Năm 1971, trong một dịp vào Sài Gòn chấm thi tại
trường Gia Long, tôi có dịp quen biết với một cặp vợ chồng người Nam, quê ở Cần
Thơ. Vì biết là người Huế, lại đang dạy học ở vùng giới tuyến Đông Hà-Quảng
Trị, nên anh chị đã dành cho tôi mối cảm tình đặc biệt của người lính văn phòng
dành cho người lính đồn xa. Dù chưa ra Huế lần nào nhưng sự hiểu biết của cặp
vợ chồng nầy về Huế khá sâu sắc và tỉ mỉ như cách nhìn của một nhà khảo cổ nhìn
lại thời xa xưa qua sách vở. Một trong những mong ước của anh chị là một ngày
nào đó được ra thăm Huế.
Tôi mời anh chị mùa Hè năm sau ra Huế ở lại với gia đình tôi chơi để làm một chuyến du lịch vùng đất có nhiều vui buồn đầy huyền thoại nầy.
Lau hơn một tuần chu du hết các thắng
cảnh, lăng tẩm, chùa chiền, núi rừng, sông biển của Huế, hai ngày trước khi rời
Huế về lại Cần Thơ, anh chồng kéo riêng tôi ra quán cà phê, nhìn trước nhìn sau
để yên chí là không có tai vách mạch rừng rồi mới trầm giọng nói nhỏ vào tai
tôi:
– Mình muốn cậu cho mình biết cái “dzụ”
đó.
Tôi nhớn nhác chưa rõ chuyện gì, thì
thào hỏi lại:
– Cái “dzụ” gì vậy anh?
Anh trả lời hơi lắp bắp:
– Thì, thì… cái “dzụ”… ngủ đò ấy mà!
– Tôi vỗ đùi cười ngặt nghẽo:
– Chuyện dễ ợt nằm trong lòng bàn tay,
muốn lúc nào cũng đuợc mà anh làm tôi hết hồn.
Anh đỏ mặt nói như phân bua:
– Thì tụi mình là nhà giáo với nhau,
mình sợ mang tiếng rồi thì khó lên lớp lắm. Bởi vậy mình rất tò mò muốn biết
“ngủ đò” nó như thế nào, nhưng lại rất ngại làm phiền cậu.
Vì nể bạn, tôi trả lời hăng tiết vịt
cho có vẻ mình là dân lịch lãm ở quê hương mình, nhưng thật sự trong bụng cũng
cảm thấy hơi “ớn lạnh” khi nghĩ tới chuyện ngủ đò.
Hàng ngày tôi vẫn đi qua con đường Hàng Bè, có tên Huỳnh Thúc Kháng, nhưng ít khi dám ngó thẳng xuống những dãy đò đậu san sát dưới sông. Nhiều lần đi về khuya qua con đường Hàng Bè nầy, thường khi tôi cố giả câm giả điếc trước những lần các bà mối lái lôi kéo và mời gọi “Đò cậu !?” trên bến nước Tầm Dương canh khuya đưa khách nầy. Cái xứ Huế nhỏ bé “trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã hay” lại mang nghiệp dĩ làm nhà mô phạm mà được gắn nhãn hiệu “Thầy nớ ngủ đò” thì sự nghiệp quân sư phụ theo chân đức Khổng Tử sẽ theo đò dọc mà trôi xuôi về biển.
Sau khi nói cứng với anh bạn ở quán cà
phê, tôi bỗng thấy lo cồn cào ruột gan. Việc đầu tiên là phóng xe một mình
xuống Bao Vinh, tìm người bạn thân lớn tuổi có biệt danh nghe như hiệp khách
hành là Phó Biên Thùy để vấn kế. Anh nổi tiếng một thời ngang dọc trong giới ăn
chơi biết trọng nghĩa khinh tài ở Huế. Nghe hết nỗi lòng thao thức của tôi, lại
đến lượt anh cười dòn tan. Tôi vái thầm là nụ cười dễ dãi của Thùy không phải
là nụ cười xã giao thiếu thực tế chiến trường của tôi. Thùy hỏi một câu quá “hiện
đại” làm tôi hơi ngỡ ngàng:
– Rứa bạn cậu muốn ngủ đò mà “ngủ chay” hay “ngủ mặn”?
Tôi đang còn quờ quạng thì Thùy giải
thích:
– Ngủ đò chay là thuê đò du lịch trên
sông Hương để sinh hoạt bạn bè, văn nghệ, văn gừng với nhau cho vui. Còn ngủ đò
mặn cũng là giong đò trên sông Hương, nhưng lại sinh họat ong bướm với những
nàng Kiều sông Hương.
Tôi hỏi đùa:
– Nếu người ta thích cả “vào chay ra
mặn” có được không?
Thùy trả lời thật tình:
– Trường hợp tất cả khách đi đò đều là
đàn ông thì chẳng có chi trở ngại, ai thích mục nào làm mục đó, nhưng nếu có
phụ nữ thì bắt buộc phải ngủ chay.
Tôi liền cậy Thùy làm quân sư trong
biến cố ngủ đò tổ chức cho người bạn. Theo sự cố vấn của Thùy, tôi về nhà và
mời cả hai vợ chồng người bạn ra nói chuyện.
Khi tôi mở lời đề nghị mời cả hai vợ
chồng người bạn đi ngủ đò, anh chồng mặt tái xanh không biết vì sợ hay vì giận.
Anh nhìn tôi một cách nghiêm khắc nửa như hối hận, nửa như trách móc, hỏi bằng
một gịọng rất xa lạ và lạnh lùng:
– Xin lỗi anh, anh cho chúng tôi là
hạng người nào…?
Chị vợ mím môi, vòng tay trước ngực, mắt trống không nhìn bất động vào một cõi xa xăm nào đó để biểu lộ sự thất vọng vì bị xúc phạm.
Tôi hơi lúng túng vì sự hiểu lầm có vẻ quá nghiêm trọng thì Thùy đã xuề xòa, cái xuề xòa của một tay từng trãi với đời đã làm cho không khí bớt ngột ngạt. Thùy đã dem hình ảnh những cuộc du thuyền rồng của giới vua quan và các sứ giả ngoại quốc trên sông Hương ngày xưa làm vũ khí dẫn giải. Lịch sử ngủ đò trên sông Hương bắt nguồn từ thú chơi tao nhã của hàng mặc khách tao nhân. Đò chứa dầy trăng và chở đầy hương hoa của thơ và nhạc. Nếu có chăng những chén rượu nồng và những trao gởi đầu mày cuối mắt thì cũng chỉ là những sương khói nhẹ nhàng kiểu tài tử giai nhân. Nước sông Hương, do đó, còn được gọi là nguồn “Tiêu Kim Thủy” – ngàn vàng chuốc môt trận cười. Nhưng rồi mỗi nước non đều có một “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”. Chuyện ngủ đò trên sông Sông Hưong cũng thế, cũng có một thời tuổi trẻ và một thời tuổi già; một thời để yêu và một thời để chết. Sông Hương đã trút áo hào hoa để sống còn qua những cơn tai biến của lịch sử, để hòa điệu sống giữa chợ đời đầy cát bụi. Cái thanh và cái thô của Huế bao giờ cũng có sẵn. Thanh hay thô là do kẻ đi tìm…
Thùy đã mô tả hết cái thanh và cái tục
trong chuyện ngủ đò để thuyết phục cặp vợ chồng bạn tôi vui vẻ chấp nhận lời
mời đi “ngủ đò” ngay chiều hôm đó.
Chiếc đò khách có mui, lòng rộng hơn hai thước cặp bến Thừa Phủ vào buổi chiều nắng sắp tắt. Thùy đã tế nhị mời thêm hai cặp vợ chồng yêu thích văn nghệ cùng đi và anh cũng đã khéo léo cho đò cặp vào bến Thừa Phủ thay vì bến Gia Hội hay Phu Văn Lâu vốn là những điểm nóng của khách “giang hồ ngủ mặn” để khỏi bị nhòm ngó. Cặp vợ chồng bạn tôi tỏ vẻ căng thẳng và hồi hộp thấy rõ với những giòng mồ hôi chảy dài trên má. Cả hai e dè bước xuống thuyền như một sự phó mặc cho số phận an bài.
Đến khi thuyền ra giữa sông như cánh chim bằng đã cỡi mây vùng vẫy ra ngoài bốn bể thì cái cảm giác “ngủ đò” mới bắt đầu lắng xuống. Giữa lòng sông chiều nghe sóng vỗ mạn thuyền róc rách với sức đẩy của gió Nồm từ Thuận An lên tự nhiên cái cảm giác trần tục từ từ nhường lại cho sự thanh khiết và lắng đọng trong mỗi con người. Thuyền hướng về phía cầu Bạch Hổ. Nhìn phía lái, o lái đò tóc lộng gió chiều che nghiêng khuôn mặt trông như một người mẩu làm phông cho cầu Trường Tiền. Một phần nhỏ cầu Trường Tiền còn hoe nắng giống chiếc lược ngà cài trên mái tóc sông Hương. Cầu Bạch Hổ thô và đen sậm có vẻ như hiện thân của sự thách đố với nắng gió và thời gian. Bên nầy là Thương Bạc, Phu Văn Lâu với cột cờ Thành Nội sừng sững không biết uốn cong mình trước những cuồng phong của lịch sử nên đã mang đầy mình những vết tích tang thương. Bên kia là bia Quốc Học-Đồng Khánh và con đường áo trắng ngây ngất biết bao nhiêu kỷ niệm học trò đầy tiếng cười và tiếng thút thít dấu giữa khăn mù soa thêu hoa tím của gặp gỡ và chia xa thời tuổi dại.
Cặp vợ chồng miền Nam ngồi sát vai nhau
cho khỏi lạnh. Ngồi cạnh mũi thuyền, cả hai lặng im, mở to mắt, căng buồng phổi
để tận hưởng buổi chiều trên sông Hương. Tôi thấy Thùy nhìn họ, không nói, nháy
mắt mỉm cười. Cặp vợ chồng nhìn lại với ánh mắt trẻ thơ mà trang trọng, tôi
nghe cả hai cùng mấp máy: “Cám ơn anh!”.
Chiếc đò bềnh bồng nương gió chiều lướt
êm trên giòng sông Hương đang đổi từ màu xanh lam buổi chiều sang màu tím nhạt
hoàng hôn và màu vàng lụa dưới ánh trăng con gái e ấp bên kia sông. Hai bên bờ,
nhà cửa chìm khuất sau những bức tường cây giờ đã đổi sang màu đen thăm thẳm
huyền bí. Đọt dừa, đọt cau và tàng cây cao vút vẽ hoa văn cho nền trời bàng bạc
khói sương. Trăng dát vàng trên sóng nước và kết ngọc cả giòng sông. Khi thuyền
đến nhánh sông chia ba gần chùa Thiên Mụ thì sông nước và làng mạc, ruộng đồng
đã tắm ngập cả trăng. Khói sương, cây lá, lưng sóng và tóc mây đều choáng ngợp
ánh trăng vàng lung linh huyền ảo.
Giữa thanh vắng vô cùng con người bỗng cảm thấy cái tôi của mình tan loãng để hòa vào cái “đại ngã” của thiên nhiên. Mọi người trong đò hình như đang quên chiếc đò và giòng sông để nói với nhau thật nhiều trong thinh lặng cho đến khi người chủ đò từ đằng lái bước tới, nói với khách bằng ngôn ngữ hiện thực của con người:
-Xin quý khách cho biết là muốn neo đò
ở đây hay chèo lên ngã điện Hòn Chén.
Thùy hỏi ý kiến chung và quyết định
hướng đò lên ngã thượng nguồn sông Hương. Đò chèo quanh như lưu luyến vùng sông
nước xanh đen mượt trước chùa Thiên Mụ như có một chút gì tiếc nuối hương xưa
rồi quay mũi hướng về phía núi Bãng Lãng. Anh bạn người Nam hỏi Thùy:
– Tôi đọc sử nghe nói Chùa Thiên Mụ là do Nguyễn Hoàng – mà người đương thời gọi là chúa Tiên, cho khởi công xây dựng từ năm 1601 phải không anh? Được đứng trước một di tích lịch sử gần 4 thế kỷ mà vẫn còn nguyên vẹn như thế kia, tôi cảm thấy xúc động và ngưỡng phục người xưa vô cùng.
Thùy giải thích thêm:
– Theo tương truyền thì khi xưa, ban đêm có người trông thấy một bà lão mặc áo đỏ quần xanh ngồi trên gò Hà Khê, tức là vùng đất cao của chùa Thiên Mụ ngay trước mặt chúng ta đây, nói rằng:”Rồi đây sẽ có một vị chúa dân tới nơi này để dựng chùa, đặng tụ linh khí và củng cố long mạch”. Nói xong bà lão biến mất nên dân chúng bèn gọi gò Hà Khê là núi Thiên Mụ. Khi chúa Tiên đặt chân tới gò Hà Khê thấy cảnh trí hùng vĩ, trước có sông, sau có hồ, xa xa có núi. Cảm kích trước cảnh non sông cẩm tú, trước khi quyết định dời đô về đất Thuận Hóa, chúa cho xây một ngôi chùa trên gò Hà Khê lấy tên là Thiên Mụ Tự, đó là chùa Thiên Mụ ngày nay.
Người chủ đò cho biết nếu chỉ chèo tay
mà không dùng động cơ gắn sẵn trên đò thì ít nhất cũng mất hai giờ nữa mới đến
nhánh sông điện Hòn Chén. Thùy đề nghị là lúc về sẽ dùng đến máy, nhưng vòng
lên chỉ nên chèo tay. Rốt cuộc dư vang của sóng nước sông đêm vẫn nghe vỗ vào
mạn thuyền xao xác và tiếng chèo khua nước vẫn nhè nhẹ chẻ nước để thuyền đi
trong đêm trăng. Một người bạn của Thùy bắt đầu thổi sáo. Tiếng sáo dìu dặt
nương theo hòa âm của đất trời đủ sức lay động lòng người. Những người trong đò
bắt đầu ngâm thơ và hát những bài tình ca hay nhất của mình. Cặp vợ chồng miền
Nam cùng hát dân ca điệu lý con sáo, rồi lý cây bông như thơ của Kim Tuấn:
Em nhớ chàng em hát lý cây bông
Như
con sông con nước ròng con nước nổi
Em thương anh và nhớ anh quá
đỗi…
Như cây lục bình quấn quít
giòng sông…
Anh thương em sao anh
“hổng”tới
Để em buồn em hát lý cây
bông…
Cô lái đò chừng như cũng
hòa vui với điệu hát câu hò ngồ ngộ nhưng đầy cảm xúc của khách bỗng cất tiếng
hò dìu dặt theo nhịp với mái chèo. Tiêng hát cất lên từ sau lái mang âm vang
thanh thoát của người lĩnh xướng:
Ơ hơ…ơ ơ cầu Trường Tiền sáu
vài mười hai nhịp
(Chớ) em qua không kịp (mà)
tội lắm anh ơi à…ớ… ơ…ờ
Ơ hơ…ơ ơ… (Chơ) thà rằng
không biết thì thôi
(Chớ) biết rồi mỗi đứa
(ư…à…) ơ hờ…hớ mà… mỗi nơi ớ hơ a à… cũng
(ứ… a…) buồn…!
Tiếng hò vút cao, lững lờ rơi dần xuống thấp, rồi im bặt… Cũng buồn! Biết rồi mỗi đứa mỗi nơi cũng buồn. Có lẽ nguồn tình cảm miên man rất lãng mạn kiểu Huế nằm trong tiếng “cũng”. Cái “cũng… buồn” rất e dè nhưng cũng rất nũng nịu thâm cung của cô gái Huế có nghĩa là níu kéo, là sẽ tương tư, là hào phóng một cách “tình cho đi ai lấy lại bao giờ”. Tất cả những người khách có mặt trong đò đều khẩn khoản yêu cầu cô lái đò hò thêm bài nữa nhưng vẫn hoàn toàn im lặng, cái im lặng bất thường của một tâm hồn sôi nổi thường có vẻ ghê ghê như cây cối mới theo gió vật vờ bỗng đứng yên giữa vùng tâm bão. Cô lái chỉ tay về mé sông bên kia với một vùng cây cối thâm u, đen kịt trong đêm. Giọng cô nói như rì rào với gió :
“Điện Hòn Chèn thờ Bà Chúa đó. Ngài thiêng lắm. Ai hò hay hát giỏi, Ngài ưng ý, ‘bắt lính’ âm binh rồi thì hết đường chạy chữa, chỉ có nước đem chôn thôi”. Nghe giọng nói nghiêm trang như con chiên ngoan đạo của cô lái, khách trên đò cũng cảm thấy phảng phất một chút sương mờ “ớn lạnh” nên chưa ai tiếp tục cuộc chơi “để em buồn em hát lý cây bông”. Cặp vợ chồng Nam Bộ xích lại gần nhau thêm chút nữa chừng như để che chở cho nhau mà trốn lính âm binh… Bỗng Phó Biên Thùy cất tiếng cười dòn tan như cốm bắp An Thuận, tiếng cười không chờ đợi và đúng lúc có mãnh lực an ủi chúng sinh trên đò như nhà pháp sư trừ ma ếm quỷ. Thùy chỉ tay về phía bờ sông bên kia, nơi có lùm cây cao nhô lên, nổi bật giữa lằn chân trời cây đen thẩm, giải thích:
– Đó là Điện Hòn Chén, tên chữ là Ngọc Trản (có nghĩa là chén ngọc). Đây là đền thờ Nữ thần Thiên Y A Na, vốn là một nữ thần Chàm. Theo Đào Thái Hanh trong Bulletin des amis du vieux Hué; xuất bản năm 1914 mà thời đi học, tôi đọc lóm được của Ba tôi thì Thiên Y giáng trần qua bóng dáng của một thiếu nữ đẹp huyền diệu và vào đời qua một câu chuyện tình thần tiên vương giả. Rồi cũng như những câu chuyện tình buồn của Huế, nữ thần cũng ra đi trong nước mắt. Nhưng cái mê hoặc của trần gian đau khổ nầy nó lạ lắm. Nó vẫn còn mãi níu kéo nữ thần vương vân với cuộc đời để ban bố bao nhiêu là phép lạ cho con người. Vì vậy, trong niên hiệu đầu, vua Gia Long ban cho nữ thần chức tước “Thần tối cao và ơn đức vô biên, ban phước lành khắp mọi nơi đầy linh hiển” .
Thế nhưng, khoảng hai năm trước, tôi có dịp tham gia vào đoàn rước lễ của Thiên Tiên Thánh Giáo Huế, hành hương bằng thuyền trên sông Hương từ Điện Hòn Chén về Bãi Dâu với đoàn thuyền có đủ cờ quạt, lọng tàn, lễ nghi rực rỡ đầy màu sắc thì lại được nghe một vị chức sắc cho biết đây là nơi thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh. Nguyên bà là con gái thứ của Ngọc Hoàng Thượng Đế, giáng trần vào rằm tháng Tám năm 1557 đời Mạc Phúc nguyên tại Vụ Bản, tên Giáng Tiên.
Người tiên giáng phàm nhưng vẫn không thoát khỏi nợ tình với Trần Đào Lang. Và rồi cũng như Thánh nữ Thiên Y A Na, Thánh Mẫu Liễu Hạnh được về lại cõi trời năm hai mươi mốt tuổi, nhưng vẫn yêu cảnh trần gian nên đành xin Ngọc Hoàng trở lại… với nhiều phép lạ giúp dân lành nên đã trở thành một trong Tứ Bất Tử của dân tộc Việt Nam: Phù Đổng, Chữ Đồng Tử, Tản Viên Sơn Thánh và Liễu Hạnh. Bà Chúa Liễu Hạnh đã được sùng kính tôn thờ như một tín ngưỡng dân gian lan rộng khắp nơi, từ Phủ Giày Nam Định, tới chùa Thiên Minh Lạng Sơn, vào đền Sòng Thanh Hóa, ra Tây Hồ Thăng Long, vào Sóc Hương Nghệ An… trước khi giáng phàm chỉ đường cho chúa Nguyễn dựng nghiệp ở Đàng Trong và xây dựng dinh cơ ở Huế. Vua nhà Nguyễn đã sắc phong cho bà chúa là “Thượng Đẳng Tối Linh Thần”
Theo nguồn tin dân gian
truyền khẩu tại Huế thì bà chúa Điện Hòn Chén hết sức linh hiển. Đã có rất
nhiều người buôn bán xuôi ngược trên sông Hương đã bị “bắt lính” vì có tài hát
hò. Một số khác bị bà chúa “vật chết tươi” vì có thái độ bất kính khi đò chèo
ngang qua Điện Hòn Chén. Năm Tự Đức thứ 15, nhà vua cảm thương bá tánh vô tội
bị chết oan nên đã đích thân lên Điện Hòn Chén đeo chuỗi hột bồ đề vào cổ bức
tượng của bà chúa Liễu Hạnh và khuyên bà chúa hãy tu hành. Từ đó, bà chúa không
còn linh hiển như xưa nữa.
Người kể chuyện im lặng, rồi trầm giọng đọc thơ với một chút cười buồn:
Mắt nữ thánh cũng sầu xanh
soi bóng
Hương Giang ơi! Sao sóng lục
vô chừng.
Phó Biên Thùy lại cất cao
giọng nói như đọc sớ trên sông:
– Xin van vái bà Chúa, nếu
tối nay bà bắt lính, Thùy tôi xin tình nguyện đi ngay, đừng bắt ai khác tội
ngiệp. Thùy nầy vốn ca xướng không hay nhưng được cái độc thân, vui tính.
“Dương binh” được xếp loại hai, nếu vô “âm binh” xin bà xếp cho loại ba, lọai
bốn chi cũng được…!
Hình như lên tinh thần vì vui lây cái tinh thần hài hước của Thùy hay vì đã có người tình nguyện “chết” thay cho mình nên từ chủ đến khách trên đò đều lấy lại được cái vui hồn nhiên “giã gạo dưới trăng” tưởng như đã bị thần linh ném giữa giòng sông.
Cái
đẹp của vùng thượng nguồn sông Hương trong đêm là vẻ đẹp huyền bí của Nghìn Lẻ
Một Đêm vì nó mênh mông và êm ả quá, nhưng trong từng giọt sương, từng mảnh
trăng tan trên mặt sóng, từng tiếng vỗ cánh của bầy vạc ăn đêm và tiếng xao xác
của lau lách đều mang ít nhiều huyền thoại của Cố Đô với dư vang của những dấu
oai linh hiển hách một thời vang bóng.
Chị
bạn người Nam bỗng thở mạnh, hít thật sâu và reo lên như vừa khám pha ra một
điều gì mới lạ:
– Thấy không kìa! Tôi nghe
như vừa có một mùi thơm thoang thoảng trầm hương đâu đây. Tôi đọc sách nghe kể
là sông Hương có tên như vậy vì thường có mùi thơm trên sông…
Có
tiếng của anh bạn thổi sáo nói vọng ra từ phía trong mui đò:
– Tôi đang thưởng thức mùi thơm đó chị ơi, nhưng rất tiếc là mùi thơm của Seventy Nine và Half and Half trộn lại từ trong chiếc “píp” của tôi.
Chị bạn tiếc rẻ:
-Vậy thì lời đồn sông Hương có mùi thơm
là bịa đặt sao?
Thùy lên tiếng:
– Tôi cũng được nghe mấy cụ xưa kể
rằng, xưa kia hai bên bờ sông Hương có mọc một giống cỏ gọi là “Thạch Xương
Bồ”, còn có tên gọi khác là “Ngoại Xương Bồ” (Acorus Gramineus). Các nhà đông y
coi Thạch Xương Bồ có tác dụng chữa bệnh như vị thuốc trường sinh. Hoa và củ có
mùi thơm đặc biệt, về mùa xuân phấn hoa bay thơm lừng khắp cả mặt sông nên mới
có tên là sông Hương.
Chị bạn người Nam lại thắc mắc:
– Anh có bao giờ nghe ai diễn tả lại
cái “mùi thơm đặc biệt” của Thạch Xương Bồ nó thơm nồng, ngọt dịu, đam mê,
giống như một mùi hoa nào đó mà mình đã biết không?
Thùy trả lời hóm hỉnh:
– Chị ạ, tôi lớn từng này tuổi đầu rồi mà vẫn còn độc thân là vì hương sắc của Thạch Xương Bồ đó chị! Hồi còn sinh viên, tôi ở gần nhà ông thầy Tàu. Ông thường khoe là trong ba cô con gái của ông, cô út là đại quý tử vì phấn má có mùi hương Thạch Xương Bồ. Tôi đã bao phen cố làm một chàng Trọng Thủy Việt Nam để cố “ngửi” mùi Thạch Xương Bồ trên má cô út Mỵ Châu Tàu lai coi thử cái “đọat hồn hương” đó nó ghê gớm tới mức nào nhưng thất bại, có lẽ vì ông già đã hiểu quá thâm thúy cái hệ lụy “Nam Quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt nên đã thẳng tay làm cho chúng tôi xẻ nghé tan đàn.
Có tiếng anh chàng thổi sáo xen vào:
– Các vị nầy răng mà rắc rối dữ rứa?
Thì cứ tạm cho mùi hương Thạch Xương Bồ nó cũng thơm thơm ngọt ngào giống thuốc
Seventy- Nine và Half and Half của tôi đang hút đây nầy thì có chết ai đâu, bảo
đảm sẽ không có ai chống đối hay kiện tụng chi mô mà sợ.
Đò rời vùng Thiên Mụ, xuôi về mạn Kim
Long. Một giọng ngâm thơ nào đó, không hay nhưng đầy cảm xúc, cất lên:
Kim Long có gái mỹ miều,
Trẩm thương, trẩm nhớ, trẩm liều, trẩm đi
Rồi cũng chính ngưòi ngâm bình luận:
– Trời đất! Làm như gái Kim Long toàn
là tiên nga giáng thế không bằng. Xưa vua mê người đẹp, vua liều vua đi là vì
bị mấy ông quan lớn gài bẫy. Những vị quan lớn trong triều phần đông ở miệt Kim
Long cho gần cung đình. Ông nào cũng nuôi mộng con mình lên làm hoàng hậu nên
lắm ông quan đã khôn khéo đóng kịch cho con gái cưng của mình mặc áo lụa hồng,
choàng khăn nhiễu tím, giặt áo trên sông rồi thỉnh hoàng thượng lên nguồn dạo
mát. Vua đã ê chề với các cô cung nữ trong cung quá rụt rè, run rẩy, sợ hãi trước
long nhan nên mình cứng như cây củi. Nay ra ngoại thành nhìn trộm được giai
nhân má thắm lưng ong đang lả lơi để cho gió hôn trên má, nắng cắn trên vai,
nước đầm trên yếm… Thế là vua tương tư. Vua cải trang vi hành đi thăm bá tánh.
Vua thêm một lần biết yêu. Cung đình thêm một hoàng hậu…
Chuyện dân gian kể rằng, vua Thành Thái cải trang làm người dân thường, lặng lẽ lên Kim Long đi tìm giai nhân mà không gặp vì con gái Kim Long thường chuyên nghề thủ công ở chỗ im mát nên nõn nà và đẹp nhưng ít khi ra ngoài. Vua thất vọng ngoắc một chiếc đò trên bến sông Hương để thuê chèo xuôi về lại hoàng thành. Thuyền cặp bến rước khách, từ trong khoang thuyền, vua nhìn ra sau lái thấy cô chèo đò đang độ tuổi xuân căng phồng sức sống, với manh áo cũ vá vai, với môi thắm má hồng và tóc mây vờn bay theo gió. Cô gái uyển chuyển theo mái chèo với vẻ đẹp tự nhiên làm vua rung động. Vua lại gần hỏi với:
-Nì, o
nớ! Rứa chớ có chồng con chi chưa?
Cô gái che miệng cười
duyên, đáp vọng lại:
-Tui nghèo nàn xấu xí có ai mà ưa!
Câu nói thủ phận, chơn
chất càng làm cho nhà vua cảm thấy cô gái càng đáng yêu hơn. Vua Thành Thái
bước tới giữ tay chèo cô lái lại, bắn tiếng:
– Tui
biết có đám ni khá lắm, để tui làm mối cho o. Chừ tui hỏi thiệt rứa chớ o
có ưng lấy vua không cái đã?
Cô gái
vừa thẹn thùa, vừa sợ hãi, nhớn nhác nhìn quanh, thì thầm nói với người khách
lạ:
-Đừng nói bậy mà họ chém đầu chừ!
Nhà vua đặt tay lên cùng
mái chèo với cô gái, nói như reo vui:
-Thiệt mà! O mà nói “ưng”
một tiếng là được lấy vua liền!
Trong khi cô gái vẫn thẹn
thùng thì có một cụ lớn tuổi cùng đi trong đò tham gia vào cuộc vui, lên tiếng:
– O nớ! Có mất chi mô mà
lo. O cứ nói “ưng” một tiếng thử coi rồi để tui làm chứng cho.
Cô gái chèo đò Kim Long
đánh bạo, nhìn ông khách nói nhanh:
– Ưng.
Vua Thành Thái thú vị dành lấy cán chèo trên tay cô gái:
-Rứa thì ái phi ngồi nghỉ để trẩm chèo
đưa về cung nghe.
Sau duyên kỳ ngộ đó, cô lái đò áo vá
vai đã trở thành một vương phi được nhà vua sủng ái. (Theo Bảo Hiển – Chuyện
Các Bà Trong Cung Nguyễn)
Ngày vui thường qua mau và
cuộc vui nào cũng có lúc tàn. Đò trăng của chúng tôi rồi cuối cùng cũng đành
phải chia tay với nguồn nước trên của sông Hương để trở về bến cũ vì đã quá nửa
đêm. Tráo về, người lái thuyền đã đưa khách nhàn du trở lại với thực tại bằng
cách gác mái chèo và nổ máy Yanmar F.10 gắn trên đò với tiếng nổ phành phạch
rất phàm tục như múa lân đánh trống bể.
Khi đò
về đến Phu Văn Lâu, đò không được chạy máy mà phải chèo trở lại. Thoát khỏi mùi
khét, âm thanh và sức đẩy của máy dầu cặn, trăng lại về trên sông và sóng lại
vỗ mơn man vào mạn thuyền. Thuyền tạm dừng lại trước bến Văn Lâu, anh bạn người Nam hỏi Thùy:
– Đây có tên là “Phú Vân Lâu”, có lẽ bởi vì nơi đây thường có nhiều mây lắm phải không anh?
Thùy giải thích với nét cười thích thú:
– Hay! Anh đã sáng tạo một ý nghĩa mới cho một tên gọi sai do thói quen của quần chúng. Thật ra Phu Văn Lâu mới là tên gọi đúng của nơi nầy. Ngày xưa cái lầu nầy là trung tâm thông tin của triều đình với dân chúng. Những văn kiện quan trọng của nhà vua và triều đình được niêm yết ở lầu nầy. Phu Văn Lâu có nghĩa là “lầu phô bày văn kiện” (Phu: phô bày; Văn: Giấy tờ văn kiện; Lâu: lầu). Anh nhìn kỹ vào đằng trước của lầu nầy sẽ thấy hai tấm bia có khắc chữ: Khuynh cái – Hạ mã (Nghiêng lọng- Xuống ngựa). Bất cứ ai đi ngang qua đây đều phải nghiêng lọng đi đầu trần và xuống ngựa đi bộ để tỏ lòng tôn kính nhà vua. Từ Văn Lâu nhìn ra sông Hương có Nghinh Lương Đình, là nhà hóng mát của vua. Đó là cái nhà cuối cùng tiếp giáp với bến nước của sông Hương trong khu vực cột cờ. Đây cũng là nơi thường vang vọng những tiếng hò quốc kêu đau thương sau ngày vua Duy Tân, nhóm Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thanh Tài đứng lên mưu đồ cuộc khởi nghĩa chống Pháp nhưng thất bại vì nội phản để đến nỗi vua bị đày, tướng bị xử trảm tại An Hòa:
Trước
bến Văn Lâu, ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm, ai nhớ ai trông…
Thuyền ai thấp thoáng bên sông, nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
Nghe Thùy giải thích, ý
nghĩ của những người trên đò như đang lãng đãng trôi về thời quá khứ. Chị bạn
người Nam chỉ tay về phía cột cờ sừng sững làm bối cảnh chính cho cả vùng Phu
Văn Lâu:
– Cột cờ nầy hình như đã treo cờ vàng ba sọc đỏ từ thời chính phủ Trần Trọng Kim, rồi cờ đỏ sao vàng của Việt Minh khi Trần Huy Liệu nhận ấn tín từ tay vua Bảo Đại thoái vị trên lầu Ngọ Môn năm 1945. Không biết lần đầu tiên lá quốc kỳ được treo lên nơi đây là loại cờ nào và trông giống ra sao?
Mọi
cặp mắt lại hướng về Thùy, viên thuyền trưởng kiêm hướng dẫn viên bất đắc dĩ.
Thùy trầm ngâm rồi dè dặt lên tiếng:
– Tôi
có một ông đời sơ, nghe đâu là một trong những tác giả bình dân của bài vè lịch
sử nổi tiếng “Thất Thủ Kinh Đô”, có kể lại rằng Cột Cờ Thành Nội xây cao 80
thước, ngang với đỉnh núi Ngự Bình. Quốc kỳ thời nhà Nguyễn là cờ ngũ hành,
thường được treo trong các dịp Tết, lễ lớn của đất nước và triều đình, kèm theo
các sắc cờ khánh hỷ đuôi nheo.
Đò lại
tiếp tục di chuyển về phía cầu Trường Tiền. Một nhịp cầu
đã gãy trong biến cố Mậu Thân nằm thương tích, lạnh lẽo dưới trăng như một vết
chém ngang lưng đối với khách ngã nón trông cầu và trông tội nghiệp như vết sẹo
ân oán vô tình trên khuôn mặt trái xoan nuột nà của cô nữ sinh Đồng Khánh.
Trần Kiêm Đoàn
No comments:
Post a Comment