạn ghê quá, mới ngày nào đây còn lái tàu bay hộc xì dầu mà bây giờ đã "tài phiệt" ra gì.

- Có ai còn thắc mắc gì nữa không?

Cả phòng im lặng. Vậy là ăn tiền rồi.

Thật ra, có một điều đáng thắc mắc nhất mà chẳng đứa nào chịu hỏi là nếu tôi hớt hư đầu người ta thì lấy cái gì mà đền? Nếu chúng nó chất vấn câu này, tôi không thể nào trả lời được bởi vì chính mình, tôi cũng chưa biết xử thế làm sao trong trường hợp chết người đó....

Ngày hôm sau, tôi dậy sớm, ăn sáng xong là dắt thằng Hạnh tạt qua building 1701 để kiếm người bạn hùn vốn. Thằng Tiến vốn làm biếng, nhất định không thèm tham gia hay đóng góp gì hết vào tiệm hớt tóc nên nằm nhà. Phòng của Lãm ở lầu hai. Anh chàng này, tôi mới quen được cách đây vài tuần trong lúc chờ xếp hàng lãnh cơm. Gã cỡ 40 tuổi, đầu tóc hớt cao, nước da đen ngòm làm cho tôi có cảm tưởng gã là một anh cớm hơn là một người làm sở Mỹ. Lãm ít nói, khi cười thì hàm răng rít lại. Ngày nọ, gã đang xếp hàng trước tôi chờ lãnh cơm thì kẹt công chuyện gì đó phải bỏ hàng đi. 

10 phút sau trở về, gã tính chui vô chỗ cũ thì bị một đám anh em quân nhân tưởng gã cắt hàng nên la ó phản đối, bắt gã phải xếp hàng lại từ đầu. Lãm càu nhàu đã tính bỏ đi thì tôi gọi lại, thanh minh thanh nga cho gã và mời đứng trước chỗ mình. Gã có vẻ thích tôi từ dạo ấy.Tôi có ghé lên building 1701 thăm gã một lần. Lăn lộn với đời, chỉ cần nhìn qua căn phòng là tôi biết gã này có nhiều tiền nhưng không muốn làm thân. Nụ cười với hàm răng rít chặt của gã làm tôi ngờ ngợ. 

Hôm nay tôi đột ngột tới kiếm làm gã ngạc nhiên:

- Sáng sớm anh em lên thăm tôi có chuyện gì không?

Tôi kéo gã ngồi xuống giường rồi đi một đường cắt nghĩa về cái tiệm hớt tóc của tôi. Quả đúng như tôi nghĩ, anh chàng Lãm mừng rỡ nhận lời ngay. Cũng giống như thằng Hạnh, gã có ý nghi ngờ về tài năng của tôi:

- Anh ở Việt Nam làm nghề lái... phi công mà cũng biết hớt tóc à?

Tôi tưởng tượng ra ngay một hình ảnh thật đẹp:

- Nhà tôi có đến... 3 cái tiệm hớt tóc. Trước khi đi lính tôi đã phụ giúp gia đình cắt tóc như điên.

Gã móc trong túi ra bao thuốc lá Pall Mall. Tôi và thằng Hạnh nhìn nhau sẵn sàng để nếu gã mời là chúng tôi thò tay ra móc một điếu ngay. Nhưng gã làm như không nhìn thấy sự thèm muốn trong ánh mắt chúng tôi, bình thản móc ra một điếu thuốc rồi bỏ trở lại vào túi. Gã châm lửa. Mùi thơm của điếu thuốc bay ra, quyện lấy chúng tôi. Tôi thấy hoa mắt nhưng nhất định không mở miệng ra hỏi. Đường đường cũng là bạn làm ăn, xin thuốc lá coi nó kỳ quá. Gã tiếp tục phần phỏng vấn:

- Thế anh có biết ráy lỗ tai không?

- Thợ hớt tóc mà không biết ráy lỗ tai thì thợ con mẹ gì? Bảo đảm ráy không êm, không đê mê là không lấy tiền.

Sợ gã bắt tôi chứng minh liền thì khốn khổ nên tôi nói lấp đi:

Nhưng anh chưa biết luật bên Mỹ này, chỉ bác sĩ mới có quyền rờ vào lỗ tai người ta thôi. Không phải thầy thuốc mà mò mẫm lạng quạng là đi tù hết. Chán thật, đi hớt tóc mà không được ráy lỗ tai thì mất hết 80% cảm hứng....

Thằng Hạnh cũng phụ họa theo:

- Cần gì. Càng ít công việc càng đỡ rắc rối. Qua Mỹ, mình nên thực tế sống theo kiểu Mỹ.

Gã Lãm nhíu mày tính toán một lúc rồi mới nói:

- Tôi đồng ý. Anh biết giá một cái tông đơ bao nhiêu tiền không?

Thằng Hạnh mau mồm:

- Tụi tôi coi kỹ rồi, 12 đồng. Chỉ cần hớt chừng 2 tuần là anh sẽ lấy lại vốn.

Câu trả lời của Lãm làm chúng tôi ngạc nhiên:

- Cái anh nói là thứ tốt, cái rẻ nhất chỉ có 8 đồng. Nói thật với anh, tôi cũng đã có ý định này lâu rồi, nhưng chưa biết tìm thợ ở đâu ra thôi.

Tôi hơi buồn một chút. Tưởng mình đã khôn lanh, nào ngờ cái gã này lại còn khôn hơn mình. Gã đứng dậy, chìa tay ra:

- Mỗi cái đầu anh lấy 25 cents, tôi lấy 20. Dứt khoát nhé. Tối nay tôi đem tông đơ qua cho anh. Anh về chuẩn bị quảng cáo và các thứ lặt vặt đi.

Bắt tay xong, thằng Hạnh còn tính đứng lại gỡ gạc một điếu thuốc nhưng tôi kéo nó đi, bảo nhỏ:

- Mình là dân làm ăn, không để nó khinh được, ráng nhịn vài ngày nữa thì chúng mình tha hồ mà hút.

Chiều hôm đó, y lời hẹn, gã Lãm hí hững bưng cái tông đơ qua. Nhìn thấy tiệm hớt tóc dã chiến chúng tôi trang bị lộng lẫy, gã cười toét miệng:

- Tài thật mấy ông Không Quân! Đi đường tôi đã thấy quảng cáo dán khắp nơi. Tông đơ đây, mai... chúng ta bắt đầu nhé.

- Chưa được.

- Sao vậy?

- Ông muốn làm ăn lâu dài hay làm ăn... không lâu dài?

- Lâu dài chứ.

- Chúng tôi cần thì giờ để chuẩn bị, dợt lại nghề một chút cho nó nhuyễn tay. Không làm thì thôi, còn làm là làm cho nó đàng hoàng, cho nó "nốp bồ".

Mấy đứa trong phòng chỉ nhìn vào bao thuốc lá Pall Mall đỏ ké trong túi áo trên của gã. Nhưng gã lờ đi, đưa tông đơ cho tôi rồi cáo từ ra về.

Không bỏ phí thì giờ, tôi dắt cả bọn ra khu cầu tiêu, bắt ghế trước mấy cái lavabo có gương để thực tập liền. Tôi dụ khị thằng Hạnh:

- Mày dù gì cũng là bạn bè thân thiết trong phi đoàn với tao, mày ngồi lên để tao hớt trước.

Con nhà Hạnh khôn như quỷ, dại gì đưa cái đầu cho một thằng tự xưng là thợ hớt tóc thí nghiệm, nó kiếm cớ thoái thác ngay:

- Từ từ đã, tóc tao chưa dài, mày hớt đứa khác đi.

Biết tính nhau ai bằng bạn bè, tôi bất mãn lắm nhưng đâu có làm gì được. Nhưng may cho tôi, thằng Hưng mập xung phong ngồi liền. Chao ôi, không ngờ trong cuộc đời tị nạn này vẫn còn nhiều tráng sĩ can đảm không thua đời xưa. Tôi chịu tráng sĩ Kinh Kha bao nhiêu thì cũng phục thằng này bấy nhiêu. Gần..trọc đầu đến nơi mà vẫn biểu lộ được phí khách của con người. Tôi cắm điện cái tông đơ, lẩm bẩm vài lời cầu kinh với thượng đế rất chân thành rồi... rón rén bắt đầu. Tôi có cảm giác y hệt như ngày xưa xa lắm, lúc lao chiếc phi cơ xuống rừng phòng không địch để bắn trái róc két đầu tiên của cuộc đời phi công. Phải công nhận, con người trời sinh ra có một khả năng tự vệ phi thường trong những trường hợp như vậy. Đã mấy chục năm nay, tôi có bao giờ cầm tông đơ đâu mà tối đó, thí nghiệm cái đầu của thằng Hưng mập đẹp quá sức tưởng tượng. Sau 3 tiếng đồng hồ cặm cụi, lúc nghiêng phải, lúc uốn mình sang trái, lúc khác lại nhảy nhỏm lên khi cái tông đơ điện đi một đường hơi sâu, tôi hoàn thành tác phẩm dưới những cặp mắt thán phục của bạn bè. Thằng Hạnh, đứa nghi ngờ khả năng tôi nhất bây giờ lại là thằng to miệng tán thưởng tôi nhiều nhất làm tôi tưởng mình là thợ hớt tóc thật. Nó chìa tay ra, giọng cảm động:

- Tao xin lỗi mày.

- Mày làm gì?

- Ngày hôm qua tao đã trót dại coi thường và nghi ngờ khả năng của mày. Tao không ngờ mày là con nhà... phó cạo thật. Tao phục mày quá, mày cho tao xin lỗi.

Tôi thấy có cái gì nhức nhối trong tim. Vừa mất nước, từ một ông thiếu úy phi công xuống làm thằng di tản buồn tháng trước bây giờ lại được tặng câu khen thưởng là "con nhà phó cạo thật". Đời tị nạn sao nhiều oan khiên thế này hỡi trời, chỉ 2 tháng mà bị xuống luôn 2 cấp. Tôi đóng trọn vở kịch:

- Thì tao đã bảo chúng mày mà, tao có máu phó cạo trong người thật.

Chúng nó bu xung quanh thằng Hưng mập, bàn tán, xuýt xoa phê bình. Tôi thấy mặt mũi đứa nào cũng rạng rỡ. Hình ảnh người tị nạn hạnh phúc có gói Pall Mall trong túi áo chắc đã vừa tầm tay. Chờ cho chúng nó tiêu hóa xong niềm vui, tôi nói với cả bọn:

- Bây giờ khuya rồi, đứa nào phụ trách vệ sinh phải lo dọn dẹp. Ngày mai ai muốn hớt tóc.

Lần này thì 4, 5 bàn tay cùng giơ cao lên một lượt, có cả bàn tay của thằng Hạnh mới là ly kỳ:

- Tao. Tao tình nguyện, ngày mai mày hớt tao trước đi.

Tôi đã tính vênh váo từ chối cho bỏ ghét nhưng nghĩ lại, tôi rộng lượng gật đầu:

- Ừ, mai tao hớt cho mày. Ăn sáng xong về mình bắt đầu liền. Thực tập hết ngày mai, ngày mốt mình có thể khai trương tiệm hớt tóc được.

Tối hôm đó, lần đầu tiên kể từ ngày di tản, tôi gối đầu trên hộp tông đơ ngủ một giấc ngon lành.

Hôm sau, tôi và thằng Hạnh bắt đầu rất sớm. Chúng tôi tính hớt ngay tại phòng nhưng vì thấy nhiều người còn ngủ, đành phải xách ghế ra khu nhà vệ sinh. Sáng sớm, tôi để ý thấy sự lưu thông trong khu nhà cầu công cộng này rất nhộn nhịp, khác hẳn tối hôm qua. Đúng ra, chúng tôi không nên bắt đầu sớm như thế vì buổi sáng là giờ của người ta hay giải quyết các vấn đề đi cầu và rửa mặt. Ai đi qua gặp chúng tôi cũng đều tỏ vẻ khó chịu.Người Việt mình khác với các dân tộcTây phương, không bao giờ được tự nhiên khi hưởng thụ cái đệ tứ khoái ở những nơi công cộng có nhiều người. Thậm chí, có người khó tánh còn ngồi trong cầu nói nhiều câu xách mé ra ngoài, ngụ ý chửi chúng tôi. Trong nhà cầu lúc ấy chỉ có vài thứ âm thanh: Gần nhất là âm thanh của cái tông đơ điện, nghe rè rè và êm ái. Rồi đến tiếng nước chảy, nghe rõ có hai loại khác nhau. Một loại chảy ra từ rô bi nê và một loại chảy ra từ... người. Chói tai nhất là loại tiếng động chúng ta vẫn thường nghe khi ném một vật gì nặng xuống nước ở một cao độ thấp. Xen lẫn với những âm thanh này là những tiếng thở phì phò và thỉnh thoảng tiếng giựt nước cầu tiêu. Đã mấy lần, tôi tính bảo thằng Hạnh dời vào phòng ngủ mà hớt tiếp nhưng nghĩ đến việc phải dọn dẹp sạch sẽ trước khi đi, hơn nữa đầu thằng Hạnh đang dang dở, một bên trắng bên đen coi rất nham nhở, nên lại thôi.

Làm việc với những thứ âm thanh ghê gớm như vậy bên tai, làm sao khỏi bị chia trí. Nếu là tay phó cạo thật chưa chắc đã hớt được đẹp, huống gì ông thợ cạo lại là người đã mười mấy năm chưa sờ đến cái tông đơ. Chỉ sau 15 phút "lái tông đơ," tôi hốt hoảng nhận ra cái đầu của thằng Hạnh đã loang lỗ như đồi... Charlie, với đầy đủ hình ảnh những hố bom và giao thông hào chằng chịt dọc ngang. Tôi tái mặt. Thằng Hạnh cũng tái mặt, còn tái hơn tôi. Thế này thì trời hại 2 thằng phi công tị nạn rồi. Thằng Hạnh khôn lắm. Nó rán giữ miệng, không thèm nói gì cả, vì biết nói ra chỉ làm tôi cuống quít thêm. Bây giờ thì phải nói là tôi không còn hớt tóc nữa mà đang làm công việc sửa chữa các giao thông hào, lấp các hố bom bằng tông đơ trên đầu thằng bạn khốn khổ. Tay và chân tôi mõi rã rời, mồ hôi đổ hột, nhỏ xuống cả lớp khăn choàng. Khổ nổi, tôi như con muỗi đã bị lọt vào tổ nhện, càng loay hoay tháo gỡ, càng lọt sâu vào đám dây tơ chằng chịt. Cái đầu thằng Hạnh mỗi ngày một ngắn hơn mà chẳng thấy đẹp hơn chút nào. Tôi có bao giờ ngờ được cuộc đời anh phó cạo lại cay đắng đến như thế này.Ngày xưa ở Việt Nam mỗi lần bước vào tiệm hớt tóc, tôi nghênh ngang như một ông tiểu tướng. Hớt xong, tôi quẳng ra trăm bạc nhưng luôn luôn nghĩ rằng giá tiền đó quá cao cho một người chỉ đứng biểu diễn tông đơ trong 15 phút. Bây giờ, tôi chỉ mơ ước được xuất thân là "con nhà phó cạo" chính tông để giải quyết được cái đầu thằng bạn tôi. Ôi, đẹp biết chừng nào những bàn tay... phó cạo.

Sau gần 1 tiếng đồng hồ đau khổ và kiên nhẫn ngồi im nhìn tôi xây dựng lại những đổ vỡ... trên đầu nó, thấy mái tóc mình càng ngày càng trở nên trắng ra, thằng Hạnh biết đã đến lúc phải tốp tôi lại. Thật ra lúc ấy không ngừng cũng không được, vì cái đầu nó còn chỗ nào có tóc đâu mà sửa? Nó cay đắng mở miệng mà mồm méo xệch đi:

- Đù mẹ mày chơi ông!

Tôi cứng họng, vừa hối hận vừa buồn. Nó nói vậy chỉ để mà nói vì nó biết tôi nãy giờ hì hục lúi cúi sửa chữa cho nó.

- Đù mẹ tốp lại đi. Tháo khăn ra, ông đấm vỡ mặt mày.

Tôi lẳng lặng tắt cái tông đơ, tháo khăn ra, cũng chỉ mong nó đấm vào mặt mình một cái cho tôi đỡ bị lương tâm dày vò. Nhưng nó không đấm, chỉ đứng nhìn vào tấm gương, lấy tay xoa xoa tóc rồi thở dài não ruột:

- Đù mẹ mày chơi ông. Mày hớt thế này thì ông còn dám nhìn ai. Đù mẹ hỏi thật với mày, ở VN mày có thù oán ông cái gì không? Đù mẹ mày giết ông rồi!

Như để đổ thêm dầu vào lửa, có vài người vào khu vệ sinh, nhìn thấy đầu thằng Hạnh,không nín được liền bật cười lên thật to.Mãi đến lúc đó tôi mới thấy rằng ai nhìn thấy nó mà không cười ré lên thì kẻ đó chắc bị bệnh thần kinh nặng. Chính tôi là người đang nát tan ruột gan mà cũng không nhịn được. Đằng nào cũng đã lỡ, tôi đành chìu theo bản năng, để những tiếng cười sằng sặc tuôn ra một lần. Từ khi di tản, đây là lần đầu tiên tôi được cười một trận ra gì. Thằng Hạnh càng lộn gan:

- Mày mà cũng cười được à thằng "giặc lái khốn nạn?" Đù mẹ đồ đểu cáng, ông biết mày chơi ông mà, coi chừng ông đá bỏ mẹ mày. Giá còn cây súng ông phơ cho một phát chết nhăn răng ra rồi tới đâu thì tới.

Nó vừa nói vừa nhìn vào tấm gương, rờ đầu rờ tai nhăn nhó khổ sở. Chả mấy chốc, tụi thằng Hưng Mập, thằng Hùng cũng đã có mặt tại chỗ. Đứa nào cũng ôm bụng cười no nê.

Tôi đứng sát bên thằng Hạnh năn nỉ nói với nó bằng tất cả sự thống thiết và chân thành của một con người:

- Tao xin lỗi mày. Số mày xúi quẩy làm sao đó. Mày thấy không, tao đã cố gằng hết sức....

Nhìn thấy cái đầu của Hưng mập đẹp đẽ ngon lành, thằng Hạnh lại đau đớn:

- Đù mẹ mày chơi ông, sao tối qua mày hớt cho thằng Hưng đẹp vậy?

- Không phải đâu, tại tối qua tao cố gắng quá sức.

- Thế hớt cho ông, mày không cố gắng quá sức được à?

- Không phải, tại tao chia trí. Giá hồi sáng mình hớt ở trong phòng thì đâu đến nỗi nào.

Vốn là một đứa biết lo xa nên vừa năn nỉ nó tôi vừa nghĩ đến những "hậu quả thương mại" của vấn đề. Nếu để thằng Hạnh đem cái đầu như thế này ra ngoài cho thiên hạ nhìn thấy thì tiệm húi cua của chúng tôi chưa mở cửa coi như sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn. Húi đẹp vậy, họa có bọn bộ đội ngu dốt của bác Hồ mới thèm mò đến cho tôi cắt tóc. Chờ cho nó nguôi nguôi, tôi bèn đem thực tế ra "lễ phép trình bày". Con nhà Hạnh tuy vừa bị một vố ra gì nhưng rất khôn ngoan và vẫn còn tin tưởng nơi tôi lắm, nhất quyết không để cái hình ảnh thê thảm sáng nay làm mờ đi cái hình ảnh đẹp tuyệt vời của người tị nạn với gói Pall Mall trong túi áo. Nó chắc lưỡi, vẫn còn hậm hực:

- Tao mà ra đường như thế này thì con nít gặp nó cũng khóc thét lên, nói gì đến chuyện có thằng ngu nào dám đến hớt tóc.

- Đúng đúng, vậy tao mới phải bàn với mày. Bây giờ tính sao?

- Phải đem cái đầu này nhờ thợ sửa.

- Mày làm gì có tiền?

- Trước khi di tản, vợ tao có dúi vào tay tao 5 đô, tao ghiền thuốc đốt hết 3 đồng, còn lại 2 tính để phòng khi đau ốm và khẩn cấp. Trường hợp này là... đại khẩn cấp rồi.

Ghê gớm thay cái thằng Hạnh. Nếu tôi biết nó còn 2 đô la thủ kỹ trong người mà sáng sáng phải cuốc bộ 3-4 dặm đường đi xin thuốc thì tôi đã từ nó rồi. Phi công Việt Nam nổi tiếng hào hoa phong nhã, sao lại có một thằng bần tiện lọt vào đây?

Nó ôm quần áo chui vào nhà tắm vặn nước, nói vọng ra:

- Mày phải kiếm cho tao một cái mũ, nếu không có thì lấy đỡ cái khăn cũng được. Tắm xong là tao đi liền. Phải... di tản khỏi đây liền lập tức trước khi người ta gọi tao là Hạnh... thầy chùa.

Và nó đi thật. Thằng Hạnh đi mãi đến tối mịt, mọi người đã lên giường cả mới trở về. Chúng tôi ào ra bật đèn lên.

- Dỡ mũ cho tao coi cái đầu cái nào. Thợ sửa có đẹp không?

Thằng Hạnh dỡ cái mũ lưỡi trai nhà binh mà giờ này coi rất là lố bịch với bồ đồ civil ra. Thằng Tiến phê bình câu đầu tiên:

- Đù mẹ tưởng thợ sửa ra sao, sửa vậy thì có hơn gì thợ nhà.

Thằng khác góp ý:

- Coi đỡ hơn hồi sáng nhưng nếu cạo trọc thì vẫn đẹp hơn.

Một đứa khác:

- Trọc mẹ nó rồi chứ còn nếu gì nữa.

Tôi ngồi yên trên giường, "mặc cảm tội lỗi" tràn trề hơn hồi sáng vì sau khi nó đi, tôi có thực tập thêm hai cái đầu nữa, cái nào coi cũng tạm được. Chỉ nhìn thoáng một vòng, con nhà Hạnh nhận ra ngay. Nó ngồi xuống giường, cởi đôi giày, thảy gói Pall Mall lên giường tôi:

- Tao mới mua bao thuốc lá đấy hút đi. Đù mẹ, mở tiệm hớt tóc tiền vô đâu chưa thấy, đã thấy đầu tao bị cạo trọc lóc và mất tiêu hết đồng bạc quý giá của vợ tao. Chúng mày mỗi đứa rút một điếu thôi, xong rồi trả lại bao thuốc lá đây.

Chúng tôi ngồi quây quần hút thuốc lá. Thằng Hạnh lui cui gói mấy bộ quần áo. Dù đã tan nát ruột gan, nó vẫn không quên chuyện "đại sự", hỏi:

- Ngày mai khai trương được chưa?

- Được rồi. Thằng Hưng mập có nhờ cả thầy bói coi ngày nữa, thầy phán đại cát lia lịa.

Đột nhiên, nó nói:

- Ngày mai tao đi, dọn lên tuốt khu 1000 ở cho "xa vắng thế tục."

Bốn năm cái mồm cùng ồ lên một tiếng. Thằng Hạnh mồi điếu thuốc lá:

- Chúng mày coi xem, cái đầu tao như thế này ở đây đâu có tiện. Sáng giờ, tao đi đâu cũng cứ thập thò như thằng ăn trộm, chỉ sợ gặp em Trang thì khốn nạn.

Đã có 2 vợ ở Việt Nam, giờ lại Trang nào nữa đây? Thằng... trọc này, cứ lâu lâu là nó xì ra 1 chuyện bí mật. Nó đểu hơn tôi nhiều.Cả tháng nay, thấy mặt nó lúc nào cũng u sầu, tưởng rằng nó nhớ vợ con, ai ngờ chưa gì đã quen được em Trang nào rồi. Nhưng câu nói của nó chạm tính tò mò của chúng tôi. Đứa nào cũng xích lại gần một chút, mắt tròn xoe hy vọng nó sẽ nói tiếp.

- Phải em Trang con ông Đại Tá Khanh ở lầu 2 không?

- Ừ!

Thằng Tiến buột miệng:

- Mẹ, đừng có trèo cao quá mà có ngày té nặng. Em thơm như thế, sức mấy mà em thèm mê cái thằng vô tài bất tướng như mày?

Thằng Hạnh chống chế:

- Thì tao có bảo là em mê tao đâu. Tao đang ở giai đoạn một, sắp sửa bước vào giai đoạn hai thì bị cái tai nạn này. Đù mẹ tao chán thằng Nhị quá. Tao tính rồi, lên khu 1000 xa vắng, có thể tu thân được, lại gần gũi thằng Minh, đỡ phải nhịn thuốc.

Kinh thật ông phi công tị nạn này, nó đi o mèo mà cũng chia ra làm hai ba giai đoạn như đi đánh giặc.

- Mày tính đi luôn à?

Thằng Hạnh nhìn tôi, bỉu môi:

- Luôn sao được? Bỏ em Trang lại đây cho chúng mày sơi tái à. Liệu hồn, vài tuần nữa tóc dài ra là tao trở lại. Thằng nào muốn tán em, ông cho phép, cứ việc tán thả dàn nhưng cấm không được nham nhở, cấm không được nói xấu người vắng mặt. Em là gái nhà lành, không quen la cà với bọn lính tráng mất dạy như chúng mày.... Tao cũng cần thông báo cho chúng mày 1 tin buồn quan trọng nữa: Tao biết em chỉ có cảm tình với tao thôi....

Thằng Tiến phản đối:

- Thằng... trọc, đừng có chủ quan khinh địch quá, coi chừng có ngày chết.

- Ông chẳng khinh thằng nào cả. Đấy, thằng nào muốn vào em thì xin cứ tự nhiên, ông long trọng thách thức chúng mày đấy.

Thằng Tiến ngồi trên giường cười một mình. Mãi sau này, tôi mới hiểu nụ cười của nó.Câu chuyện xoay sang đề tài gái. Thằng Hạnh nhất định ra đi thật. Nó nhắn tôi:

- Mỗi ngày mày nhớ lên thăm tao.

Dù sao thì tôi cũng là người chịu trách nhiệm hoàn toàn về sự ra đi của nó, nên gật đầu:

- Mày đừng lo. 2 ngày một lần tao sẽ đi... "thăm nuôi" mày. Mà trên đó cũng thiếu gì người, thiếu gì con gái đẹp, sao lại bảo là đi "xa lánh thế tục?"

Thằng Hạnh thở dài:

- Thằng Minh nó hại tao. Nó có đứa em gái, sợ em nó mê tao thì khổ nên đã đồn rầm lên rằng tao đã có vợ nên ai cũng biết. Sơ múi gì được nữa....

Ngày khai trương tiệm hớt tóc của tôi có đầy đủ văn võ bá quan, chỉ thiếu thằng Hạnh. Gã Lãm còn đem qua một hộp dầu thơm rẻ tiền để yểm trợ tinh thần. Rút ưu khuyết điểm từ cái đầu thằng Hạnh, tôi cứ theo chiến thuật "vết dầu loang" của bộ binh mà lái tông đơ chạy đều đều. Bắt đầu, tôi chỉ hớt ngắn ngắn ở vòng ngoài, thấy đẹp mới "vào sâu" thêm chút nữa. Vì cẩn thận nên cái đầu thứ nhất tôi mất khoảng gần 3 tiếng đồng hồ. Kết quả rất khích lệ. Nhận 45 cents và một lời cám ơn từ tay người khách, tôi mừng quá muốn hét to lên một tiếng. Lần đầu tiên trong cuộc đời tị nạn, tôi làm ra tiền. Bọn thằng Hưng và Hùng cũng vui không kém. Chỉ có thằng Tiến là chẳng nói chẳng rằng, vẫn lơ đãng nằm ngó ra ngoài sân.

Ngày đó, tôi hớt tất cả 3 cái đầu. Đúng như thầy bói coi, "đại cát" không thể tả, còn đến 3-4 người chờ, tôi phải hẹn họ ngày hôm sau. Chưa bao giờ được xài tiền Mỹ, tôi phải loay hoay lựa mãi mới đếm được 60 cents đưa cho gã Lãm. Gã cười rạng rỡ, khen tôi rốt rít rồi hứng tình, móc bao Pall Mall đỏ ké trong túi mời anh em chúng tôi mỗi đứa một điếu. Tôi học thêm được một bài học ở trường đời. Nếu mình thành công thì ai cũng xum xoe điếu đóm, còn nghèo hèn thì ra ngồi ở giữa chợ suốt ngày cũng chả có ma nào mò đến bắt tay.

Dọn dẹp đồ đạc và làm sạch sẽ xong, với 75 cents còn lại, tôi và mấy thằng bạn kéo ra Hitching Post. Rủ thằng Tiến đi luôn, nhưng nó từ chối. Có lẽ nó bị "mặc cảm dày vò" vì đã không hết lòng hưởng ứng chương trình làm ăn của tôi. Kệ nó, chúng tôi kéo ra khỏi phòng. Đường từ barrack đến tiệm giải khát quân đội Mỹ cuốc bộ chỉ mất 10 phút, tôi đã đi nhiều lần, nhưng chiều nay tôi thấy khác hẳn. Tôi thọc tay vào túi, miệng huýt sáo, vừa đi vừa nhún nhẩy dáng điệu như anh chàng công tử du xuân.Tôi thấy mình xứng đáng được liệt vào hạng "tư bản" hay "tài phiệt" gì đó của Mỹ Quốc.Thì tôi chẳng vừa từ hai bàn tay trắng mà tạo nên cơ nghiệp là gì?

Tôi đã tính kỹ với số tiền 75 cents này rồi. Thứ nhất mua 3 bao thuốc lá Pall Mall. Với giá PX rẻ rề, 20 cents một gói, mua ba gói, tôi còn dư được 15 cents. Cái khoản này tôi dự tính chỉ để riêng cho tôi. Sáng mai, tôi sẽ oai vệ bước vào đây mua một ly cà phê nóng, đem ra ngồi nơi bàn nhâm nhi. Tôi thèm đến chết được cái thông lệ ngồi nhâm nhi cà phê sáng với điếu thuốc lá trong tay. Cái hình ảnh thật tầm thường của ngày xưa, ngày nay bỗng trở thành một giấc mơ to lớn.

Cầm 3 bao thuốc lá trong tay, tới quày tính tiền, dù biết là thừa thãi, tôi vẫn muốn biểu diễn 1 màn nói tiếng Mỹ cho cái đám lính trẻ này nó khiếp. Cái tật thích dợt le của tôi từ ngày còn ở VN sang đến đây vẫn không bỏ được:

- Madam, would you please tell me how much do I owe you?

Cô bán hàng người Mỹ không hiểu hỏi lại:

- What?

- Madam, would you please tell me how much do I owe you?

- What?

Nói xong cô ta tròn cặp mắt xanh nhìn tôi dáng điệu rất khổ sở. Tôi đỏ mặt. Hàng mua đồ rất dài và phía sau lưng tôi đã có vài giọng giục giã. Đù mẹ, tiếng Mỹ sao mà khó nói thế này. Chỉ một câu đơn giản như vậy mà nói nó vẫn không hiểu, mai mốt ra trại biết ăn nói thế nào đây? Tôi cố gắng thử một lần chót:

- I... tell you... madame, how much do I owe you?

Lần này con Mỹ lắc đầu, nhìn tôi nhăn nhó:

- Sorry, I can't understand you. Is there any body understanding this guy?

Thế này thì xệ quá. Tính dợt le với đám bạn bè cho chúng nó thấy tôi là thằng văn hay chữ tốt, hóa ra lại bị lột mặt nạ. Cáu quá, tôi dí 3 gói thuốc lá vào mặt con Mẽo ngu si kia, hét to lên.

- How much?

Lần này thì nó hiểu ra, vừa bấm máy tính tiền vừa gật đầu lia lịa:

- Sorry. I thought you asked me about something else. It's 60 cents.

Nó nói một tràng dài, tôi chỉ nghe được hai tiếng "sorry" và "60 cents". Phần còn lại, nó nói thì nó tự mà hiểu lấy, tôi không hiểu được.

Vừa bước khỏi tam cấp của Hiching Post là chúng tôi làm thịt gói thuốc lá đầu tiên liền. Nhìn những cặp mắt hăm hở, những bàn tay run run nâng niu từng điếu thuốc, tôi thấy rằng cuộc phiêu lưu... hớt tóc quả thật có ý nghĩa. Ít nhất, tôi cũng làm cho 4, 5 đứa bạn bè được sung sướng. Chúng tôi ngồi trên vệ cỏ, dưới tàng cây, đốt thuốc lá Mỹ nhìn mặt trời... Mỹ đang từ từ chìm xuống. Sau vài giây phút "say men chiến thắng", khói thuốc lá se sắt làm lòng tôi lại hướng về quê hương nghèo nàn mà mình vừa bỏ lại. Cũng một mặt trời đó, ở Việt Nam giờ này, tôi không biết các bạn bè của tôi kẹt lại khi nhìn thấy nó sẽ nghĩ gì?Tôi đau đớn nhận ra một điều là kể từ nay trở về sau, niềm vui trong chúng ta sẽ chẳng thể nào trọn vẹn được, luôn luôn thấy mất mát một cái gì....

- Hết điếu thuốc, tụi mình đi "thăm nuôi tiếp tế" cho thằng Hạnh.

Một thằng ý kiến:

- Xa quá, thôi để mai đi.

Thằng khác:

- Không được, không nhờ cái đầu thằng Hạnh, mình đâu có thành công.

Thế là chúng tôi lên đường. Nước Mỹ là một nước vĩ đại nên cái gì cũng vĩ đại, từ con người cho đến... trại lính. Trại Fort Chaffee là trại huấn luyện của bộ binh mùa đông của lục quân Hoa Kỳ. Khu cư trú là một dãy với hàng trăm căn nhà mà từ đầu đến đuôi dài có đến 4-5 dặm. Chúng tôi ở cuối khu, thằng Hạnh "đi tu" ở mãi gần cổng ra vào, phải cuốc bộ gần 2 tiếng mới tới. Có đi như thế này mới thấy thương thằng bạn khốn khổ.Con đường kiếm cơm trong tương lai chưa biết thế nào chứ con đường kiếm thuốc lá lẻ của những ngày đầu tị nạn quả thật trần ai.Chân bước mỏi rã rời mà vẫn chưa thấy đâu. Đến nơi, trời đã chạng vạng nhưng tìm nó không khó lắm vì đã biết building, cứ vào đấy hỏi ông... đầu trọc mới dọn lên đây ở thì ai cũng biết.

Gặp tôi, nhìn thấy bao thuốc lá Pall Mall đỏ chói trên túi áo nó hớn hở ra mặt. Đúng điệu không quân, nó đưa một ngón tay trỏ chỉ lên trời và cười toét miệng. Chúng tôi cũng làm dấu hiệu tương tự rồi kéo nhau ra ngoài, ngồi hút thuốc lá dưới tàn cây và tán dóc. Thằng Hạnh xem ra đã hết cay cú về cái đầu trọc. Nó hỏi tôi:

- Khá không mày?

Thằng Hưng mập trả lời thế:

- Ngày đầu mà được 3 cái, còn mấy người tới nữa phải cho về.

Thằng Hạnh vỗ vai tôi, bốc:

- Tuyệt!Tao đã biết là thế nào mày cũng thành công mà.

Đúng là thằng không có lập trường, mới được hút vài điếu thuốc lá lẻ mà "nhân sinh quan" của nó đã đổi thay rồi. Tuy khoái chí lắm nhưng nhìn thấy cái đầu trọc của nó, tôi ngượng ngùng không dám trả lời. Tôi đưa cho nó bao Pall Mall mới tinh chưa bóc, ân cần dặn dò như đi thăm tù nhân thật:

- Phần của mày đây, ráng liệu mà hút cho đến ngày mốt tao mới lên "thăm nuôi" được. Lần tới nếu khấm khá tao còn có thể cho mày mấy chục cents đi uống cà phê vung vít....

Con nhà Hạnh cười híp mắt lại với cái hạnh phúc "cà phê thuốc lá" đơn giản, hỏi tôi:

- Thằng Tiến đâu rồi?

Tôi lắc đầu, lên mặt đàn anh:

- Cái thành phần biếng nhác và an phận đó nhắc tới làm gì, sang tới Mỹ rồi chứ đâu phải còn như ở Việt Nam mà sống lè phè như vậy. Chắc nó đang nằm ngủ hay lại đi cua đào.

- Con nào thèm mê hạng người như nó mà đòi cua. Thằng đó chẳng bao giờ khá được.

- Khá hay không thì tao không biết nhưng sang Mỹ mà tà tà kiểu đó thì chỉ có chết đói.

Chợt nhớ ra cái gì, con nhà Hạnh hỏi tôi:

- Mày có gặp em Trang của tao không?

Đã 2 ngày tôi không thấy em nhưng cũng phịa cho nó vui lòng:

- Em vẫn phây phây, chờ mày trở về.

Thằng Hạnh đưa tay lên sờ đầu:

- Người ta nói bên Mỹ này ăn uống nhiều đồ bổ nên tóc mọc mau lắm. 2 tuần nữa là tao có thể "hạ sơn" trở về được.

Nhìn ra xa xa, nó nói một câu làm tôi giật nẩy mình:

- Tao sẽ cưới em Trang!

Trong một giây phút, tôi muốn giật lại bao thuốc lá vừa cho nó. Người ta đồn lính không quân đa tình chưa đủ, phải thêm chữ bạc tình mới đúng. Tiên sư, mới xa 2 bà vợ có 2 tháng mà đã ăn nói "vô liêm sỉ" như thế rồi. Nhưng tôi bình tĩnh được ngay vì tôi chấp cả lò nhà nó cũng không thể nào vô nổi em Trang. Tuy không nói ra, tôi vẫn luôn luôn cho rằng chỉ có mình tôi là người xứng đáng nhất. Lúc chia tay, thằng Hạnh cười rạng rỡ:

- Mày ráng...hớt tóc. Tao ở trên này buồn quá vì ai cũng biết đã có vợ, lại thêm cái đầu trọc nên ít dám đi đâu....

Gần 2 tiếng đồng hồ cuốc bộ về nhà,đầu óc tôi tự nhiên miên man nghĩ đến thằng Tiến. Tuy nó không hợp tác, nhưng dù sao cũng là bạn bè thân thích và là kẻ có lòng. Hình như "sách có câu" đại khái như là "...phú quý không bỏ bạn bè". Chiều nay, với mấy chục cents trong túi, tôi cảm thấy mình phú quý thật, phải giữ lời cổ nhân dạy. Tôi sẽ chia sẻ sự phú quý của tôi với nó. Nhưng về tới barrack kiếm nó không thấy, giường còn bỏ trống. Tay chân rã rời sau một ngày lao động và cuốc bộ, tôi leo lên giường ngủ ngon lành.

Sáng hôm sau, tôi dậy sớm, mồm ngậm điếu Pall Mall, hai tay thọc sâu vào túi quần tà tà bước ra Hitching Post mua ly cà phê như một kẻ phong lưu thừa tiền dư bạc. Kiếm một chỗ ngồi rộng rãi thư thái, tôi rình rang chuẩn bị tận hưởng giây phút trang trọng nhất của buổi sáng: Uống cà phê và hút thuốc lá. Tôi cúi đầu xuống chiêu ngụm cà phê mua bằng tiền của mình làm ra lần đầu kể từ ngày tị nạn. Khi ngửng mặt lên, chút xíu nữa thì ngụm cà phê tôi vừa uống phun đầy xuống sàn nhà. Trước mặt tôi, xéo xéo phía trong một chút, thằng Tiến đang ngồi tư tình với em Trang. Không hiểu chúng nó quen nhau lúc nào mà coi có vẻ thân tình quá đỗi. Anh dũng như tôi, đã xông pha trăm trận đánh khắp vùng 2 chiến thuật mà khi nhìn thấy hình ảnh đó, mặt vẫn méo đi một cách thảm hại vô cùng. Hình như tay nó đang vuốt ve tay cô nàng mới là bỏ mẹ chứ.

Dù chưa bao giờ mở miệng ra tán tỉnh em, tôi thấy tự ái mình bị tổn thương trầm trọng. Bây giờ tôi mới hiểu được nụ cười bí mật của con nhà Tiến cách đây mấy ngày. Tôi tính bước qua bàn nó nói vài câu xã giao nhưng lại thôi. Trong đời, tôi ghét nhứt những thằng giả dối, những thằng thất tình ruột đau như cắt mà ngoài mặt vẫn giả vờ cười cười nói nói với tình địch. Tôi chỉ muốn ôm kín nỗi buồn cho riêng tôi thôi.

Trên đường lủi thủi về lại barrack, tôi cố gắng xua đuổi hình ảnh "hai đứa chúng nó mùi mẫn bên nhau" nhưng không thể được. Tôi lại thắc mắc không hiểu rằng cái thằng Tiến này, nghèo kiết xác như chúng tôi, lại là con bà phước thì đào đâu ra tiền mà cà phê cà pháo vi vút với em như thế? Thôi đúng rồi, tiền của em Trang chứ của ai vào đây nữa? Ngày xưa, tôi đã từng nghe thiên hạ nói câu "cơm no bò cưỡi", bây giờ mới thấy câu nói đó thật thấm ý nghĩa. Cái đau đớn nhất, người cưỡi bò đã chẳng phải là tôi.

Ngày hôm đó, với cõi lòng nát tan trong người, cố gắng lắm tôi mới hớt được 2 cái đầu. Một người lớn và một đứa bé. "Đời vắng em rồi, hớt tóc cho ai?" Thỉnh thoảng tôi lẩm bẫm đọc lại câu thơ nổi tiếng của Vũ Hoàng Chương mà tôi đã sửa lại cho nó hợp với hoàn cảnh mình. Buổi tối, tôi đi ngủ sớm. Ngủ cho quên nỗi buồn.

Hôm sau, vừa đi uống cà phê về thì thằng Hưng mập chạy ra, khều tôi:

- Đù mẹ có chuyện rồi.

- Chuyện gì?

- Ông trưởng barrack hồi nãy đến kiếm ông.

- Hớt tóc hả?

- Không biết, hình như là chuyện... gì đó.

Tôi đoán ông ta đi kiếm tôi để hớt tóc nên không để ý lắm. Tôi vừa kéo ghế, sửa soạn đồ nghề thì ông trưởng Barrack bước vào. Tôi liền toét miệng biểu diễn nụ cười cầu tài đúng điệu phó cạo, chỉ cái ghế. Ông ta lắc đầu, đưa cho tôi cái thư, cười nhỏ nhẹ:

- Qua tới đây không phải để hớt tóc đâu em.

Tôi cầm lấy lá thơ, ngạc nhiên khi nhìn thấy hai ba cái dấu hiệu của cơ quan chính quyền trại FortChaffee trên phong bì. Tôi vừa mò từng chữ đọc, vừa hỏi:

- Họ muốn gì đây?

- Qua nói em đừng buồn. Cái thư họ muốn em đừng hớt tóc ở trong nhà nữa, vì mất vệ sinh và trái luật lệ.

Tôi thấy xây xẩm mặt mày. Thằng Hưng mập hỏi:

- Vậy đem ra ngoài khu nhà vệ sinh hớt được không?

- Cũng không luôn. Tóm tắt, từ nay nếu có ai hớt tóc thì phải lên khu hớt tóc mà hớt. Mấy em thông cảm cho qua, qua chỉ biết làm phận sự.

Khỏi cần đọc tiếp, tôi vò lá thư ném đi. Ông trưởng trại nói vài câu thanh minh thanh nga rồi rút êm. Cả bọn chúng tôi ngồi bên nhau, ôm đầu rầu rỉ. Thằng Hùng Tây lai cho ý kiến:

- Hay là mình cứ hớt đại đi, cứ cho người canh thật kỹ, thằng nào biết mà sợ?

Tôi lắc đầu:

- Cho tao can. Mình mới sang đất Mỹ, không biết luật pháp bên này làm sao, không thể liều mạng như kiểu ở Việt Nam được.

Chẳng còn giải pháp nào cả, anh em chúng tôi đành thu dọn đồ nghề. Hai cái kiếng của phòng vệ sinh được đem trả lại, khăn khiếc chúng tôi ném luôn vào sọt rác. Cảnh tượng trong phòng bây giờ tiêu điều nghèo khó như phi đoàn tôi ngày "di tản chiến thuật". Hình ảnh của người tị nạn hạnh phúc với gói thuốc lá Pall Mall trong túi áo sao thật giống như lời ca của bài hát tôi nghe ngày nào ở VN: "Tuy xa mà gần... tuy gần mà xa".

Chiều đó, một mình tôi u sầu thả bộ lên khu 1000 gặp thằng Hạnh để thông báo chuyện thằng gà rù Tiến đã vồ được em Trang và tiệm hớt tóc bị "đóng cửa vĩnh viễn". Nghe liền 2 tin sét đánh cùng một lúc, ông phi công tị nạn rưng rưng nước mắt và méo mặt đi làm tôi cũng mủi lòng. Nó nằm ngửa người trên bãi cỏ, nhìn lên trời than thở:

- Ai có ngờ cái thằng lù đù như gà mắc nước mà lại ghê gớm thế. Nói thật, ngày bỏ lên đây đi tu, tao chỉ sợ mình mày vì mày là thằng có nhiều tài vặt và táo bạo nhất. Ai có ngờ!!!

Tôi an ủi nó, dù lòng mình cũng tan nát không kém gì:

- Đời này thiếu gì con gái. Đẹp trai và ngon lành như mày thì lo gì.

- Ngon lành mà mang cái đầu trọc thì cũng hết ngon. Tao chán mày quá, nếu đầu tao không bị trọc thì tao chấp cả nhà thằng Tiến cũng không vô nổi em Trang.

Tôi lại cảm thấy hối hận. Nó tiếp:

- Nghĩ mà... thương em. Em đài các quá, em kiêu sa quá mà tại sao lại bị vướng vào một thằng cà chớn như thằng Tiến.Mày biết nó, suốt ngày chỉ ăn no rồi đi nằm.. Tao thấy tội cho em quá, đời em rồi sẽ khổ mày ạ. Cứ tưởng tượng cảnh em Trang ngày ngày phải giặt quần áo và nấu nướng cho thằng chồng... xấu trai và làm biếng, tao hết muốn bay bổng.

Nó quen miệng nói vậy chứ giờ này thì kiếm đâu ra phi cơ cho nó bay mà đòi chuyện "hết muốn bay bổng". Tôi đồng ý với thằng Hạnh  là em Trang không nên cặp với thằng Tiến. Nhưng tự đáy lòng, tôi vẫn nghĩ nếu em không cặp thằng Tiến thì chỉ nên đến với tôi thôi, đi với một thằng đã có 2 đời vợ như thằng Hạnh thì đời em lại càng khốn khổ hơn. Nghĩ vậy nhưng tôi im thin thít, làm như đồng ý. Tôi biết lúc nào nên mở miệng và lúc nào nên im lặng, làm bộ mặt thảm sầu.
Gần tối, thằng Hạnh ngồi dậy, mặt đanh lại rất cương quyết:
- Mày lên phụ tao dọn đồ về chỗ cũ trở lại.
- Không chờ cho tóc mọc dài thêm chút nữa à?
- Tao đếch cần nữa. Sở dĩ tao phải "bỏ phố lên rừng" là bởi vì em Trang. Bây giờ mất em rồi thì đời còn nghĩa lý mẹ gì nữa. Tao trở về ở với chúng mày, "sớm tối bầu bạn có nhau" cũng đỡ. Trên này buồn quá.
Có thằng Hạnh trở lại, căn phòng cũng vui lên một chút. Tối đó, chúng tôi đang ngồi tán dóc thì 1 người đàn bà dắt đứa con nhỏ đến phòng gõ cửa. Nhìn kỹ lại thì ra thằng bé tôi mới hớt tóc cho ngày hôm qua. Bộ mặt hầm hầm của bà ta cho tôi biết là đêm hôm khuya khắc bà không dắt con đến đây để nói chuyện vu vơ. Chắc bà ta đã kiếm tôi suốt ngày, bây giờ mới gặp. Lại có chuyện rồi. Nhìn kỹ hơn, tôi thông cảm với bà ngay, vì đầu thằng bé được hớt vụng về quá, chỗ trắng chỗ đen coi nham nhở lạ lùng. Cái tông đơ hồi chiều đã trả lại cho gã Lãm, tôi không biết lấy gì mà sửa cho nó. Thôi thì trong 36 kế, chỉ còn cách xuống nước năn nỉ là hay nhất. Nhưng lời năn nỉ của 1 anh phi công tị nạn không còn tàu bay, thiếu cây súng Colt lủng lẳng bên hông xem ra chẳng có hiệu lực gì. Bà ta nhất định ngồi đó ăn vạ. Bực mình quá, tôi hỏi:
- Tôi không còn tông đơ, bây giờ bà muốn tôi làm gì?
- Tôi muốn ông giả lại tiền cho tôi, tôi đem con tôi đi chỗ khác sửa tóc.
Tôi tưởng hỏi vậy để chạy tội, ai ngờ câu trả lời thẳng thừng của bà làm tôi kẹt. Tôi làm gì còn tiền. Không biết tính sao, tôi móc hết hầu bao chỉ còn có 10 cents của ly cà phê cuối cùng mà tôi dự trù sẽ thưởng thức vào sáng mai. Đang khổ sở thì thằng Hạnh nhảy vào cứu bồ. Nó đau khổ móc ra 25 cents đưa cho tôi:
- Mày trả lại người ta cho êm chuyện đi.
Tôi nhìn nó ngạc nhiên và cảm động. Thằng Hạnh lắc đầu:
- Đưa cho người ta đi, mai mốt tính sau.
Tôi làm y lời. Con mụ khó tính nhận tiền, chẳng thèm cảm ơn, dắt thằng nhỏ đi ra. Tôi nhìn thằng Hạnh, lúng túng tìm một câu cám ơn:
- Mày còn tiền à?
Thằng Hạnh mếu máo, giọng nó như sắp khóc thật:
- 5 đồng vợ cho ngày di tản chỉ còn 25 cents cuối cùng, tao tính đục lỗ xỏ dây treo nó trước ngực làm kỷ vật để đời mà nhớ đến vợ con. Mày lại hại tao lần nữa rồi.... Đù mẹ tao chán mày quá.
Nói xong nó buồn bã leo lên giường, nằm quay mặt vào vách, lấy chăn trùm kín người chỉ chừa cái đầu trọc. Tôi đứng yên lặng giữa phòng, lòng áy náy suy nghĩ về những lời nó nói. Nếu mai mốt ra trại, thằng phi công này bỏ vợ quên con để đắp xây duyên tình mới, chắc tôi phải là người chịu trách nhiệm không ít.

Tối đó, căn phòng chúng tôi im lặng lạ thường. Cái im lặng não nề của những kẻ vừa thua cuộc. Thằng Hưng chắc nằm mơ tưởng hình ảnh của người tị nạn hạnh phúc với gói Pall Mall trong túi áo. Thằng Hùng tây lai ca nho nhỏ vài câu tân cổ giao duyên để quên hiện tại. Con nhà Hạnh thì thỉnh thoảng xoay mình và thở dài lên một tiếng rất là ảo nảo, không hiểu nó nhớ 2 bà vợ còn kẹt ở Việt Nam hay nhớ đến em Trang. Đa tình như nó, chắc phải nhớ cả 3 người cùng một lúc. Còn tôi, tôi buồn héo người vì thương nhớ cái cửa tiệm hớt tóc đầu đời cùng những đồng 25 cents đẹp đẽ bóng lng có khắc hình ông Mỹ đẹp trai tóc dài. Thấp thoáng sau những đồng tiền đó, dĩ nhiên, là hình ảnh của em Trang đang đứng xõa tóc mơ màng nơi cửa sổ lầu 2 của building 1704.... Một lúc thật lâu sau đó, đột nhiên, tôi ngồi bật dậy, nói lớn:
- Ê tụi mày, tao có một kế hoạch kiếm tiền khác!
Thằng Hạnh, tưởng nó đã ngủ từ lâu, ai ngờ lại là đứa đầu tiên nhảy ra khỏi giường, nhìn tôi hớn hở:
- Thật không mày? Kế gì hay không nói anh em nghe với.......


Trường Sơn Lê Xuân Nhị