(Tài liệu tham khảo: Easing Death
20/10/2012 – Final Certainty 27/6/2015 – The Right to Die 27/6/2015 –
tuần báo The Economist. London)
Tỷ lệ ủng hộ quyền được chết.
Sống và chết, nhất là chết là một vấn đề các tôn giáo đều quan tâm. Mỗi
tôn giáo có một giáo điều khác nhau. Phật giáo nói: sinh, lão, bệnh, tử,
nghĩa đơn giản là đã có sinh thì có tử. Nếu không chết trẻ vì một lý do
nào đó thì nói chung ai cũng sẽ già, bệnh hoạn rồi chết. Công giáo và
Tin lành tin rằng Chúa đã cho cái Sống thì chỉ Chúa có quyền quyết định
về cái Chết. Hàng chục thế kỷ trước sự chết cứ theo lẽ tự nhiên như thế
không ai đặt điều thắc mắc, nếu bệnh kéo dài ngày gây đau đớn cho người
bệnh thì con người có quyền can thiệp không bởi lẽ y khoa chưa tiến bộ,
có muốn giúp đỡ người sống đau đớn thể xác và tâm thần chấm dứt đời sống
cũng không có cách nào thực hiện một cách nhân đạo.
Nhưng khi y
khoa tiến bộ, người ta có cách chấm dứt sự sống một cách khoa học và
nhân đạo thì một câu hỏi rất tự nhiên được đặt ra. Có nên để cho người
bệnh khổ đau thể xác mà trước sau cũng sẽ chết hay giúp cho người bệnh
chết một cách thoải mái không?
Cho đến nay chỉ có vài nước Âu
châu, như Hà Lan, Bĩ, Thụy Sĩ và 3 tiểu bang Hoa Kỳ (Oregon, Washington,
Vermont) có luật cho bệnh nhân được quyền chọn cái chết cho mình bằng
sự giúp đỡ của y khoa. Tuy nhiên vấn đề đang là thời thượng và hiện có
20 bang Hoa kỳ (trong đó có bang California) và nhiều nước khác trên thế
giới như Canada, Đức, Úc, Tân Tây Lan, Anh đang đặt vấn đề thành luật.
Những
người chống luật chọn chết cho rằng luật ấy cướp quyền của thượng đế và
nguy hiểm, vì có thể bị lạm dụng bởi người còn sống vì quyền lợi và làm
cho con người xuống cấp vì thái độ chạy trốn. Mặt khác luật cho phép
chọn chết làm chậm đà tiến bộ y khoa trong lĩnh vực chữa bệnh và nuôi
dưỡng người bệnh.
Tuy nhiên thống kê của bang Oregon, bang có
luật chọn chết từ năm 1997 cho thấy đa số người chọn chết đều có trình
độ học vấn cao, có bảo hiểm tốt và có phương tiện vật chất hơn người
khác để được săn sóc chu đáo nếu họ muốn. Họ chọn chết để khỏi đau đớn
thể xác hay tâm thần và tránh “bệ rạc” vào cuối cuộc đời. Cho đến nay
trong số 1327 bệnh nhân ở Oregon chọn chết được bác sĩ cho thuốc để tự
uống kết liễu đời mình chỉ có 2/3 dùng. Một phần ba còn lại ngần ngại
chấp nhận đau thể xác. Thống kê đó chứng tỏ phương pháp chọn chết theo
luật “Death with Dignity Act” của Oregon rộng rãi và nhân đạo. Theo luật bác
sĩ có quyền viết toa thuốc chấm dứt sự sống nếu có ít nhất hai bác sĩ
khám nghiệm và đồng ý bệnh nhân chỉ sống được tối đa 6 tháng. Và quan
trọng nhất là bệnh nhân quyết định muốn chết khi tâm thần còn sáng suốt.
Và có một thơi gian chờ đợi 15 ngày trước khi thực hiện. Trong thời
gian này, các đối tượng liên hệ là bệnh nhân và 2 bác sĩ khám nghiệm có
quyền thay đổi ý kiến bất cứ lúc nào.Tuy nhiên luật “Death with Dignity
Act” của Oregon có một số hạn chế và được xem là chưa tiến bộ vì không
cho người đau thể xác, người có bệnh tâm thần còn có thể sống được dài
ngày hay trẻ em vị thành niên quyền chọn chết.
Nói chung khuynh
hướng trên thế giới về vấn đề “chọn chết” là thuận lợi. Bảng thăm dò của
tờ “The Economist” kết thúc tháng 6 năm nay cho thấy: Trừ Nga và Ba
Lan, đa số các nước Tây phương, vài nước Á châu và Hoa Kỳ đều chấp
thuận. Và trong 2 phương cách chấm dứt đời sống bằng cách tự dùng thuốc
hay để cho bác sĩ chích thì đa số đều nghiêng về giải pháp bác sĩ
chích.Cuộc tranh đấu đòi “quyền được chết” tại bang California là một
cuộc tranh đấu nhiều màu sắc. Nhiều nỗ lực làm luật cho phép chọn chết
trước đây đều thất bại. Năm 2014 cô Brittany Maynard 29 tuổi cư dân
California có một sáng kiến. Cô bị ung thư não bộ, cô quyết định dọn lên
bang Oregon trước khi bị mù hay tê liệt cơ thể để được chết.
Trước
khi chết, cô Maynard ghi vào CD một lời kêu gọi nghị viện California
hãy mau chóng thông qua luật được quyền chọn chết. Nghị viện California
đáp ứng lời kêu gọi của cô Maynard. Ngày 4 tháng 6 vừa qua Thượng viện
tiểu bang thông qua luật “được quyền chọn chết” phỏng theo luật “Death
with Dignity Act” của Oregon với 23-14 phiếu, và đang chờ Hạ viện bang
biểu quyết và thống đốc Jerry Brown ký ban hành. Có hai trở ngại là thủ
tục thành luật phải hoàn tất trước ngày 11 tháng 9 năm nay, nếu không
thủ tục lập pháp phải bắt đầu lại từ đầu và cộng đồng Công giáo đang
mạnh mẽ vận động hành lang tại Sacramento ngăn cản. Tuy nhiên người ta
tin tưởng lời kêu gọi của cô Maynard sẽ có đủ sức mạnh vượt qua các trở
lực. Thống đốc Jerry Brown sẽ ký, mặc dù ông là một tín đồ Công giáo và
trước khi bước vào chính trường đã có ý định vào nhà thờ đi tu. Trước
khi chết, cô Maynard đã điện thoại thuyết phục ông Brown.
Tuy
khuynh hướng đòi quyền được chọn cái chết đang lên mạnh trên thế giới,
con đường thành luật còn lắm trở ngại. Năm 2012 Nghị viện bang
Massachusetts sít sao bác bỏ một dự án luật như vậy, và nghị viện
Scotland vừa biểu quyết 82-36 chống.
Về bệnh trí óc như Alzheimer
sự chọn chết bằng luật càng khó thông qua hơn vì ngoài sự mất trí nhớ
bệnh nhân không có dấu hiệu đau đớn thể xác. Mới đây, năm 2011 nhà văn
Terry Pratchett bị bệnh Alzheimer. Trước khi đi Thụy Sĩ để được chết ông
để lại một tài liệu đầy xúc động kêu gọi thế giới thông cảm nỗi đau của
những người như ông.
Thụy sĩ là nước đầu tiên từ năm 1942 đã có
luật cho phép giúp người muốn chết được chết với những điều kiện rộng
rãi. Ấn độ và Ireland là hai quốc gia bảo thủ nhất. Cho đến năm 2013 Ấn
Độ còn luật bỏ tù người tự vận hụt, và Ireland đến năm 1993 mới bỏ luật
này.
Tại Thụy Sĩ có hai lọai cơ sở giúp người muốn chết. EXIT
không nhận người nước ngoài, và cơ sở Dignitas nhận. Từ ngày mở cửa
(1998) đến nay Dignitas nhận 1700 người đến từ 40 quốc gia trên thế
giới. Trong số này có hai trường hợp của hai người Anh đáng ghi nhận.
Năm 2007 Dan James bị tai nạn tê liệt toàn thân khi chơi rugby. Năm sau
bố mẹ đưa ông đến Dignitas để chết. Trở về, hai ông bà bị đưa ra tòa về
tội “giúp người khác chết” nhưng được tòa tha bổng. Và mới đây ông
Jefferey Spector, bị hỏng cột sống không chữa trị được đã tự đi đến
Dignitas. Trước khi chết, ông nói ông quyết định tự đi trước khi cột
sống thoái hóa đến độ không cho phép ông đi để thân nhân khỏi bị rắc rối
với pháp luật như thân nhân của Dan James.
Khi nhận một bệnh
nhân (đến để chết) cơ sở Dignitas bắt đầu giúp hướng dẫn, cung cấp thuốc
men, khuyên lơn và làm những gì cần để thuyết phục bệnh nhân đổi ý và
muốn sống trước. Hết phương kế thì mới giúp bệnh nhân chết một cách
thoải mái. Tại Thụy Sĩ dưới 1% số người qua đời đã chết bằng sự giúp đỡ
của các cơ sở như EXIT hay Dignitas. Số người chết bằng tự vận là 2%.
Luật
“Death with Dignity Act” của Oregon có lẽ là luật cân đối nhất, không
quá dễ dãi, cũng không quá khắt khe nên đang được các bang khác ở Hoa Kỳ
và các nước trên thế giới phỏng theo. Từ năm 1997 khi luật được áp dụng
cho tới nay bác sĩ cho thuốc theo luật 1,327 trường hợp, nhưng cuối
cùng chỉ 2/3 thực hiện và chết, còn 1/3 do dự không uống.
Khi
luật Oregon mới ban hành người ta ngại rằng những thành phần nghèo trong
xã hội, không có bảo hiểm tốt, sẽ tìm con đường chết cho khỏe. Nhưng
thực tế cho thấy ở Oregon đa số người tìm cách chết theo luật định đều
là người khá giả, có bảo hiểm tốt, có trình độ học vấn cao, hoặc đang
được các cơ sở y tế có tiêu chuẩn cao lo săn sóc những ngày cuối
(hospice). Đa số nói họ chọn cái chết để tránh đau đớn thể xác và trong
trường hợp bệnh không hành thì còn để tránh thân thể bệ rạc và khỏi sống
một đời sống không còn thú vị gì nữa.
Có một số người tin rằng nếu có cơ sở săn sóc người cuối đời (hospicce care) tốt thì số người muốn chết sẽ giảm đi. Nhưng thống
kê
tại Anh từ các trung tâm “hospice care” được xem là đầy đủ phương tiện
nhất cho thấy tỉ số người muốn chết cao hơn tỉ số người muốn chết tại
các bệnh viện.
Tháng 9 năm nay Quốc hội Anh sẽ thảo luận và biểu
quyết luật cho phép chết phỏng theo luật bang Oregon. Luật sẽ cho người
sắp chết chọn thời điểm chết nhưng không cho các bệnh nhân bị bệnh nan y
hết cách chữa trị nhưng vẫn sống lây lất năm này qua năm khác được
chết. Bà Debbie Purdy, người Anh, bị bệnh tê cóng bắp thịt (multiple
sclerosis) có thể còn sống lâu nên (không chờ luật ban hành) bà quyết
định không ăn để chết để tránh cho chồng bị luật pháp hỏi tội nếu phải
đưa bà đi Thụy sĩ để chết. Bà để lại một lá thư tuyệt mệnh kêu gọi quốc
hội Anh thông qua một luật rộng rãi hơn bao gồm quyền được chết của
những bệnh nhân hết phương chữa trị nhưng vẫn sống được.
Luật
đang thảo luận tại Canada bao gồm trường hợp như bà Purdy yêu cầu, nhưng
thủ tục lập pháp phức tạp tại Canada nên còn phải chờ.
Các bộ
luật cho phép được chết tại Hà Lan và Bĩ rộng rãi hơn luật Oregon. Bác
sĩ có quyền chích thuốc vào mạch máu cho bệnh nhân thay vì buộc bệnh
nhân tự uống thuốc. Và tại Thụy Sĩ, trẻ em trên 12 tuổi nếu được cha mẹ
đồng ý cũng được hưởng quyền này. Tại Hà Lan 3% số người chết là do bác
sĩ giúp, một tỉ số cao nhất thế giới. Tại Bĩ luật còn cao hơn luật Thụy
Sĩ, không giới hạn tuổi đối với trẻ em.
Hà Lan và Bĩ là hai quốc
gia có cơ sở săn sóc và chống đau (thể xác) và chống khổ (tâm thần) do
bệnh hành rất tân tiến. Người ta cũng ghi nhận rằng tại Oregon từ khi có
luật “Death with Dignity Act” các cơ sở này càng được cải tiến hơn.
Quá
trình hình thành luật giúp người được chết tại Hà Lan là một kinh
nghiệm cho thế giới. Năm 1971, một bác sĩ quyết định giúp Mẹ chết an
lành theo sở nguyện của bà. Tòa phạt vị bác sĩ này một hình phạt tượng
trưng cốt chỉ để hợp với luật. Trường hợp này gợi sáng kiến thành lập
“Hội Những Người Muốn Chết Không Đau”, giúp giải quyết từng trường hợp
với toà án. Qua các án lệ Hội được phép chính thức thành lập, và sau
cùng quốc hội biến thành luât.
Đa số các trường hợp chọn chết ở
Hà Lan là ung thư và bệnh tim. Tỉ số bệnh Alzheimer và tâm thần ít nhưng
lên dần. Năm 2002 khi Hà Lan chính thức có luật không có trường hợp
nào, năm 2013 có 42 trường hợp.
Tại Bĩ cũng như tại Hà Lan trong
15 năm qua bác sĩ hay dùng cách cho thuốc an thần để bệnh nhân ngủ yên
thoải mái và chết dần. Tại Anh (chưa có luật) các bác sĩ cũng dùng
phương thuốc này với sự mặc nhiên đồng ý của thân nhân người bệnh.
Nói
chung các Tổ chức Y tế, các Hội bác sĩ ít khi công khai ủng hộ các Bộ
luật cho phép chết vì sự ràng buộc bởi lời thề của Hippocrates, người Hy
Lạp, cha đẻ của y khoa Tây phương viết 2500 năm trước “không viết phái
thuốc độc cho ai và cũng không khuyên ai làm vậy” (Nor shall any mans
entreaty prevail upon me to administer poison to anyone; neither will I
counsel any man to do so) và hiện nay một số trường y khoa trên thế giới
còn bó buộc sinh viên thề trước khi nhận văn bằng bác sĩ y khoa.
Trước
cuộc bỏ phiếu tại Thượng viện California tháng 6 vừa qua tại
California, Hội Y tế quốc gia Hoa Kỳ (American Medical Association) chọn
thái độ trung lập. Và theo thăm dò của mạng điện tử Medscape năm 2014
thì lần đầu tiên mạng ghi nhận hơn 50% bác sĩ được hỏi ý kiến đồng ý;
Hội Y tế Anh còn chống nhưng ý kiến của dân chúng Anh muốn Hội nên thay
đổi ý kiến.
Trong cuộc tranh luận về quyền được chết có một điểm
cần làm rõ. Có luật còn hơn không. Và những ai vì lý do tôn giáo không
muốn tự kết liễu đời mình dù đau đớn thì đó là quyền của họ, nhưng không
có lý do gì để ngăn cản những người không còn hy vọng gì và đang đau
khổ (thể xác hay tâm thần) không được chết.
Một người đã hiến cả
cuộc đời mình cho công cuộc nhân đạo này là bác sĩ Jack Kevorkian,
chuyên về bệnh lý. Bác sĩ Kevorkian sinh năm 1928 tại bang Michigan. Ông
chuyên giúp người tự vận nếu vì bệnh không còn muốn sống mà ông cho là
một việc làm nhân đạo tối thượng và cao quý mà nghề bác sĩ cho phép ông
làm. Ông từng giúp ít nhất 130 bệnh nhân cuối đời được chết thoải mái và
ra tòa ít nhất 3 lần. Trước sau tòa tiểu bang Michigan cũng thông cảm
và ông chưa bao giờ bị phạt tù cho đến năm 1998 khi ông công khai mời
đài truyền hình CBS thu hình và lên chương trình “60 minutes” một khúc
phim ông đang tự tay chích thuốc chấm dứt đời sống của ông Thomas Youk
bị bệnh Lou Gehrig yêu cầu. Ông bị truy tố và năm 1999 tòa xử ông 25 năm
tù về tội cố ý giết người. Năm 2007 ông được phóng thích vì tác phong
tốt khi bị cầm tù. Ông qua đời năm 2011 tại bệnh viện Royal Oak, bang
Michigan, thọ 83 tuổi./.
Trần Bình Nam
August 10, 2015
No comments:
Post a Comment