Những ngày tháng Tư đúng là không quên
được. Hàng năm cứ vào khoảng thời gian này, luôn trong lòng thôi thúc tôi viết
một cái gì đó, nhưng bao điều đã viết ra hết rồi. Đành lấy bài viết xưa post
lên đây, để chúng ta nhìn lại, và có thể, nhỏ chút nước mắt khóc thương cho miền
Nam xinh đẹp của chúng ta đã lọt vào tay Cộng Sản.
Ngày 24 tháng 4 năm 1975
Buổi sáng, trời còn tối đen đã ba lô
súng đạn lên GMC đi về hướng Trảng Bàng, Tây Ninh, nửa đường thấy pháo 130 ly nổ
dọc theo quốc lộ, nó bắn để thị uy chứ xóm ấp hai bên đường đâu có đơn vị bạn
nào ở đó, chỉ trúng sập nhà chết dân thôi.
Tiểu đoàn đổ quân xuống Lộc giang để giải
toả xã này. Nếu không được thì một đại đội của tiểu đoàn bạn nằm ngoài trại Tân
Hoà cạnh bờ sông Vàm Cỏ Đông sẽ đi đứt vì mấy ngày nay bị pháo dữ lắm. Thằng em
cũ của mày đấy. Chắc mày mắc nợ nó. Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng nói.
Đoàn văn Tiến- Tiến râu - đại đội phó của
tôi trước kia, bây giờ qua làm đại đội trưởng của tiểu đoàn khác, lòng vòng rồi
cũng gặp nhau. Nó bị vây mấy ngày rồi. Nghe nó báo qua máy truyền tin. Pháo dữ
lắm anh, anh không vô được chắc mấy thằng em bị thương hôm giờ chết hết quá.
Quên nói nó cũng là anh em kết nghĩa với tôi. Dân Huế, râu quai nón, uống rượu bằng
tô. Ngang tàng không ai bằng.
Buổi chiều tối. Tiến quân qua cánh đồng
ruộng khô bị khựng lại, liên đoàn báo xuống trên hướng tiến quân có đồn nghĩa
quân bị đóng chốt ngay bên ngoài vòng rào, chỉ có hai ba chốt thôi nhưng mấy
anh nghĩa quân chịu trận không ra được. Tiểu đoàn trưởng nói đào hố nằm. Đêm xuống,
ông kêu bên trong đồn nằm yên không được nhúc nhích bắn chác gì hết. Ngoài này
ông đích thân cầm ống dòm hồng ngoại tuyến chỉ huy trung đội thám báo bò vào
đánh lựu đạn.
Ngày 25 tháng 4
Cả tiểu đoàn nằm lại bố trí chờ cho dân
trong xã chạy ra, không nhiều lắm vì tụi nó kềm chế, không cho dân di tản.
Nhưng vẫn phải chờ vì nếu vào sẽ đụng lớn, chỉ chết dân thôi. Lúc này pháo 130
li từ hướng Đức Huệ bên kia sông bắn qua, và từ Chà Rầy mật khu Bời Lời bắn tới.
May sao từ sáng đến giờ chưa có em nào bị dính miểng. Pháo 130 li miểng nào miểng
nấy bằng cái tô. Có điều họ cũng không bắn vào trong xã. Chắc tại họ đặt bộ chỉ
huy trong đó, còn những đám chốt quanh làng bắn AT3(hoả tiễn chống tăng) và 82
không giật ra như mưa. ĐM...chắc hồi nào giờ tụi nó không được bắn. Lính chửi đổng.
Từ đầu tháng đến giờ trời không mưa, nắng đổ lửa trên đầu.
Không có đường nào đánh ngang hông. Cả
tiểu đoàn tiến theo hình chân chim vào mục tiêu.Pháo nhiều quá. Dễ chừng có đến
ba vị trí pháo 130 li đang thả dàn bắn TOT( time on target) vào chúng tôi. Lên
được chút nào thì đào hố nằm lại chịu. Hai cây 155 của sư đoàn 25 nằm ở sân
banh gần thánh thất Cao Đài bị pháo trúng nổ tan tành, pháo 105 của quận Trảng
Bàng cũng bị không khá gì hơn. Bây giờ chỉ còn đánh bằng hoả lực cơ hữu và tác
chiến cá nhân mà thôi.
Ngày 26 tháng 4
Đào hố cá nhân nằm hai bên con đường,
pháo bắn lai rai dọc theo đường và bìa xã từ sớm đến giờ. Bây giờ thiếu tá tiểu
đoàn trưởng bận rộn với dàn hoả tiễn của "ngài" để phản pháo lại vị
trí của mấy cây 130 li từ bên kia Vàm Cỏ Đông bắn qua. Hoả tiễn xin bên mấy xếp
của Không quân. Phóng bằng ống phóng của trực thăng đặt trên xe Dodge. Hôm đóng
quân trong nhà máy đường Hiệp Hoà năm trước, ông chỉ tấm bảng đồng ghi tên vài
nhân viên trong nhà máy. Mày nhớ chỗ này nghe. Kiếm cho tao cái cưa sắt. Làm gì
thiếu tá. Ăn trộm chứ làm gì mày. Đêm đó hai anh em ngồi cưa được một miếng lớn
bằng hai bàn tay. Mấy hôm sau ngài ngồi hì hục mài đục dũa cả ngày. Sau đó ông
hớn hở đưa tôi xem công trình hoàn tất là một bảng chia độ cái máy nhắm tự chế
cho giàn phóng hoả tiễn của ông. Bắn xa vài cây số không biết sai lệch ra sao.
Chứ lúc đánh "chốt, tầm xa 4,5 trăm thước bắn không trật chút nào.
Trong khi người dân chạy tán loạn từ Tây
Ninh về Sài Gòn, thì em chạy ngược dòng người, một mình một xe lên kiếm chồng.
Không biết làm sao mà cũng mò ra hậu trạm.
Trung uý Trình- đại đội trưởng Chỉ Huy
Công Vụ chở em đến chỗ tôi đang bố trí quân. Đang pháo thế này mà chạy xe lạnh
mỏ ác quá. Trình càu nhàu. Ông đặc biệt lắm thiếu tá mới để bà ấy vô chỗ này
đó.
Nhảy xuống hố cá nhân ngồi nói chuyện
trong lúc pháo rải rác khắp nơi, em nói: anh ơi về với em đi. Ở Sài Gòn người
ta đi nhiều lắm.
Tôi chỉ cho em thấy 3 trung đội đang bố
trí phía trước. Em nghĩ, anh là cái đầu mà dễ dàng bỏ đi vậy à. Em im lặng, nắm
tay tôi. Em rất buồn và lo lắng, lúc nào cũng mang vẻ chịu đựng.
Chở em ra ngoài quốc lộ 1, pháo 130 li của
chúng nó vẫn bắn dọc theo hai bên đường. Lạ cái là xe đò vẫn chạy. Với dân
mình, chiến tranh một lúc nào đó đã làm con người chai lì và cứng cỏi ít có người
dân nước nào sánh kịp. Tôi đưa em lên xe. Vì không dám để em chạy Honda một
mình trên đường với quá nhiều bất trắc. Chiếc xe sau này lúc kéo quân đi, phải
gởi lại Tha La xóm đạo. Mất.
Ngày 27 tháng 4 năm 1975
Chiếm được mục tiêu hoàn toàn vào buổi
chiều. Có một chiếc Tinh Long C119 yểm trợ rất chăm chỉ cần mẫn. Đào hố nằm nghỉ
lại trong làng, bên cánh trái có tiểu đoàn 1/50 của sư đoàn 25. Cũng nhẹ bớt phần
nào. Đi vòng quanh kiểm soát, thấy nhà cửa, dân chúng thật là bi thảm. Thiếu tá
Tiểu Đoàn Trưởng kêu tôi đi với ông ra bìa làng, trèo lên xà ngang của một căn
nhà ngói lớn trổ mái ngói trên nóc nhà, quan sát mục tiêu để vào cứu "thằng
em". Chắc tiền sát viên của họ trông thấy, nên bắn gần chục trái 130 li
xung quanh. Hai anh em bị sức nổ ép rớt từ trính nhà xuống. Nằm một hồi mới lóp
ngóp bò dậy được. Phước đức ông bà không bị sao cả.
Nhưng nỗi lo là làm sao vào cứu "thằng
em"ra được. Từ bìa làng tới căn cứ đó là một cánh đồng ruộng khô rất lớn.
Chạy hết tốc lực may ra tấp vào được mấy bờ đê. Còn không thì đưa lưng ra cho
pháo dập chắc chết hết.
Rồi đến sẩm tối, sau cả ngày bò lăn, lê
lết trên cánh đồng, cũng đánh bật hết các chốt chung quanh căn cứ Tân Hoà,
"bắt tay" được với thằng em bơ phờ râu ria hốc hác. Nó bị vây và pháo
gần nửa tháng chứ ít gì. Anh biết không? Đất trong trại bị pháo riết rồi tơi
như cát hết. Nó nói. Mừng cho nó là không có binh sĩ nào chết. Chỉ toàn bị
thương. Không có chú nào bị nặng lắm. Nhưng cũng chở đầy một xe GMC thương
binh. Đại đội tôi bị thương tám binh sĩ và một chuẩn uý mới ra trường bị thương
vào đầu gối. Từ hôm 24 đến giờ chỉ toàn bị thương. Không có ai chết. Hên quá.
Ngày 28 tháng 4 năm 1975
Trung tâm hành quân cho biết là khu ngã
ba Vựa heo, tức phía sau lưng, bị Việt cộng đóng chốt. Nên tiểu đoàn 1/50 được
lệnh quay trở ra đánh giải toả. Có nghĩa là chúng tôi sẽ nằm trong tình trạng
khó khăn hơn với mục tiêu phía trước, địch nằm sau lưng. Rồi khi tiểu đoàn đó
ra tới thì nghe trong tần số hành quân những chuyện buồn ngoài dự đoán, là viên
trung tá tiểu đoàn trưởng dẫn quân ra thay vì đánh giải toả, thì lại đầu hàng địch
quân. Tiểu đoàn trưởng nhận toàn những tin không vui, ông than thở: chúng nó
đánh giặc như c...Thấy tình hình mà tao muốn tự tử quá. Pháo bắt đầu nặng hơn.
Lúc lội qua một con kinh đào, đại uý Phong tiểu đoàn phó đang đứng trên bờ la
hét thì bị một trái 130 li nổ bên bờ kia, hơi ép rơi cái ầm xuống kinh. Mấy thằng
em vội vàng nhảy xuống lôi lên. Nghĩ lúc đó tưởng cha này thế nào cũng khó nuôi
rồi. Té ra vẫn ngoác miệng nà nà nắm nắm. Ông thần này nói ngọng không chịu được.
Nờ thành lờ, lờ thành nờ. Nghe là thấy buồn cười. Mà cả đám lúc đó cười thiệt.Hình
như tới một giới hạn nào. Chuyện sống chết đều coi thường. Cười giỡn như không.
Dù rằng có lúc cả đám mặt dài ra như mặt ngựa. Nhưng chẳng phải thằng nào cũng
ngon lành. Hồi sáng sớm trung uý Hiền, đại đội trưởng đại đội 2 thay đồ dân sự
đào ngũ, bỏ đại đội của nó bơ vơ, trốn mất tiêu. Trong khi nguyên đại đội lính
tráng còn nguyên không mất ai.
Vẫn còn chiếc Tinh Long C119 bao vùng bắn
yểm trợ. Nhưng đột nhiên, lúc đó khoảng 9 giờ tối, khi chiếc này đang chăm chỉ
bắn thì cả một rừng đạn phòng không bắn lên nổ như sao trên trời. Đến lúc đó
chúng tôi mới biết là Bắc quân đã ở đầy quanh Đức Huệ. Chắc phải vài chục khẩu
phòng không bắn lên chứ không ít. Giờ này mới ló mặt ra, chắc để dằn mặt thị uy.
Khoảng 11 giờ đêm, nghe tiếng xe tăng từ phía bờ sông Vàm Cò Đông khoàng cách
hơn cây số đường chim bay. Tụi nó qua sông. Xe tăng mở đèn sáng choang như ban
ngày không chút e dè. Mẹ! Đất nước mình mà nó chạy rần rần coi mình như pha. Tất
cả chuẩn bị M72, và lựu đạn. chuẩn bị tử chiến. Nhưng cuối cùng bọn nó chuyển
hướng không đi ngay mình mà đi về Đức Huệ.
Lầm lủi trong đêm. Chúng tôi quay ngược
trở ra để giải cứu cho bộ tham mưu chi khu Trảng Bàng. Pháo bên địch cứ bắn 3
trái nổ thì lại bắn 1 trái sáng, suốt cả mấy tiếng đồng hồ liền, chắc để họ
quan sát xem bên trong có di tản không.. Lúc trung đội thám báo đang cắt dây kẽm
gai để bên trong có đường ra. Bên trong pháo binh của mình bắn trực xạ ra hai trái.
May mà không có ai bị thương. Khi trước đó đã liên lạc rất chặt chẽ rồi. Chẳng
hiểu bên trong họ làm cái gì.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975
Kéo quân vào trú trong Tha La xóm đạo. Tới
giờ thì đã hoàn toàn mất liên lạc với những đơn vị chung quanh, kể cả trung tâm
hành quân. Kệ, cứ kéo vào quán uống cà phê cái đã. Tha La cảnh đẹp thật, vào đó
mát rượi với những khóm Trúc hai bên con đường làng. Hèn chi được Dzũng Chinh
đưa vào nhạc.
Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng dự tính sẽ đặt
mìn giật sập cây cầu từ ngoài bưng vào Tha La, để bộ binh và tăng của Bắc quân
không vào theo ngã này được. Nhưng sau thấy chỉ thiệt hại cho xã và dân. Nên
thôi.
Chợp mắt được hơn tiếng đồng hồ sau mấy
ngày không ngủ. Sẽ di chuyển đêm để về Hóc Môn lập phòng tuyến cuối cùng
Điều đáng nói là khi đơn vị triệt thoái.
Ngoảnh nhìn lại lần chót ráng chiều tuyệt đẹp khắp tàng cây cọng cỏ, trên những
rặng Trúc vàng khắp Tha La. Phía ngoài xa kia, nơi đầu cầu bìa làng. Tôi thấy
trong đồn nghĩa quân, người lính vẫn ngồi trên vọng gác. Và tôi biết chắc rằng,
anh hẳn đã nghe tường tận những gì diễn biến qua đài phát thanh Sài Gòn mấy
ngày nay.
Đó là hình ảnh cô đơn, lẻ loi nhất,
nhưng cũng đầy ấn tượng bi hùng nhất mà tôi không bao giờ quên được. Đó chính
là những gì mà người ta hay nói về. Đó là Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975
Đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4. Toàn đơn vị
di chuyển về hướng Hóc Môn, ngoại ô Sài Gòn với mục đích lập một phòng tuyến tử
thủ, cho dù liên lạc vô tuyến với trung tâm hành quân và các đơn vị bạn không
còn nữa. Đâu khoảng xế trưa mở radio nghe thấy Trịnh Công Sơn hát Nối vòng tay
lớn mà không khỏi chửi thề. Cả tiểu đoàn đi âm thầm dọc theo bưng Thái Mỹ,sau này
nghe nói có tên là nông trường Lê Minh Xuân. Anh và một số sĩ quan mà tôi không
rõ đơn vị đi theo đại đội chúng tôi. Đến ba giờ chiều thì chạm địch. Anh bị đạn
trúng ngực. Biết là không thể sống được trong tình trạng tuyệt vọng đó, anh nói
tôi giữ cái bóp giấy tờ để đưa lại cho vợ của anh. Tôi đã nợ anh một lời hứa và
xin anh tha lỗi. Vì đến cuối ngày khi tôi bị bắt thì tất cả những đồ đạc giấy tờ
cá nhân, áo trận có cấp bậc của mọi người bị lột xuống chất thành đống và họ đã
đốt tất cả. Tất nhiên cái bóp giấy tờ của anh cũng chung số phận. Tôi không
quen anh để biết nhà hầu sau này có thể tìm kiếm. Chỉ biết anh là đại úy Lê văn
Cang (hay Can ??) trưởng ban 3 Hành quân của quận Trảng Bàng. Xin lỗi chị Cang
rất nhiều. Cũng không biết chị có còn sống sót qua cơn binh lửa đó hay không.
Ngày ra tù tôi cũng cố gắng hỏi thăm, nhưng biết đâu mà tìm trong thời điểm đó.
Thôi, nếu chị còn sống và nếu tình cờ đọc note này, thời gian qua đi tôi nghĩ
những đau đớn cũng đã phai nhạt, nhưng nếu chị rơi nước mắt nhớ anh, thì cũng
an ủi là trong giờ phút cuối cùng anh Cang vẫn nhớ đến chị và các con: “anh đưa
giùm cho vợ tôi, nói là tôi yêu bả”.
Đại đội tôi trong thời điểm cuối này nhiều
người đã bị thương rất nặng, tôi không nghĩ họ sẽ được chữa trị và sống sót. Những
thương binh đang điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hoà còn bị đuổi ra ngoài, huống
hồ những kẻ bị thương ngay tại trận địa. Xem ra tôi đã mắc nợ và có lỗi với rất
nhiều người.
Còn về thiếu tá tiểu đoàn trưởng. Ông đã
không vào cùng chỗ với chúng tôi, mà băng trong lau sậy của bưng Thái Mỹ về nhà
gần Sài Gòn. Đó là một quyết định khôn ngoan. Ông quá nhiều chiến công. Bắt được
ông, điều chắc chắn đó là cái chết.
Ngày đó 2 tháng 5.
Tôi và những người bạn sĩ quan bị bắt
vào giờ thứ 25, đêm 30-4 tập trung tại một trường học. Trưa ngày 1 tháng 5 được
ra gặp em. Em mắt khóc tiều tuỵ, đứng cách nhau hàng rào kẽm gai. Mất nước rồi
anh ơi. Câu nói lập đi lập lại của em ngập với chan hoà nước mắt, được đứng với
nhau 15 phút ngắn ngủi, chẳng nói được với nhau thêm điều gì. Cuối tháng chưa có
lương, chỉ có đúng mười ngàn đưa cho em vì biết chắc rằng sẽ chẳng có gì để mua
bằng tiền của miền Nam Việt Nam được nữa.
Sáng 2 tháng 5 . Bị dẫn đi về hướng bờ
sông Vàm Cỏ Đông. Không biết sẽ đi đâu, chúng dẫn đi dọc theo thị xã, vẫn có
người dân chạy theo dấm dúi cho chúng tôi chiếc áo, đôi dép, mặc cho đám vệ
binh hầm hừ quát tháo. Nhớ hoài cô bé mặc chiếc áo sơ mi còn huy hiệu của trường
trung học, chạy theo đưa cho tôi chiếc bánh tét và đôi dép, nước mắt đầm đìa:
Anh ơi, mất nước rồi. Y hệt như câu em của tôi hay nói.
Cuối cùng sau hơn nửa tháng đi bộ, băng
qua những xóm làng giáp biên giới bị Việt Cộng chiếm từ 72. Những đứa trẻ ốm gầy
khẳng khiu, quần áo tả tơi nhưng vẫn chạy theo đám tù binh ném đá và chửi: Tù
binh ngoan cố. Chúng tôi tới một trại tù nằm bên kia biên giới Miên, giáp Phước
Long. Trại tù đầu tiên của nhiều lần chuyển trại tù sau đó. Trại Nước ngập. Cái
tên nghe nhiều khủng bố đe doạ. Bước vào trại, kinh hoàng thêm khi nhìn thấy những
thân hình gầy guộc,với những khuôn mặt xanh xao như ma đói, không còn chút sinh
khí nằm trên chõng tre, sâu dưới tàn lá của cây rừng rậm rạp, mà tia nắng mặt
trời không qua lọt. Nơi đây đã giam giữ những người tù binh trong chiến tranh.
Tôi và em. Đến khi gặp lại nhau lần đầu
tiên khi được thăm của tháng 8 năm 1977. Mới biết rằng trong buổi sáng ngày
tháng 5 tang thương đó. Khi đoàn tù binh bị dẫn đi trước đó khoảng nửa tiếng.
Em đã chạy theo tôi băng đồng, qua suối, qua những trảng ruộng khô nắng bốc
khói của ngày tháng 5 để mong được nhìn thấy chồng lần cuối. Vì biết đâu sẽ
không bao giờ thấy nhau lần nữa.
Thương em như câu hát: ơn em thơ dại từ
trời, thơ dại từ trời, từ trời theo ta, theo ta từ trời. Xuống biển lượm đời,
lượm đời ta lên ...
Em tôi ngày ấy. Trong binh biến tao loạn
mà chạy từ Sài Gòn xuống kiếm chồng nơi mịt mù bom đạn bất kể sống chết. Và tôi
chắc chắn rằng trong thời gian đó. Cũng có trăm ngàn người vợ lính cơm nắm cơm
gói, không quản thân mình cam go cùng khổ để kiếm cho ra người chồng lính của
mình, dù rằng chỉ còn là một thân xác rữa nát.
Nguyễn Khôi Việt
No comments:
Post a Comment