Để biết ơn Thương Binh V.N.C.H.
… Diễn giả vừa dứt câu, tràng pháo tay vang lên. Diễn giả ngưng nói,
hơi mỉm cười, nhưng ánh mắt vẫn còn vương buồn, nhìn quanh hội trường, tiếp: “… Kính thưa quý vị, những người mà tôi đề
cập chính là Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa (V.N.C.H.). Quý vị đã xúc động mãnh
liệt khi thấy hình ảnh những đoàn cựu sĩ quan Quân Lực V.N.C.H. bị cộng sản
Việt Nam (csVN) bắt lao động khổ sai trong các trại cải tạo. Quý vị cũng đã
phẫn nộ khi thấy những người tỵ nạn còn kẹt tại đảo bị bắt đưa lên máy bay, ép
buộc trở về Việt-Nam. Vậy, quý vị nghĩ gì khi những người bị chiến tranh đoạt
mất một phần cơ thể, nay đã trở thành những kẻ ăn xin ngay trên chính phần đất
mà chính máu và một phần thịt xương của họ đã bồi đắp?
Đến đây, tôi nghĩ, có vị sẽ
nghĩ rằng chiến tranh đã chấm dứt từ lâu rồi, khơi dậy làm chi nữa! Xin thưa,
cứu đói Thương Binh V.N.C.H. trong lúc này không phải là khơi dậy những đau
thương của cuộc chiến mà chính là quý vị đang xoa dịu nỗi đau/đang hàn gắn phần
nào những tan tác/đang chia xẻ phần nào những tệ hại còn sót lại sau cuộc
chiến.
Mỗi lần, sau khi chào Quốc
Kỳ, hát Quốc Ca, quý vị dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ những người đã bỏ
mình vì nước, đã liều chết vì Tự Do – nhưng chưa bao giờ tôi nghe ban tổ chức nào
ngõ lời cảm ơn Thương Binh VNCH cả!
Chính nhờ những người đã hy
sinh một phần thân thể trong cuộc chiến, chúng ta mới được sống trọn tuổi thơ/được
cắp sách đến trường/được sum vầy với Cha Mẹ và gia đình. Và ngày nay, với cơ
thể lành lặn, chúng ta được sống đầy đủ dưới bầu trời Tự Do; còn những kẻ bất
hạnh ấy đang khốn khổ và bị hất hủi bên quê nhà. Tại sao chúng ta nỡ để những
người ơn của chúng ta phải đói rách và tủi buồn nơi cuối trời quên lãng?
Ngày xưa, Pháp đô hộ
Việt-Nam, nhưng hình ảnh anh Thương Binh lại nên thơ như trong bài Ngày Trở Về
của Phạm-Duy:
‘… Ngày trở về có anh
thương binh
Chống nạn cày bừa,
Vì thương yêu anh nên ngày
trở về
Có con trâu xanh hết lòng
giúp đỡ…’
Bây giờ, anh Thương Binh
V.N.C.H. không thể ‘chống nạn cày bừa’, vì đất của Mẹ Anh đã bị csVN chiếm đoạt;
anh Thương Binh phải lê lết tấm thân tàn trên hè phố/trong nhà lồng chợ/trước
các tiệm ăn hoặc bên những đống rác đầy ruồi bọ để kiếm ăn! Miếng cơm của anh
Thương Binh bây giờ không phải là ‘nắm cơm ngon’ mà là vũng cơm thừa! Anh
Thương Binh đã ăn cơm thừa, uống nước vũng thì làm thế nào Anh có được ‘con
trâu xanh’ để nó ‘hết long giúp đỡ’? Người Mẹ của anh Thương Binh cũng không ‘lần
mò ra trước ao nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ, tiếc rằng ta đôi mắt đã lòa
vì quá đợi chờ!’; vì Mẹ của Anh đã chết tại một vùng kinh tế mới khô cằn nào
đó!
Kính thưa quý vị, nếu ai đã
từng chứng kiến thảm cảnh của Thương Binh V.N.C.H. khi các Anh bị Việt-cộng
đuổi ra khỏi các quân y viện miền Nam, các Anh phải bò lê lết trên những con
đường quanh bệnh viện; và sau đó những Thương Binh này phải lây lất xin ăn hoặc
moi rác để kiếm miếng ăn, thì không ai là người không hướng tâm về những nạn
nhân trực tiếp của cuộc chiến tương tàn ấy!
Trước tình cảnh nát lòng
của tập thể Thương Binh V.N.C.H., chúng tôi tha thiết xin quý vị, những
người may mắn còn lành lặn sau cuộc chiến và quý vị thuộc các ngành Nha Y Dược,
Cục Quân Y, QL/V.N.C.H. – những người đã hơn một lần hàn gắn những tàn tích ghê
rợn của chiến tranh trên cơ thể các Thương Binh này – hãy nghiêng xuống để tình
thương lênh láng từ trái tim đầy rung cảm của quý vị, một lần nữa, nhểu từng
giọt nồng, làm ấm lại những tâm hồn vỡ vụn đang bị dòng đời quên lãng!...”
Đến đây, dường như đang bị xúc động mạnh, diễn giả ngưng lại. Cả hội
trường im lặng.
Từ hàng ghế thứ năm, như không nén được nỗi đau trong hồn lâu hơn
nữa, Mạnh hơi khom người đứng lên, đi ra ngoài.
Nỗi đau của Mạnh khơi nguồn từ ngày đình chiến, 27-01-1973. Mạnh và
đồng đội đều hiểu hiệp định ngưng bắn “da
beo” là phi lý, đầy áp lực đối với quân nhân miền Nam và chỉ có lợi cho “phía bên kia”; nhưng, dù sao, trong một
thời gian, cũng giảm thiểu số thương vong cho cả hai phía.
Lý do Mạnh nghĩ đến số thương vong của “phía bên kia” là vì, trong đoàn
quân xâm lăng từ phương Bắc thế nào cũng có Tuất – đứa em duy nhất mà Mạnh đã
lìa xa khi Mạnh còn mang “tên cúng cơm” là Mùi.
Mùi nhớ rõ, năm ấy, Mùi đã khóc sưng cả mắt nhưng Mẹ vẫn quyết định
ở lại vì Mẹ ngại ông bà Ngoại và ông bà Nội không biết nương tựa vào ai lúc
tuổi già! Lý do Bố để Tuất ở lại vì ông bà Nội sợ sau khi Ông Bà mất không ai
để tang, không ai nhang khói!
Từ ngày đó đến ngày hưu chiến cũng gần hai mươi năm, Mạnh không biết
ông bà Nội/Ngoại còn sống hay đã về tiên cảnh và Tuất có được dịp chít vành
khăn tang cho Ông Bà hay không; nhưng Mạnh biết chắc chắn một điều là không thể
nào Tuất được ở lại làng để lo nhang khói cho Ông Bà; vì ngoài Bắc không có đạo
luật như miền Nam: Miễn dịch cho những người con trai duy nhất còn lại trong
gia đình. Mạnh nghĩ, Tuất, hoặc đã chết trên đường mòn Hồ Chí Minh, hoặc đang
có mặt trong đoàn quân vượt vùng phi quân sự để vào đến bờ sông Thạch Hãn này.
Bây giờ sắp ngưng chiến, lòng Mạnh cũng tạm yên, bớt áy náy/đỡ bức
rứt về đứa em không cùng chiến tuyến. Bất ngờ Mạnh nghe thiệu thính viên gọi
nhỏ:
-Ông Thầy!
Mạnh quay lại. Hiệu thính viên lom khom đến gần:
-Đại bàng trên máy, ông Thầy.
Mạnh chụp ống liên hợp:
-Đại bàng, đây Metro!
-Giờ “nghỉ chơi” sắp điểm. Kiểm soát “con cái” của “toa” cẩn thận.
Đề cao cảnh giác và tuyệt đối tuân hành lệnh “nghỉ chơi.”
-Nhận năm, Đại bàng.
Mạnh chuyển sang tầng số nội bộ và truyền lệnh đến từng tiểu đơn vị.
Lệnh ngưng bắn chỉ vừa truyền đi trên đài phát thanh được vài phút,
Mạnh nghe nhiều tiếng reo hò, rồi một giọng Bắc nghe rất rõ:
-Ngưng bắn “dzồi”, anh em ơi!
Câu ấy được lập lại từ nhiều hướng khác nhau. Mạnh nhận định được rằng
đơn vị của chàng đang ở vào thế “cài răng lược” với đơn vị csVN. Không gian
quanh bờ sông trở lại tịch mịch, đầy căng thẳng và hồi hộp. Bỗng một giọng Bắc
lại vang lên:
-Các anh Quốc Gia ơi! Ngưng bắn
d…z…ồ…i…Thích quá!
Vẫn im lặng. Một lúc sau lại có tiếng từ hướng khác:
-Các anh Quốc Gia ơi! Thèm thuốc quá! Cho một điếu.
Sau nhiều lần lập đi lập lại những câu ấy mà cũng vẫn không được đơn
vị “Ngụy” đáp ứng, Bắc quân im lặng.
Sáng sớm hôm sau, những lời kêu gọi như lúc khuya lại vang lên. Bất
ngờ Mạnh nghe giọng Nam, sắc và gọn:
-Đứng lại!
Mạnh chụp ống liên hợp, chưa kịp bấm nút để liên lạc kiểm soát tình
hình thì đã thấy – cao khỏi những đọt tranh còn lóng lánh sương mai – lố nhố
nhiều nón cối! Ngay tức khắc, Mạnh và hiệu thính viên chụp vũ khí cá nhân. Vừa
khi ấy Mạnh nghe nhiều tiếng “đứng lại!”
vang lên từ nhiều phía. Mạnh đứng bật dậy. Thấy Mạnh đứng lên, cả đơn vị của
Mạnh cũng đứng lên, sẵn sàng trong tư thế cận chiến. Nhưng, đồng loạt, Bắc quân
đưa cao tay vẫy vẫy:
-Ngưng bắn dzồi! Anh em cả. Chúng tôi đâu có khí giới đâu. Đói và thèm
thuốc quá, các anh ủng hộ tý.
Người lính miền Nam chất phát, đưa mắt nhìn nhau, khó xử. Bắc quân
vừa từ từ bước đến gần vừa cười cười:
-Ôi Giời! Mấy hôm nay đói meo. Mỗi “nần” các anh ăn, mùi đồ hộp thơm
“nừng”, tụi này thèm quá!
Thấy quả thật địch quân không mang súng, người lính miền Nam cả tin,
hạ nòng súng, ùa đến bắt tay Bắc quân.
Sau vài phút vui mừng, lính miền Nam lấy thức ăn và thuốc trong
ba-lô tặng lính miền Bắc. Lính miền Bắc cười tở mở rồi “hồ hởi” khui, ăn ngay
tại chỗ. Vừa ăn lính miền Bắc vừa nhìn từng đôi giày “sô” sờn gót, từng chiếc
đồng hồ cũ kỷ hoặc cặp kính mát được dắt hờ vào túi áo rằn ri của người lính
Thủy Quân Lục Chiến rồi trầm trồ một cách thèm thuồng:
-Ôi Giời! Đồ đạc của các anh “hiện đại” quá! Cho sờ tý.
Lúc này người lính miền Bắc trông ngây ngô, vui thích và hiền lành
như đàn cừu vừa tìm được cánh đồng cỏ non.
Bất ngờ một tiếng “sát!”
vang lên! Nhanh và “ăn khớp” nhau như đã được thực tập nhuần nhuyển, những con
cừu hiền lành ấy bỗng biến thành đàn hổ đói vừa ngửi được mùi thịt tươi! Bắc
quân phùng mang, trợn mắt, vung dao găm, đâm túi bụi vào chính những người vừa
cho chúng ăn! Mạnh và nhiều thây người gục xuống. Mũ xanh, nón sắt rơi ơ hờ
cạnh gốc tranh câm nín! Máu đỏ vẽ thêm những đường kỷ hà trên quân phục rằn ri!
Vài tiếng súng rời rạc vang lên. Quay sang, thấy hiệu thính viên đã
chết, Mạnh, một tay ôm vết thương nơi lồng ngực bên trái, một tay cố sức hất
thân người của hiệu thính viên ra để Mạnh dùng máy truyền tin. Vừa khi ấy, một
anh nón cối chạy ngang. Nghe tiếng máy truyền tin rè rè, rẹt rẹt, anh nón cối
dừng lại. Thấy Mạnh nằm nghiêng, đang áp tai vào ống liên hợp trong tư thế liên
lạc, anh nón cối biết “đối tượng” là cấp chỉ huy, vội hươi dao găm lên, sẵn
sàng đâm vào lưng của Mạnh. Bất ngờ Mạnh ngẫng lên, ánh mắt đầy thảng thốt. Khi
ấy anh nón cối cũng vừa thấy một vùng máu đỏ nhuộm thắm phần trên của túi áo;
nơi có bảng tên Nguyễn Văn Mạnh. Anh nón cối đá ngược vào mặt Mạnh làm Mạnh bật
ngửa ra sau. Ngay lúc đó anh nón cối đâm vào vùng bụng dưới của Mạnh!
Mạnh quặn người, nghiến răng, dồn hết tàn lực vào đôi tay, chụp cánh
tay của anh nón cối, bóp chặt. Anh nón cối bậm bờ môi thâm sì, ấn dao găm sâu
xuống, sâu xuống nữa! Trong nỗi đau tột cùng, Mạnh nhìn anh nón cối bằng ánh
mắt ngỡ ngàng đến khó hiểu rồi buông tay, khép mắt!
Mạnh tỉnh lại khi chiếc trực thăng mang dấu hồng thập tự là đà, sắp
đáp xuống…
Khi chuyến xe lửa vừa qua khỏi cầu Bến-Hải, nỗi buồn sâu kín không biết
từ đâu dấy lên ngập cả hồn chàng. Nghĩ ngợi một lúc Mạnh mới tìm ra nguyên nhân
gợi buồn là chiếc cầu Hiền-Lương! Ranh giới phân chia đất nước đã được xóa đi
trên bản đồ, cũng như hai vết sẹo nhăn nhúm trên cơ thể của Mạnh đã lành lặn.
Nhưng thử hỏi đến bao giờ dòng sông đẩm máu này mới thoát khỏi tính chất oan
nghiệt của nó; cũng như biết đến khi nào những tế bào nơi hai vết sẹo của Mạnh
mới trở lại trạng thái bình thường!
Khi xe lửa qua khỏi ga Tuy-Hòa, Mạnh khóc lúc nào Mạnh cũng không
hay! Nước mắt của Mạnh bây giờ chỉ âm thầm lăn dài trên hai gò má trũng sâu chứ
không tuôn trào cùng tiếng thét gào điên loạn của thằng Mùi trong một đêm hãi
hùng cách nay xa lắm.
Đêm đó, trên chuyến tàu từ Tuy-Hòa về Nha-Trang, Mùi ngồi cạnh Bố,
nhớ lại hương vị của biển và những món ăn tuyệt vời mà người bạn gái của Bố ở
Tuy-Hòa nấu đãi hai Bố con nhân dịp Mùi thi đậu trung học đệ nhất cấp. Tội
nghiệp Bố và người đàn bà đang muốn chiếm vị thế của Mẹ! Bao nhiêu tiền dành
giụm Bố và bà ấy đều vui thích và hãnh diện đưa Mùi đi may áo quần, mua sách
vở, dày dép, chuẩn bị cho Mùi làm “cậu tú” vì Mùi quyết định “học nhảy” lớp đệ
tam. Nghĩ đến sách vở và quần áo mới, Mùi cảm thấy thương Bố quá, vỗ nhẹ vào
vai Bố:
-Bố! Mai mốt con học xong con cũng đi Biệt-Động-Quân giống Bố, nha,
Bố!
-Bố mày! Cho mày ăn học để mày làm ông kia ông nọ chứ bộ để đi lính
giống tao à?
-Thế Bố muốn sau này con làm gì?
-Làm bác sĩ, kỹ sư,
luật sư, thiếu gì nghề danh giá, con.
-Nhưng con muốn đi lính cơ. Đi lính như Bố ai cũng thương; lính thấy
thì phải chào.
-Thôi, về lo học hành, đừng nói nhảm.
Im lặng. Bất ngờ, xe lửa hãm nhanh tốc lực. Nhiều tiếng lao xao từ
nhóm người đi buôn:
-Rồi! “Tụi nó” chận nữa rồi!
Thấy vẻ hốt hoảng hiện lên mặt mọi người nhưng Mùi chẳng biết
chuyện gì đang xảy ra. Bỗng Bố chụp cái xắc có bộ quân phục giấu kín trong ấy,
liệng qua cửa sổ toa xe, trước đôi mắt ngơ ngác của Mùi. Thân nắm chặt tay Mùi,
giọng lo âu, nói vào tai Mùi:
-Coi chừng chúng nó bắt thanh niên đi theo chúng nó. Có gì con cố
chạy thoát, đừng để chúng nó bắt, nghe chưa?
Lúc này Mùi mới lờ mờ hiểu và sợ.
Xe lửa dừng hẳn. Những người ngồi gần cửa bắt đầu nhốn nháo rời xe.
Những người ngồi bên trong cũng tuần tự đi ra. Tất cả đứng gom lại nơi thửa
ruộng khô. Sau đó, mấy người mặc đồ bà ba đen, tay xách đèn lồng – không biết
xuất hiện từ đâu – bắt đàn bà, người già và trẻ con đứng riêng; đàn ông đứng
riêng, rồi “đồng chí chính trị viên” bắt đầu tuyên truyền.
Giữa lúc tinh thần mọi người bị chi phối và căng thẳng đến tột độ, bỗng
một tiếng hô “nghi…ê…m…” vang lên. Phản ứng tự nhiên của những người lính
chuyên nghiệp, Bố – cũng như những quân nhân khác đang mặc thường phục – vội
đứng thẳng, cụp hai chân vào nhau trong thế nghiêm thì nhóm Việt cộng nhận ra ngay
ai là lính. Việt cộng nhào đến, bắt ngay những người ấy đứng riêng ra.
Trong khi Mùi run sợ, chỉ biết nhìn Bố lủi thủi tuân lệnh Việt cộng
thì “đồng chí chính trị viên” điểm điểm ngón tay trỏ vào toán lính V.N.C.H.,
mặt hắn xoay về nhóm thường dân, lên án:
-Đồng bào thấy rõ, đây là những tên phản động, tay sai của ngoại
bang, mang tâm “niếm” gót giày bọn “sen đầm” quốc tế, phản “nại” dân tộc. Chúng
nó đáng tội chết! Chúng nó phải đền tội trước nhân dân!
Nghe “chính trị viên” phát biểu, toán lính V.N.C.H. đưa mắt nhìn
nhau, ngầm hiểu rằng cuộc đời của họ chắn chắn sẽ kết liểu tại đây! Thế thì
liều! Bố hô lớn: “Biệt Động Quân! Sát!” Như
nghe một mệnh lệnh khi xuất quân, những người lính VNCH vừa chồm tới, muốn lao
thẳng vào toán Việt cộng thì, ngay khi ấy, khẩu đại liên – không ai biết Việt cộng
đặt trên mui xe lửa từ lúc nào – quạt từng loạt đạn vào toán lính VNCH không
khí giới, trước sự kinh hoàng của mọi người!
Mùi hét lên: “Bố! Bố ơi! Bố!”
và dợm người muốn chạy đến ôm xác của Bố; nhưng một người đàn bàn kéo Mùi lại:
-Im! Mày muốn tụi nó giết mày luôn hả?
Mùi hãi quá, nín thinh. Sau khi mấy người mặc đồ bà ba đen thổi tắt mấy
ngọn đèn lồng và lẫn vào bóng đêm, mọi người mới ùa đến bên các nạn nhân. Mùi
gục đầu lên xác của Bố và kêu khóc thảm thiết. Người đàn bà lúc nãy lại đến, ai
ủi, dỗ dành Mùi. Nhưng Mùi vẫn cứ khóc cho đến khi khan cả tiếng mới chịu lặng
yên. Thỉnh thoảng Mùi nhìn xác thân bê bết máu của Bố rồi quẹt nước mắt!
Sau bao nhiêu biến thiên của cuộc sống, Mùi tưởng Mùi đã quên được
đêm kinh hoàng đó, nhưng không! Khi nhớ lại Mùi vẫn còn xúc động, lặng lẽ lau
nước mắt. Mùi thở dài! Từ một thằng Mùi côi cút, Mùi lăn xả vào đời với tên
mới – Mạnh – như ngầm nhắc nhở mình luôn luôn hướng về tương lai với tinh thần
cứng rắn cộng với niềm tự tin trong một cơ thể tráng kiện.
Nhưng, sau lần bị thương vào ngày ngưng chiến để người vợ trẻ của
chàng lặng lẽ ra đi – vì hình hài của Mạnh đã mất khả năng thiên bẩm của người
đàn ông – Mạnh tự biết rằng niềm tự tin trong chàng không còn nữa!
Khi xe lửa dừng tại ga Nha Trang, Mạnh cảm thấy lạc long và cô đơn
như dạo nào chàng và Bố vừa rời tàu “há mồm” sau nhiều ngày rời bến Hải-Phòng!
Ra khỏi ga xe lửa, Mạnh ngơ ngác, không biết về đâu; bởi vì Mạnh lớn
lên và khởi sự binh nghiệp từ trường Thiếu Sinh Quân! Thấy nhiều kẻ ăn xin bám
theo hành khách, Mạnh chạnh lòng, nhưng chợt nhớ số tiền quá ít ỏi trong túi,
Mạnh lắc đầu, nhìn lơ chỗ khác. Bất ngờ Mạnh chú ý đến tấm thẻ nhựa nhỏ được gắn
nơi ngực của một hành khất mù đang ngồi im lặng cạnh mấy chiếc xích-lô, tay đưa
gáo dừa ra xin. Nhìn kỷ, Mạnh giật mình. Tấm thẻ nhựa ấy là thẻ căn cước quân
nhân thời VNCH! Mạnh bước đến, hỏi nhỏ:
-Sao anh dám đeo căn cước quân nhân? Anh không sợ à?
-Tôi còn gì để họ đầy ải nữa đâu mà sợ!
Mạnh lấy trong túi quần ít tiền, khom người, nhét nhanh vào tay
người ăn xin:
-Anh cầm tạm. Tôi không có nhiều.
Một người ngồi trên Honda thấy hành động của Mạnh, vội hỏi:
-Mới được thả về hả? Muốn về đâu?”
Mạnh ngạc nhiên, đứng lên:
-Anh hỏi tôi, phải không?
-Chứ hỏi ai nữa, “cha”! “Cha” nhìn quanh đây xem ai giống “cha”
không thì biết hà!
-Tôi không có nơi nào để về cả. Số tiền còn lại trong túi tôi chắc
chắn không thể nào đủ trả cho cuốc xe từ đây ra nghĩa trang Phật Giáo.
-Bộ không có chỗ nào về rồi ra nghĩa trang ngủ nhờ sao, “cha nội”?
-Tôi muốn thăm mộ của Bố tôi.
-Trời đất! Thôi, lên lẹ đi, “cha”.
Trong khi cho xe chạy ra cầu Hà-Ra, người lái tự giới thiệu là Vũ,
cựu Mũ Nâu. Sau những chuyến xe thồ thường nhật, trước khi về nghỉ, Vũ thích
ghé ga xe lửa đón tù cải tạo mới được tha, đưa họ về với gia đình mà không nhận
thù lao. Trường hợp của Mạnh, Vũ xúc động, đề nghị Mạnh về ở tạm nhà Vũ, Vũ sẽ
tìm người cho Mạnh dạy kèm Anh văn, kiếm tiền…
Dòng ý tưởng của Mạnh vừa đến đây, bất chợt chàng nhìn ra cửa sổ phi
cơ. Phi cơ đang lên cao, lên cao nữa và vượt khỏi nhiều tầng mây để Mạnh thấy,
phía trên phi cơ, bầu trời trong xanh như biển của những ngày sóng lặng; và
dưới lườn phi cơ, mây trắng kết liền nhau, trông như cánh đồng tuyết. Cuối tầm
mắt, bầu trời xanh và “cánh đồng tuyết” tiếp giáp nhau trông như vòm chân trời
mà Mạnh thường thấy vào những chiều lang thang trên bờ biển ở trại tỵ nạn Ga Lăng.
Thời gian ở trại Ga Lăng, tuy thiếu thốn, cô đơn, buồn nản nhưng
Mạnh không phải lo bị mất việc, không tiền trả bills; Mạnh cũng không phải làm quần quật như từ ngày đến Mỹ.
Đến Mỹ, Mạnh tìm được việc làm ở một body shop. Điều kiện làm việc trong hãng sửa xe này thật là kinh
khủng! Nhưng, là một cựu sĩ quan đầy tự trọng, Mạnh chấp nhận hoàn cảnh, không
xin chính phủ giúp đỡ.
Khi biết một người bạn về Bắc thăm nhà, Mạnh nhờ người ấy tìm cách
liên lạc về làng xưa, tìm Mẹ và Tuất; vì năm 1954 ra đi, Mạnh còn quá nhỏ,
không thể nhớ địa chỉ một cách chính xác. Cũng vì lý do đó, khi bị Việt cộng
giải ra Bắc, Mạnh không thể liên lạc về gia đình.
Sau khi người bạn giúp liên lạc được với bà Mẹ và Tuất, Mạnh phải
làm thêm việc giữ an ninh cho một nhà kho, vào cuối tuần, để có phương tiện tài
chính giúp Mẹ và Tuất. Lúc này Tuất đã có ba người con trai; đứa lớn chết trận csVN
xâm lấn Cao-Miên.
Không thể nào Mạnh mường tượng lại được con đường từ làng ra tỉnh lộ
và từ tỉnh lộ về Hải-Phòng. Nhưng Mạnh lại nhớ rõ cảnh đàn bà con gái – theo
chỉ thị của Việt-Minh, lúc đó Mùi không biết – đứng dọc hai bên đường, khóc
lóc, kể lể, làm như thương yêu, tiếc nhớ đàn ông lắm, cứ níu kéo, năn nỉ đàn
ông ở lại! Mùi run quá, sợ mấy bà ấy kéo Bố ở lại. Nhưng có lúc Mùi lại mong Bố
bị kéo lại để Bố đừng đi, và như thế, Mùi sẽ được ở lại với Mẹ. Nhưng Bố mạnh
dạng hất tay mấy bà ấy ra:
-Thôi! Đừng làm trò khỉ!
Bố và Mùi ra đi yên phần. Chỉ tội cho ông bà Nội, ông bà Ngoại,
không chịu rời nơi chôn nhau/cắt rốn cho nên về sau bị csVN đấu tố đến chết, về
tội điền chủ, cường hào, ác bá!
Suốt thời gian liên lạc được với Mạnh, Mẹ và Tuất chưa bao giờ cho
Mạnh biết sự thật về những cái chết đau thương của ông bà Nội, Ngọai. Mạnh cũng
chưa dám cho Mẹ và Tuất biết Việt cộng đã dùng thủ đoạn đê hèn để giết Bố – vì
ngại thơ bị kiểm duyệt và “nhà nước” sẽ gây phiền toái cho Mẹ.
Đến khi Mạnh trở về làng xưa, lần đầu tiên chỉ có ba Mẹ con ăn cơm
với nhau, tại nhà Tuất, Mẹ mới bùi ngùi kể lại cho Mạnh nghe và Mạnh cũng có cơ
hội thuật lại cái chết đầy thương tâm của Bố.
Cái chết của Bố đã khắc sâu vào tâm khảm của Mạnh. Giờ đây lại biết
sự thật về bốn cái đại tang, Mạnh bàng hoàng, đau xót vô cùng! Giữa khi gia
đình đang đau buồn, bất ngờ một anh công an phường xuất hiện, đưa giấy, bảo mời
Mạnh sáng mai lên phường “làm việc”.
Mạnh nhìn anh công an bằng đôi mắt mở lớn, đầy ngạc nhiên, rồi dịu
xuống, như thầm trách.
Thấy ánh mắt của Mạnh, Tuất giật mình. Ánh mắt ấy như dội vào tâm
thức để Tuất phải bận tâm, phải nghĩ ngợi.
Đêm đó, sau khi anh em nằm bên nhau trên chiếc phản, hàn huyên cho
đến gần sáng, Mạnh rơi vào giấc ngủ một cách dễ dàng. Riêng Tuất cứ trằn trọc
mãi, không ngủ được vì bị ánh mắt khó hiểu của Mạnh lúc chiều ám ảnh. Tuất cố
vận dụng trí nhớ để xem Tuất đã thấy ánh mắt ấy ở đâu/vào dịp nào, nhưng đành
chịu! Rồi Tuất hồi tưởng lại những cuộc đụng độ dữ dội với quân miền Nam xem
những nạn nhân của nòng súng/lựu đạn/dao găm và mã tấu của Tuất chết như thế
nào, và động tác của mỗi nạn nhân trước khi chết ra làm sao! Nhưng vì giết
nhiều “kẻ thù” quá, Tuất không thể nhớ được “kẻ thù” nào có ánh mắt lạ lùng đó!
Khi Tuất thiu thiu ngủ, ánh mắt ấy lại hiện về. Tuất không dám mở
mắt, cố tập trung tư tưởng vì ngại ánh mắt ấy sẽ biến đi. Tuất thấy sau đôi mắt
dường như thấp thoáng loại quân phục có tích cách ngụy trang của lính miền Nam.
Tuất vận dụng tâm trí nhiều hơn nữa và từ từ nhận ra những đường kỷ hà màu xanh,
nâu và trắng chen lẫn nhau. Đúng rồi! Quân phục của Lính Thủy Đánh Bộ! Ô, lạ
không! Tại sao lại có vết máu tươi nơi ngực trái/vết đâm ở vùng bụng dưới và
tiếng kêu rè rè/rột rột của máy truyền tin? Người Tuất toát mồ hôi. Đúng là ánh
mắt của “tên” sĩ quan “Ngụy” bị Tuất đâm chết cạnh máy truyền tin, bên kia bờ sông
Thạch-Hãn, vào hôm có lệnh hưu chiến! Tuất nhớ dường như Tuất thấy bản tên của
“hắn” là Nguyễn Văn Mạnh!
Vừa khi ấy, Mạnh thức giấc, than nóng và đèn sáng Mạnh ngủ không được.
Tuất tăng tốc độ quạt máy và khuyên Mạnh nên cởi áo thun để ngủ cho mát. Tuất
đến công tắc điện, có ý đợi Mạnh cởi áo thun xong rồi mới tắt đèn. Nhưng khi
chiếc áo thun trắng vừa vuột qua khỏi vai của Mạnh, Tuất nhíu mày vì thấy vết
sẹo nơi ngực trái của Mạnh. Tuất hỏi:
- Anh “nàm” gì mà có vết sẹo dài thế?
Như suốt mấy ngày qua, với dụng ý không muốn nhắc đến quá khứ, Mạnh
đùa:
- Anh có cả…ngàn vết sẹo chứ phải một đâu, chú!
Biết Mạnh đùa, Tuất cũng đùa theo:
- Người có ngàn vết sẹo thì… “cái ấy” cũng mang sẹo rồi!
Hai anh em cười thành tiếng. Trong phút giây vui với đứa em mấy mươi
năm xa cách, Mạnh cảm thấy trẻ lại như ngày nào anh em ở truồng tắm sông, quên
giữ ý:
- Không phải ngay “cái ấy” mà gần gần thôi.
Tuất cũng vô tình, muốn kéo dài niềm vui:
- Đâu, đưa em xem nào!
Mạnh trật lưng quần đùi ra. Thấy vết sẹo màu nâu nổi cộm ở vùng bụng
dưới của Mạnh, Tuất hoảng kinh, đứng sững! Đầu óc của Tuất xoay vòng vòng, muốn
nổ tung! Ánh mắt lúc chiều, vết sẹo bên trái của lồng ngực và vết sẹo ở bụng
dưới…Lẽ nào! Tuất khổ sở, lắc đầu nhiều lần rồi nghiêm giọng:
-Anh Mùi! (Biết Mùi đã đổi tên, nhưng Mẹ cũng như Tuất, đều muốn gọi
Mạnh là Mùi; vì tên Mùi nghe gần gủi, thân thiết hơn.) Hồi trước anh là Lính
Thủy Đánh Bộ, đúng không?
- Chuyện qua rồi, tìm hiểu làm chi nữa?
- Thôi được. Em chỉ yêu cầu anh trả lời cho em một chữ “có” hay
“không” mà thôi. Chịu không?
Mạnh quen miệng “Okay”. Tuất hỏi:
- Ngày đình chiến, đơn vị của anh có đóng ở bên kia sông Thạch Hãn
hay không?
- Có! Chú hỏi để làm gì?
Tuất không trả lời, vội tắt đèn và hấp tấp mở cửa trước:
- Thôi, gần sang rồi. Anh nằm nghỉ. Em đi có tý việc. Em sẽ về ngay.
*
Sau khi nghe Tuất kể rõ câu chuyện, Mẹ lặng người một lúc rồi thở
dài:
- Tuất à! Bất cứ điều gì xảy ra trên đời đều do Duyên và Nghiệp.
Trường hợp của con và anh Mùi cũng chỉ là một trong muôn vàn cảnh oái ăm trên
đất nước điêu linh này. Con biết hối và biết thương anh Mùi, thế là đủ.
- Nhưng làm thế nào con có thể sống được với sự ray rức này, Mẹ?
- Ý con muốn như thế nào?
- Con muốn nói thật với anh Mùi để xin anh Mùi tha thứ cho con.
- Không nên, con à! Có bao giờ anh Mùi muốn nhắc chuyện cũ đâu. Vả
lại, bây giờ chỉ con và Mẹ biết chuyện, Mẹ con mình đau lòng; nếu anh Mùi biết
nữa, chỉ thêm một người nữa đau lòng chứ có giải quyết được gì đâu, con!
- Nhưng con cũng có nhiều chuyện ấm ức, con muốn nói với anh Mùi.
Nhờ những lá thư ngày trước Tuất thường gửi tay từ trong Nam về cho Mẹ,
Mẹ hiểu tâm trạng của Tuất. Mẹ đáp:
- Con có thể nói với anh Mùi những chuyện ấm ức đó. Nhưng, Mẹ nghĩ,
con không cần phải nói với anh Mùi về lỗi lầm của con ở bên kia sông Thạch Hãn,
vào hôm ngưng chiến!
- Vâng. Con hiểu.
*
Trên chuyến xe lửa Thống Nhất, Mạnh và Tuất ngồi uống bia nơi toa hàng
ăn vào lúc xế trưa, vắng khách. Nhìn quanh không thấy ai khác, ngoài người ngồi
xa xa sau quày tính tiền, Tuất tiếp:
- Trong hàng ngũ bộ đội, biết bao nhiêu thằng như em, nhưng chỉ sợ
gia đình bị trả thù cho nên ít đứa dám ra hồi chánh; trừ những người miền Nam
tập kết, vì gia đình họ ở miền Nam, họ không sợ. Bởi thế, anh đừng tưởng ai ở
ngoài Bắc cũng đều là cộng sản cả đâu.
- Nếu anh nghĩ như thế, anh đã không về.
Ngưng một chốc, Mạnh tiếp:
- Dù sao thì họ cũng là kẻ chiến thắng.
-Thắng mẹ gì! Hồi đó nếu Mỹ cho B52 “rải thảm” thêm một trận nữa là
bọn chúng đầu hàng vô điều kiện, cũng giống như Nhật hồi thế chiến thứ hai rồi!
- Thế Tuất không hãnh diện được có mặt trong đoàn quân chiến thắng
à?
- Hãnh diện gì! Thời chiến, ngoại trừ con cháu bọn “chóp bu”, thằng
thanh niên miền Bắc nào khỏi vào bộ đội? Khi đã xung trận thì giết hoặc bị giết
chứ có ai muốn thế đâu, anh.
Mạnh cười cười, liếc chỗ xâm bốn chữ “sinh Bắc tử Nam” trên tay
Tuất. Hiểu Mạnh nghĩ gì, Tuất nhìn vào chỗ bị xâm rồi bưng chai bia, “tu” một
hơi, tiếp:
- Anh đã thấy những thằng bộ đội bị xích chân vào xe tăng/vào thân
cây/vào trọng pháo chưa? Đấy, vô nhân đạo thế ấy mà tụi bộ đội vẫn phải để cho
xích, huống gì xâm bốn chữ định mệnh này!
Mạnh bóp nhẹ tay Tuất. Tuất xoay ngược bàn tay, nắm tay Mạnh rất
lâu. Hai anh em đều yên lặng. Không phải đến bây giờ Tuất mới cảm nhận được
tình anh em ruột thịt nơi Mạnh; nhưng quả thật bây giờ Tuất mới cảm thấy nhẹ
nơi lồng ngực, vì Tuất đã nói ra được phần nào những điều ray rức trong lòng
chàng.
Tuất đứng lên, đến bên cửa sổ, nhìn mong ra vùng không gian bát
ngát. Cánh đồng xa xa lúa đã chín vàng. Từ lúc đó, trên chuyến tàu Thống-Nhất
theo Mạnh về Nam để cải táng hài cốt của Bố, lòng Tuất thanh thản như những áng
mây cuối trời./.
Điệp Mỹ Linh
https://www.diepmylinh.com/
No comments:
Post a Comment