Anh Nguyễn Tấn Bông và những đứa trẻ trên đỉnh mồ côi - Ảnh chụp năm 2007
Bà Võ Thị Ba, bảy mươi tuổi, tóc trắng như một bà Tiên; con trai bà, anh NguyễnTấn Bông, 42 tuổi, người gân guốc, đen sạm và mạnh khoẻ như anh tiều phu; mười một đứa trẻ, chín trai, hai gái, đứa lớn năm tuổi, đứa nhỏ nhất một tuổi, đứanào cũng trắng trẻo, khôi ngô như những thiên thần.
Đó là một gia đình sống trên đỉnh Mồ Côi hoang vắng, thuộc quần
thể Núi Cấm,giữa vùng núi Thất Sơn, An Giang. Người ta cho rằng đó là
một gia đình lạ, cómột không hai trên đất nước nầy, nếu không muốn nói
là có một không hai trênthế gian.
Dì Ba kể rằng, quê dì ở Bình
Thủy, Cần Thơ. Ngày xưa dì từng là chủ xe đò. Năm1980, có lần dì theo xe
đưa nghĩa vụ quân sự qua Thất Sơn, bỗng dưng dì mê núi.Từ đó, thỉnh
thoảng là dì "đi núi", không phải viếng chùa cúng miễu gì cả, dì không
theo đạo nào, nhưng trong nhà dì, đạo nào dì cũng thờ, thờ chung một bàn,
không sợ họ "nghịch" nhau.
Dì nói, tôi không học giáo lý của tôn
giáo nào cả, nhưng tôi thờ tất cả vì đạonào cuối cùng cũng là hướng
thiện, mà con người luôn cần có cái tâm. Trở lạichuyện đi núi, dì nói
không hiểu sau mỗi lần đi là không muốn quay về. Núi Cấmhồi ấy hùng vĩ,
mênh mông, hoang vu và cô tịch. Vậy mà dì cảm thấy mê.
Một hôm,
dì nói với các con: "Tao bán nhà lên lên Núi Cấm ở". AnhNguyễn Tấn Bông,
con trai út của dì lúc bấy giờ mới hai sáu tuổi, nói:"Nếu má đi thì con
đi theo má". Cuối năm 1991, dì bán căn nhà được balượng vàng, dẫn anh
Bông lên xe đò đi Núi Cấm. Anh Bông kể: "Đầu tiên khiđến đây, hai mẹ con
tôi mua một căn nhà nhỏ dưới chân núi để mở quán cà phê.Được một năm,
má tôi nói ở đây xe cộ ồn ào, những ngày lễ chùa, khách hànhhương đông
nghẹt. Bán quán thì cần khách, nhưng khách đông thì bà cảm thấy khóchịu.
Biết tính má tôi muốn sống yên tĩnh một mình, không thích gần ai nên
tôitìm đường lên đỉnh Mồ Côi mua đất. Gọi là mua nhưng thật ra hồi ấy,
ba mẫu đấtchỉ có hai chỉ vàng.
Từ chân núi lên tới đỉnh Mồ Côi,
hồi ấy không có đường xe, chỉ có con đường mòn len lỏi theo con suối
Thanh Long. Độ cao của Núi Cấm chỉ trên dưới bảy trăm métnhưng đường lên
đỉnh quanh co gần mười cây số, lên xuống nhiều con dốc, lởmchởm đất đá,
đầy nguy hiểm, nhọc nhằn. Cách một hai cây số mới có một ngôi nhà.Rừng
núi hoang vu buồn đứt ruột.Vậy mà má tôi kiên quyết ở đây".
Hỏi,
lúc mới lên sống bằng gì ? Anh Bông nói, cái may mắn của anh là, từ
chiếntrường Campuchia vừa xuất ngũ trở về, đôi chân và cả phần tâm linh
còn quen vớinúi rừng bên ấy. Ban đầu, anh đi gánh mướn các loại đồ rẫy
cho những gia đìnhtrên núi. Nào su, nào chuối, nào xoài, nào mít, nào
măng . . ., mỗi gánh bảymươi ký, mỗi ký hai trăm đồng, mỗi ngày anh gánh
hai chuyến từ đỉnh xuống chânnúi, có khi chuyến lên gánh thêm gạo, cát,
đá, xi măng, gạch ngói. Bông vừagánh thuê, vừa học nghề làm rẫy. Mấy
năm sau, ba mẫu đất của anh đã thành mộtkhu vườn. Từ đó Bông không còn
đi gánh hàng thuê nữa mà gánh thành quả củachính mình. Cứ ba ngày đi một
chuyến, mỗi chuyến kiếm ba bốn trăm ngàn. Thấyanh làm giỏi, chi cục
kiểm lâm giao cho anh quản lý thêm 12 mẫu, cấp giấy chứngnhận quyền sử
dụng đất năm mươi năm.
Mười năm sau kể từ ngày lên Núi Cấm,
"chàng tiều phu" Nguyễn Tấn Bôngđã tích lũy được vài chục cây vàng. Dì
Ba giục anh đi cưới vợ. Tuổi đã sắp bốnmươi rồi. Bông cũng từng ước mơ
trong căn nhà có thêm người phụ nữ, có tiếngcười tiếng khóc của trẻ thơ.
Nhiều lúc trong chiêm bao, Bông thấy thấp thoángmột người vợ trẻ, tay
ẳm con đứng chờ anh sau mỗi chuyến đi rừng. Nhưng ngườiphụ nữ ấy là ai ?
Mười năm sống ở đây, Bông chưa hề quen được một người bạngái.
Thế
rồi bỗng dưng năm năm qua, ông trời cho Bông liên tục mười hai đứa
con,mười trai hai gái, thành một bầy trẻ trong nhà. Câu chuyện như một
huyền thoạilan truyền khắp rừng núi Thất Sơn. Và, qua mỗi ngọn núi, nó
được thêu dệt thêmđôi chút.
Khi chúng tôi lần mò lên tận đỉnh Mồ
Côi, chứng kiến tận mắt, nghe kể tận taimới biết rõ ngọn nguồn sự thật.
Năm 2002, dì Ba với anh Bông về Cần Thơ thămđứa cháu gái trong bệnh viện
đa khoa. Tình cờ, dì nghe được câu chuyện kháthương tâm: có một thai
phụ nghèo không có tiền nhập viện, chị ôm bụng ngồikhóc quằn quại trên
ghế đá trước sân khoa sản. Anh Bông đưa dì Ba vào thăm, chotiền và làm
thủ tục cho chị ta nhập viện với tấm lòng thành, giúp người vượtcạn
trong cảnh nghèo khó neo đơn. Sau khi thằng bé ra đời, người sản phụ
kiaquỳ lạy tạ ơn và nói ra sự thật: "Cháu ở trong quê, chồng chết, nhà
nghèophải đi làm phụ hồ để nuôi một đứa con. Nhưng vì nhẹ dạ nên cháu bị
tay thợ hồlường gạt. Giờ nếu ẳm con về thì không biết lấy gì nuôi . .
.". "Đâylà năm chỉ vàng, đây là tám trăm ngàn, tôi giúp cô làm vốn mua
bán kiếm sống.Còn thằng bé, tôi mang nó về đỉnh Mồ Côi trên Núi Cấm. Sau
nầy nếu cô muốn nhậncon thì cứ lên đó, tôi giao lại. Điện thoại của tôi
là 0986544323".
Trước khi ẵm thằng bé ra về, dì Ba để lại số
điện thoại cho các bác sĩ và hộ lýcủa khoa sản cùng với lời căn dặn: "Từ
nay về sau, nếu có trường hợp tươngtự như vậy, các cô gọi điện cho mẹ
con tôi. Trước hết là mình giúp người ta mẹtròn con vuông, sau đó, nếu
người ta vì lý do gì mà không nuôi được thì mình đem về nuôi giúp".
Câu
chuyện bắt đầu là như vậy. Mỗi lần nghe điện thoại từ bệnh viện đa
khoa,anh Bông, dù đang cuốc đất trồng khoai giữa rừng sâu cũng bỏ việc
chạy về. Gọiđứa cháu qua giữ nhà, hai mẹ con lăn xăn xuống núi. Từ chân
núi đi xe lôi quathị trấn Tịnh Biên, từ Tịnh Biên đi xe đò lên Long
Xuyên, rồi từ Long Xuyên lạiđi xe đò qua Cần Thơ, một cuộc hành trình
không đơn giản để làm một công việcđộc nhất vô nhị trên đời. Cứ thế, sau
mỗi cú điện thoại: "Em ở khoa sản, bệnhviện đa khoa cần Thơ. . ." là
trong nhà anh Bông thêm một tiếng khóc trẻ sơ sinh. Anh Bông vừa cười vừa
nói: "Trời khiến thế nào mấy ông ạ, năm2005, tôi ẵm về năm đứa, mà năm
ấy má tôi lại bệnh. Ôi trời đất ôi, khuấy sữa,thay tã, tắm rửa, ca hát
suốt ngày. Lại phải lên rừng hái măng, hai su gánhxuống núi, rồi mua tã
giấy, mua sữa gánh lên. Nhưng vậy mà vui, đứa nào đứa nấybụ bẫm ngon
lành, không bệnh hoạn gì hết."
Anh Bông kéo đám trẻ vào lòng, vừa
xoa đầu, vừa kể về hoàn cảnh ra đời của từngđứa một: "Đây là thằng
Nguyễn Sơn Giàu, đứa đầu tiên con của chị phụ hồđây, nó đẻ bọc điều đó,
thằng nầy không thành tỷ phú thì cũng làm quan. Còn đây là thằng Nguyễn
Sơn Thanh, đẻ được hai ngày thì mắc bệnh phổi. Tôi với má tôilên giúp
một triệu đồng, nhưng không ngờ mẹ nó cầm một triệu đồng rồi bỏ
trốn.Thằng nhỏ mới hai ngày tuổi mà phải thở oxy, ngậm ống sữa và truyền
nước biển.Tôi với má tôi phải ở lại bệnh viện nuôi nó hai mươi ngày.
Khi ẵm nó về, bác sĩdặn mỗi tháng phải lên tái khám. Nhưng năm năm nay
có tái khám lần nào đâu, mànó cứ sân sẩn. Còn đây là thằng Nguyễn Sơn
Hà, mẹ nó là một cô gái nghèo đi mótlúa ở Vị Thanh, phải lòng một thằng
chăn vịt, mang thai lúc mới mười bảy tuổi,sợ bị phát hiện nên dùng dây
thun nịt bụng rồi trốn sang ở nhà bà ngoại. Khichúng tôi đến bệnh viện
thì nghe nói nó bị đứt tim thai, phải mổ bỏ con để cứumẹ. Nhưng không
ngờ nó được cứu sống. Nó sống, nhưng mẹ nó không dám mang nó về nhà
Mười hai đứa trẻ trong căn nhà nầy là mười hai câu chuyện khác
nhau, nhưng đều giống nhau ở chổ, chúng là sản phẩm của những cuộc tình
vụng trộm từ trong nhà trọ đến màn trời chiếu đất ngoài đồng. Anh Bông kết
thúc câu chuyện thứ mười hai bằng một nỗi buồn: "Nó là Nguyễn Sơn Thành,
đang nằm trên núi. Khi tôivới má tôi đến thì mẹ nó đã bỏ đi, nó nằm
trong phòng cấp cứu suốt hai mươingày với chứng bệnh não úng thủy, một
chứng bệnh ngặt nghèo. Tôi với má tôi rấtđắn đo, cuối cùng thì không thể
quay lưng trước một hài nhi vô tội. Nhưng suốtba tháng, thằng bé cứ
khóc ngày khóc đêm, đầu to dần, mắt đờ đẩn. Tôi ẵm nó trởlại bệnh viện,
nơi nó cất tiếng khóc chào đời, bác sĩ nói ở đây không có khảnăng điều
trị, tôi đưa nó lên bênh viện nhi đồng II, người ta nói phải phẫuthuật
để đặt ống dẫn, sẽ rất tốn tiền nhưng không khả thi. Và đúng là như
vậy, tôi đã bán miếng đất lấy mấy chục triệu đồng để mong nó sống, nhưng
hơn hai năm sau thì nó đã ra đi".
Qua câu chuyện buồn ấy, Bông lại
ôm mấy đứa nhỏ vào lòng: "Tôi còn mườimột đứa, chín trai, hai gái.
Nhưng năm rồi, nhỏ em ở Cần Thơ lên chơi, thấy bé Cẩm Như đẹp quá, nó nói
cho mượn về chơi mấy tháng, nói vậy rồi nó giựt luôn không trả, giờ con
nhỏ đang học mẫu giáo ở dưới, lâu lâu gọi điện lên than nhớcha, nhớ nội
nhưng cô Út không cho về". Sau mỗi câu nói như vậy là một tràng cười,
tiếng cười nắc nẻ, hồn nhiên. Tôi hỏi anh định bao giờ cưới vợ, Bông lại
cười: "Một bầy con như thế nầy, ai dám ưng tôi mới nể. Nói thìnói vậy
thôi, chớ tôi biết chắc, giả dụ người ta có ưng mình đi chăng nữa thìlàm
sao người ta có thể thương con mình như mình được. Tụi nó đã khổ từ
trong bào thai rồi, tôi không muốn tụi nó phải khổ vì mẹ ghẻ".
Hỏi
anh có định nuôi thêm nữa không, Bông trầm ngâm: "Má tôi năm nay
bệnhnhiều quá, sắp gần đất xa trời rồi. Tôi muốn dành thời gian cho má".
Hỏi,chuyện học hành của mấy đứa nhỏ, anh tính sao. Bông lại trầm ngâm:
"Thằng Sơn Ngọc năm nay lẽ ra phải lên lớp lá, thằng Sơn Thanh phải là
lớp chồi, thằngSơn Giàu phải là lớp mầm. Nhưng đây là đỉnh núi. Hồi ẵm
chúng nó lên đây, mìnhcứ nghĩ cứu sống một hài nhi, không để chúng nó
lăn lóc ở vỉa hè hay đầu đường xó chợ. Nhưng bây giờ, nhìn mặt mày đứa
nào đứa nấy sáng sủa, khôi ngô, những ánh mắt cứ như luôn nói với mình
rằng, cha đừng để cho con dốt. Tôi đã tâm nguyện phải cho chúng nó học
tới cùng. Tiền bạc thì tôi không lo, trước mắt,nguồn lợi từ mười lăm mẫu
đất cũng đủ để trang trải, sau nầy, khi chúng nó học lên cao thì mình
bán đất. Nhưng, cái khó là chỗ ở. Thằng Sơn Ngọc năm tới sẽ tạm thời gởi
cho nhỏ em ở Cần Thơ. Nhưng không thể gởi hết cả mười đứa. Còn mua nhà ở
dưới đó thì ai chăm sóc, mà tôi đi thì ai ở đây lo vườn tược, cây
trái cho mình. Càng nghĩ càng thấy
rối .."
Thưa bạn đọc !
Câu
chuyện cổ tích trên đỉnh Mồ Côi xin tạm dừng ở đây, bởi người kể
chuyện chưa trả lời được câu hỏi sau cùng rằng: Khi bà Tiên qua đời, anh
tiều phu cólo cho những thiên thần bé nhỏ ấy học hành đỗ đạt hay không.
Những câu chuyện cổ tích bao giờ cũng đi đến một kết thúc có hậu. Nhưng
dân gian thường hay lý giải sự bế tắt bằng những phép màu. Và tôi hy vọng
trong câu chuyện nầy, sẽ cómột phép màu nào đó đến với anh Bông. Phép
màu ấy chính là cái tâm, lòng nhân ái đang ẩn chứa đâu đây, trên cõi đời
nầy.
Võ Đắc Danh
Mời xem tiếp phần cuối
No comments:
Post a Comment