Thiên hồi ký này là một chương đặc biệt mà tác giả ghi lại để kính
dâng lên hương linh của tất cả các quân dân cán chính của VNCH đã vị quốc vong
thân và dâng lên hương linh của tất cả các đồng bào tử nạn trong cuộc chiến
tranh trước năm 1975 và sau khi Sàigòn sụp đổ).
Khi xâm chiếm xong miền Nam và nhuộm đỏ toàn bộ đất nước, và cái
ngày mà Sàigòn sụp đổ thì nhà cầm quyền Bắc Việt đã hoạch định sẵn một kế hoạch
khổng lồ và âm mưu thâm hiểm nhằm diệt trừ hết những mầm mống của chế độ cũ
VNCH trên con đường đưa miền Nam vào hẳn trong quỹ đạo của chế độ xã hội chủ
nghĩa. Một mặt họ tập trung "cải tạo" hàng triệu viên chức sĩ quan chế
độ cũ theo chế độ "học tập 10 ngày" hay "học tập 1 tháng" trong
khi hàng triệu người khác phải theo học 1 khóa ngắn hạn 3 ngày tại địa phương.
Mặt khác họ "cải tạo" lại xã hội bằng cách xua đuổi nhân
dân trong các thành phố, nhất là tại Sàigòn ra khỏi nơi đang cư trú để đi vùng
"kinh tế mới" mà thực tế là những vùng hoang dã chưa khai phá hay nơi
rừng thiêng nước độc vắng bóng người, để chiếm đoạt nhà cửa và tài sản của người
dân trong mục tiêu củng cố thế lực và triệt tiêu các lực lượng "thù địch".
Mấy năm sau thì họ đổi tiền và mỗi gia đình chỉ được đổi tối đa
lúc ban đầu là khoảng 200 đồng mà thôi, nếu có nhiều tiền hơn thì nó sẽ trở
thành tờ giấy trắng vô giá trị. Mục đích của đổi tiền là nhằm "bần cùng
hóa" nhân dân để cho dân chúng trong miền Nam vốn giàu có hơn miền Bắc sẽ
phải trắng tay và nghèo đói như nhân dân ngoài Bắc để có thể dễ bề cai trị hơn.
Một Định Mệnh cay nghiệt vừa phủ xuống miền Nam từ thành phố về đến
ruộng vườn nông thôn sau tháng Tư năm 1975. Cả miền Nam bị đắm chìm trong đau
thương sau những chính sách và biện pháp trục xuất dân đi kinh tế mới, rồi đổi
tiền và đánh tư sản của cái chế độ mới tự xưng là chính quyền của nhân dân.
Mọi người dân lành chất phác của một miền Nam hiền hòa phút chốc
rơi vào hoàn cảnh cực kỳ bi thương, thẩy đều ngơ ngác bởi từ ngàn xưa đến nay
chưa từng xẩy ra trên đất nước và quê hương này bao giờ - chính người Việt đang
tiêu diệt người Việt vì ý thức hệ Tư Bản đã bị thay thế bằng thể chế Cộng Sản.
Những con người của chủ nghĩa Vô Sản đang giáng những đòn chí tử
vào chính nhân dân họ và gieo rắc những nỗi kinh hoàng khắp nơi để làm tê liệt
ý chí đối kháng nếu có còn rải rác trong xã hội.
Trong khiđó thì trại giam mọc lên khắp 3 miền đất nước để giam giữ,
trả thù và đày đọa những người trước kia đã từng chiến đấu chống lại cuộc xâm
lăng của miền Bắc vào miền Nam, và cũng để cô lập các viên chức sĩ quan chế độ
cũ khỏi gia đình và ra khỏi xã hội.
Cái chế độ "khoan hồng nhân đạo" và "học tập cải tạo"
thực chất chỉ là một nhà tù tập trung vô nhân đạo nhất trên thế giới nhằm giết
dần mòn những tù nhân chính trị này từng ngày, từng tháng và từng năm với một
cuộc sống tù tội, xúc phạm nhân phẩm con người, lao động khổ sai hàng ngày
ngoài nắng mưa của mùa Hè hay sương gió giá lạnh của mùa Đông mà đói khát, thiếu
ăn, thiếu mặc, thiếu thuốc men, và phải sinh sống trong những điều kiện vệ sinh
hết sức tồi tệ của các trại giam.
Rồi trong các mùa viêm nhiệt tại miền Bắc thì các tù nhân phải hứng
chịu các dịch bệnh tiêu chảy và kiết lỵ do vấn đề thời khí quá oi bức, buồng
giam chật ních tù nhân, cộng với việc nấu ăn trong nhà bếp không vệ sinh và bảo
quản không tốt.
Những dịch bệnh nhất là kiết lỵ tại nhiều trại đã cướp đi không biết
bao nhiêu sinh mạng của tù nhân chính trị với lý do đơn giản là không có thuốc
điều trị. Kiết lỵ là một bệnh rất dễ chữa trị nếu có thuốc trụ sinh vì là bệnh
nhiễm trùng đường ruột vậy mà nhiều người đã chết vì nó một cách dễ dàng và oan
uổng. Thực tế mà nói thì chính ngoài dân chúng cũng còn không có thuốc men thì
làm sao mà trong tù có thể có được.
Bởi vậy nếu làm tù nhân trong các nước tiên tiến thì còn có thể giữ
gìn được sức khỏe và còn có cơ hội sống sót mà trở về chứ sống trong một xã hội
như miền Nam sau ngày Sàigòn sụp đổ thì cũng đã khó mà tồn tại rồi, đừng nói gì
là trong bốn bức tường tập trung của trại giam XHCN.
Những đợt dịch bệnh ấy như những làm mây đen bao phủ các trại giam
và quật ngã không biết bao nhiêu tù nhân. Nhưng trong những trường hợp bị căn bệnh
quái ác này có một trường hợp thật lạ lùng và đối với tôi lúc đó mang tính cách
huyền bí là anh Luân, Đại Tá chỉ huy trưởng đơn vị 101.
Khi đó anh Luân đang bị biệt giam tại trại Hà Tây, tỉnh Hà Sơn
bình, thì anh bị kiết lỵ, trại cũng chỉ cấp cho Xuyên Tâm Liên và anh dần dần
kiệt sức chỉ còn nằm chờ chết vì không ăn uống được gì dù là cháo loảng.
Thế nhưng, có một cái gì thôi thúc anh cố gắng ngồi dậy và dựa vào
bức tường trong phòng biệt giam rồi anh chuyên tâm niệm danh hiệu Đức Phật Bà
Quán Thế Âm Cứu Khổ Cứu Nạn. Khi nào quá mệt thì anh nằm xuống nghỉ một chút rồi
lại gượng ngồi dậy để chuyên chú niệm danh hiệu Đức Phật Bà trong mấy ngày đêm
liên tục.
Trong thâm tâm anh cũng chỉ cầu mong Đức Phật Bà nghe được thì sẽ
được Ngài thương xót mà đem anh đi khi anh nằm xuống mà thôi, nhưng như là một
phép lạ, anh cảm thấy trong người từ từ bớt đau nhói trong bụng, kiết lỵ cầm dần
dần, anh từ từ húp được ít cháo và sức khỏe dần dà hồi phục lại.
Anh đã khỏi bệnh truyền nhiễm này mà không có một viên thuốc trụ
sinh nào trước con mắt cực kỳ kinh ngạc của bọn cai tù vì chúng đã bảo bên tù
hình sự chuẩn bị làm sẵn một cái quan tài bằng gỗ mộc rẻ tiền để chờ khiêng anh
lên ngọn đồi nghĩa trang của trại.
Sau này khi ra khỏi khu biệt giam, anh thực hành quán Thiền với thầy
Tông và các anh Trãi, đại tá không quân và anh Đồng Tuy, một người thầy về khoa
Tử Vi, và dù có gia đình thăm nuôi sau đó nhưng anh vẫn giữ ăn chay trường.
Nhìn anh tóc bạc phơ nhưng lúc nào nói chuyện với tôi, anh cũng nở nụ cười hiền
hậu như một tiên ông, tôi cũng học thêm được một nhân cách đáng quí của một con
người mà tôi kính phục.
Trước kia khi còn là chỉ huy trưởng của cả một đơn vị quân báo oai
hùng, anh vẫn luôn được sự kính trọng của thuộc cấp, bây giờ dù thân tù tội anh
vẫn hiên ngang không đầu hàng kẻ địch dù đang sa cơ thất thế nên cuối cùng
chúng cũng phải cho anh ra khỏi khu biệt giam. Tôi tin rằng Trời Phật đã ngó xuống
và cứu anh trong giây phút thập tử nhất sinh đó bởi anh là một anh hùng. Một thời
gian sau anh được gọi ra thăm nuôi và khi vào trại, anh gọi tôi ra ngồi với anh
trên băng đá trong sân thì anh tâm sự với tôi là chính Ba của anh vào thăm
nhưng ông ta là người của phía bên kia, không phải người Quốc Gia VNCH mình cho
nên anh đã dứt khoát từ chối lời đề nghị bảo lãnh của ông để anh có thể ra tù sớm.
Tôi lại càng thêm yêu mến anh hơn vì anh đã đặt lý tưởng và chính nghĩa Quốc
Gia VNCH của mình lên trên tình Phụ Tử dù là người cha đó biệt tích đã lâu nay
bất ngờ xuất hiện.
Muốn trị các bệnh tật thì phải có thuốc nhưng thuốc men cung cấp
cho các tù nhân không có gì ngoài Xuyên Tâm Liên, nó giống như một loại thuốc tễ
cao đơn hoàn tán hình viên tròn nhỏ, không ai biết nó được bào chế ra sao, gồm
những hợp chất gì, và không biết nó dùng để trị bệnh gì nữa.
Nhức đầu, cảm, sốt cao độ cũng cho Xuyên Tâm Liên, kiết lỵ cũng
Xuyên Tâm Liên, đao bao tử cũng nó luôn, có anh khai bị ói mửa cũng Xuyên Tâm
Liên. Riết rồi chẳng ai muốn đi khai bệnh xin thuốc làm gì vì đã biết loại thuốc
nào mà bệnh xá trại sẽ cung cấp.
Chính vì thế mà trong 3 năm đầu tiên chúng tôi bị chuyển ra Bắc, sức
người chỉ có hạn trong những điều kiện khắc nghiệt của thời tiết và chế độ ăn uống
thiếu thốn nên người nào cũng ốm o gầy mòn dần một cách thảm thương như những bộ
xương khô còn cử động bởi vì chúng tôi cũng giống như một sợi dây đã bị kéo ra
quá căng rồi. Mỗi lần dịch bệnh tái phát thì có khi đến hàng nửa đội lao động bị
bệnh phải nằm tại buồng hay khiêng xuống bệnh xá.
Vào năm thứ hai ở ngoài Bắc thì một đợt dịch Cúm lan tràn vào đến
trong trại giam và hầu như tất cả mọi anh em chúng tôi đều bị nó quật ngã vì
lúc ấy sức đã quá yếu rồi.Ngoài đó dân chúng cũng rất là sợ cái căn bệnh
"ông Cúm bà co" này nhưng vì thiếu ý thức và thiếu kiến thức về bệnh
dịch nên một khi nó xẩy ra thì bùng phát rất là nhanh. Bệnh xá trại không còn
chỗ trống và bệnh nhân phải nằm ngay tại buồng giam của mình và không gì ngán
ngẩm hơn là các cán bộ y tá của họ vào để chẩn bệnh xong rồi cũng phát cho mỗi
người vài chục viên Xuyên Tâm Liên rồi quay gót ra đi. Cuối cùng khi thấy quá
nhiều người bị Cúm thì họ tìm cách trấn an người tù bằng hình thức cho các bộ
phận y tế của trại vào từng buồng giam để nhỏ nước tỏi vào mũi.
Anh Lạt bạn thân của tôi, là một Thiếu Tá Cảnh Sát đặc Biệt, khi
còn ở trại giam Long Thành, miền Nam, năm đầu tiên, dáng người khỏe mạnh rắn chắc
như lực sỹ, bây giờ như que củi và nói với tôi rất bi quan rằng có lẽ mình sẽ
không qua khỏi được cơn bệnh này.
Lúc đó tôi cũng chẳng khá gì hơn và chỉ biết an ủi anh rằng hy vọng
đợt Cúm này sẽ chóng qua, nhưng không ngờ rằng ngày hôm sau thì chính tôi lại bị
sốt cao độ và cơ thể đau nhừ khắp người như bị tra tấn rồi mê man không còn biết
gì nữa. Đến khi tỉnh dậy thì thấy mình nằm trong bệnh xá trại và các giường đầy
nhóc tù nhân. Chỉ có 2 ngày bị "ông thần" Cúm này tấn công, tôi trở
nên hốc hác đến độ các bạn tù xuống thăm không nhận ra tôi nữa dù là họ đang đứng
ngay bên giường của tôi và hỏi thăm xem tôi đang nằm ở đâu.
Thế rồi tôi cũng chẳng hiểu sao, từ từ tôi lấy lại sức dù rằng bệnh
xá cũng chẳng có gì "bồi dưỡng" ngoài ít cháo loãng mỗi ngày 2 bữa, và
vừa đứng dậy được thì chúng tôi được lệnh phải ra lao động ngay vì đợt Cúm đã
làm cho kế hoạch sản xuất của trại bị chậm lại.
Đội của tôi lúc đó được phân công nhổ cỏ trong những đám ruộng còn
ngập nước mà tay quản giáo nói là trại đã "ưu ái" cho lao động nhẹ.
Nhưng không may cho tôi là người chưa khỏe hẳn mà chân ngâm trong nước suốt
ngày nên đêm hôm đó tôi lại lên cơn sốt mê man lần nữa. Người lúc nóng ran lúc
lạnh run như lên cơn sốt rét đến độ anh Luận, một Trung Úy trẻ tuổi nằm bên cạnh,
phải lấy hai tấm chăn đắp cho mà hai hàm răng tôi vẫn đánh lập cập. Hôm sau tôi
và cùng với 3 anh nữa được cho nghỉ tại buồng ăn cháo một ngày.
Tôi tin vào Định Mệnh và có lúc cũng nói với anh Lạt, lúc hai đứa
đang bệnh, một câu có vẻ như vô nghĩa nhưng rất thực tế và khôi hài rằng nếu
mình không chết thì... mình sẽ sống và cả hai thằng đều mỉm cười.
Sau 1 năm tại trại Long Thành, miền Nam, và 3 năm ngoài Bắc thì
hình như Định Mệnh đã mỉm cười với chúng tôi khi mà gia đình trong Nam nhận được
thư chúng tôi gửi liên quan đến vấn đề thăm nuôi và các thứ thật cần thiết như
nhu yếu phẩm, thuốc men và quần áo ấm.
Tôi tin rằng Ơn Trên và Trời Phật đã nhủ lòng thương xót những tù
nhân chính trị này mà xui khiến cho đám vô thần đó mở cửa cho gia đình chúng
tôi được ra thăm nom và tiếp tế kịp thời. Nếu trễ một vài năm nữa thì có lẽ nhiều
người trong đó có tôi sẽ chẳng bao giờ còn nhìn thấy ánh nắng Mặt Trời nữa.
Đến khi Mẹ và em gái tôi đến thăm lần đầu tiên, nhìn những loại
thuốc tây hiếm quí mà anh thứ Hai của tôi là Quân y nên đã gửi ra rất đầy đủ từ
thuốc trị kiết lỵ tiêu chẩy, cảm cúm Contac, B-complex, Aspirin cho đến cả kẹo
ngậm ho thì lòng tôi rất vui vì nghĩ rằng mình sẽ có dịp dùng nó để trị bệnh
cho mình và cho các bạn bè của mình nữa.
Con người ta sau nhiều năm bị tù đày giam giữ cũng ví như một cây
khô hạn mà sự sống chỉ còn lung linh như ánh nến trước cơn gió.
Cũng bởi vậy mà khi có được các loại thuốc men trong tay thì tác dụng
kỳ diệu của các viên thuốc này giống y như thần dược trong các truyện cổ tích
mà chúng ta đọc khi còn bé.
Một hôm tôi thấy anh bạn nằm cạnh bên là anh Bạch, Trung Úy trong
số mấy trăm anh em từ trại Thạnh Mỹ Tây trong Nam theo tàu Sông Hương chuyển ra
Bắc và về cùng trại với tôi đang ghè đầu vào tường.
Tôi lớn hơn Bạch 2 tuổi nên coi như anh em nên lấy làm lạ bèn hỏi
anh:
- Ê! Cậu làm sao vậy?
- Nhức răng quá chịu không nổi phải ghè đầu vào tường cho bớt đau.
Tôi suy nghĩ mãi vì thông thường thì nếu ở ngoài xã hội thì chỉ có
đi Nha sĩ mới chữa được thôi nhưng trong hoàn cảnh này đời nào họ chịu chở tù
nhân ra thành phố để... chỉ chữa răng? Đến bệnh trầm kha nhiều lúc họ cũng vất
xuống bệnh xá trại và chờ khi nào có chỉ thị mới đưa đi chữa bệnh ngoài tỉnh được
nữa là.
Tôi sực nhớ trong tờ giấy anh Hai tôi chỉ dẫn là thuốc Aspirin chữa
được các loại đau nhức nhưng không uống lúc bụng đói. Tôi bèn tự đóng vai bác
sĩ bất đắc dĩ và lục trong ba lô ra 3 viên Aspirin và đưa cho Bạch mà trong
lòng cũng cầu cho bạn mình qua được cơn đau nhức này:
- Anh mình bảo rằng Aspirin chữa được đó, bây giờ cậu ăn ít bánh bột
hấp (là phần ăn mỗi ngày của chúng tôi trong khẩu phần 15 kí chất bột cho người
lao động) xong rồi uống 1 viên rồi 2 tiếng nữa uống thêm viên nữa xem sao.
Tôi không dám cho uống cùng 1 dose 2 viên vì sợ quá mạnh cho bao tử.
Bạch nghe lời tôi uống 2 viên Aspirin trong 2 tiếng đồng hồ và đúng là phước chủ
may thầy không hiểu sao anh ta hết đau răng luôn từ đó.
Bạch chưa có gia đình thăm nuôi cho nên tôi bảo anh giữ lại viên
Aspirin kia phòng hờ nếu nó có hành đau nhức lại thì uống khi không có tôi bên
cạnh. Từ đó chúng tôi thành bạn thân ngoài tình anh em láng giềng nằm cạnh
nhau. Bạch là một người rất dễ thương, tính tình nhỏ nhẹ như con gái và thường
cười để lộ cái... răng vàng sáng chói.
Năm sau thì anh được tha về và có ghé thăm Mẹ và các em tôi tại
Sàigòn kể những chuyện vui buồn khi tụi tôi sống chung trong traị những năm
tháng tù đày cho Mẹ tôi nghe trước khi anh về tỉnh.
Một trường hợp nữa về sự diệu kỳ của thuốc gia đình gửi vào là một
ngày khi tôi đang nằm ở từng trên thì thấy có ai giựt chân mình, hóa ra là anh
Nhơn, Đại Úy pilot trực thăng. Tôi cũng thường là một khán giả hay nghe Nhơn kể
chuyện về không quân ngày trước với những chiến công oai hùng của KQVNCH.
Một trong những truyện làm tôi vô cùng xúc động là về người anh
hùng phi công trẻ tuổi nhất của KQVN là Thiếu Tá Nguyễn Dzu, và về sự tàn bạo
vô nhân tính như ác quỷ của những người cộng Sản.
Khi anh được vinh thăng Thiếu Tá thì cấp bậc đó đã bị hoãn lại một
thời gian vì anh quá trẻ để gắn lon Thiếu Tá. Anh lập không biết bao nhiêu là
chiến công kể cả diệt hàng chục xe tăng T54 của Cộng Sản, phi đội của anh đã chặn
đứng cả 1 trung đoàn địch không vượt qua được con sông Thạch Hãn. Anh luôn tình
nguyện lái thay các bạn mình về phép nhưng không ngờ chuyến bay của anh thay
cho một người bạn bên bờ sông Thạch Hãn trong Mùa Hè Đỏ Lửa năm ấy lại là chuyến
bay cuối cùng của Định Mệnh oan nghiệt.
Khi phi đội anh hoàn tất nhiệm vụ và lạng cánh bay về thì anh nhìn
thấy một cụm pháo phòng không của địch, cụm pháo này đã bắn cháy 1 khu trục
trong trận chiến hôm đó và anh quyết định vòng trở lại một mình bất chấp các bạn
trong phi đội can ngăn và khi anh bắn được trái rocket trúng mục tiêu cũng là
lúc mà máy bay anh trúng đạn phòng không bốc cháy và anh bị trúng thương nơi
chân. Anh phải nhẩy dù khẩn cấp và không may cho anh là tuy cố gắng để lái chiếc
dù về phía bên này bờ sông nhưng gió lại thổi nghịch chiều và anh đáp xuống
phía bên kia bờ sông nơi mà địch quân đang kiểm soát, một chân trên bờ một chân
dưới nước. Các bạn anh đều quay lại để tiếp cứu và ngăn được 3 lần toán VC và
du kích địa phương từ những tàng cây trong rừng nhào ra để bắt anh nhưng đến lần
thứ tư thì không kịp nữa vì chúng đã lôi được anh vào trong rừng. Viên Đại Tá cố
vấn Mỹ của Không Đoàn khi nghe tin anh vừa bị bắt thì lên ngay tần số và phát
thanh liên tục ra ngoài Bắc và yêu cầu họ đối xử tử tế với Thiếu Tá Nguyễn Dzu,
nhưng tin tức về anh thì vẫn biệt tăm.
Năm 1973, khi có trao đổi tù binh giữa 2 miền Nam Bắc thì có 1 Hạ
Sĩ Quan của chúng ta được trao trả có khai rằng anh đã phải mục kích cảnh bọn
VC và quân Bắc Việt lập tòa án nhân dân trong rừng để xử Thiếu Tá Nguyễn Dzu.
Thiếu Tá Nguyễn Dzu vẫn kiêu hùng không khuất phục nên chúng tức quá ra lệnh
tra tấn anh, nhưng anh vẫn ngửng cao đầu, rồi chúng điên cuồng lên và ra lệnh
hành hình anh bằng tùng xẻo cho đến khi anh trút hơi thở cuối cùng.
Tùng xẻo là cứ đánh một tiếng trống thì xẻo một miếng thịt cho đến
khi tội nhân chết thì thôi, một thứ hành hình dã man như thời Trung Cổ mà chỉ
có VC còn áp dụng trong thế kỷ thứ 20 này.
Anh Nhơn cũng kể rằng trong các cơ khí sửa máy bay có một anh Hạ
Sĩ Quan rất giỏi về khoa Tướng số có xem cho Thiếu Tá Nguyễn Dzu rằng anh có đại
nạn về sông biển và nên cho anh ta đi theo trong 1 phi vụ trực thăng nào đó ra
ngoài biển với Thiếu Tá Dzu thì anh hy vọng có thể cứu mạng được. Thế rồi chiến
sự lan rộng và quá căng thẳng những tháng ngày năm 1972 của Mùa Hè Đỏ Lửa và
Thiếu Tá Dzu phải bay liên tục để yểm trợ quân bạn, không có một giây phút nào
nghỉ ngơi và từ từ mọi việc dần rơi vào quên lãng nên người Hạ Sĩ Quan đó không
có dịp "cải số" lại cho người pilot anh hùng tên Dzu. Âu cũng là Định
Mệnh.
Dòng tư tưởng của tôi chợt bị ngắt quãng bởi câu hỏi của anh Nhơn
và mấy cái lay chân của anh:
- Nghe nói toi có thuốc trị tiêu chảy phải không, để cho moi vài
viên.
- Xin lỗi nẫy giờ mình đang nghĩ về câu chuyện khác nhưng mà ông
biết là tôi có bao giờ bán thuốc tây đâu, chỉ dùng nó để chữa bệnh thôi, nhưng
ai bị vậy?
- Ông Bẩy Bớp nằm dưới kia kìa, 2 ngày nay có ăn uống tí cháo nào
đâu.
- Ông đưa cho ông ấy uống ngay 1 viên Imodium này, đây là loại tốt
nhất mới có và nói ông ấy ráng húp ít cháo đi và tối uống thêm viên nữa, khỏi
nói là thuốc của tôi nghe.
Thuốc Imodium khi ấy trị liệu như thần và sau khi uống 2 viên xong
thì ông Bẩy Bớp đi lại được và không còn bị đi cầu nữa. Bẩy Bớp là biệt danh mà
không biết anh em nào đã đặt cho ông Tân là một người tù trong thành phần Đảng
Phái cũng bị giam giữ.
Trước cửa buồng chúng tôi là một cái sân nhỏ và 1 bể chứa nước bơm
vào từ nhánh sông Hồng cạnh con đê.
Buổi chiều trước khi kẻng điểm danh vào buồng thì chúng tôi hay đi
bộ trong sân. Một hôm sau khi họ "biên chế" lại các buồng thì có một
số anh chuyển qua buồng tôi và tôi chú ý thấy một anh đang cố chống gậy tập đi
đi lại lại trong sân. Tôi bước lại hỏi thăm thì hóa ra là anh biết tôi do bạn
bè nói vì tôi có thuốc tây nhưng anh rất ngại nên không tiện mở lời trước, tên
anh là Chính, Thiếu Tá quận trưởng, anh nói:
- Bà xã moi viết thư sắp ra thăm nên mấy hôm nay moi cố tập đi lại
vì hai chân suy dinh dưỡng nên đã rất yếu, moi không muốn bà xã ra gặp moi
trong tình cảnh chống gậy như thế này thì tội nghiệp cho bà ấy lắm nhưng không
biết phải làm sao. Nghe nói toi có thuốc bổ nên không biết nó có giúp gì được
không?
Tôi lại tìm trong các loại thuốc bổ ông anh gửi vào và đọc kỹ lại
tờ hướng dẫn. Cuối cùng buổi tối hôm đó tôi đến chỗ anh nằm và đưa tặng anh 1 vỉ
B-Complex của Pháp vì trong đó nó có B1, B6 và B12 hy vọng có thể làm cho hai
chân anh mạnh hơn.
Sau khi anh uống hết vỉ B-Complex đó, tôi rất vui mừng vì anh đã bỏ
được chiếc gậy và lững thững đi được từng bước một. Tôi bèn biếu anh một vỉ nữa
và quả là như một phép lạ, hai chân anh trở nên vững hơn và anh đi lại được gần
như thường.
Hôm mà bà xã anh đến thăm thì cũng đúng lúc anh bỏ được cây gậy, mặc
vào người bộ áo Treillis mà trại phát một cách oai hùng như xưa mà ra gặp vợ.
Khi anh trở vào trại sau lần thăm nuôi đó thì anh rất là vui và
tinh thần phấn chấn hẳn lên và nắm tay tôi:
- Cám ơn toi nhiều nhe, nếu không có thuốc của toi thì chắc bà xã
mình khóc hết nước mắt rồi, vì moi không muốn thấy vợ mình khóc trước mặt bọn
chúng, toi hiểu không?
Tôi gật đầu nói:
- Anh may mắn lắm đó vì tôi chỉ có độc nhất hai vỉ B-Complex gia
đình gửi cho chứ chẳng có thuốc bổ nào khác cả.
Tối hôm ấy anh mời tôi và một số bạn đến chỗ anh nằm để thưởng thức
trà và cà phê ngon gia đình mới đem vào, và từ đó tôi trở thành một người bạn
thân mà anh thích tâm sự.
Thời gian khi chúng tôi chuyển trại vào Hàm Tân, trong Nam thì lúc
đó mới có loại trụ sinh Amoxycilin thay thế cho loại Ampicillin đã lỗi thời vì
Amox có thể uống bất cứ lúc nào không cần bụng đói như Ampi. Có lần chính tôi bị
viêm họng, cổ họng vừa đau rát lại mẩn đỏ nên ăn uống không được, may có anh bạn
nằm đối diện là Lê Văn Hoan, Thiếu Tá Cảnh Sát Đặc Biệt, đưa cho tôi có 1 viên
mà uống xong thì ngày mai thấy hết ngay bịnh. Quả là thần sầu thuốc men trong
tù. Luận, anh chàng nằm cạnh tôi trước kia, mà không biết ai đặt tên cho là
"Nhái" có lẽ vì nhỏ con, một lần nói với tôi rằng:
- Ông mà cho người ta thuốc men thì... ông khỏi phải uống nó chứ
có sao đâu.
Sau này khi mà tôi có cơ duyên gặp được thầy của tôi là Thầy Tâm
thì thầy cũng bảo tôi rằng trong tù thuốc men rất là quí hiếm, một phần mình uống
để chữa bệnh cho mình và một phần mình đem cho anh em là rất có phước. Cái Tâm
tốt của mình truyền vào viên thuốc đó sẽ giúp cho viên thuốc bội phần công hiệu.
Chính nhờ vào tình thương yêu ruột thịt của gia đình đùm bọc và
cưu mang nên tôi cũng như hàng chục ngàn người tù khác đã có được sự tiếp tế
liên tục trong suốt bao nhiêu năm trời mà tôi ví như nước Cam Lồ tưới vào các
thân cây khô héo. Cũng nhờ vậy mà chúng tôi, người có dư lại giúp đỡ những người
thiếu thốn hay người ít có thân nhân đến thăm hay gửi quà, nên đa số chúng tôi
sức khỏe dần hồi phục và tinh thần cũng hưng phấn, thêm sức chịu đựng để chờ
ngày ra khỏi trại về đoàn tụ với những người thân yêu.
Kể từ đó tôi bắt đầu tin rằng con người ta có số mạng. Số chúng
tôi không chết trong tù nên xui khiến cho gia đình đã gửi bưu phẩm và đến thăm
nuôi kịp thời.
Trong thời gian ở trại Ba Sao Nam Hà ngoài Bắc, tôi có ở chung trại
với anh Nguyễn Phát Lộc, Quyền Đặc Ủy Trưởng của Phủ ĐUTƯTB.
Anh là tác giả của cuốn Tử Vi Hàm Số rất nổi tiếng xuất bản trước
năm 1975, không may là anh bị bạo bệnh và được ra ngoài thị xã chữa trị nhưng
cũng không thuyên giảm. Anh vẫn thường nói với anh em chúng tôi rằng số anh
không chết trong tù.
Một hôm anh có gia đình đến thăm nuôi nhưng anh sức đã quá yếu
không đi nổi nên phải cáng trên băng ca đưa anh ra khu thăm nuôi ở ngoài trại
khoảng vài trăm thước và ngày hôm sau thì anh qua đời trong vòng tay của những
người thân ruột thịt của anh.
Anh xem cũng đúng, vì khi anh mất anh không ở trong vòng rào của
khu trại giam.
Tôi cũng tin vào Định Mệnh An Bài như anh Đồng Tuy đã chỉ dạy cho
tôi một phần trong khoa Tử Vi:
"Nhất ẩm, nhất trác giai do tiền định" tức là "Một
miếng ăn, một miếng uống là đều có định trước".
Trích Hồi ký Phạm Gia Đại
No comments:
Post a Comment