“Anh
hãy đi cho khuất mắt tôi, các anh đeo dai như con đỉa. Chúng tôi đã sợ các anh
quá rồi! Hai mươi mốt năm trước, chúng tôi đã phải bỏ cả nhà cửa làng xóm để chạy
xa các anh vào đây, vậy mà bây giờ các anh vẫn lại theo bám, không buông tha!”
Đó
là lời người con gái ở Hố-Nai Biên-Hòa (bắc kỳ 9 nút) nói với tên bộ đội (bắc kỳ
2 nút) khi hắn theo tán tỉnh cô sau 30-4-1975. Cô là thế hệ thứ hai của một gia
đình di cư vào Nam sau 20-7-1954. Tội nghiệp cô gái bắc kỳ! Chúng tôi, những người
lính thời ấy, trách nhiệm thế nào với nỗi nghẹn ngào cay đắng này của cô?
Ván
bài thắng ngược! Tại sao con số 9 nút (1954) lại thua con số 2 nút (1975)? Cái
gì khiến cô gái bắc kỳ này lại sợ tên bộ đội bắc kỳ kia? Trải nghiệm thực tế,
đơn thuần trong sinh hoạt xã hội của “bác” Hồ trước và sau những năm 1975 để giải
mã những nguyên nhân căn bản khiến con số 9 nút phải thua con số 2 nút:
Ở
năm thứ 5 của đời tù tội, lần đầu tiên mẹ tôi đi thăm tôi ở trại Ba-Sao Nam-Hà,
quà cho tôi thật khiêm tốn, trong đó có hai hộp sữa đặc là đáng quý nhất. Tôi
nói đường xá xa xôi, mẹ mang làm chi hai hộp sữa này cho nặng, thì mẹ tôi cho
biết bà mua ở Hà-Nội khi đi ngang qua. Chia tay, tôi ôm hai hộp sữa vào lòng,
nghĩ tới chiều nay có được cái “ngọt ngào của cuộc đờiˮ, cái ngọt ngào đã biến
mất trong suốt hơn 5 năm trong đời tù đày, mà đôi chân tôi bước đi khấp khểnh,
cao thấp như đang ở trên mây.
Thế
nhưng, trời sập rồi! cái đinh vừa đâm lút vào hộp sữa thì một dòng bùn đen túa
ra, tôi mềm người rũ gục như một tàu lá úa. Ngồi cạnh tôi, người bạn thân trong
tù đang chờ được chia xẻ, đôi mắt trợn tròn rồi rủ xuống như muốn khóc! Bóc
nhãn hiệu ra, thấy cạnh hộp sữa có một vết hàn. Như thế là người Hà-Nội đã tinh
vi sáng tạo: rút ruột sữa ra, bơm bùn đen vào rồi hàn lại. Quả thật (mẹ tôi), Bắc
Kỳ 9 nút đã thua Bắc kỳ 2 nút!
“Phú
quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Tôi đã học
cái văn hóa đó ở nhà trường. Ở nhà, trong hoàn cảnh nghèo, mẹ tôi thường nhắc
nhở anh em chúng tôi phải luôn giữ cái chất“bần tiện bất năng di” ấy. Đó
là cái nhân cách căn bản được giáo huấn ở học đường miền Nam Việt-Nam, ở cái đất
nước mà con người hiền hòa, chân chất, đơn thuần, vô tư không ôm hận thù, không
biết cướp bóc, lừa bịp, đểu cáng vv. Đó chính là cái đất nước ở phía sau vĩ tuyến
17 kia.
Còn
ở miền Bắc, cái đất nước trước vĩ tuyến 17 thì sao? Người ta dạy nhau cái gì ở
nhà trường và ngoài xã hội? Người ta dạy nhau rằng“bần cùng sinh đạo tặc”.
Hậu quả là sau 30- 4-1975, người Bắc Kỳ, tay cầm dao, tay cầm súng, tràn vào miền
Nam điên cuồng giết người cướp của, hành động của “kẻ dã man thắng người văn
minh” mà nhà nữ văn sĩ C/S Hà-Nội Dương-thu- Hương đã nhận xét.
Sự
thật đã chứng minh “con người ít nhiều là sản phẩm của xã hội”, vậy thì xã hội
man rợ tất nhiên sản xuất ra con người dã man. Từ cái bản chất dã man này, tự
nó, sinh ra tệ trạng sinh hoạt đầy tính chất nguy hiểm, độc ác, gian manh, quỷ
quyệt khó lường v.v. Đó là kết quả tất yếu không cần lý giải.
Chỉ
có một mẩu cá khô lấy trộm trong khi vận chuyển lương thực, ông chiến hữu của
tôi miệng phải ngậm miếng cá đó, cổ đeo cái bảng viết hai chữ “ăn cắp”, đứng
trước cổng trại suốt ba ngày! Miếng ăn quý hơn mạng người! Ông ngục sĩ Nguyễn-chí-Thiện
khi còn sống đã nói rằng: “miền bắc thắng miền nam là do chế độ lương thực
tem phiếu”. Ông đúng hay sai? Đây là câu trả lời: “Em xin anh, chúng em mà
nói trên đài thì ở ngoài kia, cha mẹ và vợ con em sẽ bị cắt hộ khẩu, họ sẽ chết
đói!”. Đó là lời của ba tên tù binh bị bắt trong trận đánh cuối cùng ở
Long-Khánh.
Tôi
còn nhớ, ngày 3/9/1978, ngày giỗ “bác” Hồ của nhân dân bắc kỳ (2 nút), tại trại
giam ở Yên-Bái, địa danh có cái tên nghe rợn người: “Ma thiên lãnh!”, tù
nhân được nghỉ một ngày để chuẩn bị làm giỗ “bác”. Bàn thờ được trải khăn đỏ,
sau bàn treo lá cờ to, trên bàn có hình “bác”, trước “bác” đặc biệt có một mâm
hoa quả bằng hình vẽ mà trước đó, nguyên một ngày, ông tù nhân Lê-Thanh, họa sĩ
kiêm điêu khắc gia có tiếng trong quân đội miền Nam “thua cuộc”, đã phải vẽ
trên cả chục bản để ông cai tù trưởng trại lựa chọn.
Sau
khi đã nhuần nhuyễn nói về tài thao lược và đạo đức của “bác”, trưởng trại để ý
thấy tù nhân xì xầm về bức họa trái cây kia, ông bèn rất là trân trọng và tự
tin nói rằng: “bác thường dạy “trong đấu tranh gian khổ, tính chất khắc phục là
quan trọng”, cho nên khả năng “biến không thành có, biến khó thành dễ” là thành
tích luôn được biểu dương, khen thưởng”!
Giỗ
“bác” hôm nay, “bác” được ăn hoa quả giấy. Quả nhiên gậy “bác” đập lưng “bác”!
Phần tù nhân, nghe xong chỉ thấy họ lặng im. Tôi đoán họ đang nghĩ đến nhờ ngày
giỗ “bác”, bữa ăn trưa nay được tăng thêm trọng lượng.
Ông
chiến hữu (bắc kỳ 9 nút) nằm cạnh tôi kể chuyện anh: “Bọn công an (bắc kỳ 2 nút)
cùng người giúp việc nhà anh, là chị đã xin nghỉ việc vài ngày sau 30/4/1975, đạp
cửa bước vào và lớn tiếng hỏi anh: “lương lính, quân hàm thiếu tá, một tháng
anh lãnh bao nhiêu? Anh trả lời chỉ vừa đủ sống cho hai vợ chồng và năm đứa
con. Tên công an quát lớn: chỉ đủ sống thì làm sao anh có cái nhà to thế này?
Đây là anh đã lấy của nhân dân, vậy bây giờ anh phải trả lại cho nhân dân. Anh
có ba ngày để dọn ra khỏi căn nhà này.”
Một
hơi thở dài, rồi một cơn ngủ thiếp của một ngày “chém tre, chặt gỗ trên
ngàn, hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai” của ông chiến hữu (bắc kỳ 9 nút)
đã thay cho phần kết của chuyện kể mà tôi thiển nghĩ, những người dân miền Nam,
cái đất nước ở sau con sông Bến-Hải kia đều đã biết cái số phận căn nhà đó ra
sao.
Những
ngày vừa qua, nhân lễ kỷ niệm 50 năm anh em Tổng Thống Ngô-đình-Diệm bị sát hại,
vài đài truyền hình có chiếu lại hình ảnh của gần một triệu người bắc kỳ (9 nút)
bồng bế, gồng gánh, mang theo những chổi cùn, rế rách, luộm thuộm dắt díu nhau
lên con tàu “há mồm” xuôi nam. Sau đó họ được định cư ở những vùng xa, vùng sâu,
hoang vu hẻo lánh, lập nghiệp. Mơ ước cư ngụ ở giữa thành phố ồn ào, xôn xao, đối
với họ chỉ là hoài bão.
Thế
còn 30-4-1975, bắc kỳ (2 nút) xuôi nam thì sao? Vai đeo súng, tay cầm dao,
nghênh ngang tràn vào thành phố cướp của, lấy nhà, chiếm đoạt, chễm chệ ở trong
những căn nhà lớn ngay giữa thị thành. Áp đẩy khổ chủ đến vùng xa, vùng sâu có
tên gọi là “kinh tế mới”! Cái tư thế “chễm chệ” kể trên, mỗi ngày một phát triển
lớn, tới độ, bây giờ 38 năm sau, gần như toàn thể những thành thị ở miền nam,
trên những đường phố lớn, trong những căn nhà to, chủ nhân đều là bắc kỳ (2
nút). Như vậy, chẳng phải rõ ràng bắc kỳ (2 nút) không những chỉ thắng bắc kỳ
(9 nút), mà còn thừa thắng xông lên, áp đảo luôn cả những nam kỳ chủ nhà, không
nút nào hay sao?
Tên
công an chính trị viên, phó trại giam, tốt nghiệp viện triết học Marx, trong đối
thoại về chủ nghĩa Cộng-Sản, hỏi tôi rằng “chân lý có thay đổi không?” Tôi trả
lời: “đã là chân lý thì không thay đổi”. Hắn cười.
Hôm
nay, hắn đúng, tôi sai. Chân lý của Marx quả đã thay đổi. Thế giới C/S của Marx
đã xây dựng gần một thế kỷ, hoàn toàn sụp đổ. Học trò của Marx đã chia tay ý thức
hệ với Marx, lũ lượt bỏ chạy qua vùng đất tư bản, thấy của cải vật chất phong
phú thừa thãi mà chóng mặt, hoa mắt nên làm càn làm loạn”. “Hy sinh đời bố,
củng cố đời con”, thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước, gia sức trấn lột, cướp
bóc, lừa bịp, điên đảo, tham nhũng bừa bãi, trơ tráo tới độ vô văn hóa, vô nhân
tính.
Trở
lại con số 9 nút (1954) và con số 2 nút (1975) mà người ta mệnh danh là bắc kỳ
cũ và bắc kỳ mới, với những chuyện xảy ra ở trên một đất nước xa Hà-Nội tới
ngàn dậm này: Đất nước Hoa-Kỳ.
“Này
chị kia, ở nước Mỹ chợ nào cũng có chỗ cất shopping- car, sao chị lại bỏ bừa
sau xe của tôi?ˮ “Cứ tự nhiên như ở Hà-Nội!ˮ, “Nhà tôi” (bắc kỳ 9 nút), bực
mình la lớn. Hai bà (bắc kỳ 2 nút) tỉnh bơ, nổ máy xe biến mất. Còn lại là hai
tôi, mỗi người đẩy một xe đưa vào chỗ cất.
Một
lần khác, người bạn tôi kể rằng “Đi chợ, mua vội, tay chỉ cầm có hai gói
cà-phê, đang xếp hàng chợt một chị bắc kỳ (2 nút) chen ngang vào đứng trước
anh, anh phản đối thì chỉ hỏi lại: “xe của ông đâu?” Anh giận quá la lớn: “Đây
là ở nước Mỹ, mua nhiều hay ít đều phải xếp hàng chứ không phải ở Hà-Nội của chị”.
Tại
một nhà hàng, cháu gái của tôi cầm tờ biên lai tính tiền do bạn trai là người Mỹ
trả, tới nói với người thâu ngân rằng: “chúng tôi gọi hai tô bún thịt nướng chứ
đâu phải chả cá thăng-long mà tính nhiều thế này?” thì được thâu ngân viên
buông gọn một chữ “nhầm”, rồi đếm tiền hoàn lại, không một lời xin lỗi. Tôi
đoán chắc người Hà-Nội, chủ nhân (2 nút) tưởng Mỹ khờ khạo (đã bị bác và đảng
đánh bại), nên mập mờ đánh lận con đen.
Trên
đường về nhà, dọc hai bên đường, ở giữa lòng cái thủ đô có tên Little Saigon
này, lác đác những căn nhà to như dinh thự mà người Hà-nội đã bỏ tiền triệu để
sở hữu một cách ngạo nghễ, khiến tôi chợt nhớ đến ông chiến hữu bại trận của
tôi năm xưa đã phải “trả nhà cho nhân dân” (nhân dân Hà-Nội), mà xót xa!
Tôi
miên man tự hỏi, chẳng lẽ từ niềm tự hào “đánh thắng hai đế quốc lớn” của người
Hà-Nội đang được thể hiện một cách ngang ngược, lỗ mãng, vô văn hóa ngay giữa
cái thủ đô của người Việt tị nạn trên đất nước Hoa-Kỳ này đến vậy sao? Lý do gì
họ có mặt nơi này? phần đất nơi cư ngụ cuối cùng, mà những người hoảng sợ đã phải
bỏ nhà bỏ của để chạy xa họ? Tôi đang nghĩ đến người con gái bắc kỳ (9 nút) ở đất
Hố-Nai Biên-Hòa năm xưa. Tôi ước ao được gặp lại cô ở nơi này, nơi cư ngụ cuối
cùng của những người kinh hoàng, hoảng hốt bỏ lại quê hương, chạy trốn những kẻ
bạo tàn! Tôi muốn lại được nghe cô nói rằng “Các anh hãy đi cho khuất mắt tôi,
tôi đã sợ các anh quá rồi, chạy xa các anh tới nửa vòng trái đất mà các anh vẫn
không buông tha!”
Ông
nhà văn Hoàng-hải-Thủy của miền nam cũ, mới đây cay đắng than rằng “Nếu một
ngày nào đó trên đất nước Hoa-Kỳ này, giữa nơi ở của những người Việt tị nạn có
phất phới lá cờ đỏ sao vàng thì xin cho tôi được chết trước!” Nghe mà xót xa
cay đắng quá! Mong là con bài 2 nút sẽ không thắng ngược 9 nút thêm lần nữa!
TLC
BÙI-TRỌNG-NGHĨA/K18-BBTĐ
Quận
Cam 11/2013
No comments:
Post a Comment