Tác giả Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ là giáo
sư Y Khoa Paris Pháp Quốc.
Trung
Sĩ VŨ TIẾN QUANG Cái Bóng Của HOÀI VĂN VƯƠNG TRẦN QUỐC TOẢN
Vũ Tiến Quang sinh ngày
10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là hạ sĩ địa
phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an
ninh của quận, Hạ Sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà
vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị
Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu
dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành
chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời
sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.
Quang
học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích
đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong
lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hoà có đăng
bài: “Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ”, bài
báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra
trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc Thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31,
sư đoàn 21 Bộ Binh) mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện. Quang nảy ra ý
đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh
ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại
trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua
cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang.
Quang nghĩ: “Mình phải như anh Minh”.
Chiều
hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho
mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, vì Quang là
con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần
Minh thì…nguy lắm. Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm
thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha
phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là địa phương quân thì không được. Minh
từ chối:
- Em không muốn nói dối
cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu
vào trường Thiếu Sinh Quân, thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia
đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.
Chiều
hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân.
Đã không giúp bà Đức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà
thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến
phòng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong phòng 3
Tiểu Khu, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo
làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý, thì mình sẽ mất thằng em dễ
thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng trình bầy trường hợp
của Quang. Thiếu Tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng
Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang.
Tháng
8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải
thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang
trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
Quả
thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng
lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những
giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang
lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và
học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ
lục, mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố
vấn Mỹ.
Giáo-sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng
để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu :
“Nhân
sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”
(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).
Quang
thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.
Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết
về các anh hùng : Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân,
giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần
Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm
phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh
thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm
Suốt
các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu
bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện
để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể
truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra
trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út
quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ
Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế
này:
Hè
1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc
sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được
các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời.
Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như
một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em
ngoan ngoãn, các ông chiều…cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng
dẫn Quang theo.
Trong
môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau. Đơn vị mà
Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một
thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang
lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông
dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu
thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa
là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong
máy.
Trung đội tiến vào trong làng thì lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ lực
miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao
tranh được mười phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang
đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì
Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy
trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang.
Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực
thăng võ trang nã vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân
hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.
Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi
pháo binh, không quân yểm trợ, thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng
cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh
Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu,
đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20
thước. Quang đã được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nã
vào trận địch, nhiều rocket (hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm
những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.
Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà
không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực,
may nhờ có áo giáp, bằng không thì Quang đã ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bẩy
trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám.
Trung-tá J.F. Corter,
cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận
lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi
- Hummer chết lúc 11.15
giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?
Vì được học kỹ về tinh
thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay
Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính
người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột
ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra
trận.
Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì “Không
có tư cách mà lại chỉ huy”. Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn
31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng,
nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng
không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp
trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp
năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương
Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17 !
Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung
sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn
phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn
của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự
thực.
Trung
đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng
Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu Tá Nguyễn
Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân
cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân
trong tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến trình diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp
nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.
Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:
- Ê ! Quang, nghe nói mày
lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao
tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?
- Dạ, đạn Việt-cộng thì
không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.
- Móng tay tao, đâu phải
vuốt?
- Dạ, người ta nói anh là
cọp U Minh Thượng…Thì vuốt của anh phải sắc lắm
- Hồi đó suýt chết, thế
bây giờ ra trận mày có sợ không?
- Nếu khi ra trận anh sợ
thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu
?
- Thằng này được. Thế mày
đã trình diện anh Thời chưa?
- Dạ anh Thời-thẹo không
có nhà.
Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời,
tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám
gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả
Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó
anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những
người xung quanh.
Bấy giờ tin Trần Minh đã
đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người
hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu
truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.
Tại sư đoàn 21 Bộ Binh,
tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ
được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đã quen với chiến
trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang
được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung
sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui lòng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!
Sáu
tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng
chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành
nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm
ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được
thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại
Việt Nam…huấn luyện. Quang đã được Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm
chiến trường:
“Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu
đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các
đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật
thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu
thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai
bên xung phong. Nếu yếu thế, thì chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, thì sẽ
dẫm phải mìn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với
chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu
xung phong, thì dùng vũ khí cộng đồng nã vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng
chạy, thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung
phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công”
Bây giờ Quang có dịp áp
dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo
chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo
binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đã tấn công vào trong làng. Vừa
tới bìa làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang
thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm
mét. Đến đây, thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách
nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh
im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200
thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn.
Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:
” Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi
hãy bắn trả “.
Sau gần 20 phút, thình
lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra.
Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong
khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt
đạn, toàn bộ phòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm,
binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai
khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong
một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô :
- Ra khỏi hầm, dơ tay lên
đầu ! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.
Cánh cửa hầm mở ra, mười
tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt
dàn dụa.
Đến đây trận chiến chấm dứt.
Thì ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ.
Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.
Sau trận này Quang được
tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh
với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh
trường Đoàn Thị Điểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi,
học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau.
Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo
quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống
Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu.
Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý : Đợi năm tới, Quang xin học
khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, thì cho cưới nhau.
Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử…
Tình hình toàn quốc trong
tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2
rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan bộ
Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ còn mười
người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào
bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện trình diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi :
- Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975,
viên tướng mặt bánh đúc, đần độn, giết chu ̉ , tướng Dương Văn Minh
phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-hòa buông súng đầu hàng.
Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với
gia đình. Một vài đơn vị lẻ lẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị
Dù tại Sài-gòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.
Đúng lúc đó tại Chương
Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy
các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đã nằm
trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra
lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:
“Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách
của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu”.
Nhưng
đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn vì mất
tinh thần. Chỉ còn lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một
đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ ham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79
hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy.
Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại
liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản
vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu
trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.
Bấy giờ đúng 15 giờ.
Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có
nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
-
Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?
Đại Tá Cẩn trả lời bằng
nụ cười nhạt.
Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn:
- Thưa đại tá, tôi không
biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp
chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, thì tôi không thể cãi lệnh.
Cộng quân thu nhặt xác
chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với
Đại Tá Cẩn:
- Chúng mày là hai tên
ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội.
Đại Tá Cẩn vẫn không trả
lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:
-
Đại tá có lý tưởng của đại tá, tôi có lý tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx,
theo Lénine; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi
vẫn giữ lý tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá
lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy?
Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản ?
Viên đại tá rút súng kề
vào đầu Quang:
- Đ.M. Tao hỏi mày, bây
giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?
-
Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học
trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng
đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại tá
không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.
- Đ.M. Mày có chịu nhận
mày là tên ngụy không?
- Tôi có chính nghĩa thì
tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc
cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng,
như Nguyễn Biểu.
Quang cười ngạo nghễ:
-
Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục vớí tôi? Ừ!
Muốn mày tao thì mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng
vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M.Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày
trả lời sao?
Một tiếng nổ nhỏ, Quang
ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ
cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó
là nụ cười gì? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cưòi đó mang ý
nghĩa nào? Nụ cười hối hận ? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười
thỏa mãn?
Ghi chú :
Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật
cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang
4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô
là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại
Marseille.
Cái
lúc mà Quang ngã xuống, thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng
một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến
ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị
Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang
bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.
Chôn
Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một
buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, thì thấy Châu
trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn
đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.
Năm
1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu
(CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique) , tôi đem J.M Bodoret cùng đi,
Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ
Sài-gòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ
thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà
biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như
mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối.
Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thì mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi
cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức.
Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người
lãng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm.
Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.
Ngôi mộ của ông Đức, của
Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:
“Nơi đây AET Vũ Tiến
Quang, 19 tuổi,
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng”
Giấc mộng của Quang mà
tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng.
Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta
có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.
Paris ngày 13 tháng 4 năm 1999.
Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ.
Ông Trần Đại Sỹ không phải là giáo sư y khoa. Người ta còn nghi ngờ ông có phải là BS thật hay không. Có một bài viết về vấn đề này trên báo cách đây nhiều năm.Ông làm "BS" châm cứu. Nhưng châm tầm bậy tầm bạ, nổ với bệnh nhân, nổ nới chốn đông người, v.v.. tôi đã tới phòng mạch của ông và nghe ông trả lời đt bằng tiếng tây bồi thấy lạnh xương sống luôn. Luôn cà cái tên Đại Sỹ (tức Phật Bà Quan Âm ) cũng do ông tự gán, không phải tên thật.
ReplyDelete(Những người đậu bs trước 75 ở VN sang Pháp được hành nghề trở lại. Nên có một số bằng giã).
Toi khong co y kien ve binh luan tren day, nhung bai viet nay thi toi tin la co that. VC bay gio van con " NE ,SO" nhung cuu Thieu Sinh Quan vi y chi cua ho. Toi khong phai la TSQ , nhung toi biet nhieu ve TSQ va toi tin vao y chi cua ho > Nhung TSQ Vung TAU da lam cho don vi CS tiaen chiem truong cua ho phai veu dau sut tran, truoc khi VC lay dupc truong
ReplyDelete