Từ San Jose, tôi đón xe đò Hoàng xuôi Nam. Từ hôm cùng với mấy đứa con
của Hà bí mật bàn tính chuyện tổ chức buổi lễ sinh nhật thứ 60 cho Hà ở
San Diego, tôi rất nôn nóng chuẩn bị cho chuyến đi này. Đây không phải
một họp mặt sinh nhật bình thường như những lần trước. Đến đó tôi sẽ gặp
lũ đông đủ lũ bạn “quỷ sứ” của trường tiểu học và trung học ngày xưa.
*
Hà là một người chị họ con bà bác, chỉ hơn tôi một tuổi và học cùng
lớp nên hai chị em thân nhau hơn bạn. Hai đứa từ giã Hà Nội cùng gia
đình di cư vào Nam và cùng định cư tại Tuy Hòa, cùng ở gần nhà nhau
trong khu “Bắc Kỳ di cư” từ ngày “tóc còn để chỏm.”
Dù là vai chị
nhưng vì xuýt xoát tuổi nhau, lại học cùng lớp nên hai đứa tôi vẫn mày
tao. Hà và tôi lúc nào cũng ngồi bàn đầu và sát cạnh nhau vì chúng tôi
vừa nhỏ tuổi lại vừa nhỏ con, cùng nổi tiếng là “cây gạo”. Chúng tôi
thân nhau đến độ cắt tóc và mặc quần áo giống nhau.
Ngoài giờ học
ở trường, hai đứa thường đến nhà nhau học bài chung. Đi thi Tú Tài I ở
Quy Nhơn và Tú Tài II ở Nha Trang đều ngồi cạnh nhau vì tên cùng vần.
Đậu
Tú Tài Toàn xong, như chim rời tổ, mỗi đứa một nơi, Hoành vào Saigon
học tiếp, Hà đi Nha Trang, riêng tôi ở lại Tuy Hòa đi làm giúp đỡ gia
đình một thời gian.
Cuộc sống nổi trôi theo dòng đời, tôi thuyên
chuyền vào Saigon, mãi đến năm 1974, mới tình cờ gặp lại Hà ở Chợ Bến
Thành thì cả hai đã tay bế tay bồng, mỗi đứa đều có hai con gái và một
con trai. Gia đình Hà rất hạnh phúc, hai vợ chồng làm cùng nghề. Phong,
chồng Hà cưng chiều vợ hết mực.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 như cơn
hồng thủy đổ ập lên đầu mọi người, chúng tôi mất liên lạc một lần nữa.
Gia đình tôi may mắn được di tản và định cư tại Mỹ, còn Hà ở lại sống
với gian truân thử thách.
Phong bị đi tù cải tạo như hàng vạn
quân dân cán chính khác. Hà lo sợ hoảng hốt vì chồng đi biệt tăm không
trở về sau 10 ngày như lời hứa hẹn của chính quyền, cũng không có tin
tức còn sống hay chết dù chỉ một lời nhắn. Cũng như những gia đình của
miền Nam phải đối mặt với cuộc sống mới khó khăn vô định, Hà bắt đầu bán
tất cả những gì có thể, từ cái TV, tủ lạnh, bộ bàn thờ, giường tủ, bát
đĩa, xoong nồi đến những bộ quần áo, giầy dép của hai vợ chồng đều từ từ
bỏ Hà ra đi để đổi lấy gạo và thức ăn nuôi ba đứa con đang sức lớn mà
không được ăn đủ no. Hà phải thoát ra khỏi cái vỏ ốc của một phụ nữ yếu
đuối mong manh, bươn chải theo những người bạn đi buôn để có tiền nuôi
con và chờ tin tức của chồng
Rồi Hà được tin về Phong từ những
trại tù ở những tỉnh miền Bắc xa xôi chưa bao giờ Hà nghe tên. Những
chuyến thăm nuôi vất vả, ngủ đêm chờ đợi ở bến xe, rồi băng rừng lội
suối, đi bộ trên những đoạn đường mấp mô gập ghềnh khó khăn để rồi nhìn
thấy một hình hài quắt queo, nhăn nhúm của chồng chỉ làm Hà thêm quyết
tâm cố gắng làm ra tiền dù phải vất vả trăm bề để nuôi chồng sống sót
mong một ngày trở về.
Gần sáu năm sau, Phong ra tù, tinh thần và
thể xác đều kiệt quệ. Hà đau lòng nhìn thấy chổng tàn tạ rũ rượi như tàu
lá héo trong khi các con ở trường thì bị trù dập vì là “con của ngụy”,
học thì bị nhồi sọ những giáo điều cũ kỹ, không tưởng, bịa đặt và láo
khoét. Để phụ với mẹ kiếm sống, sau giờ học, chúng đi bán bánh kẹo nên
phải học cách mánh mung, gian trá.
Thời ấy, bên cạnh phong trào
đi bán chính thức đang rầm rộ, có những chuyến vượt biên không chính
thức cũng diễn ra trong âm thầm, các con Hà cũng được tập nói dối trơn
tru khi bị hạch hỏi tra gạn về những chuyến vượt biên hụt của gia đình.
Ngay
khi Phong trở về từ nhà tù, hai vợ chồng đã quyết định phải tìm cách
mang các con ra đi, dù có cùng bỏ mạng trên biển cả còn hơn sống trên
quê hương mà như trong cõi chết.
Cả gia đình đã vài lần cùng đi
nhưng thất bại và đồng tiền Hà dè xẻn, dành dụm đã cạn dần, cuối cùng
phải quyết định để Phong đi một mình trước rồi Hà sẽ tìm đường đem các
con đi sau.
Ngày Phong ra đi, Hà đeo vào cổ anh sợi dây chuyền có
tượng Phật Bà Quan Âm nhỏ bằng vàng giả, giống hệt như cái nàng đang
đeo, Hà bảo anh rằng gặp cơn hoạn nạn thì nhớ cầu Phật Bà che chở.
Ba
tháng, rồi sáu tháng, chờ mãi không được tin tức gì của chồng, chỉ nghe
người ta xì xào là chuyến ghe đó bị chìm, cả gia đình chủ tàu cũng
không ai sống sót.
Hà bèn liều mạng dùng mấy lạng vàng cuối cùng
dẫn các con đi với gia đình một người bạn. May mắn thay mẹ con Hà đã đến
được bến bờ tự do.
Năm 1983, tôi được tin Hà đã một mình vượt
biển mang theo ba đứa con, Linh 14. Nga 11 và Nhi 4 tuổi, vừa được Lộc,
người em kế rất thân với Hà, bảo lãnh ra San Diego ở với vợ chồng cậu
ấy, cả gia đình tôi lập tức xuống vùng Nam California để gặp Hà.
Phút
tương phùng, chúng tôi ôm nhau mừng rỡ trong nước mắt. Nhìn một Hà gầy
guộc, đen xạm, dấu tích của những ngày lao động cơ cực, tôi không khỏi
đau xót nhớ đến một Hà xinh đẹp, duyên dáng, ăn mặc thanh nhã nhưng hợp
thời trang của thời đi học và trước năm 1975.
Hà ôm lấy tôi nức
nở: “Anh Phong bỏ tao đi rồi Hằng ơi, gần một năm rồi còn gì.” Tôi
thương bạn quá đỗi nên an ủi: “Đã chắc gì, nhiều khi anh ấy trôi giạt
vào một hoang đảo nào đấy thôi, từ từ xem.” Tôi nói nhưng thực sự không
tin điều mình nói. Tôi nhìn những ngón tay xương xẩu của bạn mà lòng xót
xa. Tôi đã ở lại mấy ngày với Hà và lũ nhỏ để chia sẻ, an ủi với Hà
những bất hạnh, giúp ý kiến cho Hà trong những ngày đầu bỡ ngỡ nơi xứ
lạ.
- Rất may là Hà và tụi nhỏ đã đến bến bờ tự do, thôi thì muộn
còn hơn không! Hãy làm lại từ đầu, nước Mỹ sẽ là nơi cho chúng mặc sức
học hành và phát triển tài năng. Tôi nói. Hãy nhìn về phía trước Hà ơi…
Mới
vừa được tạm ổn dưới mái nhà của Lộc, “họa vô đơn chí” vẫn không buông
tha người bạn khốn khổ của tôi. Ở chung trong gia đình với người em được
gần sáu tháng, Lộc mới trên ba chục tuổi đang khỏe mạnh, có việc làm
tốt, bỗng nhiên đột tử chỉ sau một cơn nhức đầu. Hà đã lăn lộn vật vã
khóc thương Lộc, người em mà Hà thương nhất trong các anh chị em. Được
tin, dù đang bận việc sở cho cuối tài khóa, tôi cũng lập tức chạy xuống
thăm để nâng đỡ tinh thần bạn tôi.
Tôi vừa bước vào cửa, Hà đã rũ
xuống tay tôi như cây chuối bị đốn. Tôi chỉ còn đủ sức dìu Hà vào phòng
đặt nằm trên giường, kéo gối và đắp mền cho thẳng thắn rồi ghé nằm
xuống bên cạnh, tay tôi lại chạm vào đôi vai gầy gò đang rung lên từng
hồi theo tiếng kể lể thảm thiết đứt quãng của bạn mà lòng đau như cắt.
Lúc đó tôi thực sự oán trách ông Trời. Chúa ơi, Phật ơi, các Ngài ở đâu
mà để cho một người đàn bà chân yếu tay mềm như Hà gánh hết oan khiên
khổ nạn của cuộc đời! Chỉ trong hai năm mà chồng mất tích, hai đứa em
vượt biển bị chết và bây giờ cái phao cuối cùng để Hà bám vào cho sự
sống cũng không còn nữa.” Tôi chỉ có thể nắm chặt hai bàn tay lạnh giá
run rẩy của bạn như một lời hứa “bên mày luôn có tao, Hà ơi.”
Về
lại San Jose, hằng ngày tôi điện thoại xuống an ủi, động viên và khích
lệ tinh thần Hà để vượt qua những tai ương nghiệt ngã đeo đẳng. Phải mất
mấy tháng Hà mới lấy lại bình tĩnh và lo cho cuộc sống thường nhật. Lúc
đầu rất khó khăn vì Hà chưa biết lái xe và các con còn nhỏ. Nhờ tính
tần tiện và vén khéo, tiền trợ cấp cũng đủ cho mẹ con sống và ăn học.
Cũng may, một mình lo cho bốn mẹ con vừa ăn vừa học lại thêm bài vở của
mình, Hà không có rảnh một phút để buồn tủi cho thân phận cô đơn vất vả
của mình trên đất lạ. Các con cũng biết thương mẹ khổ sở nên chịu khó
học hành và ngoan ngoản vâng lời mẹ dạy.
Tuy tiếng Anh hơi yếu,
nhưng nhờ quyết tâm và vốn liếng chữ nghĩa có sẵn, Hà đã lấy được mảnh
bằng đại học sau bốn năm miệt mài kinh sử. Hè năm 1987, Linh xong trung
học và Hà đậu bằng cử nhân. Tôi xuống San Diego dự lễ ra trường của hai
mẹ con. Chúng tôi thật là hạnh phúc!
Biết là Hà không có thì giờ
và tâm trí để đi mua sắm, thỉnh thoảng trong những chuyến công tác xuống
Santa Ana, tôi vẫn ghé thăm Hà cùng 3 đứa con và những khi đi
“shopping”, thấy quần áo hay ví tay mà tôi thích, tôi mua luôn một cặp,
để hai đứa tôi vẫn còn được mặc quần áo giống nhau như ngày xưa còn bé.
Khi chúng tôi có thì giờ tâm sự, tôi nói bóng gió xa gần về sự lẻ loi đơn chiếc của Hà:
- Mày cứ thui thủi một mình làm tao không yên tâm tí nào.
- Còn đám con tao đấy thôi. Hà ngắt lời.
-
Con khác. Chúng nó có đời sống riêng. Mày phải cần kiếm một bờ vai của
một người đàn ông cho mày tựa những lúc cuộc đời làm khó mày, hay những
lúc mày ốm đau xuống tinh thần là những điều không đứa con nào có thể
cho được.
Lúc nào Hà cũng gạt đi:
- Tao đã sống quá nửa
đời người, qua bao nhiêu khổ đau nghiệt ngã, đâu còn thiết tha gì chuyện
tình ái. Tao chỉ mong cho mấy đứa nhỏ ăn học thành tài, sống cuộc đời
ngay thẳng đạo đức như ông bà nội ngoại và vợ chồng tao đã dạy, muốn vậy
thì chính tao phải là một tấm gương tốt cho chúng nó noi theo, với lại…
Tôi ngắt lời:
- Với lại gì?
Hà ngập ngừng:
-
Với lại… tao vẫn có một linh tính mơ hồ là anh ấy chưa chết cho nên tao
vẫn…đợi. Mày có nghĩ tao hoang tưởng thì tao cũng đành vậy thôi.
Không
chịu thua, thỉnh thoảng tôi vẫn gợi tên những người đàn ông yêu mến Hà
và muốn cho Hà hạnh phúc. Họ thấy không cách nào gây được sự chú ý của
Hà nên đã nhờ cậy đến tôi, nhưng những lời bóng gió, khuyên nhủ, dỗ dành
của tôi đều như gió thoảng mây bay, Hà vẫn một mực ôm ấp và gìn giữ
tình yêu cho chồng. Bây giờ Hà đã 60, nhưng tình yêu ấy không hề suy
giảm.
Hà cũng tâm sự về con. Thằng Linh có tính nghệ sĩ, nó nói với tao rằng:
- Từ bé con đã mê hội họa và đàn dương cầm, con xin phép Me cho con học hai môn này.
-
Me biết con thích những thứ đó, nhưng hãy thực tế một chút đi con. Gia
đình mình nghèo, con là anh cả trong nhà thay ba con làm cột trụ gia
đình, con nên chọn một nghề có thể nuôi sống gia đình và giúp đỡ bà con
nội ngoại còn đang sống nghèo khổ thiếu thốn ở Việt Nam. Sau này, con
vẫn có thể học thêm những món ưa thích kia cho con vui và giải trí, nghe
lời me đi con.
Thế là Linh chọn nghề bác sĩ, ngành giải phẫu cho
Mẹ vui lòng với lý do rất nhân bản là để cứu giúp những người đau ốm
bệnh tật ngoài việc kiếm đủ tiền nuôi gia đình.
Nga là một đứa
con gái hiền lành, nền nếp dễ bảo, lúc nào cũng muốn làm vừa ý mẹ, nó
học làm dược sĩ để cùng hợp tác với Linh trong vấn đề thuốc thang cho
bệnh nhân. Hai anh em vẫn thường bàn cãi sôi nổi về những phát minh y
khoa và dược khoa.
Nhi, bé út nhưng ngỗ nghịch và hay lý sự nhất
nhà. Mặc dù rất thương mẹ, nhưng đôi khi cũng làm phật ý mẹ, Nhi luôn
làm theo ý mình. Nó bảo trong nhà có hai bác sĩ là quá nhiều rồi, nó
muốn làm kỹ sư. Nhờ có dòng máu thông minh của cả ba lẫn mẹ, Nhi đã trở
thành một chuyên gia xuất sắc trong ngành của mình và làm chủ nhiều bằng
phát minh.
Người bạn mà tôi rất thương yêu và khâm phục ấy, một
người đàn bà chân yếu tay mềm như thế đó, trải qua bao nhiêu gian truân,
đau thương trong cuộc đời, đã đơn thương độc mã chiến đấu với cuộc sống
mới khó khăn trên đất Mỹ, bắt đầu với hai bàn tay trắng cùng ba đứa con
nhỏ dại và mấy cái khăn tang dấu kín trong lòng đã vượt thoát khỏi
nghịch cảnh, tự xây dựng cho mình một cơ sở làm ăn vững vàng nhờ bản
tính trung thực, nhã nhặn và ba đứa con thành công trong những lãnh vực
khác nhau.
Đã gần 35 năm, kể từ ngày mẹ con Hà đến được nước Mỹ.
Còn số phận của Phong, người chồng mất tích trong chuyến vượt biển trước
đó thì sao?
...
Sau chín ngày lênh đênh trên biển cả, con
tầu hết dầu, chết máy, thả neo trông đợi thuyền tàu nào tới cứu. Rồi
ngày qua ngày, không thấy gì ngoài bầu trời mênh mông và biển dữ cuồng
nộ. Khi thì mưa tầm tã, lúc lại nắng chang chang rát mặt, đêm bao la đen
tối đến rợn người. Những mảnh khăn trắng treo trên cột buồm không mảy
may làm xúc động những con tầu đi ngang, những lời lạy lục van xin cũng
không động tâm những người trên các chuyến tàu vô tình kia. Mỗi ngày là
một thách đố cho sự sống còn của mấy chục mạng người trên chiếc thuyền
mong manh ấy. Lương thực đã hết. Cái chết đầu tiên đã làm mọi người
hoang mang, hoảng loạn. Ngày hôm sau, hôm sau nữa lại thêm những cái
chết cô đơn trong đói khát, nằm ngồi ngổn ngang. Tiếng khóc than tuyệt
vọng tắt dần. Phần Phong, cũng chỉ còn sức để lặng lẽ cầu nguyện.
Thuyền
cứ lênh đênh trôi cho đến khi vừa nhìn thấy bờ ở xa xa thì chiếc tàu bị
đội lên, một tiếng soạc khủng khiếp và chiếc tàu bị nứt rạn do đá tảng
cứa vào, tiếng la hét vang dội, nhưng không ai còn sức lực nào để có thể
bơi vào được tới bờ.
Phong chỉ nhớ được rằng khi chiếc tàu lật
úp, đập lên người Phong, chàng thấy đau nhói ở đùi bên trái và máu ra
lênh láng, chàng cố vẫy vùng trong tuyệt vọng, cuối cùng bám được một
mảnh gỗ của chiếc ghe, phó mặc cho số mạng…
Sau cơn trôi dạt vô
vọng không biết bao lâu, Phong bỗng thấy quanh mình lao xao tiếng người,
rồi chàng dần hồi tỉnh. Một thanh niên cho Phong biết là khi tàu của họ
được vớt sau khi đã chết gần hết thì thấy trên bờ xa xa hình như có một
thân người, họ đến nơi thấy chàng còn thoi thóp thở nên kéo chàng nhập
chung vào nhóm người cùng ghe của họ và tất cả 9 người đều được hội Hồng
Thập Tự chăm sóc sức khỏe.
Phong bị con thuyền đập vào gẫy chân
trái, máu ra nhiều mà không được cứu chữa ngay, nên bị nhiễm độc và bác
sĩ phải cưa chân trái của chàng tới trên đầu gối.
Lúc tỉnh dậy,
Phong thấy mình cụt một chân, tay trái bị bó bột, toàn thân đau đớn vì
xương sườn bị dập. Thấy mình đã thành người tàn phế, chàng không muốn
sau này trở thành gánh nặng cho vợ con nếu chàng may mắn tìm được họ vì
vậy chàng chỉ muốn tự vẫn, hóa kiếp cái hình hài dị dạng này cho xong
một đời người. Một tuần sau mọi người đã có mặt trên đảo Pulau Bidong,
Malaysia.
Nhờ sự giúp đỡ của các bác sĩ, nhất là sự chăm sóc tận
tình của một nữ y tá người địa phương tên Wani Avarat và lời khuyên răn
của những thuyền nhân khác, Phong dần dần nguôi ngoai nhưng vẫn nhất
quyết không trở thành một gánh nặng cho vợ con với một tinh thần sa sút
và một thân xác tàn tật.
Cô y tá Wani, một người đàn bà trẻ góa
chồng và không có con, tìm thấy trên mặt của chàng còn phảng phất nét
thông minh tuấn tú của một người có học thức dù bao năm bị tù đầy vùi
dập và chuyến vượt biển thập tử nhất sinh của Phong nên ngoài việc lưu
tâm săn sóc thể chất, cô luôn luôn động viên tinh thần cho Phong. Chờ
khi Phong tỉnh táo, cô đã đề nghị với chàng để cô bảo lãnh ra sống với
cô ở Mã Lai với lời hứa là Phong có thể đi tìm và trở về với gia đình
của chàng bất cứ lúc nào.
Nhờ có sự khuyến khích của cô Wani,
Phong dần dần hồi phục. Sau khi đã được lắp chân giả, Phong đi học lại
và cũng theo ngành y tá. Hai người sống với nhau hạnh phúc cho đến hai
năm trước đây, cô Wani bị bệnh ung thư. Để đền đáp mối ân tình cho người
đã cứu mạng sống của mình, Phong đã tận tụy săn sóc Wani, nhưng cuối
cùng, Wani vẫn không thể vượt qua cơn bệnh ngặt nghèo. Hai năm trước
đây, Wani đã giã biệt cõi đời. Từ đó Phong xin làm thiện nguyện và rồi
trời đã xếp đặt cho chàng có cơ duyên làm việc cùng toán với Linh, một
bác sĩ giải phẫu từ Hoa Kỳ sang làm thiện nguyện tại một làng nghèo bên
Mã Lai.
Ngày cuối của công việc thiện nguyện, sau khi đã hoàn tất
một ca giải phẫu cho bệnh nhân, Bác sĩ Linh mời y tá Phong ra ngoài sân
bệnh viện uống cà phê cho tỉnh táo. Sau mấy ngày làm việc với ông y tá
đứng tuổi của địa phương có nước da nâu sạm và đôi tay gân guốc, hai
người đều đeo khẩu trang nên Linh không thấy rõ chi tiết trên khuôn mặt,
ngoại trừ đôi mắt sâu thẳm u uẩn của ông ta. Nay xong công việc, khẩu
trang đã gỡ bỏ, thong thả bên ly cà phê, bác sĩ và y tá biết nhau cùng
là người Việt, trò truyện bằng tiếng Việt, Linh bỗng cảm thấy một cái gì
gần gũi thân quen khác thường.
Khi ông Phong cúi xuống dập tàn
thuốc lá, nhìn khuôn mặt khắc khổ của người bạn lớn tuổi mới quen, Linh
bỗng giật mình khi thấy trên cổ ông ta một sợi dây chuyền có tượng Phật
Bà. Phải rôi, cũng sợi dây chuyền ấy, tượng Phật Bà ấy, Linh từng thấy
Mẹ mang trên cổ hàng ngày. Cho tới bây giờ, thỉnh thoảng mẹ vẫn mân mê
cái tượng đã xám xỉn lâm râm lời cầu nguyện. Linh kiên nhẫn gợi chuyện
và ngồi yên lắng nghe về chuyến hải hành đầy khủng khiếp của Phong.
Bây
giờ thì Linh đã chắc chắn người y tá già ngồi trước mặt là người cha
mất tích suốt tuổi niên thiếu của mình vì nơi chốn và ngày đi của ông ấy
đều trùng hợp với cha mình.
Hai bố con nhận ra nhau. Linh ôm
ông, chàng khóc như chưa từng khóc trong đời, chàng thương cho sự bất
hạnh của Ba và nhất là cho Mẹ đã bao năm vò võ ở vậy nuôi con chờ chồng.
Trên
đây là chuyện do chính Linh kể lại cho tôi nghe. Chú bé 13 tuổi khi
theo mẹ đến Mỹ năm xưa nay đã là một bác sĩ giải phẫu 48 tuổi. Hàng năm,
thay vì đi du lịch ngắm thắng cảnh thế giới, Bác sĩ Linh dành 2 tuần lễ
nghỉ phép, đi theo đoàn thiện nguyện đến chữa bệnh ở những nơi mà người
dân thiếu may mắn trong vùng Đông Nam Á. Nhờ đó mà sau 35 năm thất lạc,
bố con có dịp nhận ra nhau. Giấc mơ đoàn tụ bao năm thành sự thật. Sinh
nhật mẹ Hà cũng sắp tới. Đâu còn món quà sinh nhật nào quí hơn. Mọi thủ
tục bảo lãnh, đưa Bố Phong từ Mã Lai vào Mỹ được lặng lẽ hoàn tất. Mọi
diễn tiến, với sự đồng ý của bố, anh em Linh giữ kín, mẹ Hà hoàn toàn
không hay biết.
Là người thân trong nhà, tôi được các cháu của Hà
nhờ mời dùm đông đủ các bạn học cũ của chúng tôi từ thời ở Tuy Hoà về
dự sinh nhật mẹ năm nay. Nhưng cũng chỉ tới giờ chót, mới được cho biết
câu chuyện, mà còn nghe cháu Nga dặn đi dặn lại “không cho mẹ biết
trước, nghe dì”.
*
Sinh nhật của Hà năm nay được tổ chức tại nhà cháu Linh. Tuổi
sáu mươi sắp đến, nhưng Hà vẫn tươi tắn, rạng rỡ cùng các con chào đón
các bạn cũ, bạn mới.
Trong phòng khách rộng l;ớn của ngôi nhà,
bánh sinh nhật và các bàn ăn đã sẵn sàng. Đúng giờ phút định trước, ánh
sáng thay đổi. Hà được mời đứng giữa Linh và Nhi, con trưởng và con út.
Tất cả được thông báo bắt đầu những phút trân trọng nhất của đông đủ gia
đình cùng ra mắt trong tiệc sinh nhật. Linh rời mẹ, trong lễ phục
nghiêm chỉnh, bước lên mấy bước, cầm micro, hướng về phía mẹ Hà:
-
Thưa Mẹ. Chúng con xin cám ơn Mẹ và tất cả bà con bạn bè có mặt hôm
nay. Đây là lần đầu tiên đông đủ gia đình ta cùng mừng sinh nhật mẹ. Xin
mẹ cho phép con có vài lời về gia đình chúng ta. Hơn bốn mươi năm trước
đây, Sàigòn sụp đổ, miền Nam đổi chủ, bố chúng con phải đi tù cải tạo.
Từ ngày ấy, tuy còn là đứa trẻ mới sáu bẩy tuổi, con vẫn không quên
những ngày tháng mẹ vất vả, cực nhọc thay bố nuôi chúng con. Sau 6 năm
tù đầy, trở về với gia đình không được bao lâu, mẹ lại phải cắn răng để
Bố một mình ra đi và từ đó mất tích. Có tin chuyến tầu vượt biển có bố
đi theo đã tan tành, không còn ai sống sót. Sau nhiều tháng vô vọng, mẹ
lại một mình mang chúng con ra đi, lo cho chúng con thành người trên đất
Mỹ. Đã 35 năm qua, hàng ngày, mẹ không ngừng cầu nguyện gia đình có
ngày được đoàn tụ. Hôm nay, xin Mẹ quay nhìn sang phía trái...
Không
chỉ Hà mà tất cả cùng nhìn theo hướng tay của Linh. Từ bao giờ, trên
lối đi từ phía cầu thang, em gái Nga của Linh xuất hiện trong áo dài
vàng rực, bên vai Nga là một người đàn ông cao gầy. Trong ánh nến bập
bùng ven lối đi, cả hai đang bước ra. Từng bước. Từng bước chậm.
Cả sảnh đường bỗng im lặng tới mức nghe được từng hơi thở.
-
Thưa Mẹ, Linh tiếp tục nói, em Nga đang cùng Ba bước về phía Mẹ. Hôm
nay Ba đã trở về từ một nơi xa xôi để dự lễ sinh nhật của Mẹ và đoàn tụ
với gia đình. Và thưa Ba, Mẹ và em Nhi đang chờ Ba. Thưa bà con, thưa
các bạn, sau bao năm cầu nguyện, đây là lần đầu tiên Ba Mẹ chúng tôi
chúng tôi thấy lai nhau. Cám ơn Trời Phật đã đáp ứng lời cầu nguyện kiên
trì của bốn mẹ con mình.
Hai bố con Phong và Nga đã đến trước
mặt mẹ con Hà. Họ đứng lặng nhìn nhau. Hà bước tới, tưởng như mình đang
bước trong cơn mơ. Đúng Phong đây rồi, Phong bằng xương bằng thịt vẫn
thường hiện ra trong giấc ngủ của nàng làm lệ ướt gối chăn. Dù có bao
nhiêu nếp nhăn hằn sâu trên khuôn mặt, dù có bao vết thương, vết sẹo
trên thân thể chàng, dù Phong có bước đi chân thấp chân cao, đây vẫn là
người chồng mà Hà một đời yêu thương mong nhớ và chung thủy đợi chờ. Họ
lặng lẽ ôm nhau. Linh cũng đã lặng lẽ bước lại đứng cạnh bố mẹ và các
em. Đúng là đông đủ cả nhà đang đoàn tụ. Cả sảnh đường đang im lặng bỗng
cùng lúc vỡ òa. Rồi Phong sẽ nói, Hà sẽ nói, không biết bao lời chúc
tụng sẽ được nói lên.
Ai bảo là “phước bất trùng lai?”
Cuối cùng thì bạn tôi sau những đau thương, mất mát khủng khiếp trong cuộc đời, bây giờ được đền bù xứng đáng.
Tôi
trao cho Hà món quà sinh nhật của tôi tặng và Linh được yêu cầu đọc mấy
dòng tôi viết trong tấm thiệp mừng bạn. Đó là mấy câu thơ nổi tiếng của
thi sĩ Hồ Dzếnh:
Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời,
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.
Tôi đã chép những câu thơ trên cho bạn tôi và viết thêm đoạn tường thuật này tặng chung các Bà Mẹ Việt Nam.
Lê Nguyễn Hằng
No comments:
Post a Comment