(Trích tự truyện: Ngày Không Có Mặt Trời)
Vừa đến cửa văn phòng Ban Chỉ Huy pháo
binh tiểu khu Quảng Ngãi tôi gặp thiếu úy Võ Hoàng đi ra. Tôi và Hoàng cùng học
lớp đệ thất 4 đến đệ tứ 4 ở trường Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi. Lên Đệ Tam tôi
ban A, Hoàng ban B nên không còn gặp nhau đến bây giờ là tám năm. Cả hai đều ngạc
nhiên, vừa bắt tay tôi hỏi:
- Ủa …Hoàng, sao ông ở đây?
- Mình về gặp thiếu tá Chỉ Huy Trưởng.
- Còn Tiến tới đây làm gì? đi khóa mấy vậy?
- Mình khóa 5/70, mới từ Tiểu Đoàn 20
chuyển về. Hôm nay trình diện. Ủa, Hoàng làm trung đội trưởng hả?
- Ừ, trung đội 109 đóng bên Sơn Tịnh.
Hoàng kéo tôi ra sân:
- “Vậy là có thể Tiến thay cho mình.
Cách đây một tháng Thiếu Tá nói đã gởi công điện xin một Trung úy hoặc Thiếu úy
thâm niên về thế Trung Đội Trưởng 109, để mình về làm Quản Trị Tiếp Vận thay
cho trung úy Thành sắp chuyển đi Nha Trang”
Hai đứa hỏi thăm bạn bè cùng lớp đứa còn
đứa mất? Võ Hoàng khóa 6/ 69 (hai tháng sau đó lên trung úy). Sau nầy tôi mới
biết Võ Hoàng là sĩ quan xuất sắc nhất trong bốn sĩ quan trung đội trưởng của
pháo binh tiểu khu Quảng Ngãi, rất được lòng thiếu tá Trần Trai chỉ huy trưởng,
nên ông đem về bên cạnh làm sĩ quan Quản Trị Tiếp Vận.
Nói chuyện một lát, chiếc xe jeep lùn
mang bảng số: 170310 gắng máy VRC 46 có cần antel trờ tới Hoàng lên xe, bọn tôi
chia tay và hẹn gặp lại.
Tôi vào trình sự vụ lệnh cho trung úy
Thành, trước khi trình diện thiếu tá Trần Trai chỉ huy trưởng. Sau khi xem sự vụ
lệnh Thiếu Tá nhìn tôi:
- Tạm thời anh phụ tá cho trung úy
Thành, tôi sẽ sắp xếp sau nhé.
- Tuân lệnh.
Tôi chào kính lui ra. Từ đó khi nào
Trung úy Thành đi vắng tôi thay ông vai trò Quản Trị Tiếp Vận. Thời gian còn lại
là trực ở Trung Tâm Hành Quân, làm sĩ quan Phối Hợp Hỏa Lực bên cạnh Phòng Ba
tiểu khu, lo kế hoạch pháo yểm, khi các đơn vị bạn hành quân thuộc vùng trách
nhiệm trong tầm yểm trợ của pháo binh. Cập nhật kế hoạch “hỏa yểm” trong ngày
lên bản đồ để thiếu tá Trần Trai thuyết trình cho đại tá Tiểu Khu Trưởng vào mỗi
buổi chiều. Đôi khi tôi phải thuyết trình thay thiếu tá Chỉ Huy Trưởng nếu ông
vắng mặt.
Thế rồi mọi việc diễn ra như dự định.
Trung úy Thành chuyển đi Nha Trang, thiếu úy Võ Hoàng về Quản Trị Tiếp Vận. Tôi
ra trung đội trưởng 109, thay thiếu úy Hoàng.
Lễ bàn giao diễn ra nơi trung đội 109
pháo binh đang đóng trên ngọn đồi bên cạnh chi khu Sơn Tịnh. Đầy đủ lễ nghi và
thủ tục, có tiệc tiễn cựu nghênh tân, với sự chứng kiến của thiếu tá Trần Trai
Chỉ huy trưởng và đại úy Lê Văn Tùng chỉ huy phó pháo binh tiểu khu Quảng Ngãi
Sau một tuần ổn định tôi thấy cần đào tạo
thêm một kế toán tác xạ. Tuy đã có trung sĩ nhất Chắt kế toán trưởng, hạ sĩ Đa
và Nguyễn Đức phụ tá. Nhưng tôi muốn có thêm kế toán trực tác xạ để anh em có
thể luân phiên đi phép.
Sau khi xem tất cả hồ sơ cá nhân của
trung đội, tôi chọn Huỳnh Đạm đang ở khẩu đội một của Trung sĩ Thí.
Trung sĩ nhất Chắt tác xạ cho biết: “Đạm
mồ côi cả cha lẫn mẹ, chỉ còn hai anh em, hiền lành, chỉ có tội mê gái”. Tôi cười:
“Mới mười tám tuổi mà mê gái rồi hả?”.
Khi lên trình diện cảm nhận đầu tiên của
tôi là Đạm rất trẻ, mười tám tuổi trẻ nhất trong trung đội, cao ráo đẹp trai có
vẽ thông minh, tính tình vui vẻ. Đạm cho biết học trường Trần Cao Vân Tam Kỳ, rớt
tú tài Một, không muốn vào Đồng Đế nên đi pháo binh.
Sau khi trao đổi và nói ý định đưa Đạm
lên học tác xạ. Tôi cười cười: “Nghe nói em mê gái lắm hả? có “bồ” chưa?”. Nó
cười bẽn lẽn: “Dạ, đâu có Thiếu úy, ai mà thương em?” Sao vậy? “Dạ… tại nghèo
quá”. Đẹp trai thì không cần giàu đâu. Tôi cười.
Từ đó Đạm dọn lên ở đài tác xạ, TS Chắt
dạy nó chấm tọa độ lên xạ bản, xử dụng quạt hướng tầm, họa xạ biểu, thước tà
giác để tính yếu tố tác xạ. Nói chung Đạm tiếp thu nhanh và trở thành một kế
toán .
Nguyễn Đức đang làm kế toán tác xạ là một
nhân vật đặc biệt: “Thiếu úy Võ Hoàng, thiếu úy Lê Văn Hùng (trung đội trưởng
110) và Nguyễn Đức là bạn thân, học cùng lớp từ đệ tam đến đệ nhất ở Trần Quốc
Tuấn. Sau đó Hoàng và Hùng đều nhập ngũ khóa 6/ 69 Thủ Đức.
Nguyễn Đức vào sài gòn học đại học khoa
học, được vài ba chứng chỉ gì đó thì lệnh động viên năm 1972 phải vào Thủ Đức.
Nguyễn Đức không đi sĩ quan, chạy về Quảng Ngãi chui vào pháo binh, đầu quân
làm lính của thằng bạn thân là Võ Hoàng. Hoàng che chở bạn bằng cách đem Đức
lên đài tác xạ làm kế toán”.
Tôi xem hồ sơ cá nhân của Đức thì khai lớp
Đệ Tứ, binh nhì chưa học C1, C2 tác xạ, nhưng Đức rất giỏi, tính yếu tố nhanh
như gió, làm phiếu chuẩn định chính xác, giải điện văn khí tượng Nato không một
sai sót. Một hôm tôi ngạc nhiên khi nghe Đức giảng cho Đạm áp dụng bảng thị sai
M10 trong tác xạ khẩn cấp, và bắn góc cao khi gặp tà giác bức chắn. Tôi hỏi TS
Chắt mới biết sự việc.
Thú thật bọn tôi đã học căn bản pháo
binh có trường lớp đàng hoàng, nhưng ra trường đi đề lô mấy năm, kiến thức tác
xạ rơi rụng theo bộ binh. Nên khi mới về trung đội tác xạ cũng “quờ quạng”, phải
lấy quyển Tác Xạ Đại Cương về phòng học lại, chỗ nào bí quá ghi vào sổ, về tiểu
khu hỏi thiếu úy Võ Hoàng.
Vậy mà Đức thì cứ cọng trừ nhân chia
thoăn thoắt thuộc bản logarit y như hằng đẳng thức đáng nhớ. Tuy vậy Đức rất
khiêm tốn không khoe khoang chuyện bằng cấp, ai nói gì cũng cười.
Sau biến cố năm 1975 Nguyễn Đức về quê ở
Bình Sa làm giáo viên dạy Toán trung học cho đến khi nghĩ hưu và đã qua đời năm
2015.
Điều may nhất của tôi là các nhân viên
ban tác xạ đều giỏi. Trung sĩ nhất Chắt và hạ sĩ Đa rất thông minh, xuất sắc.
Đa cũng thi rớt tú tài Bán Phần đã có bằng C2 tác xạ.
Từ ngày lên đài tác xạ làm kế toán. Đạm
luôn bên cạnh, tự nguyện giúp tôi những việc lặt vặt, xem nó như một người em.
Gần gũi mới biết gia cảnh nó rất đáng thương:
“Năm 1963 cha bỏ mẹ theo “bồ”, lúc Đạm
tám tuổi, cu Đạt lên năm. Mẹ buồn lắm, bà đổ bệnh một thời gian dài, ngày nào
cũng nhìn ra ngõ trông chờ sự hồi tâm của người chồng bội bạc, nhưng biệt vô âm
tín. Nhìn hai con thơ bơ vơ thấy mình phải sống, bà cố gượng dậy bỏ lại sau
lưng đau buồn, lấy công việc để tìm quên.
Mẹ san lại một sạp bán vải ở chợ Tam Kỳ.
Vết thương dù không lành, nhưng đền bù là hai con ngoan học giỏi, các con là niềm
vui là nguồn sống duy nhất. Hai anh em Đạm lớn lên trong vòng tay yêu thương của
mẹ. Nhưng định mệnh cay nghiệt không chịu buông tha.
Một ngày tháng 10 năm 1970, trong một
chuyến đi mua hàng, chiếc xe khách từ Tam Kỳ đi Đà Nẵng vừa ra khỏi Tuần Dưỡng
độ vài kilomet bị nổ tung khi đạp phải một quả mìn của Việt Cộng chôn trên đường
đêm qua.
Mười tám hành khách bị thương nặng, sáu
người chết trong đó có mẹ của Đạm. Năm đó Đạm lên mười lăm, đang học lớp chín,
cu Đạt mười hai, học lớp sáu.
Họa vô đơn chí, cha bỏ đi bây giờ mất mẹ.
Hai anh em bơ vơ như cánh chim lạc giữa trời trong cơn giông bão. Căn nhà mẹ để
lại trở nên mênh mông với hai đứa trẻ mồ côi. Những bữa cơm tẻ nhạt hai anh em
nhìn nhau khóc.
Thằng cu Đạt sợ ma vì cái bàn thờ mới,
nó cứ bám sát anh mỗi khi bóng tối trở về. Đêm đêm hai anh em lên giường ôm
nhau. Giấc ngủ đến Đạm thấy mẹ đứng bên giường, giật mình tỉnh dây mới biết là
chiêm bao.
Hai năm trôi qua nỗi đau nào rồi cũng
phai dần theo tháng năm. Hai anh em vẫn đến trường và lớn lên trong cảnh mồ
côi. Kỳ thi Tú Tài một năm 1972 Đạm bị hỏng. Thất vọng, nằm vùi mấy ngày Đạm
quyết định dẫn em lên gởi cho ông chú làm ở Ty Cảnh Sát Quảng Tín, nhờ ông lo
cho nó tiếp tục đi học. Đạm vào lính pháo binh, về trung đội 109”.
Nghe chuyện của nó tôi buồn theo. Có thể còn quá trẻ, mới mười tám tuổi lại đẹp trai nên gặp con gái hay đùa nghịch tán tỉnh, cho nên trung sĩ Chắt nói nó mê gái. Lãnh lương Đạm mang về gởi ông chú lo cho em. Thỉnh thoảng xin tôi vỏ đạn và kết gỗ đem bán kím thêm tiền.
Từ khi tôi về nhận đơn vị đến năm 1975
Trung đội 109 hoán đổi qua các vị trí: Đồi Sơn Tịnh (cạnh Chi Khu). Đồi 74 (căn
cứ Bình Long) yểm trợ trực tiếp cho bộ chỉ huy Chiến Thuật 2 ở đông Bình Sơn. Rồi
Tư Nghĩa và sau cùng là chi khu Bình Sơn. Tình đồng đội thắm thiết thương nhau
như anh em một nhà. Đạm luôn bên cạnh tôi như hình với bóng.
Bàn cờ chính trị thế giới thay đổi sau
những lần “đi đêm” giữa Henry Kissinger và Chu Ân Lai, dẫn đến cuộc gặp mặt lịch
sử giữa Richard Nixon với Mao Trạch Đông từ ngày 21 đến ngày 28 tháng 2 năm
1972. Trung Cộng từ kẻ thù phải bao vây ngăn chận, bây giờ trở thành bạn của
Hoa Kỳ trong thế cờ liên minh chống Nga Sô. Vai trò tiền đồn của Việt Nam Cọng
Hòa ngăn chận chủ nghĩa cọng sản từ Bắc Kinh không cần thiết nữa, khi lợi ích của
Mỹ và Việt nam Cọng Hòa không còn tương hợp. Mục tiêu của họ thay đổi.
Bọn phù thủy chính trị ở Washington đã vận
động quốc hội Hoa Kỳ cắt quân viện cho VNCH theo tinh thần của cái gọi là hiệp
định Paris. Những lời cam kết của Richad Nixon tổng thống một siêu cường hàng đầu
thế giới, với nguyên thủ của một nước “bạn đồng minh” không có tí giá trị nào.
Cho nên với Mỹ không có “đồng minh” vĩnh viễn, mà cũng không có “kẻ thù” lâu
dài. Chỉ có quyền lợi nước Mỹ là trên hết.
Từ trung tuần 1974, chúng tôi không còn đạn để yểm trợ quân bạn, đạn tồn kho xuống dưới mức an toàn, nòng đại bác quá đời tác xạ. Hàng chục công điện “khẩn” tôi gởi đi mỗi ngày đều được trả lời: “đợi”.
Trước đây nhờ yếu tố nhanh chóng, chính
xác và dồi dào của hỏa lực pháo binh, chúng tôi đã làm chủ chiến trường dành
chiến thắng cho quân bạn. Ngày nay những ưu thế đó không còn khi quân viện bị cắt.
Kho 513 đạn dược ở Núi Bút đã cạn kiệt, quân cụ rỗng kho. Tôi được lệnh chỉ bắn
một đến hai quả mỗi lần quân bạn chạm địch.
Những nhu cầu quân sự khác cũng chung số
phận, quân trang quân dụng thiếu hụt. Máy PRC 25 không còn pin để trực tác xạ.
Phi cơ, thiết giáp nằm ụ vì không có nhiên liệu. Lính Địa Phương Quân chỉ còn
nhận một nữa cấp số đạn khi hành quân, lựu đạn không đủ phát cho quân nhân.
Tinh thần chiến đấu của binh sĩ giảm
sút. Cán cân quân sự nghiêng lệch khi Bắc Việt được Nga Sô, Trung Cọng gia tăng
viện trợ ồ ạt, hỏa lực dồi dào mở những cuộc tấn công. Tình hình chiến trường
diễn biến xấu mau lẹ sau cuộc triệt thoái thất bại của Quân Đoàn Hai. Tại Quân
Đoàn Một rút bỏ Quảng Trị, Huế bỏ ngỏ, Ngày 23 tháng 3 Tam Kỳ bị cọng quân tràn
ngập.
Chiều ngày 24 tháng 3 năm 1975 tại Bình
Sơn, tôi nhận một công điện “mật khẩn” từ đại úy Tùng chỉ huy phó pháo binh Tiểu
Khu: “...Trung đội 109 yểm trợ tối đa cho cuộc di tản của các đơn vị từ Quảng
Ngãi đi Chu Lai....và tiêu hủy đại bác, kho đạn khi có lệnh ....” Trung đội 109
pháo binh đã thi hành lệnh tác xạ sau cùng của BCH pháo binh tiểu khu Quảng
Ngãi.
Trên quốc lộ xe cộ đủ loại, một biển người
đạp lên nhau trốn chạy, tình hình vô cùng hỗn loạn. Đến 12 giờ khuya hệ thống
vô tuyến mất liên lạc với BCH pháo binh Tiểu Khu. Qua tần số pháo binh Sư Đoàn
Hai không ai dám ban lệnh gì cho tôi.
Tôi cho chấm dứt tác xạ thi hành lệnh
“tiêu hủy” đại bác và kho đạn, lửa bốc cháy. Trung đội lên xe nhập vào dòng người
di tản.
Ra khỏi cầu Bình Sơn là một giờ khuya, bị
việt cọng chận đánh. Hỏa tiễn, đạn cối, B40, súng cá nhân bắn xối xả vào dòng
người, kẻ sống dẫm lên xác người chết mà chạy. Tôi cho binh sĩ xuống xe. Mọi việc
diễn ra ngoài tầm kiểm soát, không ai có thể điều quân trong một biển người dân
và lính hỗn loạn, giày xéo đạp lên nhau. Trong khi cọng quân bám sát tác xạ tự
do. Trung đội 109 pháo binh thất lạc và tan rã từ giờ phút đó.
Quốc lộ bị chận, người ta tỏa ra tìm đường
chạy ra Chu Lai. Riêng tôi không thể bỏ anh em đồng đội, tìm hết người nầy đến
người kia, mà trời tối đen như mực, nên bị bỏ rơi lại. Cuối cùng chỉ còn Nguyễn
Lòng tài xế, và Huỳnh Đạm ở bên cạnh.
Trời sáng ba thầy trò lẫn vào ruộng mía
chờ đêm xuống đi tiếp. Đến nữa đêm hôm sau khi chuẩn bị vượt sông thì hướng Chu
lai bốc cháy và đạn nổ long trời. Tôi ngã quị vì tuyệt vọng. Bộ Chỉ Huy sư đoàn
Hai đã di tản.
Sáng hôm sau ba thầy trò bị vây bắt. Tôi
không còn bình tỉnh biết những gì xảy ra, thần kinh bị tê liệc. Việt cộng vây
quanh tôi rất đông. Tôi bị đánh tơi tả tối tăm mặt mày, báng súng nện vào đầu,
vào lưng, đá vào bụng, thừa chết thiếu sống.. ự..ự,.. bộp ..bộp. Tôi ngã xuống
bị nắm tóc xách dậy đánh túi bụi. Trận đòn thù kéo dài, tôi ngấc ngư, không biết
đau đớn gì nữa.
Cảm giác đầu như vỡ ra, mắt hoa, nghe
mùi tanh của máu, máu từ đầu, miệng mũi trào ra chảy xuống áo quần đỏ lòm. Tôi
gục xuống mặc cho số phận. Tôi nhắm mắt cảm nhận cái chết đang đến gần, và muốn
biến khỏi cuộc đời nầy ngay tức khắc.
Một bàn tay nắm tóc lôi dậy, tôi đứng
không vững chúi về phía trước, dù cố gắng hai mắt không mở ra được, đưa tay lên
sờ mặt nó biến dạng, phình to nhầy nhụa máu. Hai tay tôi bị trói quật sau lưng,
dính chùm với hai người lính, tôi chao đão bước đi trong đau đớn rã rời từ thể
xác đến tâm hồn.
Chúng tôi bị dẫn đi hai ngày đêm đến một
“Trại Tập Trung” trong rừng sâu phía tây quận Bình Sơn. Khi đến thì đã rất đông
người. Thôi thì đủ mọi đơn vị, mọi cấp bậc, chức vụ. Ngày nào cũng có hàng chục
người bị trói tay dẫn về, nhưng không có ai trong trung đội 109 pháo binh của
tôi.
Cố gắng đến được trại giam thì tôi ngã bệnh,
tinh thần suy sụp thêm trận đòn thừa chết thiếu sống làm hình hài tôi biến dạng,
da đầu bị tét, mặt mày bầm tím sưng híp máu khô thành từng mảng lem luốc. Tôi
lên sốt li bì người nóng như than, tâm trí bồng bềnh lúc tỉnh lúc mê. Nghe ai
mách bày Đạm hái lá rừng nhai đắp lên những vết thương trên đầu và mặt lúc nào
tôi không hay biết.
Là nơi tập trung để thanh lọc nên chưa
phải lao động nhiều. Mỗi ngày tù chia nhau đi lấy củi, một số đi đốn cây làm
thêm trại để đón tù mới. Tôi nằm liệc nên không lao động, Đạm đi lấy củi về
xong là quanh quẩn bên tôi.
Nhập trại đã ba ngày tôi vẫn không ăn,
cơ thể không còn nhu cầu sự sống. Đạm sợ tôi chết. Cứ trời tối nó đem về nữa
lon sữa bò cháo nấu bằng cơm cháy đen thui, ép buộc tôi ăn.
Miệng đắng nghét, ngực đau ran không thở
được, đầu nhức buốt, mà cháo là một thứ nước đen ngòm lợn cợn vài hột cơm cháy,
không có muối lạc nhách lại nồng nực mùi khói, không thể nuốt được. Nó thì thầm
vào tai tôi: “Thiếu úy phải ăn mới sống được”, Tôi lắc đầu, giọng nó ngậm ngùi:
“Thiếu úy thương em, khó lắm mới xin được tí cháy dính ở đít chảo, ngồi nấu lén
còn phải canh chừng tụi nó”.
Tôi cựa không nỗi, tả tơi như cái mềnh
rách. Đạm tìm cách để tôi khuây khỏa bằng cách kể chuyện xảy ra trong trại,
chuyện tin đồn, chuyện đi tìm người quen, gặp người ở đơn vị nầy đơn vị nọ mà
đơn vị mình thì không có đứa nào. Nói đã đời thấy tôi vẫn như xác chết, nó cuối
sát mặt tôi nhìn, rồi lắc đầu thở dài.
Đến ngày thứ năm hơi giảm sốt, Đạm dìu
tôi ra bờ suối rửa vết thương. Ngồi bệt xuống đất dựa lưng vào gốc cây, thân
xác tôi rã rời bầm dập vì thương tích một, thì tâm hồn tan nát tả tơi một ngàn
lần hơn.
Tôi như đang rơi xuống một vực sâu âm u
không đáy. Tai họa đổ xuống nhanh quá, tôi vẫn chưa tin sự thật lại bi thảm như
thế nầy. Đạm thì thầm: “Áo quần Thiếu úy máu không, cởi ra em giặt cho, đồ em
hôm qua giặt rồi”. Nhìn ánh mắt chân thành của nó bất giác nước mắt tôi nhạt
nhòa, Đạm vừa giặt đồ vừa đưa tay quẹt nước mắt.
Từ lúc nhập trại, Nguyễn Lòng tài xế bị
tách qua toán khác, chỉ còn mình Đạm theo sát tôi như một định mệnh. Nếu không
có nó chắc thân xác tôi đã vùi nơi bìa rừng trên đường đến trại. Đạm lo cho tôi
những gì có thể trong cảnh tù tội thiếu thốn. Tôi bảo đừng gọi Thiếu úy nữa, nó
nói: “quen miệng rồi không sửa được”
Được mười ngày, một sáng tôi đang đứng dựa
lưng vào gốc cây nhìn cảnh rừng mênh mông với nỗi tuyệt vọng thắt lòng, thì Đạm
hớt hãi chạy đến cầm tay tôi: “Anh, em và thằng Lòng có tên chuyển trại rồi
chưa biết đi đâu?”. Dứt lời nó nhìn xuống đất, mặt đầy nước mắt. Quá bất ngờ cổ
tôi nghẹn lại cả hai cùng bước tới bọn tôi ôm vai nhau thật chặt, Đạm bật khóc:
“Bao giờ mình gặp lại nhau?”. Nó hỏi tôi mà như nói vào hư không.
Giọng nghẹn ngào Đạm dặn dò tôi đủ điều,
nhắc nhở đủ việc. Nhưng tôi có nghe gì nữa đâu! Trong tình cảnh nầy Đạm là cái
phao duy nhất cứu sống tôi. Tai đã ù, lòng tôi như bão tố.
Tôi đứng chết lặng nhìn Đạm trong hàng
tù binh, đi được mấy bước nó quay lại nhìn tôi đưa tay lên vẫy rồi hướng ra bờ
suối.
Tôi lăn lóc qua mấy trại tù trong nhiều
năm. Những suy sụp tinh thần của ngày đầu “đổi đời” tưởng không thể nào vượt
qua rồi cũng nguôi ngoai. Cuộc đời tù khổ nhục đói rách tả tơi trong cái “chuồng
người”, chúng tôi chỉ còn sống theo bản năng của một sinh vật. Nhưng dù tận đáy
địa ngục tôi cũng không làm sao quên được tấm chân tình của Huỳnh Đạm và nhớ
anh em trong đơn vị. Cái đêm định mệnh đó không biết ai còn ai mất? Không biết
Đạm bây giờ ở đâu, sống thế nào?
Tôi ra khỏi nhà tù mang theo bản án quản
chế. Về địa phương không khí nặng nề ngột ngạt, ra khỏi xóm làng phải xin phép
ông tổ trưởng, mà xin cũng chưa chắc được chấp thuận, rồi phải trình diện làm bản
tường trình hàng tuần: Làm gì? Đi đâu? Gặp ai? Nói với nhau những gì?
Hết đi gỡ mìn tới đắp đập đào kênh, còn
bị kêu lên kêu xuống liên miên. Tất bật với cuộc mưu sinh, nghèo khó đói rách bủa
vây, tôi rất muốn tìm Đạm nhưng không có cơ hội.
Năm 1980 tôi bỏ Quảng Ngãi vào Miền Nam
tìm đất sống. Từ đó không gian cách trở, cuộc sống khó khăn, không có tin tức
gì về Huỳnh Đạm dù tôi cố gắng hỏi tìm khi có dịp. Ngày chia tay Đạm là 8 tháng
4 năm 1975. Nay là 2010, đã ba mươi lăm năm, quỹ thời gian không còn nữa. Tôi
nghĩ là chẳng còn cơ hội gặp nhau trên cỏi đời nầy.
Bỗng một hôm lúc 8 giờ tối điện thoại đổ
chuông.
- A lô
Bên kia tiếng đàn ông lạ:
- A lô, ông thầy đó hả?
Tôi nghĩ ai gọi lộn số.
- Xin lỗi chắc anh lầm máy .
- Em đây mà Huỳnh Đạm đây.
Trời đất! Niềm vui bất ngờ 35 năm. Bây
giờ thì tôi đã nhận ra âm sắc của Đạm: “Em đi khám bệnh ở Đà Nẵng gặp trung sĩ
Ngọc cho số điện thoại của anh”. Đạm dồn dập hỏi đủ thứ. Bọn tôi tóm tắt chuyện
đời trong hơn một phần ba thế kỷ.
Một tuần sau Đạm có mặt ở nhà tôi. Ngày
chia tay nhau Đạm mới hai mươi tuổi trẻ măng đẹp trai, bây giờ gặp lại đã một
ông già 55 tuổi da nhăn nheo mắt lờ đờ chậm chạp, tóc bạc trắng lưa thưa bày
cái trán hói.
Ăn cơm trưa xong hai anh em lên gác nằm,
nghe Đạm kể chuyện đời:
“Ngày chia tay nhau, toán của Đạm vào Thạch
Nham đắp đập, đến tháng 12 năm 1975 thì được thả về.
Sau tháng 4 năm 1975, gia đình ông chú
cũng tan nát. Ông bị đánh chết trong “trại cải tạo” Tiên Lãnh. Thằng Đạt học
xong lớp mười hai, trở về nhà cũ chờ anh ra tù. Mỗi ngày nó đạp xe lên núi mua
củ mì, củ lang, chè lá, gặp gì mua đó, về chợ bán kím tiền vô Thạch Nham thăm
anh mỗi tháng.
Ra tù, buổi chiều về đến nhà hai anh em
ôm nhau khóc. Bữa ăn đoàn tụ tối đó là một rổ khoai mì luộc. Con đường trước mắt
báo hiệu đầy gian nan không lối thoát. Muốn đi cùng em thì chỉ có một cây xe đạp,
mua thêm cây nữa không có tiền. Cuối cùng để em đi một mình Đạm ra bến xe Tam Kỳ
bốc vác làm thuê ai kêu gì làm nấy.
Đạm bảo em đi học nghề, Đạt lắc đầu: “Tiền
đâu? ai cũng đói, cơm không đủ ăn có nghề nào sống được đâu?”. Thương em thì
nói vậy thôi chứ cả nước điêu tàn xơ xác vì đói, lại thêm chính sách của “cách
mạng” quá khắc khe. Bà con láng giềng không ai tin nhau, nhìn mặt người nào
cũng như đăm chiêu tính toán. Không khí nặng nề chết chóc, sợ hãi bao trùm toàn
xã hội.
Hai anh em ăn cháo loãng với muối nếu
hôm nào Đạm từ bến xe về tay không. Nữa đêm thức giấc nhìn thằng Đạt bên cạnh gầy
còm nằm co ro. Đạm ra hè ngồi khóc thương em thấy mình bất lực, cuộc đời hai
anh em là một bài toán khó không giải được tất cả đã ngoài tầm tay.
Năm 1978 Đạt có tên đi “nghĩa vụ quân sự”.
Nó quyết định bỏ quê theo một người quen vào Sài Gòn, Đạm đành chìu ý em, ở lại
cũng cùng đường. Hai anh em ôm nhau khóc vùi hôm Đạt lên xe.
Năm sau Đạm lấy vợ. “Nồi nào úp vung
đó”, Tâm là bạn cùng lớp với Đạm thời Trung Học. Sư Phạm Qui Nhơn mới ra trường
dạy ở quận Lý Tín. Mẹ và thằng em trai rơi xuống biển chết khi tranh nhau lên
tàu đêm di tản ở Chu Lai tối 25 tháng ba. Cha làm Xã Trưởng bị việt cọng bắt
đưa đi thủ tiêu mất tích chỉ hai tuần sau đó. Gia đình tan nát, một thân một
mình lại bị cho thôi dạy vì thành phần “nợ máu”.
Tâm trở thành cô bán đậu hủ gánh rong ở
chợ và bến xe Tam Kỳ. Kẻ khổ gặp người khó, cùng mồ côi lại là bạn một lớp cùng
lang thang kím ăn mỗi ngày ở bến xe, vậy là thành vợ chồng.
Ngày Tâm về nhà Đạm không họ hàng, không
lễ nghi, không rượu bánh, không cau trầu. Tất cả đều không, nhưng hạnh phúc thì
có nhiều. Một năm sau đứa con gái chào đời đặc tên Hải Triều, rồi mười hai
tháng sau thằng cu cũng “tranh thủ” chui ra tên Hải Âu. Hai vợ chồng xoay trở tứ
bề nhưng vẫn thiếu. Chỉ có tình yêu là dư thừa.
Nhưng nếu dòng đời cứ lặng lờ trôi thì
không có gì để nói. Cuối năm 1982 trước tết có mấy ngày Đạm nhận hung tin thằng
Đạt bị hải tặc Thái Lan chặt đầu ném xác xuống biển trong một chuyến vượt biên.
Người còn sống sót được tàu Na Uy cứu vớt nhắn tin về.
Đang bốc vác hàng Đạm ngã quị, khóc ngất:
“Đạt ơi!”. Trên đường về nhà bước chân chếnh choáng gọi tên em như người say.
Từ ngày vào Sài gòn, năm rồi Đạt mới về
thăm anh chị lần đầu tiên cũng là lần duy nhất. Hai anh em ôm nhau khóc vùi cả
đêm không ngủ ngồi nói chuyện đến sáng: “Vào Sài Gòn Đạt đi làm thuê không lấy
tiền công, chỉ xin được ăn cơm và học nghề máy dầu. Có nghề vững vàng nó theo
thằng bạn ra Long Hải làm thuê cho một người sừa máy tàu đánh cá”.
Đạt về thăm để chào anh chị ra đi. Đạm
chỉ khóc vì không lo được cho em, Đạt bồng bế nựng nịu hai cháu suốt ngày, nó mừng
cho hạnh phúc của anh.
Ngày đi, Đạt móc trong túi đến đồng bạc
lẻ sau cùng để lại cho anh. Đạm từ chối, đùn qua đẩy lại cuối cùng nó tuyên bố:
“Anh đừng nhìn em nữa”. Cầm đồng tiền của em Đạm nghẹn ngào.
Nằm vùi cả tuần lễ, rồi cũng phải gượng
dậy. Nhưng từ đó Đạm hay uống rượu vào mỗi buổi chiều, rồi gọi tên em gục đầu
khóc.
Dòng đời lại cứ trôi. Bữa đói bữa no,
ngày thiếu ngày đủ hai con cũng lớn theo thời gian. Năm 1993 thời kỳ “mở cửa”,
người dân được đảng “cởi trói” nên chuyện mua bán làm ăn dễ thở hơn. Tâm có sạp
bán rau trong chợ Tam Kỳ, Đạm mua được chiếc xe ba gác. Ăn tối xong hai vợ chồng
đi lưới cá bằng chiếc ghe nang nhỏ trên sông, vợ chèo chồng thả lưới.
Hải Triều học hết lớp chín thì ở nhà phụ
mẹ bán rau ngoài chợ vì mẹ hay bệnh bất thường. Thời gian qua mau hai con đã lớn
và vợ chồng Đạm cũng già đi. Hải âu giống bố như một bản sao.
Năm 1998 Hải Âu đậu vào trường đại học kỹ
thuật điện Thủ Đức. Vừa nhận giấy báo cũng là lúc mẹ nó phát bệnh, cả nhà chết
đứng khi kết quả xét nghiệm Tâm bị ung thư tử cung giai đoạn cuối. Trời đất như
đổ sập, Đạm trách trời, trách đất, rồi tự hỏi Chúa, Phật có hiện hữu thật sự
trên cỏi đời nầy hay không?
Tâm bình tỉnh đón nhận hung tin, dặn dò
hai con phải thương cha, “Đời cha nhiều bất hạnh, mẹ mãn nguyện vì hai con
ngoan và vui khi Hải Âu được vào đại học”.
Một ngày trước khi trút hơi thở cuối
cùng Tâm thều thào: “Thương anh nhiều lắm Đạm ơi! em đi rồi anh đừng uống rượu
nữa, lo nuôi con khôn lớn”.
Nhưng Đạm lại đến với rượu nhiều hơn,
ngày nào cũng say vùi, say túy lúy say không biết đất trời, say rồi ôm mặt
khóc. Hai chị em ngày nào cũng ra mộ mẹ cõng cha về.
Quyết định bỏ học của Hải Âu đưa Đạm đến
một ngã rẽ. Phải ra đi, phải tránh xa cái không gian mà nhìn đâu cũng đầy ắp những
yêu thương làm nát lòng, nhìn đâu cũng thấy mẹ, thấy em, thấy vợ. Nhất định thằng
Hãi Âu phải được đi học
Đóng cửa nhà, ba cha con dắt nhau vào
Sài Gòn. Thằng Hải Âu lên trường ở ký túc xá. Đạm thuê căn phòng nhỏ bề bốn mét
trong hẻm Lê Quang Định, đủ để cha con có chỗ đi về.
Đạm bắt đầu việc làm mới: Đạp xích lô.
Trời thương từ ngày ra nghề Đạm không
thiếu khách. Quanh quẩn khu chợ Bà Chiểu, Lăng Ông, có hôm vòng ra bến xe Miền
Đông chiều tối về phòng. Công việc như một chu kỳ khép kín, Đạm không còn tìm đến
rượu nữa.
Hải Triều phụ việc cho một quán ăn trong
chợ Bà Chiểu. Cuối tuần Hải Âu về thăm cha nói đã xin được chân bưng bê rửa ly
cho một quán nước ngoài giờ học. Nó dự trù khi tìm được việc khá hơn thì cha
không đạp xích lô nữa.
Rồi dòng đời cứ trôi duyên trời đưa đẫy,
một năm sau Hải Triều lấy chồng. Nó từ chối cuộc hôn nhân vì không nỡ rời cha,
nhưng Đạm muốn tìm lối thoát cho con. Ngày đi theo chồng nó ôm cha khóc nức nở.
Đông tàn rồi xuân sang, thời gian như
bóng câu qua mành, Hải Âu học năm cuối. Đạm vẫn sáng đạp xe đi tối đạp xe về, một
mình lầm lũi như chiếc bóng, ngồi trông con cứ mỗi cuối tuần. Hải Âu ngoan
không đua đòi bon chen như bạn bè, mấy năm sau nó làm thêm đủ lo bản thân nên
nhiều lần bảo cha không đạp xe nữa. Nhưng Đạm nói chưa đủ tiền để mua chiếc xe
cho con đi làm
Còn một tháng nữa Hải Âu ra trường, Đạm
lấy trong gối ra xấp tiền gói trong cái áo cũ mà đêm nào cũng săm soi đếm tới đếm
lui. Hải Âu rưng rưng cầm mười lăm triệu bạc của cha. Cuối tuần sau Hải Âu về
thăm cha bằng chiếc xe mới. Hai cha con nằm nói chuyện tương lai trên chiếc chiếu
trãi dưới nền nhà, nơi mà bốn năm qua cha con vẫn ngủ cứ mỗi cuối tuần. Đạm vẫn
không bỏ thói quen ôm con vào lòng dù nó đã cao hơn bố. Mà Hải Âu thì cứ giữ
cái tật gác đôi chân lên người cha lúc ngủ mê. Đạm chịu đựng sợ con thức giấc
mà cũng để nghe niềm hạnh phúc dâng lên theo nhịp tim đập từng hồi.
Buổi chiều trước ngày mãn khóa Hải Âu chạy
về mang theo bịch trái cây nói của thằng bạn cùng lớp dưới quê lên dự lễ ra trường.
Nó vui mừng nói nhận bằng xong đã có công ty nhận đi làm ngay.
Đạm nghe mình trẻ lại. Đêm đó trên “giá”
làm bàn thờ, cây nhan nầy vừa cháy hết, Đạm lại đốt cây khác lâm râm khấn vái:
Mẹ, vợ, em Đạt, phù hộ độ trì cho cháu, cho con.
Cả đêm không ngủ được. Nhìn con nằm thở
đều Đạm nghe tình thương căng đầy, vòng tay ghì chặt thằng con, hôn lên trán nó
một hơi dài. Hải Âu mở mắt: “Cha không ngủ đi?” Đạm không nói cứ ghì chặt, mà
nước mắt thì cứ tuôn dòng xuống mặt con trai. Hải Âu cũng ôm vai cha yên lặng.
Hôm sau Đạm nghĩ đạp xe ở nhà ra chợ mua
con gà, vài ký thịt, nấu mấy món đơn sơ để làm lễ tạ ơn người quá cố đã phù hộ
cho cha con đạt được nguyện ước. Sau đó mời vài người láng giềng hai bên để
chung vui. Hải Triều theo chồng về mãi ngoài ngã ba Trị An lại đang làm công
nhân mới sinh con nhỏ, xa quá không về được. Thôi, làm đơn sơ bia bọt thì thằng
Hải Âu về nó mua sau.
Sáng nay khi dắt xe ra cửa Hải Âu dặn
cha: “làm lễ xong chậm lắm là 12 giờ con về, cha để đó về con làm”. Đạm nhìn
theo dáng thằng con chạy ra đầu hẻm, mà lòng dâng lên niềm vui lai láng.
Nằm đã rồi ngồi, hai giờ rồi ba giờ. Đạm
cứ nhìn ra đầu hẻm chờ con, nó chưa sai lời với cha bao giờ. Tiếng máy xe dừng
lại trước cửa, Đạm nhìn ra, Thằng Long bạn thân cùng lớp với Hải Âu nó thường dẫn
về chơi. Không thấy con Đạm hỏi: “Hải Âu đâu cháu?”. Thằng Long không trả lời
ngay, bước vào nhà tựa lưng vào tường giọng nghẹn ngào: “Thằng Hãi Âu chết rồi
bác ơi!” Sao chết? Giọng ai mù mờ vang vang trong cõi vô thức.
Đạm ngồi bệt xuống mắt cứ mở to trân trối
nhìn thằng Long. Khoảng không trước mặt một màu đỏ rực đỏ như lửa cháy, khoảnh
khắc lại sáng lòa, vầng sáng mênh mông tận chân trời, rồi tối đen như mực. Đạm
thấy mình bay lướt trong không gian nhẹ như một cánh chim.
Sáng nay Hải Âu rủ thằng Long: “xong lễ
tụi mình về ngay, mầy phụ tao nấu nướng, khi sáng nói với ông già rồi, về trể ổng
lo”. Nhưng nhóm bạn lại rủ ăn bữa cuối để chia tay.
Ngồi trong bàn Hải Âu cứ nhìn đồng hồ, hết
thằng nầy nâng ly chúc mừng, đến thằng khác cụng ly chia tay. Kim đồng hồ chỉ
hai giờ bảo thằng Long nhất định đi về. Lần đầu tiên nó uống nhiều bước đi chếnh
choáng,
Ngồi lên xe Hải Âu nhìn Long: “Nhanh
lên, trể quá rồi, ông già trông chết”. Nó chạy trước, thằng Long theo sau, khoảng
cách hai đứa cứ xa dần theo tốc độ.
Qua khỏi nhà máy xi măng Hà Tiên Long
không còn tin vào mắt mình, người ta đang vây quanh thằng Hải Âu nằm úp mặt xuống
đường, hình hài nó không còn nguyên vẹn máu me lênh láng, chiếc xe đầu kéo đừng
lại phía trước.....
Huỳnh Đạm về ở với Hải Triều ở ngã ba Trị
An từ lúc nào cũng không biết. Nó giải quyết mọi việc ra sao Đạm cũng không
hay. Cả năm trường Đạm không biết là mình còn hiện hữu trên cỏi đời nầy.
Ngày lại ngày ngồi nhìn những vết vôi
tróc lở trên tường, nhìn cái màng nhện du dưa trong góc phòng, Đạm thấy không
phải căn phòng mà mình lạc vào một miền hoang đảo xa xôi.
Chiều chiều ra bãi tha ma thắp nhang cho
con. Ngồi bên nấm mộ cỏ mọc um tùm, nhìn khói hương bay lên thấy cuộc đời là giả
tạo, là ngắn ngũi. Hải Âu đã ra đi, đã vĩnh viễn lìa xa không trở về, nó đã đem
theo sự sống, cả tình yêu thương khắc khoải của người cha. Âm dương xa cách, Đạm
ray rức khôn ngui về bí ẩn của một kiếp người.
Nhớ con lại tìm đến rượu, lại say, say để
xóa đi từng thời khắc của cuộc đời, say để không còn thấy rõ đường đi của thời
gian lướt qua khung trời quá khứ, có mẹ có vợ có em có thằng Hải Âu.
Mỗi chiều Hải Triều lại ra nghĩa địa dìu
cha về, trong cảnh chập choạng của hoàng hôn. Bãi tha ma không một bóng người.
Con đường mòn luồn lách giữa những hàng bia mộ ngã nghiêng, tiếng côn trùng tỉ
tê, những ngôi nhà xa xa đã lên đèn.
Đạm say nhiều hơn tỉnh. Hải Triều thương
cha nhưng cũng đầu hàng trước số phận dành cho mỗi con người, dẫu biết rằng hạnh
phúc không thể chia đều cho khắp thế gian.
Tháng ngày cứ lặng lờ đi qua, Đạm đã già
bệnh tật đã xuất hiện, huyết áp rất cao, gan cũng có vấn đề. Rượu là nguyên
nhân góp phần tàn phá hình hài và tinh thần vốn đã tả tơi vì giông bão của cuộc
đời.
Những năm gần đây Đạm hay về Tam Kỳ thăm
nhà cũ, thăm mộ mẹ, mộ vợ, ở lại năm ba tháng. Vừa rồi đang ở Tam Kỳ Đạm phát bệnh,
đi khám ở Đà Nẵng thì gặp Trung sĩ Ngọc là hạ sĩ quan Đạn Dược của trung đội
109 pháo binh. Từ ngày tan hàng rã đám mới gặp lại. Ngọc lớn hơn Đạm cả chục tuổi,
cả hai đều già....”
Giọng Đạm đều đều, thỉnh thoảng ngưng lại
nghẹn ngào, hai bàn tay bụm mặt sụt sùi. Tôi im lặng mà nước mắt cứ tuôn thành
dòng xuống thái dương.
Câu chuyện chấm dứt, cả hai vẫn trong tư
thế nằm nhìn lên trần nhà rất lâu không ai nói lời nào. Nhưng trong đầu anh em
chúng tôi cùng chung một cảm xúc. Cùng nghĩ đến cái vô thường của cuộc đời và mỗi
người một số phận.
- “Trung sĩ Ngọc cho em số điện thoại của
anh, mừng quá về đến nhà là gọi ngay.......”
- Em có tin tức gì về bố không?
- Không anh, đi biệt từ ngày đó, không
ai gặp.
- Bệnh em bây giờ ra sao?
- Huyết áp cao lắm, lên đến 18, 20 hôm ở
Tam Kỳ tưởng đi rồi anh à, gan thì tháng sau xét nghiệm lại.
- Em đừng uống rượu nữa, uống như vậy
thì gan ruột nào còn?
Đạm bụm mặt nghẹn ngào:
- Đời em còn gì nữa đâu anh? Không có rượu
em chết mất anh ơi!
Ngưng một lát Đạm tiếp:
- Sợ anh giận nên sáng nay đi gặp anh em
đâu dám uống. Mà cũng phải tỉnh táo mới nói chuyện, chứ em uống vô là không biết
trời trăng gì nữa anh à. Bây giờ miệng em lạt khó chịu lắm.
Đạm cho biết thông tin về anh em ở trung
đội 109 cũ của tôi: “Trung sĩ Kim khẩu trưởng khẩu hai, ở trước nhà thờ Tam Kỳ
già lắm rồi còn bị điếc nữa, Nguyễn Thái Tào nhắm viên khẩu 1 chết ở Bình Sơn,
mấy ngày sau gia đình mới đi tìm xác, Cường truyền tin chết ở Nước Mặn, hạ sĩ
Đa tác xạ mất tích, trung sĩ Thừa chết bệnh”.
Đạm nói: “Hôm chia tay ở trại tập trung
đi Thạch Nham em sợ anh chết, anh ốm còn bộ xương mà thương tích đầy mình...thấy
nó đánh anh em tưởng tiêu rồi! Ngày nào em cũng khấn cầu xin cho anh được sống”
Đạm nhắc “chén cơm ân tình” ở trại tập
trung. Chuyện là thế nầy: “Ngày mới đến Trại Tập Trung tôi kiệt sức nằm vùi,
không thiết tha gì chuyện ăn uống. Tới giờ kẻng ăn cơm, một mình Đạm sắp hàng
đi ăn, khi về nó thì thầm: “Mỗi thằng chỉ một chén cơm!”. Tôi biết nó đói vì hồi
ở Trung đội Đạm ăn dữ lắm, ăn sáu bảy chén cơm nên anh em cứ trêu chọc: “ăn như
trâu”.
Lần sau tới giờ ăn, dù đang sốt tay chân
rã rời tôi vẫn lết ra sắp hàng mà đạm phải ôm đỡ sau lưng, nó mừng tưởng tôi đã
ăn được. Khi thau cơm đem ra chia mỗi người một chén, chan nước muối xong người
ta tranh nhau ăn. Tôi chỉ đứng gục đầu hai tay vin vào sạp cây làm bàn, thấy vậy
Đạm nói: “rán ăn đi anh”. Đạm lùa vài miếng là xong, tôi đưa chén cơm của mình
cho Đạm, suốt bốn ngày đầu cứ như vây.
Thật ra do miệng đắng quá, tinh thần suy
sụp và tuyệt vọng đến độ tôi không cần sống nữa, không muốn ăn uống chứ nếu nuốt
được thì tôi cũng ăn vì bản năng sinh tồn! Đến ngày thứ năm trở đi chia chén
cơm xong tôi chỉ ăn một nữa rồi cũng đưa cho Đạm. Hai anh em ở chung được mười
ngày, Đạm chuyển trại”.
Hôm gặp lại Đạm cứ nhắc: “em không quên
anh đã nhịn cơm cho em ăn....ngày đó đói quá, nhờ “chén cơm ân tình” của anh mà
em sống được!”. Tôi cười: “anh không nuốt được, chứ không phải nhịn cho em
đâu”. Nó nghiêng qua: “Anh không ăn được đứng không nỗi mà cũng ra sắp hàng là
vì em, em biết chớ… nếu anh không ra thì em đâu có chén cơm đó”.
Đạm cho biết thứ hai tuần sau là ngày giổ
thằng Hải Âu, giổ xong sẽ ra Tam Kỳ lợp lại mái nhà. Tôi đề nghị: “Sao em không
bán nhà đi, sức khỏe yếu làm sao ra hoài được?” Đạm nói: “Cái đó sau nầy con nó
tính, bây giờ còn mộ mẹ và vợ nên về phải có chỗ ở anh à”
Gần 40 năm biết bao chuyện để nói. Tôi mời
Đạm ở lại chơi nhưng nhất định về tôi biết đã nhớ rượu, ở lại nó không thỏa mãn
được. Tôi có thể đáp ứng nhu cầu rượu của Đạm, nhưng với tình thương chân thành
dành cho em, và lương tâm không cho phép tôi, cho dù về nhà Đạm sẽ uống.
Tôi đặc vào tay Đạm: “Gởi 200 em mua quà
cho cháu ngoại, 300 em thay anh mua trái cây, bông hoa ngày giổ thằng Hải Âu. 3
triệu tiền xe và uống nước”. Tôi cười như mếu: “Nước chứ không phải rượu nghen
Đạm”.
Chúng tôi định khi về Tam Kỳ lợp nhà
xong Đạm trở vào tôi sẽ lên thăm cháu Hải Triều, thăm mộ Hải Âu và nói chuyện
nhiều hơn. Hai anh em ôm vai nhau, Đạm gục đầu vào vai tôi.
Tôi đón xe trả tiền cho tài xế, Đạm bước
lên quay lại nhìn, đưa tay quẹt nước mắt, nhìn theo xe chuyển bánh mắt tôi nhạt
nhòa.
Vài tuần sau Đạm ra Tam Kỳ chúng tôi vẫn
liên lạc, nghe giọng lè nhè tôi nói: “Đã bệnh mà không kiêng bớt được sao em?”
Lần nào cũng chỉ một câu nghẹn ngào: “Em buồn quá anh ơi!”.
Biết lời trách của tôi là vô nghĩa và
phi lý, nhưng còn ngôn ngữ nào khác đâu? Trước những bức bách khốn quẫn, chiều
kích đau khổ quá lớn, một ký ức đau thương hằn sâu trong tâm hồn như thế, Đạm
còn hướng thoát nào không?
Một tháng sau điện thoại đổ chuông thấy
số của Đạm: “A lô”. Giọng Đạm cứng và đứt quãng: “Em.....bị.. liệc... nữa...người....”.
rồi không nói gì nữa. Tôi hỏi dồn dập không trả lời. Gọi liên tục cả chục lần
cũng không bắt máy, vài giờ sau tôi gọi lại thì điện thoại không còn tín hiệu.
Hôm sau, rồi một tuần, một tháng rồi một năm vẫn không có thông tin. Tôi vô
tình quá nên không có số điện thoại của Hải Triều, hướng duy nhất để biết về Đạm.
Hồi hay thì việc đã rồi.
Tôi tin mỗi người một mảnh đời một số phận.
Đúng là hạnh phúc không thể chia đều cho cả thế gian. Nhưng tại sao cuộc đời của
Đạm lại chịu nhiều bất hạnh đến vậy? Bao nhiêu tai ương, bao nhiêu khổ nạn đổ ập
xuống một con người?
Nếu ngày đó tôi không chọn Đạm làm tác xạ
thì sao? Làm gì có chuyện Đạm theo sát tôi trong cái ngày định mệnh đau thương
đó? Làm sao tôi vượt qua bờ tử sinh nơi không có điều kiện để sinh tồn? Mọi việc
đều có nhân duyên, hợp tan còn mất là định mệnh. Chúng tôi gặp nhau trong cơn
binh lửa của quê hương và cùng nỗi trôi theo vận nước.
Thấm thoát đã hết một đời người, ngồi nhớ
lại đơn vị, nhớ lại bạn bè đứa còn đứa mất, trong đó có Đạm người lính kế toán
tác xạ của tôi. Một mảnh đời bất hạnh đáng thương trên cỏi đời nầy.
Đạm ơi! Cuộc hội ngộ sau 35 năm không
tin tức, đã sống lại trong tôi nỗi hoài nhớ bạn bè, một thời cận kề trong cơn
bimh lửa của quê hương. Đứa còn đứa mất, nỗi khắc khoải về số phận của con người
đã thống trị tâm hồn tôi một thời gian dài sau chiến tranh. Bao đau thương đổ vỡ
giữa muôn ngàn mảnh vụn của tan nát, tôi nhận ra rằng cuộc sống nầy là phù du.
Đạm ơi! Mỗi bước đi trong cỏi nhân gian
nầy đều ảnh hưởng đến số phận của một con người, ai lại không muốn mình bước
chân vào ngôi nhà hạnh phúc? Nhưng cuộc đời vốn là vô thường là bể khổ trầm
luân.
Ba năm rồi tôi vẫn chờ tin em, đôi khi
nghe nỗi tuyệt vọng thoáng về bởi quỹ thời gian đã hết. Tôi cố quên những chênh
vênh tàn nhẫn của hiện tại, vì đã biết rằng cuộc đời chỉ là một cơn sóng phù
du. Vết thương dù đau đớn cở nào rồi cũng theo ta về cỏi hư vô.
Cầu mong em vẫn bình an ở đâu đó và cho
tôi niềm tin mình còn gặp lại Đạm ơi!
20 Tháng 10 năm 2013
Lưu Hoàng Kỳ
No comments:
Post a Comment