Cây chuối có nhiều công dụng trong cuộc sống
người dân Nam Bộ nói riêng
Dân gian có câu tục ngữ "Chuối đằng sau, cau đằng trước";
bởi thường thì những ngôi nhà quê trồng hàng cau trước ngõ và bờ chuối sau nhà.
Người có phận người, cây cũng có phận cây. Nếu cây tre được xem như là biểu tượng
của sự vững chãi cứng rắn, mang dáng dấp người cha, thì cây chuối ngược lại
luôn mềm mại, dịu dàng như người mẹ vậy!
Cũng như bao miền quê khác, miệt châu thổ Cửu Long có nhiều loại
chuối khác nhau như: Chuối xiêm, chuối mật, chuối hột, chuối dong, chuối hương,
chuối già, chuối cau, chuối sáp.V.v… Mỗi loại chuối cho ta những hương vị khác
nhau cùng với những món ăn độc đáo từ thân chuối, trái chuối và cả bắp chuối
nữa… Ở quê, lúc đầu mùa mưa, khi không tìm được cá, thì chuối cây xắc nhuyễn nấu
canh chua với khô (còn gọi là nấu xiêm lo). Hay đơn giản hơn là vắt vào chuối
xắc một miếng chanh rồi ăn với mắm kho cũng rất tuyệt vời. Những món ăn từ
chuối cây thật dễ làm và đặc biệt là dễ lưu vào ký ức mình đối với những ai xa
quê.
Khi nhà bất chợt có khách, không phải lúc nào cũng tìm được bắp
chuối, nhưng chuối cây thì luôn có sẵn. Một con gà thả vườn nấu cháo hay chỉ cần
luộc lên rồi xé phai trộn với chuối ghém, rau răm là có món đãi khách không kém
phần thịnh soạn.
Sau nhà trồng vài bụi chuối sẽ cho người dân quê không chỉ có loại
trái chín bổ dưỡng mà còn là loại rau sạch quanh năm. Thường thì những quày chuối
lớn người dân quê phải chặt ra từng nãi, đem phơi nắng cho ráo mủ rồi đem dú.
Nếu chuối có quày nhỏ và nhiều quá thì cứ lấy dây treo lên chái bếp để chín từ
từ…
Buổi xế trưa, các mẹ, các chị hay làm bánh chuối hấp vì không cần
phải ra chợ mua nguyên liệu. Xay bột, nạo dừa và đập chuối cho dập trộn vào bột
rồi hấp là xong… Những miếng bánh quê bình dị, thân quen ấy còn đọng hoài vị
ngọt, hương thơm từ vườn dừa, bờ chuối sau nhà… Còn trong mùa nắng khi chuối
chín nhiều chỉ còn việc ép chuối làm khô. Chuối khô chỉ cần xắc sợi, thêm một ít
gừng củ thái chỉ và một nắm đậu phộng rang nữa là làm được món chuối ngào
đường. Món này dùng để uống trà và cũng có thể làm món lót dạ trong buổi xế
trưa để chờ đến bữa cơm chiều. Muốn bảo quản món chuối ngào đường được lâu chỉ
cần dùng lá chuối gói lại thành đòn như bánh tét vậy.
Nhắc đến bánh tét, nhiều người không thể quên những ngày giáp tết
hay nhà có đám giỗ đều có gói bánh tét, bánh ít. Lá chuối lúc này đã phát huy hết
tác dụng của nó. Thường thì làm bánh tét có nhiều loại nhân như nhân đậu, nhân
mỡ hoặc nhân hỗn hợp. V.v… Và, có lẽ phổ biến hơn cả là bánh tét nhân chuối vừa
có sẵn không phải mua vừa ăn không ngán… Ngày tết cũng như ngày thường có thể
nói lá chuối tươi dùng để gói nhiều loại bánh và các loại thực phẩm khác như:
nem, chả. V.v…
Thời còn nghèo khó, tàu chuối khô, người ta dùng làm dây, bện võng
hay để nguyên cắt vào làm ủ chuối cho heo tránh muỗi vì không có mùng…Chuyện ngày
xưa ông bà mình kể lại lúc nghèo đói và chiến tranh loạn lạc phải dùng đến củ
chuối thay cơm…Còn thân cây chuối sau khi đốn quày cũng không phải là thứ bỏ
đi, vì đó còn là nguồn thức ăn chính cho gia súc, gia cần thời trước.
Những người lớn tuổi một chút hẵn sẽ còn nhớ, những năm mới "giải
phóng" nhà ai cũng có cối và chày giã gạo trong nhà. Hai vật dụng gia đình ấy
còn dùng để giã chuối thật nhuyễn làm thức ăn cho heo và vịt xiêm. Chăn nuôi thời
ấy có câu “Lấy công làm lời” là như vậy! Cái chất độn cho gia xúc, gia cầm này
rất tiện lợi vì dễ kiếm. Chuối giã xong đem cho heo, vịt ăn tươi cũng được,
hoặc cho vào khạp ủ chua cho ăn năm ba bữa mới giã tiếp lần sau…
Cây chuối còn là người bạn thân thiết với trẻ em trên vùng sông
nước này… Ngày mới lớn, đứa trẻ nào cũng thích nô đùa cùng với dòng sông, bến nước.
Khúc chuối tươi làm phao qủa là tuyệt vời. Ôm xuôi cây chuối đến tận bụng và cứ
thế mà chòi đạp mà thỏa thích vẫy vùng…Và, cứ thế cả buổi chiều khấy động một
khúc sông quê, cho đến khi cằm đứa nào cũng "mọc râu" và mẹ gọi ăn
cơm chiều mới chịu buông khúc chuối để lên bờ…
Hồi trước, nhiều vùng nông thôn sâu chưa có nhiều chiếc cầu được
xây dựng như bây giờ. Không ít người đến lớp nhờ những chiếc bè chuối đón đưa. Chỉ
cần một đoạn dây mắc qua đôi bờ và ở khoảng giữa đoạn dây ấy buộc vào cục gạch,
cục đá cho dây chìm xuống lòng sông để xuồng ghe qua lại không vướng. Và cứ mỗi
lần qua sông chỉ việc ngồi trên chiếc bè chuối mà phăng dây là qua sông an
toàn. Trong cái vất vã ấy, biết bao thế hệ trẻ em ở miền quê này không thể nào
quê câu chuyện kể Trần Minh Khố Chuối thi đỗ Trạng Nguyên để mà cố gắng vượt
khó học hành và thành đạt trong cuộc sống…
Nhưng dù có đi đâu, ở đâu, mỗi khi bắt gặp cơn mưa đầu mùa, lòng ta
lại nhớ về cái âm thanh lộp độp của những tàu chuối sau hè… Nhớ những buổi xế trưa
với những miếng bánh chuối hấp với nước cốt dừa béo ngậy còn đọng lại nơi đầu lưỡi…
Nhớ đêm giao thừa thức chờ nồi bánh tét chín tới…Trong miền ký ức ấy đã dậy lên
tất cả nỗi nhớ quê hương – mà có lẽ không có gì gần gũi hơn, mộc mạc hơn như bờ
chuối sau nhà, vì chuối như một bà mẹ quê chịu thương chịu khó!
Sưu tầm
No comments:
Post a Comment