Những năm đầu tản cư ra tỉnh lỵ Châu Đốc, từ
năm Đinh Hợi (1947), tôi đi đến trường học trễ vài năm vì quê tôi, Ấp Bà Bài,
không có trường học và trường làng Vĩnh Ngươn quá xa trên 10 cây số. Ông Nội dạy
vỡ lòng, tôi học chữ nho từ năm, sáu tuổi qua bộ sách "Tam Thiên Tự" (Thiên
trời, Địa đất, Tử mất, Tồn còn... Lục sáu, Tam ba...). Ba tôi còn gởi tôi học với
thầy Trụ Trì (ông Đạo Ba) chùa Bà Bài (Bồng Lai Tự), học mặt chữ nho qua những
bài kinh kệ ngắn như là học thuộc lòng, có ai bảo tôi viết một chữ nho có nhiều
nét thì tôi chịu chết đứng như nhân vật Từ Hải trong truyện Kiều. Như vậy, tôi
bù trớt chữ Quốc Ngữ cho mãi đến năm 1945, lúc đó tôi lên mười mới bắt đầu học
ABC ở Bà Bài do cô Chín "khai hoá" chữ Việt.
Cô Chín là cô giáo dạy tiểu học ở Cao Lãnh, vợ
của Thầy Tư, một công chức của tỉnh Sa Đéc bị mật thám Pháp có lệnh truy bắt vì
có hoạt động chánh trị chống Pháp. May cho thầy Tư có người thông báo trước nên
thầy cùng vợ mua một chiếc ghe nhỏ hai chèo và có cả hai cái dầm để bơi phụ, có
mui phủ che kín đáo. Hai ông bà đợi nước xuôi dòng thả ghe trôi theo dòng sông
Hậu về hướng Châu Đốc. Khi nước chảy yếu và nước đứng sắp chuyển dòng chảy ngược,
hai ông bà cùng chèo, bơi đi thêm đến khi nào, nước ngược chảy siết, mới tìm chỗ
có nhiều ghe xuồng đang đậu, tắp vào nghỉ ngơi.
Chờ nước đứng dòng sắp chảy xuôi, hai ông bà
ra chèo hoặc bơi "hụ hợ" vì từ nhỏ đến lớn khôn chỉ biết cầm bút, cầm
phấn không biết tí tẹo gì chèo ghe hay bơi xuồng. Nay có dịp học nghề chèo, bơi
sau vài ngày cũng quen và mất gần 10 ngày cũng đến được khu Cồn Tiên, ngang chợ
cá của tỉnh lỵ Châu Đốc. Tại đây, có nhiều ghe của dân "tứ xứ" tản cư
lánh nạn chiến tranh, cắm sào đậu làm chỗ dung thân.
Thầy Tư có người em là thầy Năm Khải, công chức,
là thông phán của Toà án Châu Đốc khi gặp lại anh ruột của mình được biết mọi
chuyện, ông đang trốn chạy, sợ bị bắt. Thầy Năm thành thật nói thẳng với ông
anh:
- Em không thể "chứa chấp" anh ở
trong nhà vì công an tỉnh Châu Đốc sẽ hỏi em có biết anh ở đâu không, họ cũng
đã biết em có ông anh ruột đang là công chức, ở Toà hành chánh tỉnh Sa Đéc. Vì
vậy, em cũng giúp anh có chỗ an toàn mà anh không phải lo gì hết về thức ăn, thực
phẩm nuôi sống anh chị. Em có người bạn là anh Hai Hương Tuần ở ấp Bà Bài, là người
hào sản, có uy tín nhứt trong Ấp, sẽ tận tình giúp đỡ và anh chị an tâm không sợ
bị ai dòm ngó. Bây giờ, em biếu anh chị một số tiền làm vốn "bổ hàng"
những thứ cần thiết của ghe bán hàng tiêu dùng lặt vặt hàng ngày như che mắt
thiên hạ. Thầy Năm còn nói tiếp:
- Từ tỉnh lỵ Châu Đốc, đi theo kinh Vĩnh Tế, đến ấp Bà Bài khoảng 10 cây số, đợi nước xuôi dòng, anh chị thả ghe theo con nước đến ấp Bà Bài mất chừng ba bốn tiếng, anh chị sẽ gặp Chùa Bà Bài ở đầu ấp. Và anh hỏi nhà anh Hai Hương Tuần, sẽ có người chỉ cho anh hay nhà chùa cho một chú tiểu đi báo cho gia đình ông Hương Tuần biết có khách phương xa tìm thăm, chắc chắn có người ra giúp anh chị đưa ghe đến nhà anh Hai.
Gia đình ông Hương Tuần tiếp đón thầy Tư và
cô giáo rất nhiệt tình, hai ông bà cảm thấy an tâm không còn lo lắng gì nữa.
Hôm sau, ông Hương Tuần hỏi hai ông bà còn bao nhiêu hàng chưa bán, tôi "mua mảo" hết.
Thế là có người xuống mang hết mọi thứ mà ông
bà không cần dùng. Từ những thân giao ban đầu giữa ông Hương Tuần và gia đình
thầy tư rất tốt đẹp. Có thể vì chỗ giao hảo đó, cô Chín đã suy nghĩ "bánh
sáp đi, báng qui lại" hay như người đời thường nói: "Có qua có lại mới
toại lòng nhau". Vì vậy, cô Chín đề nghị với ông Hương Tuần dạy vỡ lòng
cho các con ông tại nhà. Một việc làm sòng phẳng hợp tình hợp lý, ông Hương Tuần
cung cấp gạo, thức ăn cá, khô mắm mà ông có thừa mứa trong nhà và ông còn biếu
hàng tháng tiền tiêu xài vặt, còn cô Chín giúp dạy các con ông học chữ quốc ngữ,
thế là cả hai bên đều vui vẻ.
Từ đó tôi vừa học vừa làm con thoi cho cô
giáo, đôi lần cô Chín nhờ tôi mua đậu xanh cà nấu cháo ăn với cá kho quẹt hay
ăn khô nướng, Cô cho ăn thử, tôi cũng cảm thấy ngon và lạ miệng hơn ở nhà thường
nấu cháo trắng hoàn toàn không có cho thêm đậu xanh và gia đình cũng rất ít ăn cháo,
không chắc bụng bằng ăn cơm. Nếu gạo cũ không phải gạo lúa mới, ít nhựa, chị
tôi chế biến cho thêm một vài nắm nếp cho cháo có nhiều nhựa ăn ngon hơn cũng
ăn với khô nướng hay cá kho tiêu hoặc dưa mắm làm bằng đu đủ còn sống xắt mỏng
ngâm ngập sâu vào mắm chừng ba bốn ngày trở lên, ăn cháo rất bắt.
Món cháo trắng, cháo đậu xanh cà tôi đã ăn
qua. Còn món cháo giải cảm trị bịnh của Má tôi cực kỳ hiệu quả, với nhiều gừng,
tiêu, hành, trứng vịt (hay trứng gà), cá lóc hay cá trê cá rô nấu chín, lấy ra,
rẻ thịt lấy hết xương và xào mỡ tõi với tiêu gừng hành, cho lại vào nồi cháo đã
nấu nhừ, ăn ngon hết sẩy, mồ hôi đổ ra như tắm. Đó là vài món cháo của quê
hương Bà Bài - nồi cháo giải cảm mà sau này, tôi có dịp ăn khi đau ốm lúc còn ở
Sài Gòn hay ở tại Hoa Kỳ dù chế biến có hơi khác một chút vì thiếu nguyên liệu
hay gia vị, ăn cũng ngon. Các món ăn đó của quê hương Bà Bài, dù có rất ít lần
ăn mà tôi vẫn còn nhớ mãi trong tâm khảm. Má tôi thường cho anh chị em tôi hay
người lớn trong nhà ăn khi đau cảm cúm món cháo giải cảm này mà thay cho uống
thuốc vì không có thuốc.
Với vài món ăn dân gian quê mùa mộc mạc mà nó
đã đi sâu vào tâm hồn tôi từ thời còn bé bỏng cho mãi tới bây giời, cái tuổi
U100, gần đất xa trời.
Hể nói đến các thứ cháo, có một món cháo vô
cùng độc đáo, cháo đậu đỏ (nguyên hột) nước cốt dừa, có thể tôi ăn hàng ngày mà
không ngán, không chán mà tôi rất ưa thích, biết thưởng thức từ khi tản cư, chạy
giặc ra tỉnh lỵ Châu Đốc và học lớp Ba trường Nam tỉnh lỵ Châu Đốc. Món cháo đậu
đỏ nước cốt dừa ăn kèm với cá linh non hay cá linh xồn xồn hay già để nguyên vẫy
cũng tạm dùng được kho lạt lâu hơn cũng mềm rục. Cá linh kho múc ra dĩa loại
trũng sâu vì cá kho là phải có nước và còn cho thêm nước mắm tõi ớt, pha thật
loãng có thêm giấm và chút đường, rưới lên cho ngập mình cá ăn thêm bùi rất hấp
dẫn. Ngoài món cá linh kho còn có kèm theo món dưa mắm đu đủ (không dùng dưa
gang hay các loại dưa khác như sau này thiên hạ đã có bán rộng rãi). Dưa mắm đu
đủ còn cứng dòn không phải các loại dưa khác thì mềm nhũng, ăn kém ngon hơn.
Mỗi ngày đi học, Má cho tôi một "cắc"
có nghĩa là 10 xu (cent) "dằn túi" muốn ăn uống gì thêm vì sáng sớm
trước khi đi học, tôi đã có "dằn bụng" một chén lưng cơm nguội ăn với
cá kho hay khô mới nướng. Tuổi trẻ từ 12 tuổi trở lên, ăn uống rất mạnh mà tôi
hay chơi đá banh mỗi ngày nữa, tha hồ ăn bao nhiêu cũng tiêu hoá sạch.
Nồi cháo đậu đỏ nước cốt dừa của chị Sáu
(hình như tên Hậu), chênh chếch bên lề đường đối mặt với cổng chính của trường
Nam Tiểu Học và ngay trước cửa nhà của anh Quan (không g, học trên tôi một lớp.
Sau này anh theo học Khoá 10 Đà Lạt cùng với Tướng Lê Minh Đảo, anh có cấp bậc Trung
Tá từng làm Tham Mưu Trưởng và Liên Đoàn Trưởng Địa Phương Quân của Tiểu Khu
Châu Đốc, sang Mỹ diện HO và anh qua đời cũng trên dưới 10 năm).
Chị Sáu lúc bấy giờ chừng 18 hay 20 tuổi, còn
độc thân, chị có "hoa tay" buôn bán cho nên có hai ba người bà con
hay em chị phụ giúp trong giờ cao điểm bán cháo cho học sinh. Chị Sáu nấu đến
hai nồi cháo đậu đỏ trên hai bếp lửa cạnh nhau, bày biện bốn năm bàn nhỏ và hơn
hai chục "ghế đẩu" để học sinh, thực khách ngồi.
Một tô cháo đậu đỏ đã múc ra, có người tiếp
múc một "cống" nhỏ nước cốt dừa rưới lên trên cháo và kèm theo một
dĩa có cá linh kho và dưa mắm để trên bàn tha hồ mà hì hụp ăn cho nhanh để còn
vào lớp học. Đám học sinh vào học rồi, chị Sáu mới có thì giờ bán cho khách qua
lại hay người trong xóm cũng thích món cháo đậu đỏ nước cốt dừa bất hủ này.
Cái độc đáo của món cá linh kho và dưa mắm lại
có nước mắm giấm pha loãng có tõi ớt nữa. Khi ăn hết cá và dưa mắm, chỉ còn nước
húp một miếng nó đã làm sao, ngon tuyệt vời dù có ăn thêm cháo hay chỉ húp khơi
khơi, nó ngon kỳ lạ lắm rất khó tả "Ô Mê Ly đời ta". Tôi nhớ mãi cái hương
vị tổng hợp này vừa thơm ngon có vị chua ngọt, cay cay, mùi tõi mùi cá linh kho
và cả mùi dưa mắm nữa.
Với tuổi cuối đời, may ra ở Việt Nam,
tôi sẽ có nhiều dịp ăn cháo đậu đỏ nước cốt dừa với dĩa cá linh kho và dưa mắm
theo kiểu cách của "sếp cúc" chị Sáu. Hương vị và cách thưởng thức
món cháo độc đáo này với một tâm hồn ăn uống cao, phóng khoáng, thật hạnh
phúc cho kiếp người ở cõi ta bà trần thế này. Khi tôi ra đi về cát bụi, bảo đảm
tôi sẽ mang theo xuống tuyền đài mời bằng hữu từng quen với món cháo đậu đỏ này
cùng nhau vui vẻ cả làng mà ngài Diêm Vương trông thấy chúng tôi thưởng thức
hàm thụ, ngài cũng sẽ chảy nước miếng.
Cái món cá linh kho lạt (hay kho mía) phải
đúng mùa nước nổi của xứ mắm Châu Đốc mới có. Chị Sáu bán cháo đậu đỏ chỉ có buổi
sáng, là nghề mưu sinh của chị, bán quanh năm. Hết mùa cá linh, chị thay
bằng các loại cá khác như cá lòng tong, cá chốt, cá thiểu, cá mại hay các loại
cá con khác kể cả cá cơm, ăn cũng ngon mà không ngon "tuyệt cú mèo" bằng
món cá linh để nguyên vẫy kho lạt.
Tôi học tiểu học và trung học chương trình
Pháp cũng tại ngôi trường tiểu học này vì trường trung học mới thành lập (1949)
nên mượn vài lớp dành cho học sinh trung học. Bốn năm sau mới xây cất được một
ngôi trường trung học khang trang to đẹp cùng chung một khu đất rộng gần trường
tiểu học. Tên trường trung học ban đầu là Collège de Chaudoc, khi trung học có
trường riêng mang tên một danh nhân khoa bảng Thủ Khoa Nghĩa từ năm 1954 mãi
cho đến bây giờ (2025).
Khi tôi học tiểu học và trung học (chưa có
trường mới), kể như rằng món ăn sáng ruột của tôi cháo đậu đỏ nước cốt dừa của
chị Sáu vì lúc đó chưa làm ra tiền làm sao tôi dám ăn hủ tiếu, bánh bao hay những
món điểm tâm khác giá cao gắp ba bốn lần, tô cháo đậu đỏ cũng giúp ấm lòng một học
sinh nghèo như tôi. Vì tôi ăn cháo đậu thường xuyên từ khi học lớp Ba (1947), mỗi
ngày đi học, Má cho tôi một cắc mà một tô cháo của chị Sáu chỉ có 5 xu, còn 5
xu đợi giờ ra chơi, tôi thường mua một ly bánh lọt đậu đỏ cũng có nước cốt dừa
và nước đá bào. Hồi còn nhỏ, tôi rất mê thích những món ăn có đậu đỏ vì đậu đỏ
nấu ninh càng nhừ ăn càng bùi rất sướng cho cái miệng. Một tô cháo đậu đỏ nước
cốt dừa ăn với cá linh kho và dưa mắm, nó hoà quyện vào nhau thành một món ăn tổng
hợp đủ âm dương có nhiều màu sắc và cũng có đủ chất dinh dưỡng.
Từ ăn một tô cháo đậu đỏ chỉ năm xu, vài năm
sau tăng giá 10 xu, 20 xu, 50 xu cho đến một đồng. Tô cháo đậu đỏ của tôi
ưa thích cũng tăng theo vật giá leo thang đúng quy luật kinh tế thị trường. Tôi
ăn tô cháo đậu đỏ sau cùng giá một đồng sau vài năm đã ở Sài Gòn trở về thăm
gia đình, tôi cũng ghiền nhớ món cháo này và không rõ sau này, trước năm 1975,
nếu chị Sáu còn bán, một tô cháo đậu đỏ nước cốt dừa giá bao nhiêu?
Hết còn học tiểu và trung học tại ngôi trường
Nam Tiểu Học Tỉnh Lỵ Châu Đốc, tôi xin dạy học và may mắn được làm Trưởng Giáo
(tương đương với Hiệu Trưởng, vì trường Vĩnh Tế mới xây dựng, niên học đầu có 5
lớp, một lớp Ba, hai lớp Tư, hai lớp Năm, niên học kế tiếp dự kiến có 8 lớp và
tôi lại được thuyên chuyển về dạy tại trường Nam tiểu học, trường học đầu đời của
tôi, đúng là "Châu về hợp phố" (tên truyện tiểu thuyết trên nhựt
báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà).
Mỗi người có số, cái số của tôi là bám riết
cái ngôi trường học đầu đời Trường Nam Tiểu Học Tỉnh Lỵ Châu Đốc và cùng với
món cháo đậu đỏ nước cốt dừa của chị Sáu cũng hoà quyện bám theo tôi suốt 7
năm. Cái số của tôi với ngôi trường này có nhiều vấn vương ân tình thân thiết,
suốt ba năm học tiểu học từ lớp Ba đến lớp Nhứt (lớp Năm bây giờ) và bốn năm trung
học Đệ Nhứt Cấp, cộng lại đủ 7 niên học.
Chưa hết, cái món cháo đậu đỏ nước cốt dừa của
chị Sáu không buông tha, bám theo tôi suốt thời gian tôi dạy học tại ngôi trường
Nam Tiểu Học Tỉnh Lỵ Châu Đốc này ba niên học. Tính chung trên 10 năm tôi học
và dạy học tại ngô trường Nam thân yêu này và cũng đánh dấu suốt 10 năm tôi vẫn
mê thích món cháo đậu đỏ nước cốt dừa của chị Sáu.
Sau một niên học dạy học ở trường Vĩnh Tế
(Núi Sam - gần ngôi chợ chính của xã Vĩnh Tế). Mùa hè của năm 1955, tôi được tỉnh
(Sở Giáo Dục như tên gọi bây giờ) tuyển chọn tôi theo học Khoá Thanh Huấn Nha
Trang đầu tiên do Bộ Quốc Gia Giáo Dục tổ chức (khoảng 6 tuần) tại Nha Trang. Niên
học 55-56, tôi được thuyên chuyển trở lại Trường Nam Tiểu Học, không còn là học
sinh mà là một thầy giáo dạy "Sinh Hoạt Học Đường" (bao gồm dạy học
sinh tập thể dục và hướng dẫn tập luyện như một hướng đạo sinh...).
Cái món cháo đậu đỏ nước cốt dừa từ ngày chị
còn son, chưa chồng, nay đã có hai con, món ăn độc đáo đó vẫn còn quyến rủ tôi
dù tôi không ăn mỗi ngày như trước đây mà lúc bấy giờ hàng tuần tôi cũng có ăn
đôi lần, không ngồi ở lề đường mà tôi vào nhà quen gần chỗ chị bán ngồi ăn thoải
mái khi rảnh không có giờ dạy. Niên học 1956-1957, tôi không còn chuyên dạy môn
sinh hoạt học đường mà giao lại giáo viên phụ tá là Mai Hoà Hè (một cầu thủ đá
banh 'bóng đá' cự phách của đội tuyển nhà nghể tỉnh Châu Đốc. Tôi được chuyển
qua dạy lớp nhứt của bạn Lê Văn Hợi. Bạn Châu Văn An (Antoine) cũng dạy lớp
Nhứt như Hợi, cả hai bạn học cùng lớp với tôi, tình nguyện nhập ngũ Khoá 6 Thủ
Đức. Liên trường Võ Khoa Thủ Đức vừa mới mở lại sau vài năm đóng cửa.
Tính chung, tôi ăn cháo đậu đỏ nước cốt dừa của
chị Sáu liên tiếp 10 năm, chưa kể một năm dạy học ở trường Tiểu Học Vĩnh Tế, những
ngày nghỉ cuối tuần, thỉnh thoảng tôi cũng ghé ăn cháo đậu đỏ của chị Sáu để nhớ
hương vị của món cháo mà tôi ưa thích nhứt trong bao nhiêu thứ cháo khác.
Đời người như một giấc mơ, được mất ta đâu ngờ,
sau năm năm tôi xa hẵn gia đình và xa những mối tình đầu đời lên Sài Gòn học lại.
Tôi tạm biệt ngôi trường Nam Tiểu Học Tỉnh Lỵ Châu Đốc và cả nồi cháo đậu đỏ nước
cốt dừa ăn với cá linh kho rục và dưa mắm của Chị Sáu mà tôi cứ mãi nhớ trong
lòng. Kỷ niệm xưa, nay còn gợi lại trong ký ức của tôi, một ông lão quá
"đát" cổ lổ xỉ đi phải chống gậy đợi ngày ra đi về nơi vĩnh hằng miên
viễn xa xôi mà tôi luôn nhớ món cháo đậu đỏ nước cốt dừa sẽ bất tử trong
trái tim khô héo của tôi.
Các món ăn đặc sản của quê Châu Đốc như các
loại mắn hay rùa rắn lươn, cá lóc nướng trui, cá hô, cá rô, cá lăng hay đầu cá
lóc nấu canh chua với bông điên điển hay bông sua đủa cực kỳ ngon. Và cá
hô, cá bông thái mỏng của món "tả pí lù" (nhún dấm hay nước dừa lửa...)
cũng là món ngon tuyệt vời, cực kỳ khoái khẩu. Đó là những món ăn ngon đặc sản
cho những tiệc tùng hay là trong các bàn nhậu với nước mắt quê hương. Khi tôi
nghĩ đến những món ăn ngon đó, đặc sản của quê hương, tôi cũng thèm thuồng
nhưng không có cái thèm ăn đến phải chảy nước bọt trong cổ họng như món ăn độc
đáo thấm vào da thịt tôi - cháo đậu đỏ nước cốt dừa ăn với cá linh kho lạt và
dưa mắm. Dù đó là món ăn chơi hay ăn sáng nhè nhẹ, không phải món ăn thiệt
trong các bữa ăn thịnh soạn, tiệc tùng mà lòng tôi hình như có cái gì da diết
đê mê như một nụ hôn của người tình vào má mình chưa phải chạm môi mà cũng
đã phê hết biết, đó là tô cháo đậu đỏ nước cốt dừa.
Từ năm 1957 cho đến năm 1962, năm năm tôi đi
học lại mất hơn hai năm cố sức học lại có bằng cấp đủ điều kiện dạy trung học
và tôi được làm Giám Học các môn Việt Ngữ của trường Trung Tiểu học Phước Kiến
do Giáo sư Tiến sĩ Tăng Kim Đông làm Hiệu Trưởng, gần tròn ba niên học, thi
hành Lệnh tổng động viên, tôi vào học Khoá 13 sĩ quan trừ bị Thủ Đức.
Con đường xưa tôi đi từ Châu Đốc lên Sài Gòn
mất hơn 5 năm. Đầu năm 1963 con đường xưa đó đưa tôi về lại tỉnh lỵ Châu Đốc
qua bộ quân phục của Trung đoàn 33 Bô Binh (SĐ 21 BB) không còn là thư sinh, thầy
giáo, chỉ biết cầm phấn nay cầm súng, với cấp Chuẩn Uý có chức vụ trong Bộ Chỉ Huy
Trung Đoàn được cấp xe Jeep riêng.
Ở đời có những may rủi bất ngờ, tôi đâu biết
trước được bổ nhiệm về Trung Đoàn 33 mà Bộ Chỉ Huy lại đóng tại tỉnh lỵ quê nhà
của mình. Cái Tết Nguyên Đán năm đó (1963), tôi có nhiều ngày sống với gia
đình, Ba Má tôi rất mừng. Má tôi cho biết:
- Mỗi thời cúng theo đạo Cao Đài, 6 giờ sáng
và 6 giờ chiều, Bà đều cầu nguyện cho tôi luôn được bình an khoẻ mạnh, Bà đâu
có cầu nguyện cho tôi được về quê nhà mà phục vụ trong Quân Đội lại được về nhà
ăn Tết với gia đình là sự thể quá bất ngờ. Ba Má tôi quá mừng vì con trai cưng của
ông bà không phải trực tiếp chiến đấu tại tiền tuyến như các bạn cùng khoá đều
phải theo các tiểu đoàn đóng quân xa tỉnh lỵ, hằng ngày hành quân lội ruộng,
băng rừng... và tôi còn may mắn hơn các bạn cùng khoá, không biết dẫn trung đội
phục kích đêm, ngủ bờ ngủ bụi trên bong sô (poncho)...Đang ở tỉnh lỵ Châu Đốc
chữ thọ cao, có xe jeep thỉnh thoảng tôi có ghé qua chỗ bán cháo đậu đỏ của Chị
Sáu cũng ăn món cháo mà tôi không bao giờ quên. Nay chị Sáu có dựng một cái lều
nhỏ sát hàng rào trường Nam Tiểu Học, ngoài bán cháo đậu đỏ, chị còn bán thêm
bánh kẹo, trái cây, thuốc lá... Dù tôi mặc quân phục, chị Sáu gặp lại tôi, nhớ
ra liền, hỏi thăm tíu tít. Tôi hỏi chị về gia cảnh, có bao nhiêu con, chị cho
biết đến nay đã có 5 con hai đứa lớn đang học trường trung học Thủ Khoa Nghĩa,
ba đứa con nhỏ hai đứa học tiểu học và đứa nhỏ nhứt đang học mẫu giáo. Tôi
"đắc nhân tâm" khen chị dù có 5 con vẫn còn đẹp như xưa. Chị "quắc
mắt", hứ một tiếng và nói liền:
- Đẹp cái mốc xì, cậu khen an ủi, tôi quá cực,
bán cháo đậu đỏ không đủ sống và tôi phải bán thêm các thứ lặt vặt cả
ngày quá mệt. Và tối về nhà, khi nào ông nhà tôi nhậu xỉn còn "vô tư"
quậy tới bến, một lần chị đã mệt rồi. Đến khuya, ổng còn hứng quất thêm một hai
trận nữa, chị muốn tắt thở mà cũng phải dậy sớm lo cho nồi cháo nhừ ngon mới
bán được.
Cậu nghĩ coi, như vậy làm sao chị còn nhan sắc,
cậu khen còn đẹp như là một lời an ủi tốt, cám ơn cậu rất nhiều. Hiện nay chị mới
36, tuổi còn sanh đẻ, chị sợ có con thêm nuôi không nổi còn ổng thì "phẻ
re", làm công có tiền phụ giúp chị chút ít, dành tiền để nhậu "mút
mùa lệ thuỷ". Khi nào rảnh cậu đến đây chơi, nói chuyện đời cho thêm
vui...
Đã trải qua chín mươi "mùa thu lá
bay" nhìn trời hiu quạnh im lắng, không có tiếng động, sương sớm giăng
giăng trước sân nhà, lòng tôi lâng lâng rung cảm, miên man suy nghĩ về cuộc đời
vô thường thăng trầm của nhân sinh và chính bản thân mình trên quê hương thứ
hai.
Tôi có thói quen thức sớm - trước 4 giờ sáng, ngồi một mình độc ẩm với tách cà phê đen, chất đắng của hương vị cà phê Starbuck làm tôi thêm cảm khoái nhớ lại dĩ vãng. Thời thanh niên cường tráng với tuổi hăm mấy chưa có tình yêu trai gái dù trước sau tuổi 20 cũng có vài mối tình vắt vai rồi tan biến hết. Nay đi dạy học có tiền rủng rỉnh, có xe Vespa mới cáu cạnh lại quên chuyện tán gái hay vui chơi trác táng. Trái lại, tôi mê thích tìm các tiệm ăn, nhà hàng mới khai trương của Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông, thưởng thức các món ngon của từng nhà hàng. Ngồi ăn một mình lại vui hơn, có nhiều thời giờ không bận chuyện trò với người khác, tha hồ mình thưởng thức chiêm nghiệm từng món ăn ngon hấp dẫn ở chỗ nào, mặn lạt, có hợp khẩu vị...
Có dịp, tôi kể cho chị Hai Quang nghe chuyện
thưởng thức các món ăn ngon (Bà Trung Tướng Đặng Văn Quang) khi hai ông bà ở
chung nhà tôi nhiều tháng trước khi tôi đưa hai ông bà vào nhà dưỡng lão. Chị
Hai vỗ vai tôi và nói:
- Chú có tâm hồn ăn uống giống chị. Thế là cả
nhà cùng cười vui.
Cuộc sống của mỗi người lên xuống, thay đổi
không ngừng và sinh hoạt gia đình về khâu ẩm thực cũng thay đổi theo thu nhập
hàng tháng. Tôi may mắn sống và làm việc ở Sài Gòn hoa lệ nhiều năm, ở Tây Đô Cần
Thơ cũng 7 năm và cũng từng lân la đây đó nhiều tỉnh khác của vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Hơn nữa, tôi lại sinh trưởng tại cái nôi các loài cá nước ngọt,
mắm, rắn rùa lươn - tỉnh Châu Đốc, nên tôi cũng am tường các món ăn đặc sản của
nhiều nơi của Miền Tây mà tôi đi qua cũng ngon nổi tiếng, có nhiều dịp thưởng
thức.
Những món ăn ngon đặc sản của Việt Nam qua cuộc
sống của đời tôi cũng khá nhiều, bây giờ tôi lại quên hết hay cũng có khi nhớ rồi
quên nhanh. Chỉ có một món ăn bình dân, rẻ tiền, ngồi bên vệ đường thưởng thức
vội vàng thời học sinh mà hương vị của món ăn đó, tôi không bao giờ quên, chính
là hương vị đậm đà thân thương của quê hương mình - Tô Cháo Đậu Đỏ Nước Cốt Dừa
hằn in sâu trong trí não khi tôi nhớ, nó lại như bất biến trong cõi nhân gian
này. Tôi nhũ thầm, dõng dạc hô to:
Cháo Đậu Đỏ Nước Cốt Dừa muôn năm...năm...@
Anh Phương Trần Văn Ngà
(Sacramento 27.9.2025)

No comments:
Post a Comment