Nhà văn Tiểu Tử – Võ Hoài
Nam. (Hình: Namkyluctinh.org)
1. Nhà văn Tiểu Tử:
- Họ
tên: Võ Hoài Nam
- Sanh
năm: 1930
- Nguyên
quán: Gò Dầu Hạ (Tây Ninh)
- Bút hiệu:
Tiểu Tử
Ông là con trai duy nhứt của giáo sư Võ Thành Cứ, cựu giáo sư trường
trung học Petrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn.
- Tốt
nghiệp Kỹ sư, Marseille năm 1955.
- Dạy lý
hoá trung học Petrus Ký: 1955/1956.
- Làm việc
cho hãng dầu SHELL Việt Nam từ năm tháng 10 năm 1956 đến 30/04/1975.
- Vượt
biên cuối năm 1978. Ðịnh cư ở Pháp từ đầu năm 1979 đến nay.
- Làm việc
cho hãng đường mía của Nhà nước Côte d’ Ivoire (Phi Châu) 1979/1982.
- Làm việc
cho hãng dầu SHELL Côte d’ Ivoire từ năm 1982 đến 1991, về hưu ở Pháp.
- Trước
1975, giữ mục biếm văn “Trò Ðời” của nhựt báo Tiến.
- Bắt đầu
viết truyện ngắn khi lưu vong qua Côte d’Ivoire.
- Tập
truyện “Những Mảnh Vụn” (Làng Văn Toronto xuất bản) là tập truyện đầu tay.
- Bài ca
vọng-cổ
- Cái
Loa
- Cái mặt
- Cái miệng
- Chị Tư
Ù
- Chiếc
khăn mu-soa
- Chợ trời
- Chuyện
Bình Thường
- Chuyện
chẳng có gì hết
- Chuyện
di tản 1975
- Chuyện
Giả Tưởng
- Chuyện
ở quê tôi
- Chuyện
thuở giao thời
- Cơm
nguội
- Con Mẹ
Hàng Xóm
- Con
Mén
- Con số
3
- Con rạch
nhỏ quê mình
- Đá mòn
nhưng dạ chẳng mòn
- Đám cưới
ngày xưa
- Đạp
xích lô
- Đèn
Trung Thu
- Đi Xe
Đò, Đi Xe Ôm
- Giọt
mưa trên tóc
- Làm
Thinh
- Lẫn
- Made
in Việt Nam
- Mài
Dao Mài Kéo
- Mũ “bảo
hiểm”
- Mùa
Thu Cuộc Tình
- Ngày nầy,
năm 1975 …
- Người
Bán Liêm Sỉ
- Người
Viết Mướn
- Ngụy
- Những
câu chuyện Di Tản của nhà văn Tiểu Tử – Tường An, thông tín viên RFA
- Những
chuyện nho nhỏ…
- Những
hình ảnh đẹp
- Nói
- Nói: Hết
rồi!
- Nói
Láo
- Nội!
- Ông
già ngồi bươi đống rác
- Ông
Năm Từ
- Tấm vạc
giường
- Thằng
Chó Đẻ của Má
- Thằng
dân
- Thằng
đi mất biệt
- Thằng
Khùng
- Thầy
Năm Chén
- Thèm
- Tiết
Nhơn Quí
- Tóc Trắng
- Tô
cháo huyết
- Tôi đi
bầu
- Tôi nằm
gác tay lên trán
- Tôi…
xém làm kép cải lương
- Vẫn
Còn Cái Gốc
- Viết một
chuyện tình
- Vọng cổ
buồn …
- Xíu.
2. Vĩnh biệt nhà văn Tiểu Tử
Người ta hay hỏi tôi: “Quê ông ở đâu?” – Câu hỏi nghe giản dị, mà
trả lời thì… khó hơn đi thi vô Petrus Ký. Bởi lẽ, cái quê của tôi, cái chỗ chôn
nhau cắt rún, tôi đã bỏ ra đi từ lâu, từ cái thuở biển dâu, thời cuộc cuốn người
ta ra khỏi vòng tay của ngõ xóm, của hàng dừa, hàng cau, của mái nhà lợp lá. Ấy
thế mà, mỗi đêm khi nằm trên chiếc giường ấm áp, tôi vẫn thấy quê hương trở lại,
rõ mồn một, như một bức tranh khắc sâu trong ký ức: nghèo trớt mùng tơi, mà vẫn
thương, vẫn nhớ đến xót xa.
Có anh bạn văn thường nhậu nhẹt với tôi, hay hỏi vặn:
- Khi
nào ông “dìa” quê?
- Muốn
“dìa”, nhưng đâu biết quê đâu mà dìa!
Ảnh cười khề khà:
- Thôi
thì ông tấp về quê tui đi, ngay đất Tân Định nè.
Nghe vậy mới ngớ người ra. Té ra, đối với ảnh, quê không phải là xứ
khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn muối, mà chính là mảnh đất Sài Gòn nơi mình cất
tiếng khóc chào đời. Cái quê ấy có mùi khói thuốc rê, có tiếng guốc mộc của các
bà, có những con hẻm nhỏ mà tuổi thơ rong chơi, đánh lộn tới u đầu sứt trán.
Tân Định – cái đất ấy đã nuôi lớn bao thế hệ. Từ đường Trần Quang
Khải, quẹo qua Trần Nhật Duật, thẳng tới bờ kinh Nhiêu Lộc, những con đường nhỏ
như Đặng Dung, Đặng Tất, Trần Quý Khoách, Trần Khánh Dư, đã in dấu chân của học
trò trường Văn Lang, của những giấc mộng tuổi trẻ. Và cũng từ nơi ấy, bao nhiêu
phận đời đã bước ra, đi khắp năm châu, mà khi tóc bạc vẫn còn ngoái lại, nhớ da
diết từng mái hiên, từng ngọn đèn đường.
Trong số những người đi qua đất Tân Định, có một người đặc biệt:
nhà văn Tiểu Tử.
Ông sinh năm 1930, tốt nghiệp kỹ sư tại Marseille, rồi về dạy tại
trường Petrus Trương Vĩnh Ký vào những năm 1955–1956.
Sau biến cố 1975, ông vượt biên, định cư ở Pháp, và từ đó, văn
chương trở thành cách để ông bắc nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại.
Tôi biết đến Tiểu Tử qua truyện ngắn “Tô cháo huyết”. Và khi nghe
tin ông qua đời trên đất Pháp, lòng tôi bỗng dưng nghẹn lại.
Câu chuyện ông kể tưởng như vụn vặt, mà hóa ra thấm đẫm tình người,
tình quê. Hình ảnh một người ngày xưa, trên đường đi làm về ghé xe cháo huyết của
bà xẩm già ở gần rạp Casino Đa Kao. Bà bày cái nồi cháo nghi ngút khói, với vài
miếng huyết vuông vức nổi lên trên. Ông múc một muỗng, vừa có cháo vừa có huyết,
thổi cho nguội rồi cho vào miệng. Hương vị ấy, dân dã mà ấm áp, như gói cả hồn Tân
Định.
Nhưng đời dân Sài Gòn sau cuộc đổi đời từ nghèo sang mạt sau tháng
Tư năm 1975 đâu phải lúc nào cũng có tiền. Có khi cả tháng rỗng túi, ông né
luôn cái xe cháo của bà xẩm, chỉ vì sợ mình thèm. Cho đến một hôm, bà mời:
- Vô ăn
đi thầy Hai, lâu quá mà…
- Tôi
không có tiền! – Ông đáp, thật thà đến bật khóc.
- Không
có thì cũng vô ăn, chừng nào trả cũng được. Mình quen mà!
Ông viết: “Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghẹn ngang ở cổ, làm tôi
ứa nước mắt.”
Chao ôi! Một tô cháo huyết mà chan chứa nghĩa tình. Nó không còn
là món ăn của bụng đói, mà là của tình người nơi xóm cũ. Để rồi hơn nửa thế kỷ
sau, ở tận trời Âu, ông vẫn còn nhớ như in, nhớ đến nhói tim, nhớ đến mức viết
thành một truyện ngắn để gửi gắm nỗi lòng.
Tôi đọc truyện ấy mà thấy mình rưng rưng buồn trong tấc dạ. Bởi mỗi
người tha hương đều có một “tô cháo huyết” riêng trong ký ức. Với nhà văn Tiểu
Tử, đó chính là xe cháo huyết của bà xẩm Tân Định. Và khi ông kể lại, không phải
chỉ kể một món ăn, mà là kể về một quê hương đã mất, kể về cái tình người Sài
Gòn xưa, kể về một thời mà “ăn chịu” không phải chuyện đáng xấu hổ, mà là biểu
hiện của tin cậy, của chia sẻ, của đồng bào.
Tin ông mất khiến tôi buồn như mây chiều trôi. Hình dung nơi nghĩa
trang lạnh lẽo ở Pháp, có một nấm mộ mới của một người từng viết: “Tôi đi để lại
đường xưa.” Đường xưa ấy chính là Trần Quang Khải, Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Văn
Giai, Bùi Hữu Nghĩa… những con đường quanh Tân Định, đã nuôi dưỡng tâm hồn và
văn chương của ông.
Có lẽ, trong giây phút cuối đời, ông vẫn còn nhớ tô cháo huyết năm
nào. Và chúng tôi, những kẻ hậu sinh, đọc văn ông mà thấy trong cổ họng mình
cũng nghèn nghẹn, như chính ông đã nghẹn ngày xưa.
Giờ ngồi viết những dòng này, tôi nhớ tới bạn bè, nhớ tới những buổi
nhậu lai rai mà kể chuyện quê xưa. Tôi nhớ tới cảnh học trò chen chúc thi vào
Petrus Ký nơi dạy của nhà văn Tiểu Tử với cái tên Võ Hoài Nam tiền định sống phải
xa quê.
Tôi nhớ tới nhà văn Tiểu Tử, một kiếp người long đong phiêu bạt,
nhưng đã kịp để lại cho đời những trang văn chan chứa tình quê, tình người. Cái
tên “Tiểu Tử” nghe thì nhỏ nhoi, mà văn ông lại lớn lao, bởi ông đã nói hộ cho
cả một thế hệ lưu lạc: quê hương không bao giờ mất, nó sống mãi trong từng mùi
vị, từng ký ức, từng khói bốc lên từ nồi cháo huyết chiều nào.
Thưa Thầy, ở phương trời xa ấy, xin Thầy an nghỉ. Trần gian này
thiếu vắng Thầy, nhưng những dòng chữ Thầy để lại, những ký ức về một tô cháo
huyết bình dị, sẽ còn sống mãi. Để cho những đứa con xa quê, mỗi lần nhớ Sài
Gòn xưa, lại tìm thấy bóng dáng mình trong câu văn mộc mạc mà rưng rưng của Thầy.
Hu hu… Tôi viết mà mắt cứ nhòa đi.
No comments:
Post a Comment