Cổ nhân ta vẫn thường
nói tới chu kỳ kín của đời người “Sinh, Lão, Bệnh, Tử.”
Vâng: có sinh thì có tử, nhưng “sinh thì hữu kỳ,
tử thì vô hạn.” Nặng bụng cưu mang chín tháng mười ngày là biết rằng con sẽ
“nhập thế cuộc,” chào đời. Còn mặc áo mới vĩnh viễn ra đi thì chẳng biết khi
nào, ra sao.
Sinh ly, tử biệt. Vào đời là tạm thời chia ly với
cơ thể người mẹ. Rời khỏi cuộc đời là tạm biệt với nhân gian.
Hẹn lại cùng nhau gặp ở “cõi thật xa”; Niết Bàn,
Thiên Ðàng, Aara, Elysium, Soma, Jahannan...Hoặc Ðịa Ngục để mặt đối mặt với
Diêm Vương, luận tội kể công.
Với thân xác, bệnh tật thì học giả Ngô Tất Tố đã
thoát dịch bốn câu thơ của vua Trần Thái Tôn như sau:
“Cũng bởi có thân mà có bệnh
Ví bằng không xác quyết không đau.
Phép tiên chớ vội khoe không chết,
Chưa chắc sống lâu thì có ngày phải biệt tử. Ví bằng không xác quyết không đau.
Phép tiên chớ vội khoe không chết,
Thuốc thánh còn chưa chắc sống lâu.”
Mà Voltaire đã nói, “Lúc ta chào đời là đã một
bước đi về cõi chết.” Ðúng chăng là con người bắt đầu chết ngay từ lúc sinh ra
và trong chu kỳ kín, cái kết cuộc nối liền với khởi điểm.
Guillaume Amerye (Abbé de Chaulieu) thì rõ ràng
hơn, “Cái chết chỉ là sự kết thúc cuộc đời; Nỗi thống khổ, niềm sung sướng
không cùng mang theo.” Với Napoleon Ðại Ðế, “Chết là giấc ngủ không mơ” và
Shakespeare, “Kẻ nào chết rồi là sạch nợ.”
Nói vậy thì chết cũng đơn giản như sinh, đôi khi
ồn ào, lộn xộn hơn.
Có người đã ví sự chết của cơ thể như sự tắt của
một nhà máy với những động cơ, giây điện. Nhà máy không im lặng ngưng hoạt động
khi ta ngắt nút kiểm soát tắt mở mà mọi bộ phận còn cót két rên rỉ kêu trong
khi chậm lại rồi ngưng.
Ngoại trừ bất thần chết vì tai nạn, thương tích
hoặc cơn dột quỵ suy tim, cơ thể cũng cót két, rên xiết trước khi sự sống hoàn
toàn ngưng.Vì thế Dylan Thomas có nhận xét rằng, “Chúng ta không nhẹ nhàng đi
vào tử biệt mà thịnh nộ, nổi khùng trước sự tắt lịm của ánh sáng.”
Nhưng có người tin rằng ở nội tâm thì lại bình
an. Tuy ồn ào nhưng sự chết luôn luôn xác thực. Nhiều người đã tìm được bình an
và chân giá trị trong sự xác thực này.
Tư Mã Thiên có ghi, “Nhân cố hữu nhất tử: Tử
hoặc trọng ư Thái Sơn, hoặc khinh ư hồng mao.(nguoi` ta chac chan’ phai chet,
hoac chet nang nhu nui’ Thai son, hoac nhe nhu lo^ng con chim Ho^ng`)” Do đó
mới có nguời khi đối diện với tử thần thì sợ hãi, phủ nhận, cô lập, giận dữ rồi
năn nỷ điều đình để rồi cuối cùng cũng phải chấp nhận. Vì số trời đã định.
Y giới thường được huấn luyện để cứu chữa bệnh
nhân và kéo dài sự sống trong đó họ đạt được phần thưởng về tinh thần cũng như
tài chánh. Nhưng khi không ngăn chặn được sự chết thì họ hết hứng thú và thường
chuyển sang đối tượng khác. Và nguời bệnh đôi khi bị quên lãng, đơn độc ra đi
trong tình cảm gia đình, tôn giáo.
Mà ra đi thì xác còn đó, hồn đi đâu, chẳng ai
hay. Cho nên Shakespeare đã ví, “Chết chỉ là một cuộc du lịch nhưng chẳng ai
quay trở lại. (chi co ong jesus quay tro lai, nhung lai bay len
troi` song’ tren quy~ ddao trai’ da^t’)” Ðể nói cho nhau biết
chết ra sao, như thế nào, và bên kia vui hay buồn, thái bình hay binh đao, độc
tài hoặc dân chủ...Chẳng ai “báo cáo” nên người tiễn đưa phải suy luận, tìm
hiểu về người ra đi. Ði như thế nào, lúc nào, ra sao.
Từ nhiều thế kỷ, chết được hiểu như là khi con
người mất hết các chức năng sống: tim ngừng đập vĩnh viễn, hơi thở không còn.
Nhưng khi nào thì mạng sống đó được coi như là không còn sống. Ðó là điều mà
giới y, luật gia, triết nhân, các vị học giả, thường dân, người làm chính trị
đã và đang ồn ào, hăng say thảo luận, góp ý.
Vì tạm thời tim ngưng đập, hơi thở gián đoạn
khoảng 6 phút mà các bộ phận sinh tử chưa bị tổn thương, con người tưởng như đã
mãn phần thì y học hiện đại đã phục hồi được các chức năng và cứu sống nhiều
người.
“Vì vậy tiêu chuẩn não-tử (brain death) được
thêm vào.
Não là trung tâm của hệ thần kinh.
Cuống não kiểm soát các chức năng duy trì sinh
lực của các cơ quan, bộ phận.
Não trên điều hòa ý nghĩ, trí nhớ, tình cảm con
người.”
Năm 1968, Ðại Học Y Khoa Harvard đề nghị bốn
tiêu chuẩn cho não tử:
a. Không đáp ứng với cảm giác sờ mó, âm
thanh và các kích thích ngoại vi;
b. Không còn cử động và không còn hơi thở tự
phát (spontaneous breathing);
c. Không cón tác động phản xạ.
Phản xạ (reflex) là một sinh hoạt tự động hay
không chủ ý do một vòng thần kinh tương đối đơn giản gây ra mà không nhất thiết
liên quan tới ý thức. Chẳng hạn khi dùng kim chích nhẹ vào tay một người, thì
kim đau sẽ gây ra cử động phản xạ tự vệ tức thì để rút ngón tay lại trước khi não có thời
gian gửi cảm giác đau tới các cơ quan liên hệ
d. Không còn ký hiệu não điện đồ hoặc bất cứ
hoạt động điện năng nào từ tế bào não.
Từ năm 1929, bác sĩ thần kinh tâm trí người Ðức
Hans Berger đã khám phá ra là não bộ có những luồng điện phát ra trong khi não
hoạt động. Nhưng khi đó không ai tin. Phải đợi tới khi nhà bác học người Anh
Edgar Adrian cụ thể chứng minh được sinh hoạt điện năng này của não thì mọi
người mới chấp nhận và Edgar được Nobel Prize vào năm 1932 cùng với Sir Charles
Sherrington nhờ kết quả việc nghiên cứu này.
Ngày nay nhiều máy móc tối tân đã ghi nhận được
các sinh hoạt điện năng của não bộ với các sóng alpha, beta, delta, theta. Rồi
lại còn MRI, PET scan ghi lại các tín hiệu cũng như thay đổi hóa chất của não
khi nghỉ cũng như khi làm việc.
Trong tương lai gần đây, chắc là các ý nghĩ thầm
kín của ta cũng sẽ được máy móc tìm ra, đọc được.
Tiêu chuẩn não tử của Ðại Học Harvard cũng không
được mọi giới công nhận là một thử nghiệm để kết luận sự chết. Mỗi quốc gia có
những tiêu chuẩn khác nhau.
Từ năm 1981, Hoa Kỳ định nghĩa chết như sự ngưng
không đổi ngược của toàn bộ não kể cả phần cuống là nơi điều hòa hô hấp, tuần
hoàn và các chức năng khác.Và về pháp lý, các điều kiện trên phải kéo dài sau
12 giờ.
Khi còn ở trong tình trạng thực vật (vegetative
state) thì cuống não còn hoạt động và tiếp tục giúp hoàn thành sự hô hấp, tuần
hoàn và vài nhiệm vụ khác; nhưng phần não trên điều hòa sự suy tư, thu nhận
cảm xúc không còn nữa.
Khi rơi vào tình trạng permanent vegetative
state là tình trạng không có ý thức vĩnh viễn, không đổi ngược trong đó không
có cử động tự ý hoặc bất cứ khả năng nhận biết nào; không còn khả năng chủ ý
truyền đạt hoặc tương tác với ngoại cảnh. Người bệnh đôi khi rơi vào tình trạng nhìn theo mà
không còn biết gì (coma vision).
Cho
nên rơi vào não tử thì ít khi thoát lưỡi hái tử thần dù có cấp cứu tiến bộ tinh
vi; tình trạng thực vật vegetative lại vẫn còn nhờ sự toàn vẹn của cuống não để
điều khiển một số chức năng của cơ thể cho nên có thể kéo dài sự sống vật
vờ cả nhiều năm...
Tử biệt
Maria được Chúa cho tuổi thọ 94, kéo dài sự sống
được 10 năm sau khi người chồng thân yêu của bà bình an vĩnh viễn ra đi trong
một cơn stroke vào ban đêm. Từ đó bà ở với con này con kia mỗi nơi một vài
tháng, nửa năm để bớt đơn côi.
Bà tương đối vẫn mạnh khỏe ngoài vài bệnh thông
thường của tuổi già, rất siêng năng lần hạt mân côi và luôn luôn liên lạc,
khích lệ con cháu trong sự nghiệp, bổn phận đối với gia đình và xã hội.
Mấy tháng gần đây, bà cảm thấy trong người như
không được khỏe cho lắm và bà được đưa vào điều trị tại bệnh viện hơn một tuần
rồi xuất viện, về nghỉ ngơi theo dõi bệnh tình ở Skill Nursing Facility do các
nữ tu dòng Franciscan tổ chức có nhân viên tận tình chăm sóc. Bà enjoy nếp sống
ở đây, tham gia tất cả các sinh hoạt, vui vẻ với mọi người. Bà luôn luôn điện
thoại cho con cháu xa gần, khoe là bà cảm thấy hạnh phúc sung sướng lắm.
Rồi một đêm, người nhà được thông báo là bà cảm
thấy trong người mệt mỏi, ngực hơi đau, khó thở, đầu hơi choáng váng và được
đưa vào phòng cấp cứu. Bà yếu dần, nằm mấy ngày, rồi nhẹ nhàng ra đi trước sự
chứng kiến của các con. Bà đã được gọi về nước Chúa, sau khi đã được chịu các
phép bí tích của giáo hội.
Trong khi đó, sự ra đi của Lão Tam, một người
thân quen trong gia đình, lại có tính cách kinh điển hơn.
Lão được Trời ban cho tuổi thọ gần bát tuần. Ông
tương đối vẫn mạnh khỏe, không bệnh kinh niên, không phải dùng thuốc gì, ngay cả Tam Tinh Hải
Cẩu hoặc nhân sâm, cao hổ cốt...
Nhưng từ nửa năm nay, Lão thấy sức khỏe mỗi ngày
mỗi giảm. Lão không còn sinh lực như mấy năm trước, ít quan tâm tới mọi sự
chung quanh, đôi khi muốn xa lánh mọi người. Khẩu vị giảm, nhai
nuốt khó khăn và ông thấy thực phẩm là không cần thiết. Ông rất sợ khi người
thân ép uống súp, ăn thịt, chỉ sợ bị nghẹn, ói. Có những ngày ông ngủ li bì,
như để tiết kiệm sinh lực cho những chức năng quan trọng.
Ông bồn chồn trong lòng, nằm ngồi không yên như
nhớ như quên điều gì muốn làm muốn thôi, muốn nhắc nhở vợ con. Rồi thở dài,
ngán ngẫm. Vào đêm khuya vắng, ông dường như thấy cha mẹ ông xuất hiện đâu đây,
ân cần nói chuyện với ông.
Có lúc ông lên kinh, chân tay co giật, hàm cứng
lại. Giá có ai bóp tay bóp chân cho mình lúc này nhỉ!
Ông thấy nhịp tim chậm dần, nhẹ hơn. Hơi thở đôi
khi như hụt và nông. Tuần hoàn kém, thân ông giá lạnh vì thiếu máu. Da ông xanh
nhợt. Não thiếu oxy nên ông hay choáng váng mày mặt, kèm theo những cơn nhức
đầu kéo dài khó chịu. Ngượng ngùng hơn là nhiều lần ông không kiềm hãm được
đại tiểu tiện, bài tiết trên giường. Người toát ra mùi hôi;
nước miếng hoen khóe mép, đóng cặn.
Xương thịt, nội tạng ông đôi khi đau nhức, nhưng
không kéo dài lâu. Ông nhớ có người nói, cận tử thì cơ thể tiết ra vài hóa chất
giúp giảm sự đau, sự quằn quại khi mô bào, bộ phận bước vào giai đoạn đau đớn
của sự chết (agony phase of death). Các bộ phận trong hình hài ông ngưng dần,
bộ phận nọ tiếp nối bộ phận kia như những quân bài domino đè lên nhau mà ngả
xuống.
Ông mỉm cười chờ đợi. Một ngày đẹp trời nào đó,
mắt ông sẽ mờ dần, đồng tử mở rộng nhưng bất động, để đón nhận thêm nhiều ánh
sáng. Không gian tối dần, như Victor Hugo than phiền, “Tôi chỉ thấy bóng tối”
hoặc Emily Dickinson, ”..sương mù đang bao phủ quanh tôi.” Bắt chước Goeth, ông
kêu lên, “Light! More light,” (cho tôi thêm ánh sáng) Ðể lần cuối nhìn thấy
cuộc đời. Rồi ông lịm dần, lịm dần.
Chỉ trong vài giờ, cơ thịt ông co cứng, giá
lạnh, xanh lợt. Rồi vài chục giờ sau, cơ thể ông mềm, mô bào tự hủy hoại vì hóa
chất tiết ra, rồi thoái rữa vì đám vi khuẩn trong ruột già ruột non
đua nhau lan tràn phá phách đó đây.
Rồi thân xác này sẽ được chôn cất dưới lòng đất
xâu. Cát bụi lại về cát bụi.
Ông nhớ là cách đây vài tháng, khi linh cảm rằng
sẽ đi xa, ông đã làm di chúc. Xin đừng móc dây móc máy vào người tôi khi tôi
hấp hối. Cho phép tôi ra đi lành lặn như khi tôi tới. Trên giấy tờ hộ tịch sẽ
được ghi tôi chết vì natural cause, rất tự nhiên, điều mà nhiều người mong ước.
Và xin cảm ơn mọi người đã chăm sóc tôi, đã lưu tâm tới “những nhu cầu cận tử”
nhu cầu của người trên ngưỡng cửa tử vong.”
Lão Tam sẵn sàng ra đi.
Như Thomas Edison reo lên bên kia thế giới sao
mà đẹp, “It is beautifull over there!”
Và bình thản đợi chờ như nhà văn lão thành
MặcThu viết nhân chuyến “tiễn đưa” nhà văn Mai Thảo.
“Sân ga một đám đứng chờ tàu,
Toàn bạn già xưa biết mặt nhau.
Toàn bạn già xưa biết mặt nhau.
Tàu chật, có người lên được trước;
Chậm chân, kẻ đợi chuyến tàu sau.
Một đi là chẳng quay đầu lại,
Áo trắng trên người đủ kín thân.
Ra đi giống thuở ai vừa đến,
Tàu suốt trăm năm chỉ một lần.
Sân ga thấp thoáng bóng người già,
Họ sẵn sàng về cõi thật xa.
Hình như trong đám trông chờ ấy,
Có bạn thân tình, có cả ta.”
Chậm chân, kẻ đợi chuyến tàu sau.
Một đi là chẳng quay đầu lại,
Áo trắng trên người đủ kín thân.
Ra đi giống thuở ai vừa đến,
Tàu suốt trăm năm chỉ một lần.
Sân ga thấp thoáng bóng người già,
Họ sẵn sàng về cõi thật xa.
Hình như trong đám trông chờ ấy,
Có bạn thân tình, có cả ta.”
Vâng. Có cả ta.
Bác Sĩ Nguyễn Ý Ðức
No comments:
Post a Comment