Người Phương Nam
Pages
- Trang Chủ
- About Me
- Truyện Ngắn
- Sưu Tầm
- Sưu Tầm from 2020
- Góp Nhặt Bên Đường
- Nhạc Chọn Lọc
- Sưu Tầm Sức Khỏe
- NPN's Recipes
- Kịch Vui
- Cười Ý Nhị
- PPS + YouTube Chọn Lọc
- Những Hình Ảnh Ý Nghĩa
- Thơ
- Thơ from 2020
- Bùi Phương Lưu Niệm
- Trang Anh Ngữ
- Truyện Dài : Về Phương Trời Cũ
- Truyện Dài : Ngày Tháng Buồn Hiu
Thursday, May 26, 2022
Vụ Cướp Máy Bay Bí Ẩn Nhất Lịch Sử: Không Tìm Được Sự Thật Trong Suốt 50 Năm Qua
Một bản vẽ chân dung về D.B.Cooper của FBI vào năm
1972. (Ảnh: Wikipedia)
Tên cướp không giống một tên cướp, hắn ăn mặc âu phục
chỉnh tề như một người có học thức. Sau khi thực hiện phi vụ đánh cắp máy bay,
hắn đã biến mất không dấu vết…
Đây là vụ cướp máy bay “thành công” đầu tiên trên thế
giới. Vụ án này còn được coi là “vụ cướp máy bay kỳ lạ nhất”, bởi vì tên cướp
đã nhảy khỏi máy bay từ độ cao 3000 mét xuống dưới và biến mất một cách bí ẩn
sau khi lấy được 200.000 đô la tiền chuộc. Trong suốt 50 năm sau đó, chưa từng
có ai gặp lại tên cướp này, còn 200.000 đô la tiền chuộc đã được chụp ảnh lại
trước khi trao cho hắn để truy tìm dấu vết sau đó, nhưng số tiền này cũng chưa
từng được sử dụng trên thị trường.
Theo tài liệu ghi chép, vụ án cướp máy bay này xảy ra
vào 50 năm trước, tên cướp có tên là D.B.Cooper. Vụ cướp này được mọi người nhận
định rằng còn ly kỳ, hồi hộp hơn cả phim điện ảnh.
Vào thứ tư ngày 24/11/1971, D.B.Cooper đã lên chuyến
bay có số hiệu 305 đi từ Portland thuộc tiểu bang Oregon (Mỹ) đến Seattle thuộc
bang Washington của hãng Hàng không Northwest Airlines. Khi đó, hắn ngồi ở ghế
số 18C.
Theo lời tiếp viên hàng không kể lại sau vụ việc, tên
cướp này không hề giống những tên cướp hung dữ như trong các bộ phim, mà ngược
lại, D.B.Cooper ăn mặc rất chỉnh tề, nói chuyện lịch sự, giống hệt như một quý
ông lịch lãm, có học thức.
Vào khoảng 3 giờ chiều, hắn muốn uống một ly rượu, khi
tiếp viên hàng không Florence bước đến chỗ hắn, D.B.Cooper đã đưa một tờ giấy
chuẩn bị sẵn cho cô.
Cô Florence nghĩ rằng D.B.Cooper cũng thích cô giống
như một số hành khách khác, muốn hẹn hò với cô nên cô không để ý cho lắm, liền
tiện tay nhét tờ giấy vào túi. Hắn thấy thế thì rướn người thì thầm vào tai cô:
“Cô gái, tốt nhất là cô hãy đọc tờ giấy đi, trên người tôi có bom đấy”.
Cô Florence căng thẳng vội vàng bước nhanh về phía
phòng bếp, cô mở tờ giấy ra đọc: “Trong túi xách của tôi có bom, máy bay đã bị
tôi khống chế rồi”. Cô Florence sợ hãi lập tức thông báo với phi công trưởng, mọi
người quyết định trước tiên sẽ tìm hiểu xem có thật hay không.
Họ để cô Florence quay lại chỗ D.B.Cooper nhằm tận mắt
nhìn thấy bom mà hắn mang theo người, hắn cũng rất lịch sự mở túi xách ra, quả
nhiên là bên trong có một quả bom đủ để làm nổ tung cả máy bay. (Xin được giải
thích rõ rằng vào 48 năm trước, an ninh phi trường vẫn còn rất lỏng lẻo. Khi đó
mọi người không hề có khái niệm “cướp máy bay” là gì cả.)
Tuy là cướp máy bay, nhưng cả quá trình D.B.Cooper đều
tỏ ra hết sức lịch sự. Hắn nói với tiếp viên hàng không rằng: “Tôi cần 200.000
đô la tiền mặt, không được có bất cứ dấu hiệu hay số seri nào trên đó, sau đó để
vào trong ba lô. Hãy chuẩn bị cho tôi 2 chiếc dù, ngoài ra hãy thông báo với
nhân viên mặt đất chuẩn bị xe tiếp xăng, sau khi máy bay hạ cánh lập tức bơm
xăng. Hãy làm theo những gì tôi nói, nếu không tôi sẽ cho nổ bom.”
Phi hành đoàn của chuyến bay này lập tức báo cảnh sát,
sau đó cảnh sát đã phái một lực lượng đến phong tỏa sân bay, FBI cũng đã chuẩn
bị sẵn sàng. Vì xem xét đến sự an toàn về những con tin trên máy bay, cảnh sát
đã đồng ý đưa cho D.B.Cooper 200.000 đô la tiền chuộc.
FBI đã kịp chụp lại từng tờ tiền trong số 200.000 đô
la không có số sê ri bằng tốc độ nhanh nhất trước khi máy bay hạ cánh nhằm dễ
truy tìm khi tiền được sử dụng.
Thả toàn bộ hành khách sau khi nhận được tiền, chỉ giữ
lại 4 tiếp viên hàng không để làm con tin.
Vào lúc 5 giờ 39 phút chiều, chuyến bay mang số hiệu
305 đã hạ cánh an toàn tại sân bay Seattle, cảnh sát đưa cho tiếp viên hàng
không 200.000 đô la đã chuẩn bị sẵn để mang lên máy bay, D.B.Cooper cũng giữ lời
hứa của mình khi thả toàn bộ hành khách, chỉ giữ lại 4 người trong nhóm bay.
Sau khi đổ đầy xăng, máy bay lại một lần nữa cất cánh bay về phía Mexico theo
chỉ thị của D.B.Cooper.
Dường như hắn không phải là một tên cướp máy bay bình
thường, hắn chẳng những nắm rõ địa hình quanh sân bay Seattle như lòng bàn tay,
mà còn rất rành các cách điều khiển máy bay, hắn cảnh cáo phi công trưởng rằng
máy bay phải bay ở độ cao 3000 mét với tốc độ 278 km/h.
Sở dĩ D.B.Cooper yêu cầu như vậy là có nguyên do, bởi
vì hắn muốn nhảy dù từ độ cao 3000 mét mang theo 200.000 đô la tiền mặt trong
ba lô. Hành động ‘điên rồ’ này tuyệt đối không có kẻ thứ hai dám thực hiện, có
lẽ chỉ có trong phim ảnh mà thôi. Thế nhưng D.B.Cooper đã thực hiện điều đó.
Tên cướp máy bay nhảy dù từ độ cao 3000 mét và biến mất
bí ẩn kể từ đó. Có thể nói rằng kế hoạch cướp máy bay của D.B.Cooper vô cùng
thành công, mỗi một bước đều được thực hiện theo tính toán của hắn, không hề có
một chút sai sót nào, cuối cùng địa điểm nhảy dù hẳn cũng đã được hắn tính trước.
Vào lúc 8 giờ 46 phút tối ngày hôm đó, D.B.Cooper ra lệnh mở cửa ở đuôi máy
bay, hắn đeo 200.000 đô la trong ba lô rồi nhảy từ độ cao 3000 mét và lập tức
biến mất trong màn đêm. Ngay sau đó, FBI đã bắt đầu triển khai truy nã, trong
vòng 50 năm qua, họ đã điều tra hơn 1000 kẻ tình nghi, nhưng cho đến nay,
D.B.Cooper vẫn bặt vô âm tín, “sống không thấy người, chết không thấy xác”. Quá
trình điều tra còn phát giác ra rằng ngay cả cái tên “D.B.Cooper” cũng là giả.
Vậy thì tên thật của hắn là gì? Hắn đến từ đâu? Cho đến nay cảnh sát vẫn chưa
tìm được bất cứ manh mối nào, hắn cứ như một người bí ẩn đột nhiên xuất hiện rồi
sau đó lại đột nhiên biến mất, vô cùng hư ảo.
Có rất nhiều người thắc mắc rằng chẳng phải FBI đã chụp
lại những tờ tiền mặt đó sao? Chẳng lẽ D.B.Cooper lấy 200.000 đô la rồi không
dùng một xu nào ư? Chỉ cần hắn tiêu tiền, ắt hẳn sẽ tìm ra được tung tích từ 1
trong số 10.000 tờ tiền mặt đó. Ban đầu FBI cũng nghĩ thế, họ nhanh chóng đăng
thông báo, công bố số thứ tự in trên những tờ tiền mặt đó và sẽ thưởng 1000 đô
la cho bất cứ ai nhận được 1 trong số những tờ tiền bị cướp. Vào thời điểm đó,
1000 đô la là số tiền thưởng vô cùng lớn. Đáng tiếc là đã hơn mấy mươi năm mà
chưa từng có ai phát hiện số tiền bị cướp xuất hiện trên thị trường, dường như
D.B.Cooper chưa bao giờ tiêu số tiền này – đây cũng là một trong những điều khiến
người ta cảm thấy rất khó hiểu về vụ án này.
Vụ cướp máy bay duy nhất trong lịch sử chưa tìm ra sự
thật.
Cho đến 9 năm sau vào năm 1980, một cậu bé 8 tuổi đã
đào được 290 tờ tiền mặt 20 đô la bên bờ sông Colombia, số trên những tờ tiền
này cho thấy chúng là một phần nhỏ trong 200.000 đô la bị D.B.Cooper cướp đi.
Thế nhưng đa phần số tiền mặt này đều đã bị đốt nên không còn nguyên vẹn.
Các chuyên gia FBI cho rằng, sau khi nhảy dù vào đêm
hôm đó, có thể vì trời quá lạnh nên D.B.Cooper đã lấy một phần tiền đốt lên để
sưởi ấm… Từ đó có thể đoán được rằng sau khi nhảy dù khỏi máy bay, rất có khả
năng D.B.Cooper không chết. Thế nhưng kể từ đó về sau, không còn bất cứ tờ tiền
mặt nào khác xuất hiện nữa. Cho đến ngày nay, người ta vẫn có thể tìm được số
thứ tự in trên những tờ tiền mặt này trên các trang web có liên quan.
Vào ngày 8/7/2016, FBI mới tuyên bố ngừng cuộc điều
tra về vụ cướp máy bay này để dành nhiều sức lực và tiền bạc vào việc điều tra
những vụ án cấp bách hơn.
Đến nay có rất nhiều người cho rằng có thể D.B.Cooper
vẫn còn sống, có lẽ hắn đang sống một cách bình lặng trên một hòn đảo nhiệt đới
nào đó. Tính đến nay, D.B.Cooper cũng đã trở thành tên tội phạm cướp máy bay
duy nhất trên thế giới chưa bị đưa ra công lý và kết án.
Thơ Vui: Ôi Tuổi Già! - Khuyết Danh
Wednesday, May 25, 2022
Những Điều Để Tâm Hồn Hạnh Phúc, Thăng Hoa ... - Như Nhiên Thích Tánh Tuệ
1. Giữ cho tâm tình đơn giản
Một Câu Chuyện Đau Lòng
- Con mua sữa
cho cháu uống chứ có phải cho bà uống đâu, hóa ra cứ nói là mua cho con không
ngờ toàn bà nội uống sữa của cháu.
-- Không phải thế đâu con! Nó vứt đi rồi mẹ lắc thấy còn tiếc
hút lại thôi.
- Bà bị bắt
tận tay mà còn chối, không biết con tôi ở nhà có được bà cho ăn uống hay không
nữa.
Nước mắt bà trào ra, mà người con trai một mực không tin. Bà thề bà mà như thế với cháu thì bà chết không nhắm được mắt.
Thằng con
trai được đà chửi bà: "Bây giờ bà muốn gì? Sao bà không chết đi cho nhẹ nợ.
Nuôi con đã khó khăn rồi, giờ
còn sữa cho bà thì lấy đâu ra. Cứ bảo sao tốn tiền sữa, hôm nay mới biết vì sao".
Bà khóc rất nhiều, bế
cháu đi chơi hàng xóm cũng bị người ta dè bỉu bà nội uống hết sữa của cháu. Bà
nói với thằng con trai tao nhục không biết giấu mặt vào đâu, bây giờ tao chỉ muốn chết thôi.
- Bà chết
đi, để tôi chở bà đi chết .
Bao nhiêu
cơn uất hận dồn lên,
bà bảo:
-- Mày chở tao ra sông lớn, tao nhảy cầu tự tử cho mày hài lòng.
Tưởng rằng thằng con trai biết ăn năn hối lỗi ai dè nó chở xe
máy bà đi thật. Nó
chở bà qua mấy cầu nhỏ bà không muốn nhảy, nó rồ ga chạy xe đến cầu lớn rồi
thách thức:
- Bà ngon
thì nhảy đi tôi xem.
Nước mắt bà
nghẹn ngào:
-- Mẹ muốn chết được ở bên bố con, con chở mẹ về lấy ảnh bố
được không?
- Bà ở đấy
đi tôi về lấy được rồi!
Thằng con quay đầu xe với nét mặt hầm hầm vun vút lao đi. Bà ngồi trên cầu xót xa cho cuộc đời
mình. Nuôi con một mình, miếng ngọt, miếng bùi nhường hết cho con. Bao năm
tháng bà mò cua bắt ốc,
rồi làm ruộng vất vả để con
được no đủ. Bà không nghĩ đến một ngày bà chết một cách ê chề tủi nhục như vậy.
Nhưng sống còn ý nghĩa gì khi con nó đối xử như vậy với mình. Hơn thế nữa, giờ
mình già rồi không làm gì được cho con cháu, sau này ốm đau nằm đó còn khổ hơn....Cứ miên man suy nghĩ
rồi trời xầm tối dần .
Đã 5 tiếng
trôi qua mà không thấy thằng con mang di ảnh của chồng tới. Bà thấy trong lòng
bồn chồn bà quyết định trở về nhà .
Bà về đến cổng
đã thấy mọi người kéo đến nhà bà rất đông. Thằng con bà phóng xe không để ý đường, đã tông vào xe khác văng ra và đập đầu
xuống đất chết vì dập não.
Bà không giận
nổi con nữa mà trào lên một nỗi xót thương vô bờ. Bà ôm lấy xác con gào khóc,
"cũng tại mẹ đã hút hộp sữa thừa của cháu mà ra nông nỗi này..."
Bà đã ở lại
trông cháu chứ không có ý định tự tử nữa .
Câu chuyện đáng để chúng ta suy ngẫm về đạo làm con. Mẹ luôn là
người hy sinh tất cả cho con cháu. Luật nhân quả xảy ra nhãn tiền, không phải đợi đến
thế giới bên kia.
Sưu tầm
Vượt Ngục - Duy Xuyên
Bà ra đi ở tuổi 81,
các con ở xa nên Ông bơ vơ khi đang độ tuổi 80. Một mình giữa ruộng vườn mênh
mông và căn nhà trống hoác.
Một mình Ông với niêu
cơm, năm thì mười hoạ có cháu ghé qua, thăm nom nói vài ba câu chuyện. Rồi mọi
thứ trở về với sự tĩnh lặng đến u ám.
Ngày giỗ đầu Bà, con
cháu kéo về đông đủ, thấy bóng Ông tiều tụy, niêu cơm chỏng trơ
trên chiếc bàn cũ với chén mắm, vài quả cà. Mùi ẩm mốc khắρ căn nhà. Chẳng còn
những ấm cúng như khi còn Bà.
Mọi thứ lại trở về
tĩnh lặng ngay sau bữa giỗ, cháu con trở về nơi chúng sinh sống, Ông lại một
mình một bóng.
Sân, ngõ đã chớm mọc
rêu. Cỏ ngoài vườn mọc cao ngang thắt lưng, mọc lan cả tới chái nhà.
Bỗng một ngày thấy Ông
gọi người tới bán hết vườn cây cảnh mà Ông đã bỏ công
chăm chút hàng chục năm ròng. Một bữa Ông gọi đứa cháu họ tới, giao chìa khoá
nhà nhờ trông nom giúp. Ông lên ở với cậu con trai trên Hà Nội, Vâng, Ông lên
đó có con cháu trông nom, sớm ngày vui vầy chứ ở một mình cô quạnh thế cũng
đáng lo ngại lắm – người cháu thầm nghĩ như mừng cho Ông.
Những ngày đầu thật
vui như hội, những bữa liên hoan, các con cháu biết Ông lên HN chạy tới thăm
hỏi liên tục, rồi quà cáp, quần áo… đủ thứ, Ông vui ra mặt.
Ít bữa sau Ông ở nhà
một mình, các con cháu đi làm và đi học cả. Ông được giao một mớ chìa khoá với
những lời dặn dò kĩ lưỡng, nào là phải khoá cửa khoá cổng cẩn thận, nào là
không được mở cửa cho người lạ vì toàn phường lừa đảo thôi, không thật thà như
người quê đâu, rồi thì là Ông đừng một mình ra
đường, ơn đây xe cộ như điên nó xô vào thì khổ con khổ cháu…… Ông nghe ù hết cả
tai.
Chúng nó đi từ sáng
sớm đến tối mịt mới thấy về, cơm trưa cắm sẵn với thức ăn trong tủ lạnh Ông
muốn ăn gì thì nấu. Tối chúng về thì ồn ào tắm rửa, vội vã bữa cơm… chẳng kịp
hỏi Ông vài câu chiếu lệ.
Quanh quẩn trong căn
nhà vài chục m2 bốn bề khoá kín, muốn bước chân ra phố thì qua 2 lần khoá cửa,
2 cái khoá cổng mà với con mắt kèm nhèm thì chẳng thể nào luồn tay qua khe cổng
mà mở hay khoá được. Thành ra Ông chịu chôn chân trong căn nhà chật hẹp với bốn
bức tường, kín mít.
Căn nhà nhỏ nhưng ngăn
nắp, mọi thứ sạch sẽ chứ chẳng giống ở quê, cái xoong nồi cũng chẳng bám bụi,
bỗng Ông thấy cái chảo đen sì treo trên móc, thôi thì rảnh việc đem cái bùi
nhùi chùi nồi ra đánh cho sạch. Hì hục cả buổi cũng làm cho cái
chảo chống dính sáng bóng. Gớm đau sụn cả lưng nhưng Ông cũng nghĩ làm được
chút việc giúp con. Khi con về Ông mang cái chảo ra khoe chiến tích thì người con trai mặt như méo đi, dấu vội cái chảo vào góc chắc sợ vợ
nhìn thấy. Ôi cái chảo chống dính, giờ sáng bóng chỉ để rang cơm được thôi. Có
lần chẳng may hết nước uống, Ông thấy cái ấm điện liền đặt lên bếp ga nhưng
loay hoay không thể bật được bếp đành phải nhịn khát đến tối. Cô con dâu về
thấy ấm điện đặt trên bếp ga thì la lối um sùm, mãi Ông mới run run nhận là đã
làm việc đó. Cô con dâu mừng ra mặt vì đã khoá ga chứ không thì toi cái ấm
điện.
Một bữa cậu con út ghé
thăm, Ông dặn cậu tháng tới cho Ông về làm giỗ Bố. Gớm có cái giỗ mà Ông làm
quan trọng quá, già cả đi lại khó khăn ….
– đợt này bận quá
không biết có về được không, thôi Bố cứ ở lại con làm mâm cơm cúng Ông, ở
nhà đã có các Chú cúng cũng được – người Anh đỡ lời.
Ông im lặng một lát
rồi cả quyết: Không được, Tôi phải về cúng Bố Tôi, các anh muốn cúng giỗ ở đâu
tùy các anh. Các anh không đưa về thì mai tôi đi bộ về một mình!
Cha cha, gay to. Ai mà
dám để Ông đi bộ về chứ !
Ông về giỗ mà thấy Ông
vui cứ như là tết. Mấy cô cháu gái thấy Ông có vẻ gầy xanh hơn trước nhưng vẫn
xã giao khen Ông béo trắng cả ra, cơm nước Hà Nội khác hẳn cơm quê Ông nhỉ !
Ông im lặng cười trừ.
Xong giỗ cũng không
thấy Ông đi, còn bắt con cháu mua sắm xoong nồi, vật dụng….
Mấy Ông xóm giềng sang
thăm chơi, chuyện trò rôm rả. Ông bạn nối khố thì trầm ngâm bảo rằng Ông lên
với con thì vui vì có con có cháu hầu hạ nhưng chúng tôi thì buồn vì vắng Ông,
nhiều lúc nhìn căn nhà trống hoác mà nhớ quá!
Bỗng Ông bảo: thì khi
nó về đón Tôi lên, cũng nghĩ thế. Nhưng…. Chuyến này tôi ở nhà với các ông đây.
Mọi người ngạc nhiên, hỏi dồn. Ông chậm rãi bảo: ở nhà tự do muốn ăn
muốn chơi tùy mình, lên với chúng nó khác đéo gì đi tù, ra chúng nó khoá, về
chúng nó khoá, muốn đi đâu chẳng được, muốn làm gì chẳng xong. Mà mình có tội
gì đâu?
Mấy cụ già ngớ ra một
lúc, rồi chợt hiểu. Thì ra việc giỗ chỉ là cái cớ, cứ như là Ông vượt ngục trở
về vậy.
– May mà tôi chưa bán
nhà nên còn có chỗ mà về.
Ông cười khà khà.
Duy Xuyên
Tuesday, May 24, 2022
Hai Người Con
Một truyền thuyết xứ Nghìn Lẻ Một Đêm ( truyện cổ
Ả Rập, Ba Tư và Ấn Độ, viết bằng tiếng Ả Rập) kể lại rằng một người đàn ông
đang sống hạnh phúc bên người vợ thật tuyệt và hai con trai yêu dấu. Một hôm
ông phải đi công việc xa trong nhiều ngày, và trong thời gian đó hai con bị tai
nạn và không may đã qua đời. Người mẹ cảm thấy lòng trĩu nặng vì khổ đau.
Tuy nhiên, đó là một người đàn bà thật khôn ngoan và nhiều nghị lực,
với một niềm tin mãnh liệt vào Thượng Đế, nên đã chịu đựng tai họa một cách
dũng cảm.
Nhưng rồi bà lại có mối âu lo khôn cùng: Làm thế nào để cho chồng
bà biết về hung tin này đây? Ông ấy rất yếu mềm về tình cảm và bà lo sợ rằng
ông không chịu đựng nổi sự kinh hoàng của điều không may. Thế là bà đến bên Thượng
Đế và cầu xin Ngài hãy giúp bà có thể tìm được phương cách giải quyết nỗi đau
thương này.
Thời gian trôi qua và người chồng nay đã trở về. Ông đến hôn vợ và
hỏi về tin tức của hai con trai. Bà trả lời rằng lát nữa sẽ nói chuyện trong bữa
ăn tối, nhưng ông phải đi tắm trước cho khoẻ.
Sau khi ông tắm xong, bà vừa ăn vừa hỏi chuyến đi như thế nào.
Nhưng ông không trả lời mà vẫn hỏi về hai con. Người vợ cảm thấy thật bối rối
và nói với ông:
- Để rồi ta sẽ nói chuyện về các con sau nhe. Em muốn nhờ anh giải
quyết một vấn đề mà theo em nghĩ rất quan trọng trước đã.
- Vậy thì nói đi em, chúng ta sẽ cùng nhau giải quyết việc đó, người
đàn ông trả lời một cách rất hiền hòa.
-Trong khi anh vắng nhà, có một người bạn đã đến thăm chúng ta và
để lại hai món nữ trang hoàn toàn vô giá để chúng ta canh giữ, nhưng anh biết
không hai món ấy thật tuyệt đẹp nên em quá yêu thích và không muốn trả lại cho
người ấy tí nào cả, anh nghĩ sao?
Người chồng trả lời: - Anh không hiểu bây giờ sao em thật kỳ
lạ. Em chưa bao giờ ham muốn những vật trang sức xa xỉ ấy, và cho dù em có yêu
thích như vậy đi nữa, món nữ trang ấy không phải của em và em phải mang trả cho
người ta.
- Nhưng em không có ý định mất chúng đâu anh ạ, người vợ trả lời
Người chồng nói với bà: - Ta không thể đánh mất những gì ta
chưa bao giờ sở hữu. Em sẽ mang trả những món trang sức ấy, và cả anh và em ta
sẽ cùng đi trả cho họ, ngay hôm nay.
Người vợ trả lời ông:
- Phu quân yêu quý ạ, vậy ta sẽ làm như anh muốn , Hai món nữ
trang thật tuyệt vời sẽ được giao trả lại cho người đã mang đến gửi cho ta giữ..
Nhưng thật ra việc đó đã được thực hiện rồi anh, vì hai món trang sức vô giá ấy
là hai con trai rất yêu dấu của chúng ta, và Thượng Đế đã triệu hồi chúng về với
Ngài rồi, anh ạ.
Người đàn ông hiền lành đã hiểu ra điều vợ mình muốn bày tỏ, ông
ôm chặt lấy bà, và rồi cả hai người để cho nước mắt tuôn trào, không còn thất vọng
đau buồn oán than...
Khuyết danh- bonheur pour tous- TL dịch
Bạn Bè Xưa Cũ - Đỗ Công Luận
Thưa các anh chị,
Sáng qua, tôi cùng các bạn chung lớp, gặp lại người bạn học cũ.
Năm 1970 ra trường, theo vận nước nổi trôi, bôn ba thời vận.
Năm 1982, gặp nhau, hai đứa hai chiếc xe đạp thồ. Một thời gian khó.
Giờ gặp lại nhau, mái tóc điểm sương. Thất thập cổ lai.
Ngồi cùng nhau bên dòng sông quê hương. Vẫn còn hạnh phúc.
Cả chục đứa bạn, rời xa bạn bè.
Xin có bài thơ cảm tác sẻ chia...
Monday, May 23, 2022
Hai Tay Bưng Chén Rượu Đào! Đoàn Xuân Thu
Thưa sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư- Lớp Sơ Đẳng do Việt Nam Tiểu Học
Tùng Thư xuất bản cách đây trên nửa thế kỷ có tả người say rượu như sau:
“Các anh hãy trông người kia đi ngoài đường. Mặt đỏ gay, mắt lờ đờ,
quần áo xốc xếch, chân đi xiêu bên nọ, vẹo bên kia, múa chân múa tay, mồm nói
lảm nhảm. Lũ trẻ đi theo sau, reo cười chế nhạo. Thỉnh thoảng anh ta lại đứng
lại, nói những chuyện gì ở đâu đâu. Người qua lại ai trông thấy cũng phải tránh
xa.
Người ấy vừa ở hàng rượu ra. Chỉ tham mấy chén rượu mà thành ra say
sưa, mất cả tư cách con người, có khi như con vật vậy, thật là đáng khinh bỉ.
Hỡi các anh, các anh đã trông thấy người say rượu như thế, thì nên
lấy đó làm gương mà giữ mình.”
Thưa bà con! Ông bà mình dạy thì quá trúng rồi! Đừng có nhậu!
Nhưng lỡ sanh vào một thời giày sô áo trận, sống nay chết mai nên đôi khi tui cũng
có nhậu lai rai… cùng chiến hữu.
“Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi/ Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu/ Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi?”
(Rượu Bồ đào, cất từ quả nho, rất ngon, chứa trong chén bằng ngọc
Dạ quang, rất quý. Đang muốn uống thì tiếng đàn tỳ bà đã giục, phải lên lưng
ngựa để ra đi/ Say nằm giữa bãi cát, mong người đừng cười, đừng chê trách/ Từ
xưa đến nay, người đi chinh chiến có mấy ai trở về!)
Mãi sau này qua tới đây làm cu li, cày suốt, tuần nghỉ hai ngày.
Một ngày chở vợ đi chợ còn một ngày lén vợ đi bù khú cùng chiến hữu cho vui…
Dân Việt mình mới qua nghèo lo mần ăn nên đâm ra tốt, ít nhậu! Còn
dân Úc, sống đã lâu, tiền bạc phẻ re nên có đứa nhậu quên tên quên tuổi, quên
cả đường về nên mới có câu chuyện của một Aussie (Úc) như vầy:
“Cảnh sát tuần tra chận y lại thổi rượu. Trình bằng lái xe. Giữa chừng
phía bên kia đường có tai nạn xe cộ! Viên cảnh sát bỏ dở giữa chừng lo cấp cứu
nạn nhân.
“Hơi sức đâu mà chờ chớ!” Xỉn quá, bèn lái xe về nhà ngủ.
Sáng Chủ Nhựt, mới vừa thứ dậy, có hai thầy đội đến gỏ cửa, hỏi: “Tối
qua ông bị cảnh sát chận lại thổi rượu phải không?” “Phải chính tôi!”
“Rồi ông lái xe về nhà phải không?” “Đúng vậy!”
Ông cho chúng tôi xem chiếc xe được không?” “Được chớ!”
Ông Lưu Linh này mở cửa nhà chứa xe. Và kỳ diệu thay chiếc xe của
cảnh sát tuần tra nằm chần vần trong đó!”
Rồi ở Việt Nam có ông anh này không xài nhầm xe của cảnh sát mà
nhém chút nữa ổng xài nhầm “đồ” của người ta.
Ông bạn nhậu này sau một chầu bí tỉ bèn lết về nhà. Say quá mà nên
leo đại lên giường quánh cho mầy một giấc mà không để ý: “Ủa bữa nay hình
như em yêu hơi sổ sữa? Ối kệ nó mà! Rượu đưa con buồn ngủ lên bờ. Mùng ai có
trống cho “qua” ngủ nhờ một đêm. Chuyện đâu có gì lớn hè?”
Vậy mà sáng bửng, còn mơ màng giấc điệp bỗng nhe tiếng la bài hãi,
bị gọi giựt dậy. Chưa kịp đưa tay lên dụi mắt thì đã bị ăn một đạp, lăn xuống
đất.
Con sư tử Hà Đông tức con vợ nhà làm dữ mặc bà con lối xóm chạy
tới xem.
Em “single mum” nói: “Tối qua, mệt nên em đi ngủ sớm, khi tỉnh giấc
thì thấy thằng chả nằm ngáy kho kho trên giường. Quá hốt hoảng nên em hô hoán
lên.
Chớ “giả” say quắc cần câu rồi thì còn cần câu nào mà đi câu
cá.”
Vậy mà con Sư tử Hà Đông nghe không lọt lỗ tai, kết tội “tui” là
cái ruộng đó hoang hóa lâu ngày chẳng qua ông mượn rượu để làm nư. Có sẵn không
xài mà đi mượn đỡ của ai đâu. Thiệt là nhục…
“Tui thì không thấy nhục gì hết ráo. Bụng làm dạ chịu tui không đổ
thừa ai. Nhân vô thập toàn. Trong đời ai không (cố ý) một lần làm trật…!”
Thưa bà con ông này quả là một chánh nhân quân tử. Mình nhậu mình chịu
chớ đâu có nhậu đã rồi còn đi thưa tại thiên hạ là chuốc rượu cho tui xỉn.
Chẳng qua có một ông Mỹ ở Dallas, Texas nhậu suốt 8 tiếng đồng hồ,
say hết biết, vác xe chạy về nhà, đụng vô giải phân cách trên xa lộ, bị thương
nặng.
Ông đi thưa tiệm rượu, đòi bồi thường một triệu đô la! (Nếu thắng
kiện là mình có tiền nhậu tới tới).
Vì theo luật Texas, quán rượu không được phép để cho khách hàng
của mình ngồi uống rượu tì tì tới 8 tiếng đồng hồ cả nên phải chịu trách nhiệm
bồi thường chớ!
Thưa bà con! Rượu là một chuyện dài đi theo nhân loại hoài mà chưa
có hồi kết trừ phi thiên hạ chết hết…
Thời con người còn hái lượm, còn ăn lông ở lỗ là đã có rượu rồi. Chẳng
qua trái cây nào có chứa đường, ăn thừa mứa dư dả, để lâu men trong không khí
rơi vào chuyển hóa đường thành rượu.
Rồi mấy con khỉ đột, đười ươi uống, vô cùng khoan khoái, nhảy nhót
chí chóe tưng bừng nên tổ tiên mình mới bắt chước đó chớ.
Chính vì vậy mà ngày nay trông mấy chàng say múa may như là khỉ
vậy vì bắt nguồn từ độ ấy đó đa.
Cái gì cũng vậy! Thái quá là bất cập. Rượu uống ít thì vui! Nhiều
quá là ghiền. Ghiền rượu trở thành bệnh lý không phải do vi trùng, vi khuẩn gì
ráo mà do chính người bịnh tự gây ra.
Ghiền cần rượu như cần thức ăn, nước uống. Thèm rượu kinh khủng,
phải uống vài ly cho đỡ nhớ. Nếu không cảm thấy trong mình bực bội, khó chịu,
ợ khan, đổ mồ hôi, cơ thể run rẩy, ngáp lên ngáp xuống như thầy bói lúc lên
đồng.
Sáng ngồi kiểu nước lụt trên cái ghế đẩu, một tô xí quách và một
xị đế. Con chó Bích La (tức ba lít) ngồi nhóng mỏ chờ cục xương.
Cầm cái ly hột mít quất nhe cái trót; húp miếng nước súp có rắc
hành lá và bỏ tiêu là mồ hôi tươm ra, hai tay nó hết run hè!
Thưa bà con đến nông nỗi này chẳng qua hồi xưa mình cứ khoái chữ
Nho
“Nam vô tửu như kỳ vô phong!” Đứa nào không nhậu bạn bè chê là “đồ gà mái”!
Ly rượu đầu tiên trong đời nó đắng nghét chớ có ngon lành gì. Rồi
làm một ly, từ từ lên một xị, rồi một lít… mới tới chỉ.
Người ta gọi á phiện mà ma túy và rượu là ma men. Toàn là ma hết
ráo.
Không uống thì bị mất ngủ, nếu chợp mắt được thì thấy toàn ác
mộng, nhìn thấy toàn là hổ, báo, sư tử, quỷ dữ, quái vật, chuột cống, rắn độc, nhện
độc, hay gián bò kín đất.
Tai thì nghe thấy la hét, nhạo báng, dọa nạt, buộc tội mình! Thấy
như sâu bọ bò khắp người và có chỗ đau như bị chó cắn, xung quanh đều mờ mờ ảo
ảo.
Quất vài ly tới một xị là mặt hồng hồng sáng trong trong tất cả
các triệu chứng trên đều biến mất. Thiệt là thần dược. Thần dược có tên là: Sakê
của Nhựt, Mao Đài của Tàu hay Whiskey của Tô Cách Lan hoặc Tequilla của Mexico,
rượu đế của quê mình!
Năm dài chày tháng thì gan ruột, đồ lòng tiêu tùng ráo trọi. Tùm
lum bịnh.
Ghiền rượu là một cách tự vận, chết từ từ nhưng chết chắc.
(Nếu chỉ uống đã rồi đi ngủ thì chết từ từ. Còn uống rượu như uống
nước chanh đường phải “quậy”. Coi chừng chết bất đắc kỳ tử nhe tửu hữu!
Bởi quậy có hai trường họp. Một là đánh vợ hay là bị vợ đánh (thừa
sống thiếu chết). Lôi thôi cò bót, phiền phức lắm!
Và nhứt là đừng có cho con cái mình trong nhà còn độ tuổi vị thành
niên mà nhậu coi chừng có ngày bị lính bắt.
Chẳng qua người viết có anh bạn làm tài xế xe tải xuyên bang. Chạy
xa nhà cả tuần, hay nửa tháng mới về. Cái nghề tài xế xe tải cấm rượu tuyệt đối
nên chơi với ảnh toàn là uống cà phê.
Vậy mà tuần rồi nghe nói nhém chút nữa là ảnh (kể cả chỉ luôn) bị
nhốt hết ráo cũng vì rượu rồi chớ.
Chẳng qua: “Một là những lúc ngà ngà. Hai là những lúc đi xa
mới về!”
Anh về, chị làm món đồ nhậu cho anh sương sương, khui chai sâm
banh ướp lạnh. Người cạn một ly rồi dìu nhau vào phòng tính đàn lại bản tình ca
sau bao ngày xa vắng!.
Thằng cu, mới 4 tuổi, thấy Tía Má mình người “lỳ một lam” sao vui
hết biết, bèn tự ý rót cho mình một ly.
Cha đã nhe! Chua chua ngọt ngọt mà có sủi bọt như “Coca Cola!”.
Cạn ly, đi lảo đảo, đụng bàn ghế ngã rầm rầm. “Ối giời ơi! Ai
cứu con tui? Sao thằng nhỏ sùi bọt mép, mắt trợn trắng trợn vọc nè Trời?!”
Thưa bà con! Tui hằng trộm nghe rằng: 7 nhà văn Mỹ đoạt giải Nobel
Văn chương thì có 5 người ghiền rượu, một trong số đó ghiền nặng.
Ở Trung QuốcTrung Quốc, Lý Bạch! Ở Việt Nam thì Tản Đà! Nên tui thường
tự hỏi rằng muốn viết văn cho hay làm thơ cho nổi tiếng như mấy ổng, điều kiện
tiên quyết là phải ghiền rượu hay chăng?
Rồi cũng trộm nghe. Uống vừa phải, không gây tác hại. Vừa phải là
một lon bia hay một ly vang, hoặc một ly rượu mạnh. Dưới 0.05 cảnh sát có thổi
rượu vẫn cho đi là có tác dụng tích cực, ăn ngon hơn, hơi vui vẻ với má bầy
trẻ.
Còn lâu lâu, lỡ nhậu xã giao khi gặp lại bạn nối khố, bạn đã từng
cho mình mượn cái xà lỏn của nó thời xưa cũ thì uống hơn chút đỉnh cũng hỏng
sao. Nên nhớ lâu lâu à nhe!
Đụng trận nặng như thế thì làm sao biết mình đã say. Thì anh bạn
nhậu dạy tui rằng: Khi đi uống rượu nhớ mang tấm hình của con vợ mình theo. “Lỳ
một lam” mà thấy mặt mày em xấu hoắc, mặt vẫn còn nhăn nhăn nhó nhó. Thì lại
làm thêm ly nữa…
Chừng nào coi hình mà thấy em đẹp nhứt đêm nay là về được rồi đó.
Vì chắc chắn bạn hiền đã bắt đầu say; trông gà hóa cuốc; trông vịt đẹt mà tưởng
con thiên nga!
Thưa lóng rày nghỉ cuối tuần là quý độc giả thương mến thương
thường hú tui đi nhậu. Em yêu buồn bực lắm nên nói tui đi khám bác sĩ để tìm kiếm
sự giúp đỡ bởi em nghĩ tui đã bị ghiền.
Em phán rằng: “Ghiền rượu có thể chữa được bằng thuốc, bằng tâm
lý… Nhưng quan trọng nhứt là tùy thuộc ý chí của anh có thực tâm muốn xa lánh
thần Lưu Linh hay không?”
Em lải nhải hoài nghe nhức cả lỗ tai nên tui phải đành chiều em
đến bác sĩ gia đình để khám.
Mới gặp mặt tui, ổng mừng hết biết, nói: “Ông nhà báo chờ tui
đóng cửa phòng mạch rồi hai đứa mình lại “pub” làm vài ly trước đã rồi mình nói
chuyện sau nhe!”
Thiệt “Hai tay nâng chén rượu đào. Không uống thì tiếc uống vào
thì say”
Lâu lâu được Bác sĩ mời đi nhậu, hãnh diện hỏng hết, từ chối sao
đành.
Ngà ngà say, tui lảo đảo về nhà thì nghe em yêu giảng “moral” vầy
nè:
“Đời tui ghét nhứt là hút thuốc và uống rượu, Ghét của nào Trời trao
của nấy. Tui sẽ thôi; không ở với anh nữa. Tui về ở với Má tui!”
Thưa bà con tui tính bỏ rượu rồi đó chớ. Nghe vậy, tui bèn lục ra một chai rượu quý, Johnny Walker’s, Ông già chống gậy, nhãn xanh; bấy lâu nay giấu trong kẹt tủ ra nhậu, để mừng ngày được trả tự do.
Cheers! Mong em yêu đừng nửa chừng… đổi ý nhe!
Đoàn Xân Thu.
melbourne.
Wife And Husband
1.
Wife: How have you managed to get home so early today???
Khi Ta Già Đi
Những Ngôi Nhà Không Có Đàn Ông - Hồ Thụy Mỹ Hạnh
Tôi không biết có lời nguyền nào gán cho khu phố của tôi
không, mà những người phụ nữ tại khu phố này đều sống đơn chiếc! Nếu không thì tại
sao tính từ đầu ngõ đến cuối dãy gần chục căn nhà liền kề nhau, trong mỗi căn nhà
đều do phụ nữ làm chủ, với lý do này hoặc lý do khác mà người đàn ông của ngôi
nhà ấy đã nhường vô điều kiện cho phụ nữ để ra đi…
Bình thường thì không gây được sự chú ý, nhưng mùa Xuân
đang đến, những ngày cuối năm sự rộn ràng đến với mọi nơi, thì chỉ thấy toàn phụ
nữ trong các ngôi nhà ấy đồng loạt chường khuôn mặt đẹp như hoa với tất bật
công việc từ nặng đến nhẹ để chuẩn bị đón chào năm mới. Những người phụ nữ chân
không yếu, tay không mềm kia xắn tay làm những việc mà lẽ ra là của đàn ông. Vì
người đàn ông của họ đã vắng trong ngôi nhà mà họ từng hạnh phúc, còn cách nào
hơn là các người đẹp phải tự gánh vác công việc một mình.
Từ đầu xóm cô Ngọc đang ngồi trên mái nhà moi rác trong
chiếc máng xối bị tồn đọng đầy lá cây suốt mùa mưa, rồi cô leo xuống dễ dàng với
vài động tác của loài mèo.
Chị Hiền nhà kế bên thì đứng trên chiếc ghế cao sơn phết
lại các cánh cửa một màu tươi mới, chị khéo léo thao tác như đang vẻ tranh
không…hình.
Cô Nga kế nữa thì một mình vần những chậu cây kiểng từ vị
trí này sang vị trí khác, cánh tay cô gồng lên thì các chậu kiểng chỉ việc chịu
thua theo sự sắp xếp của cô.
Chị Mai đang leo lên chiếc thang tháo những tấm rèm cửa,
vừa thay rèm vừa hát “…đồn anh đóng ven rừng mai, nếu mai không nở, anh đâu biết
xuân về hay chưa…”. Giọng hát của chị không cần giàn âm thanh hổ trợ cũng hay
ra phết khiến vài người đi ngang nhà phải quay nhìn vào.
Còn tôi thì chú ý tên chị được nhắc đến hai lần trong câu
hát, thảo nào mà chị cứ hát mãi câu ca bất hủ ấy. Không thể không nhắc đến cô
Thảo, cô đang trộn một thau hỗn hợp cát với xi măng, rồi cẩn thận trét lại những
chỗ bong vỡ trên sân, cô vừa tô hồ vừa lẩm bẩm gì đó như đọc thần chú. Chiếc
bay lướt nhẹ nhàng và hoàn tất công việc thành thạo như một thợ hồ chuyên nghiệp.
Còn vài chị nữa nhưng các chị cách xa nhà tôi quá, nên
tôi không tiện quan sát để kể tường tận về hoàn cảnh của họ. Chỉ bấy nhiêu đó
thôi có thể đủ để kết luận rằng phụ nữ xóm tôi thật giỏi, ngoài việc nhà họ còn
phải làm việc kiếm tiền để mưu sinh và họ có thể làm những việc khó cũng như dễ
mà không cần có sự giúp sức của đàn ông.
Đừng hỏi “Tại sao tài sắc như vậy mà không có người nào
cho họ cơ hội được nâng khăn, giữ bóp?”. Có đấy! Họ đã từng có những đức ông chồng,
nhưng cuộc hôn nhân không đem họ đến bến bờ hạnh phúc, thì đành vẫy tay chào
nhau.
Cô Ngọc có một ông chồng ghen tuông vượt mức báo động. Cô
làm việc ở một nhà hàng, nơi tiếp những ông khách thường xuyên say xỉn, cô phải
nghe những câu tán tỉnh của khách khi rượu đã vào.
Chồng cô biết vậy nên mỗi khi cô về nhà trễ là có ‘trò
chơi” rượt đuổi, cô thường xuyên “vút” lên mái nhà trốn. Khi hết chịu đựng nổi
cô đâm đơn ly dị, cũng là lúc cô thành thạo việc leo lên mái nhà. Giờ thì đừng
hỏi tại sao máng xối nhà cô luôn sạch sẽ!
Chị Hiền đúng thật là hiền, chồng chị là đệ tử của Lưu
Linh, nhưng không bao giờ chị ngăn cản sở thích của chồng. Chị còn nghiên cứu nấu
các món ngon cho chồng nhậu, ổng thích nhậu lúc nào chị phục vụ lúc ấy. Chị
thân cò lặn lội nuôi chồng, con. Mua quà cho con là kèm rượu cho chồng.
Riết…lá gan của ổng thọ nạn, ổng gút bai cuộc đời. Chị
đau khổ dày vò, chị cứ mua sơn ra mộ ổng sơn, không để một vết trầy, khi ổng sống
chị tốn thời gian chăm lo cho ổng thế nào, bây giờ chị cũng “chăm sóc” mộ y như
thế.
Từ đó nhà cửa của chị cũng được hưởng tài “sơn” của chị.
Chị cứ ước nếu chồng chị còn sống, chị sẽ cho ổng nhậu gấp đôi, gấp ba, miễn là
ổng sống trọn đời với chị. Chị không bao giờ nghĩ ra được người vợ ngoan không
có nghĩa là phải chìu cả những thói hư tật xấu của chồng, vì như thế là hại chứ
không phải là chu toàn bổn phận.
Chị không biết chính rượu đã đưa đường, dẫn lối ổng ra
nghĩa địa! Để lại đôi mắt của chị đẹp và buồn đến nao lòng, chị nói đời chị chỉ
tôn thờ một người, tình đầu là tình cuối!
Cô Nga có khuôn mặt đẹp từng nét, dáng cô cao hơn thước bảy!
Ba má cô có ý muốn cô trở thành hoa hậu nên “đầu tư” rất kỹ. Sữa để cao giò, sữa
làm trắng da, sữa thông minh cô đều được uống, kết quả là cô phát triển cả chiều
ngang nên vỡ mộng đi thi người đẹp. Bù lại cô có một sức vóc thuộc loại vận động
viên thể hình.
Cô đã quen tai với lời khen, cô không thích nghe phê bình
điểm yếu của mình. Cô lấy chồng và cho rằng người đàn ông may mắn mới lấy được
cô. Còn chồng cô lại nói “Sắc đẹp không bỏ vô nồi nấu ăn được!”, anh ta cần một
người vợ biết tôn trọng chồng.
Cứ thế họ không ít lần cãi vã, có lần hai bên xáp lá cà với
các chiêu cào, cấu, cắn và chồng cô…thua trận với thân thể đầy thương tích! Anh
ta cuốn gói đi theo một phụ nữ khác có chiều ngang vừa đủ một vòng tay ôm, vừa
hiền hậu nhu mì.
Tiếng dữ đồn xa, cô Nga không thể bước vào trái tim người
đàn ông nào nữa, bất mãn quá nên cô tỏ ra bất cần “Đàn ông là cái mắm gì? (Cô
không biết đàn ông là…mắm nhĩ! Các món ăn không thể ngon khi thiếu…mắm!). Còn
các ông nghe thì càng tránh xa vì thấy cô dữ quá! Cô đành ngậm ngùi sống kiếp độc
thân. Giờ chỉ có mấy chậu kiểng lãnh đủ sự lực lưỡng của cô!
Chị Mai rất là đáng
thương! Chị là thợ may, bàn tay cầm kéo của chị tạo nên vô số chiếc áo đẹp, tiền
cứ theo đó mà vào tủ của chị. Tiền ai chẳng thích, nhưng chị quên hết mọi việc
ngoài may và may nên không có thời gian chăm sóc gia đình.
Chồng phê bình không ăn
thua. Nhất là mùa cận tết thì chị không còn thời gian để dành cho chồng chị dù
một cái nắm tay. Anh buồn nên hát karaoke. Hát một mình chán anh bèn đến quán
Karaoke đèn sáng, từ quán đèn sáng anh chuyển sang quán Karaoke đèn mờ!
Thế rồi một ngày giật
mình nhìn lại, chị mới hay rằng anh đã đi theo một cô biết hát đồng ca với anh.
Chị hát hay, nhưng ngày ấy không chịu dành thời gian để hát với anh. Chị hiểu
ra rằng người phụ nữ hoàn hão là người phụ nữ phải biết biến căn nhà thành mái ấm,
biết chia thời gian của mình cho các công việc sao cho hợp lý, khi hiểu được
như thế thì người đàn ông của đời chị đã vắng trong căn nhà có rèm cửa đẹp như
cung tiên!
Chị đã mất anh rồi, giờ
đến lượt chị khi buồn chỉ còn biết hát một mình “…nếu mai không nở, em đâu biết
xuân về hay chưa…”
Còn cô Thảo? Cô rạch ròi
công việc hẳn hoi, việc của phụ nữ thì phụ nữ làm, việc của đàn ông thì đàn ông
làm. Cô phân công từng việc, ví dụ “Kiếm tiền là đàn ông, giữ tiền là đàn bà!”,
“Mua sắm là đàn bà, chi tiền là đàn ông!”, “Sinh con là đàn bà, nuôi con là đàn
ông!”, “Việc khó là đàn ông, việc dễ là đàn bà!”, “Hờn giận là đàn bà, xin lỗi
là đàn ông!”…, thậm chí cô còn thảo ra bản hợp đồng có chữ ký của cả hai. Cứ thế
cô không bao giờ làm thay cho chồng những việc mà cô đã giao hẹn từ ngày anh mới
ngỏ lời cầu hôn.
Ngày chưa cưới, cô nói
gì anh cũng “yes”, cưới xong thì lời hứa gió bay, anh thường “no”, có khi còn
nhấn mạnh “no…no”. Hỏi sao cô cam tâm cho được. Cho đến một ngày chồng cô ủ rũ
nói: “Em yêu! Chúng mình phải làm một cuộc trắc nghiệm, phải xa nhau một thời
gian đã ngâm cứu lại bản hợp đồng sống chung của chúng ta.
Anh nghĩ thần kinh của
anh có gì đó không ổn khi ký kết. Em cứ ở đây, còn anh sẽ ra ngoài sống. Sự
cách biệt sẽ giúp chúng ta nhận ra mình cần nhau đến thế nào hoặc có cần nhau nữa
không…”. Cô nghẹn ngào không nói nên lời. Đã lỡ cam kết “…xin lỗi là đàn ông!”
nên cô không thể làm thay anh điều đó.
Sau này nghiền ngẫm lại
bản thân, cô nhận biết mình đã quá đáng vì được yêu chìu. Những ngày vắng anh
là những ngày cô ăn năn sám hối. Cô nhật
tụng “I love you! My dear...I miss you…”.
Cô luôn mong một ngày nào đó anh sẽ quay về. Cô giấu nhan
sắc chim sa, cá lặn của mình vào nỗi u hoài, không màng đến lời ong bướm bên
ngoài. Cô hy vọng ngày anh trở lại sẽ thấy ở cô một đức tính biết sống vì người
khác, không giành phần hơn cho mình. Cô sẽ là người vợ biết chia sẻ với chồng mọi
việc, cô luôn tâm sự như thế…
Tôi tin câu nói của người xưa rằng “Hồng nhan…”. Ai bảo
phụ nữ xóm tôi…tài sắc vẹn toàn thế chứ! Còn tôi hả? Tôi đang bận sửa điện nên
không trả lời được! Nói ngắn thôi hả?
Thì tôi cũng ở xóm này, nên tôi không thoát khỏi thế
giới cô đơn tình ơi! Tệ hơn nữa là tôi chưa bao giờ lọt vào mắt xanh của chàng
nào mới là lạ! Nếu có “lọt”, không chừng tôi cũng rơi vào một hoàn cảnh nào đó
để tiếp tục cuộc sống hẩm hiu!
Vì như đã nói, những ngôi nhà ở xóm tôi đã bị lời nguyền
không có đàn ông!
Hồ Thụy
Mỹ Hạnh