Tâm Diệu
Có người cho rằng “đạo nào cũng là đạo”. Câu nói này thoạt
nghe qua có vẻ hợp lý và là một ý tưởng hấp dẫn. Nếu hiểu theo một cách
đơn giản, trong phạm trù luân lý đạo đức là đạo nào cũng dạy con người làm lành
tránh dữ, thì câu này rất hợp lý. Tuy nhiên, chúng ta cần phải suy xét và nhận
định lại quan niệm đó qua lăng kính tôn giáo.
Trước hết có thể nói ngay rằng câu “đạo nào cũng là đạo”
hay “đạo nào cũng tốt” chỉ là một câu nói xã giao thông thường
hoặc để làm vừa lòng khách, vui lòng bạn hay có thể do sự thiếu thông tin về sự
khác biệt giữa các tôn giáo. Trong phạm vi bài này người viết thu gọn về
sự khác biệt căn bản giữa hai tôn giáo lớn có đông đảo tín đồ
tại Việt Nam là Kitô Giáo [01] và Phật Giáo để giúp cho những người đang đứng ở
giữa ngã ba đường tầm Đạo với ấn tượng đạo nào cũng tốt để nhận thấy con đường
nào phải lựa chọn. Việc chọn lựa là quyền của mỗi người. Dĩ nhiên mỗi
người phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Người viết chỉ xin chúng
ta suy nghĩ đến sự thật.
Trước khi đi vào chi tiết, chúng ta cần ghi nhận rằng, Phật Giáo là một
tôn giáo hoàn toàn khác biệt với các tôn giáo khác trên thế giới về mặt tư
tưởng triết học. Phật Giáo
không chấp nhận giả thuyết có một vị Trời hay một vị Thượng Đế sáng tạo, không
có giáo điều, không có một linh hồn bất tử vĩnh hằng, và không có một đấng
quyền năng sáng tạo nào ngự trị trong cái gọi là định mệnh hay số mệnh của mỗi
con người. Vì thế, điểm then chốt trong việc phân biệt giữa Phật giáo
với các truyền thống tín ngưỡng lớn trên thế giới là vấn đề có hay không một
Đấng Sáng Tạo? Đối với Phật giáo, ý niệm về một “nguyên nhân đầu tiên” không hề
được đặt ra để lý giải do bởi ý niệm về tánh không và duyên khởi.
Điểm khác biệt căn bản đầu tiên giữa hai đạo là Niềm Tin Tôn Giáo:
Đối với Kitô Giáo, Đức Tin là cốt lõi của đạo. Nếu không tin thì không
thể trở thành một Kitô hữu được. Không tin thì không thể thực hành những gì mà
đạo Kitô đòi hỏi được. Đức Tin được ghi trong bản Kinh Tin
Kính của các Tông Đồ (Apostle's Creed) thường gọi tắt
là Kinh Tin Kính. “Tôi tin kính Thiên Chúa, là Cha
toàn năng, là Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình”. [02]
Đối với Phật Giáo, vị sáng lập tôn giáo này – Đức Phật Thích Ca – khuyên
những người muốn theo Ngài chớ có tin một điều gì chỉ vì điều
đó đã được một bậc đạo sư của mình nói ra, được phát xuất từ nơi có uy quyền,
được kinh điển truyền tụng hay theo truyền thống từ xưa để lại; mà phải dùng lý
trí và sự thông minh của mình để cứu xét và chỉ chấp nhận điều gì khi đã trải
nghiệm được hạnh phúc an lạc. Ngài nói rằng “Ta không dạy ai đến để
tin, nhưng đến để thấy và thực hành”. Điều này đã khuyến khích
những người muốn đi theo Ngài hãy nghiên cứu kỹ càng những lời dạy của Ngài và
để cho họ tự do quyết định là có nên chấp nhận những điều chỉ dạy đó không.
Ngài không bảo ai đến và chấp nhận tôn giáo này nếu họ chưa hiểu những lời dạy
của Ngài.[Kinh Kalama] [03].
Nói gọn lại Kitô Giáo là tôn giáo của “đức tin” (faith) và Phật Giáo là
tôn giáo của “lý trí” (trí tuệ). [4]
Điểm khác biệt thứ hai giữa Kitô Giáo và Phật
Giáo là quan niệm về giải thoát.
Đối với Kitô Giáo, thì sự giải thoát là sự "giải thoát khỏi
tội lỗi qua một Đấng Cứu Rỗi". Giáo lý giải thoát này được đặt
trên căn bản một số tín điều mà các tín hữu Kitô Giáo phải tin, và đức tin này
là tuyệt đối, bất khả tranh cãi, bất khả luận bàn. Vì thế muốn được giải thoát,
tín hữu Kitô Giáo phải tin vào nhiều tín điều được ghi trong Kinh
Tin Kính của các Tông đồ (Apostle’s Creed). Chúa Giê-xu là
nền tảng, là Tác giả và là Đấng duy nhất có quyền ban cho sự Cứu Rỗi (Rôma
3:24, 25; 5:21; Công Vụ 4:12; Hêbơrơ 12:2). Những ai không tin nhận Chúa Giê-xu
sẽ không được tha thứ tội lỗi và sẽ chịu phạt nơi hoả ngục.
Đối với Phật Giáo, đạo Phật cho rằng cuộc đời này là giả tạm và chúng
sinh cứ phải sống trong đau khổ vì lòng tham dục vô bờ bến, khiến con người tự
mình trói buộc với những xung đột và khổ đau do không bao giờ thoả
mãn, nên phải luân hồi triền miên trong vòng sinh tử. Do đó nếu muốn, con
người có thể tự mình giải thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi bằng các nỗ lực tu tập bản thân: làm lành,
tránh ác và tự thanh tịnh hoá tâm
ý. Bốn chân lý nền tảng của Phật giáo (Tứ Diệu Đế) cho rằng mọi
khổ đau của chúng sinh đều có một hay nhiều nguyên nhân gây nên, chúng có thể
bị giải trừ và có con đường để giải trừ khổ đau đó. Con đường đó chính là con
đường giải thoát, là Bát Chánh Đạo trong giáo lý căn bản của nhà Phật. Giáo lý
này được qui thành ba môn học: Giới, Định và Tuệ. Thực hành Giới và Định là đưa
tới trí Tuệ, là giải thoát khỏi sự mê muội, lòng ích kỷ và khổ đau, là đạt tới
cảnh giới Niết Bàn.
Đó là nét đại cương sự khác biệt giữa giải thoát trong Phật Giáo và
trong Kitô Giáo. Cái căn bản khác biệt này là, một bên là tha lực tức
nhờ sự cứu rỗi, bên kia là tự lực, tự mình thắp đưốc lên mà đi.
Với Phật Giáo, triết lý của đạo này là một triết lý sống, bởi vì nó là một chân
lý giải thoát mà chỉ có ai thực hành nó mới đạt được nó, hiểu được nó trọn vẹn,
người Phật tử phải tự mình tu tập để tiến tới giải thoát. Chính
Đức Phật dạy, "Không ai có thể
cứu vớt chúng ta bằng chính bản thân chúng ta”. Đức Phật
chỉ là người dẫn đường. Ngài chỉ dạy cho chúng ta con đường tạo ra nguyên nhân
và hậu quả. Số phận của chúng ta nằm trong tay chúng ta, không phải trong tay
của Trời/Thượng Đế cũng không phải trong tay của Đức Phật. Với Kitô
Giáo, vì là một tôn giáo cứu rỗi, con người chỉ cần đặt tất cả vào một niềm tin
duy nhất ở một đấng siêu nhiên để mong cầu được giải thoát cho mình: "Thiên
Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban con duy nhất (sic) của
Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời
đời." (Crossing The Threshold of Hope, trang 76),
Điểm khác biệt thứ ba giữa hai đạo là thuyết Sáng Tạo:
Kitô giáo tin có một Thiên Chúa duy nhất, và là Đấng Tạo Hóa
toàn năng, đã dựng nên và điều khiển toàn thể vũ trụ hữu hình và vô
hình. Cuốn Genesis (Sách Sáng Thế), một trong những kinh Thánh Cựu Ước
viết rằng Thiên Chúa tạo ra vũ trụ và muôn vật và loài người trong 7
ngày. Vì thế tín hữu Ki Tô giáo tin rằng mọi thứ trên đời đều có một
nguyên nhân, từ đó, cứ truy tầm lên mãi sẽ phải có một nguyên nhân đầu tiên, và
Chúa Trời của họ chính là nguyên nhân đầu tiên đó.
Đối với Phật Giáo, tất cả mọi sự mọi
vật đều do nhân duyên hòa hợp mà hiển hiện, biến đổi vô
thường. Thế giới này, về bản chất, chỉ là một dòng biến ảo vô thường, không do
một Đấng toàn năng nào sáng tạo. Sở dĩ vũ trụ vạn vật biến hóa vô thường chính
là do vạn vật trong vũ trụ chịu sự chi phối của luật nhân quả. Cái
nhân nhờ có duyên mà trở thành quả, quả lại là nhân mới, nhờ có duyên trợ giúp
mà trở thành quả mới… Cứ như vậy, vạn vật trong thế giới cứ sinh hóa biến hiện
không ngừng theo quá trình thành, trụ, hoại, không.
Điểm khác biệt thứ tư giữa hai đạo là vị sáng lập ra tôn giáo.
Đối với Kitô Giáo, Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa toàn năng, đã sáng tạo ra
vũ trụ và muôn loài.
Đối với Phật Giáo, Đức Phật Thích Ca là một nhân vật lịch sử có
thật, có một tiểu sử rõ ràng được cả thế giới công nhận. Ngài đã thực sự sống
trên thế giới này, Ngài không tự xưng mình hay các đệ tử của Ngài tôn xưng Ngài
là đấng toàn năng, đấng tạo hóa hay là Thượng Đế v.v. Ngài là người đã
giác ngộ hoàn toàn và triệt để (toàn giác), là vị Đạo sư đã tự
mình tìm ra được con đường giải thoát ngang qua kinh nghiệm bản thân, không có
ai truyền dạy cho Ngài, không có ai ban phép cho Ngài, không phải do thần khởi,
cũng không phải là hiện thân hay hóa thân của một đấng thần linh nào. Ngài là
một người như mọi người khác, nhưng chính nhờ nỗ lực tu tập cá nhân, Ngài đã
tìm ra được con đường giải thoát. Sau khi giác ngộ, Ngài đã giảng dạy
giáo pháp cho mọi người, nếu ai có nhân duyên thực hành giáo pháp, kể từ vua
quan cho đến thứ dân, kẻ khốn cùng đều được giác ngộ như Ngài. Cho nên
Ngài đã nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.”
Ngài là người hướng đạo, chỉ dẫn đường lối cho những ai muốn tu tập, Ngài không thể tu tập thay cho chúng sinh mà con
người phải tự mình tu tập mới giải thoát được khỏi khổ đau phiền não
do tham sân si trói buộc, mới ra khỏi sinh tử luân hồi được. Cho nên Ngài
đã nói: “Các người hãy tự mình thắp
đuốc lên mà đi”. Ngài khuyên hãy nên nương tựa vào chính mình và
đi theo con đường giải thoát bằng nỗ lực của chính bản thân mình.
Nói tóm lại, điểm then chốt trong việc phân biệt giữa Phật giáo với Kitô
Giáo nói riêng, các truyền thống tín ngưỡng lớn khác trên thế giới nói chung là
vấn đề có hay không một Đấng Sáng
Tạo? Đối với Phật giáo, tất cả mọi sự mọi vật đều do nhân duyên hòa
hợp (duyên sinh), do đó không hề có
một Đấng Sáng Tạo. Ngoài ra, với Kitô Giáo, Thiên Chúa chính là Chân Lý, là
hơi thở, là con đường giải thoát, bất cứ ai đến với Ngài, tin nơi Ngài sẽ được cứu rỗi. Với Phật
Giáo, Đức Phật Thích Ca là bậc Đạo Sư đã tìm ra con đường giải thoát, hướng dẫn
những ai muốn giải thoát khỏi đau khổ trầm luân, hãy đi theo con đường mà Ngài
đã kinh qua. Ngài chỉ là người dẫn
đường, còn người đi theo phải tự mình làm chủ, tự mình tu tập để đi đến
giải thoát chứ không nương nhờ ở
bất cứ đấng Thần quyền nào để được giải thoát.
Tâm Diệu biên soạn
[01] Kitô giáo bao gồm nhiều truyền thống tôn giáo với các dị biệt văn
hóa cũng như hàng ngàn xác tín và giáo phái khác
nhau. Trải qua hai thiên niên kỷ, Kitô
giáo tự hình thành nên ba nhánh chính: Công giáo Roma, Chính Thống giáo
Đông phương và Kháng Cách (Protestantism). Tính
chung, đây là tôn giáo lớn nhất thế giới với hơn 2,1 tỉ tín hữu (chiếm khoảng
34% dân số thế giới). (Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
[02] Kinh Tin Kính các Tông Đồ, cũng gọi là Biểu Tín các Tông Đồ, là
kinh Tin Kính xưa nhất, có từ thế kỷ thứ II. Bản này tổng hợp các công thức đã
có trước đó. Từ thế kỷ thứ VI, bản này có hình thức như ngày nay. Đây là bản
tuyên xưng những tín điều chính yếu nhất khi chịu phép Rửa.
[3] Kinh Kalama (trong Kinh Tăng Chi Bộ III.65)
[4] Theo định nghĩa trong tự điển thì Faith hay Đức Tin là "sự
tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực" (Firm
belief in something for which there is no proof.) Định nghĩa
của Reason hay Lý Trí trong tự điển là "khả năng có những tư tưởng
hợp lý, suy lý, hoặc phân biệt" (The capacity of rational
thought, inference, or discrimination) hay "suy xét đúng, phán
đoán hợp lý" (good judgment, sound sense). Theo những
định nghĩa trên thì hiển nhiên là Đức Tin Ki-Tô Giáo và Lý Trí của Phật Giáo là
hai từ có nghĩa loại trừ hỗ tương (mutual exclusive), có cái này thì không có
cái kia. Thật vậy, khi chúng ta dùng lý trí để xác định và chấp nhận một
điều gì thì chúng ta không cần đến đức tin, và khi chúng ta tin vào điều gì mà
không cần biết, không cần hiểu, thì lý trí trở nên thừa thãi.
TD
Sưu tầm
Không thể chỉ trong một bài đọc ngắn ngủi thế này là có thể " giải trình " được hết các điểm khác biệt , hoặc những thâm thúy cao vời của Tôn Giáo , của Đức Tin ....
ReplyDeleteKito giáo tin vào Đấng Cứu rỗi . Nhưng đâu chỉ vì TIN mà được tất cả đâu ...
TIN , chỉ là bước đầu tiên ,căn bản . Còn phải Hành Động nữa chứ . Vì Đức Tin không có việc làm là một Đức tin CHẾT . Đức Tin sẽ chỉ lối cho ta biết phải làm gì để được sống đời đời . Đức tin sẽ dạy ta biết tìm đến Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời để giúp ta đi đúng hướng .
Vì con người thật vô cùng yếu đuối , cả xác thân lẫn lý trí . Nên việc gắn kết cậy nương vào Chân Lý , Sức Mạnh , Tình Yêu , là những phương thức tối cần giúp con người thoát ra vòng tối tăm tội lỗi ....
Thử hỏi , đã có ai tự tìm ... " KÉO " mình lên khỏi vũng lầy mà không cần nhờ đến sức mạnh của Tha Lực ?
Thế nên , không thể chỉ ngắn gọn trong khuôn khổ bài viết mà có thể NÓI lên được hết Và dẫu rằng có thuyết trình thế nào cũng không thể khiến người ta Hiểu và Tin được nếu người ấy chưa được cái ƠN TIN
Vì Đức Tin không thể miễn cưỡng mà tin , mà có . Đấy là Ơn Ban . Là tiếng đáp lời của con người khi tâm linh của họ đã nhận ra Thiên Chúa . Đó là MẦU NHIỆM .....