Người Phương Nam
Pages
- Trang Chủ
- About Me
- Truyện Ngắn
- Sưu Tầm
- Sưu Tầm from 2020
- Góp Nhặt Bên Đường
- Nhạc Chọn Lọc
- Sưu Tầm Sức Khỏe
- NPN's Recipes
- Trang Người Phương Nam
- Cười Ý Nhị
- PPS + YouTube Chọn Lọc
- Những Hình Ảnh Ý Nghĩa
- Thơ
- Thơ from 2020
- Bùi Phương Lưu Niệm
- Trang Anh Ngữ
- Truyện Dài : Về Phương Trời Cũ
- Truyện Dài : Ngày Tháng Buồn Hiu
Thursday, January 16, 2025
Ngộ - Cần Sống Lạc Quan Cho Đời Thêm Vui - Sương Lam
Mỗi gia đình, mỗi cá nhân đều có
niềm vui nỗi khổ riêng mà không gia đình nào giống gia đình nào, không cá nhân
nào giống cá nhân nào.
Niềm vui hay nỗi buồn, hạnh phúc
hay đau khổ không có đơn vị đo lường thì người ngoài làm sao biết được nó to
hay nhỏ, nó nặng hay nhẹ? Chỉ riêng những người trong cuộc mới thấu hiểu, mới cảm
nhận, mới thấm thía mà thôi. Bạn đồng ý chứ?
Bạn đừng thấy một người luôn cười
nói huyên thiên ngoài mặt mà cho rằng họ đang hạnh phúc. Nhiều khi bạn lầm
đấy nhé!
Bạn cũng đừng thấy một người
đang vật vã khóc than mà cho rằng họ đang đau khổ. Chưa chắc đúng đâu bạn
ạ!
Nếu đúng tất cả thì người xưa đã
chẳng cần phải thốt: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười”.
Cái quan trọng trong sự vui
mừng hay đau khổ đó là người trong cuộc có thể tự “control” được hay
không (người viết tạm dịch là tự chế ngự, tự kiềm chế) và phương cách,
thái độ đối phó với những cảm xúc vui buồn đó như thế nào mà thôi. Chúng ta cần
phải chấp nhận sự việc đã xảy ra, cũng cần có thái độ lạc quan và lòng vị tha để
giải quyết vấn đề thì tinh thần mới an lạc được. Đúng không bạn?
Xin được chúc phúc cho những ông
bà cụ vẫn còn được sống chung với con cái và được phụng dưỡng cho đến ngày quy
tiên.
Riêng vợ chồng người viết thì
cũng đã chuẩn bị tinh thần để có thể thích ứng được với đời sống tuổi hạc của
mình nơi viện dưỡng lão mai sau rồi.
Trong hiện tại cứ hãy vui lên mà
sống, còn viết văn làm thơ được thì cứ làm thơ viết văn, còn cắt cỏ làm vườn được
thì cứ làm vườn cắt cỏ coi như mình đang tập thể dục cho khỏe người, còn đi “tiếu
ngạo giang hồ” được thì cứ đi ta bà thế giới cho vui, kẻo mai kia chân giò yếu
đuối, bệnh hoạn liên miên không đi đâu được nữa thì hối tiếc nhé. Smile!
Chúng tôi vẫn thường bàn với nhau
“nhà ta, ta ở” cho đến khi nào già quá không thể tự chăm sóc cho mình được thì
vào viện dưỡng lão ở vì đó là giải pháp tất yếu của hầu hết chúng ta. Kẻ
trước người sau rồi cũng phải vào đó hết để chờ ngày đi đoàn tụ với ông bà, chạy
đâu cho khỏi.
Chúng tôi cũng thường bàn
nhau với bạn bè là có nên về ở chung với con cái hay không thì đa số cũng có
cùng một ý kiến rất “cấp tiến” với tôi là “nhà ta, ta ở” vẫn hơn.
Xin mời bạn đọc cùng đọc với người
viết đoạn văn như sau được người viết sưu tầm trên internet coi có đúng không
nhé.
Nhà ta ta ở
Người viết nói vòng vo tam quốc
đã đời ở trên rồi chắc bạn cũng đã suy nghĩ và đã có ý kiến “Già Rồi Tôi Ở
Với Ai” rồi chứ nhỉ? Hy vọng bạn sẽ chọn lựa đúng nhé.
Chúng ta sẽ chào mừng Năm Mới
sắp đến. Hy vọng những bậc cha mẹ đang ở nhà riêng hay đang ở viện dưỡng lão sẽ
được con cháu đón về nhà sum họp gia đình vui vẻ bên nhau hay ít nhất con
cháu hãy đến thăm cha mẹ già đang sống cô đơn nơi viện dưỡng lão
nhé. Mong lắm thay!
Hy vọng những người con có cha mẹ
già đang ở viện dưỡng lão đọc và suy nghĩ về cảm nghĩ của nhà văn Huy Phương dưới
đây:
“Cứ vào “Pet-Abuse.com” chúng ta sẽ tìm thấy hàng nghìn trường hợp công
dân Mỹ, già và trẻ, đàn ông lẫn đàn bà bị tù tội, phạt tiền vì bạc đãi, bỏ đói,
đánh đập hoặc giết những con vật thân yêu trong nhà. Bỏ quên một bà mẹ già
trong nhà dưỡng lão nhiều năm có phải là một trường hợp ngược đãi không? Chẳng
lẽ là không? Vì nếu có, luật pháp đã bắt đứa con phải phạt vạ hay vào nhà tù”.
Người viết may mắn được ông Trời phú cho tinh thần lạc quan trong đời sống nên không thích đọc những chuyện rùng rợn ma quái hay đọc những câu chuyện buồn tiêu cực với kết luận không hậu như nhiều tác giả khác thường viết. Cuộc đời đã khổ rồi như nhà Phật thường nói nên chúng ta cần có những suy nghĩ, quan niệm sống lạc quan, yêu đời một tí cho đời sống thêm vui.
Hôm nay, tôi nhận được bài viết đầy tính cách lạc quan dưới đây, đã gợi ý cho tôi viết bài tâm tình này, giúp cho quý bạn cao niên sống vui sống khỏe, nên xin được chia sẻ cùng quý bạn hữu đọc cho vui nhé. Cảm ơn anh NTL và anh NTP rất nhiều.
Bỏ thói quen không hay, tận hưởng niềm vui tuổi xế chiều
Mai Lâm
Khi đã có tuổi, không còn làm việc,
quỹ thời gian bao la, bất tận. Rảnh rỗi, ta thường hay nghĩ ngợi lung tung, suy
luận tùm lum, riết rồi thành ra “nghĩ quẩn.”
Tâm lý học chứng minh cho thấy bằng
cách buông bỏ những suy nghĩ bất lợi, những hận thù, để tâm hồn thoải mái, tâm
trí nhẹ nhàng, ta sẽ dễ dàng tận hưởng niềm vui ở tuổi xế chiều mà ta xứng đáng
được hưởng.
Ta có thể đạt được điều đó nếu có
thể rũ bỏ một số thói quen này:
- Không tha thứ
Một đứa cháu quên chào ở bữa họp
mặt, người khác làm mất quyển sách quý mượn của ta, một đồng nghiệp cũ nói những
điều không đúng về ta,… Có nhiều lý do khiến ta cảm thấy buồn và khó chịu trong
cuộc sống. Nhưng bằng cách tha thứ, ta có được sự bình yên giá trị hơn rất nhiều.
Từ chối tha thứ là một thói quen
có thể giam cầm chúng ta trong sự hận thù theo đúng nghĩa đen.Tha thứ thực
ra không phải là về người đã làm hại chúng ta, mà là cho
chính chúng ta. Đó là món quà chúng ta tặng cho chính mình để giải
thoát khỏi gánh nặng oán giận. Đó là về việc chọn sự bình yên thay vì nỗi
đau. Khi trải qua cuộc đời, người già sẽ nhận ra rằng việc ôm giữ
mối hận thù không có ích gì. Thay vào đó, nó cướp đi niềm vui và sự thanh thản,
và thường thì những thói quen ôm hận này cần phải được loại bỏ trước tiên khi
chúng ta già đi.
- Khơi lại vết thương cũ
Một trong những thói quen phổ biến
nhất khiến chúng ta không thể buông bỏ mối hận thù là liên tục khơi dậy những vết
thương cũ, điều thường làm một cách vô thức. Tuy nhiên, đó là thói quen có
thể khiến chúng ta mắc kẹt trong vòng oán giận và cay đắng.
Khi chúng ta cứ nhớ lại những tổn
thương trong quá khứ, nó giống như chúng ta đang sống lại nỗi đau đó
nhiều lần. Điều này không chỉ khiến mối hận thù tồn tại mà còn có thể khuếch đại
cảm giác tổn thương và oán giận. Cứ như ta cố cạy một vết thương sắp
“ăn da non” và ngăn cản nó lành lại.
- Tự cho mình là nạn nhân
Một thói quen khác có thể khiến
chúng ta bị ràng buộc bởi mối hận thù là giữ tâm lý nạn nhân. Khi coi mình là nạn
nhân, ta thường cảm thấy bất lực và mắc kẹt trong những tổn thương trong quá khứ.
Điều này có thể khiến việc buông bỏ mối hận thù trở nên cực kỳ khó khăn.
Tâm lý nạn nhân là một cơ chế
phòng thủ cho phép chúng ta tránh phải chịu trách nhiệm về cảm xúc và hành động
của mình. Đổ lỗi cho người khác về nỗi đau của chúng ta sẽ dễ dàng hơn là thừa
nhận vai trò của chúng ta trong tình huống đó hoặc thực hiện các bước để chữa
lành. Tuy nhiên, giữ tâm lý nạn nhân chỉ kéo dài sự đau khổ của chúng ta.
Nó khiến chúng ta bị mắc kẹt trong một vòng luẩn quẩn tiêu cực và ngăn cản
chúng ta tiến về phía trước.
Để thoát khỏi chu kỳ này, chúng
ta cần thay đổi quan điểm của mình. Thay vì coi mình là nạn nhân, chúng ta có
thể chọn xem mình là người sống sót, thừa nhận nỗi đau của mình nhưng vẫn nhận
ra sức mạnh và khả năng phục hồi của mình.
- Sống trong tiêu cực
Sống trong sự tiêu cực là một
thói quen nuôi dưỡng mối hận thù. Khi liên tục tập trung vào những khía cạnh
tiêu cực trong cuộc sống hoặc những điều sai trái mà chúng ta đã phạm phải, ta
sẽ khuếch đại cảm giác oán giận và tức giận. Sự tiêu cực có thể che mờ khả
năng phán đoán và ngăn chúng ta nhìn thấy bức tranh toàn cảnh hơn. Nó có thể
khiến ta cảm thấy mắc kẹt trong những tổn thương của quá khứ và ngăn cản ta tiến
về phía trước.
Cứ tập trung vào những khía cạnh
tích cực trong cuộc sống của mình. Điều này không có nghĩa là bỏ qua các vấn đề
trong cuộc sống, mà đúng hơn là đánh giá cao điều tích cực và chọn tìm kiếm các
giải pháp thay vì tập trung vào những vấn đề.
- Không quan tâm đến sức khỏe tinh
thần
Bỏ bê sức khỏe cảm xúc của bạn có
thể duy trì thói quen giữ mối hận thù. Sức khỏe cảm xúc đóng một vai trò quan
trọng trong cách chúng ta nhận thức và phản ứng với thế giới xung quanh. Khi sức
khỏe cảm xúc bị tổn hại, chúng ta có nhiều khả năng giữ mối hận thù hơn.
- Bỏ qua sự phát triển cá nhân
Phớt lờ sự phát triển cá nhân là một thói quen khác có
thể khiến chúng ta mắc kẹt trong mối hận thù. Khi chúng ta già đi, quan điểm của
chúng ta sẽ phát triển và chúng ta cũng vậy. Tuy nhiên, nếu chúng ta bỏ qua quá
trình phát triển cá nhân tự nhiên này, tiếp tục giữ niềm tin và thái độ như cũ,
rất khó có thể khó buông bỏ mối hận thù.
Sự phát triển cá nhân bao gồm việc
nhận ra và chấp nhận sai lầm, học hỏi từ đó và phấn đấu trở thành phiên bản tốt
hơn của chính mình. Quá trình này có thể mang lại sự giải phóng đáng kinh ngạc
và có thể giúp chúng ta buông bỏ những tổn thương trong quá khứ.
Năm cũ đã qua, hãy tống cựu
nghinh tân. Tống khứ những gánh nặng cản trở sự bình an nội tâm, và nghinh đón
ngọn gió trong lành mới, luồng năng lượng tích cực vào tận trong sâu thẳm của
tâm hồn và trí não.
Mai Lâm
(theo Hack Spirit)
(https://saigonnhonews.com/mindfulness/bo-thoi-quen-khong-hay-tan-huong-niem-vui-tuoi-xe-chieu/)
Mời Xem Youtube Thư Pháp Chữ Ngộ- Sương Lam thực
hiện cho vui nhé.
https://www.youtube.com/watch?v=YuU6EmIkv6s
Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống
vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.
Người giữ vườn Một Cõi
Thiền Nhàn
Sương Lam
(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 745-ORTB 1176-1- 15- 25
Website:
www.suonglamportland.wordpress.com
TT Trump Của Anh Vũ Có KHÙNG Không ? - Nguyễn Thượng Vũ
Lời người đăng:
Thưa anh BS Nguyễn Thượng Vũ,
Hai hôm trước, em có hỏi ông xã em về vụ
TT Trump “đòi nhân Canada là Tiểu Bang Hoa Kỳ, đòi lấy lại kênh đào
Panama, đòi mua Greenland” như ông bạn ở Âu châu của
anh Vũ vậy. Ông xã em cũng giải thích rõ ràng như anh Vũ trên diễn
đàn này đây. Em nhận thấy chắc cũng có nhiều người, nhứt là phe
chống Trump cũng nghĩ Trump “khùng” tưởng mình là ông trời hay sao.
Nhân nhận được bài viết của anh Vũ, em xin
post vào blog chia sẻ với mọi người để làm sáng tỏ cái lý do
không “khùng” chút nào của TT Trump.
Đa tạ anh Nguyễn Thượng Vũ.
Thân kính,
NPN
********
TT Trump của anh Vu
có KHÙNG không ?
Cách đây 2-3 ngày , có 1 người bạn thân tình của tôi sống tại Âu Châu có liên lạc với tôi.
Anh viết: TT Trump của anh Vũ có KHÙNG không? từ ngày ông í đắc cử, ông í tự coi mình như Đức Chúa, đòi nhân Canada là Tiểu Bang Hoa Kỳ, đòi lấy lại kênh đào Panama, đòi mua Greenland.
Tôi cười trả lởi là ông ơi, chuyện gì cũng có lý do của chuyện nấy. không ai điên khùng đâu.
Tôi xin bàn về Greenland trước.
Ai cũng nói là Greenland thuộc chủ quyền của Đan Mạch, dân Greenland là quốc tịch Đan Mạch, tại sao Hoa Kỳ lại đòi mua Greenland?
Thật tình ra Vương Quốc Đan Mạch “nhận” Greenland là nước Đan Mạch chỉ từ năm 1953, khi tôi là học sinh Trung Học rồi.
Trước đó ai tới Greenland sống, buôn bán thì Đan Mạch / Na Uy/ để yên, không khó dễ gì cả.
Trước đó, người Mỹ đã hiện diện tại Greenland từ trước rồi, nhất là sau khi NATO/ OTAN thành lập năm 1949 , thì Chính Phủ Hoa Kỳ đã có 1 căn cứ quân sự hùng mạnh tại Greenland để bảo vệ tất cả khu vực Bắc Âu Chau chống lại Sô Viết của Stalin thời đó.
Và hiên nay Hoa Kỳ cũng vẫn còn căn cứ quân sự tại Greenland.
Greenland có 1 lãnh thổ rộng bao la , bao bọc bới băng tuyết từ mấy ngàn năm nay khi loài người tới đó.
Dân số có 56,000 người gồm đủ loại người chứ không phải chỉ có người Đan Mạch hay Na Uy mà thôi.
Hoa Kỳ tốn kém cả tỷ bạc từ ngót 80 năm nay để đặt căn cứ bảo vệ Greenland và Âu Châu.
Câu chuyện liên hệ rất tốt đẹp cho tới vài năm nay khi người ta bắt đầu thấy có nhiều chất “đất Quý” / “precious Earth”/ tại Greenland.
Thế rôi mấy ông chính trị gia Đan Mạch “ngủ đêm” với Tập Cận Bình, và mời chào Trung Hoa tới thăm viếng, ve vãn với lời hứa hẹn “cười tình” với nhau, cho khai thác chất “Đất Quý” này.
Thật là nhân tình bạc như vôi, có cô nhân tình mới, đưa về nhà, và ngấm ngầm cho người vợ già “ra de”.
Có 1 khia cạnh vô cùng quan trọng nữa là 1 nhóm khá lớn của Dân Chúng Greenland từ 20 năm nay đã đòi hỏi Độc Lập cho Greenland , không chịu tình trạng Bảo Hộ/ Protectorat hay Lãnh Thổ “trên Giấy Tờ” của Vương Quốc Đan Mạch nữa.
Dân Chúng Greenland cũng nhận thấy “trên giấy tờ” thì họ có quốc tịch Đan Mạch, nhưng trên thực tế “trông dzậy mà không phải Dzậy”
Chuyện này làm tôi nhớ lại việc Pháp nhân Nam Kỳ là Department của Pháp, có quy chế đặc biệt, “như người Pháp” khác với mấy anh Bắc Kỳ chỉ là Bảo Hộ mà thôi, trừ Hanoi là Hai Phòng là đất Pháp.
Trên thực tế “trông dzậy mà không phải Dzậy”, trên thực tế Bắc Kỳ và Nam Kỳ
cũng same/same.
Tại Nam Kỳ thì chỉ có mấy ông tây mũi lõ mới được làm Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ, có quyền tới họp tại Paris, chứ còn các cụ Nam Kỳ chính cống thì chỉ làm tới chức “hương cả”, Hội Đồng Tỉnh là quá cỡ thợ mộc.
Chính Phủ Đan Mạch hiểu rõ tình hình chính trị của Greenland, nên tuyên bố là sẵn sàng đàm luận với Hoa Kỳ và sẵn sàng đáp ứng các đòi hỏi hợp tình /legitimate/ của Hoa Kỳ.
Chuyên Kênh Đào Panama và Quốc Gia Panama cũng là một vở kịch lủng củng.
Trước khi người Mỹ bắt đầu đào Kênh Panama, thì chưa có quốc gia Panama, lãnh thổ này thuộc quốc gia Columbia.
Người Mỹ dàn xếp để Columbia cho tách phần đất khô cằn, không hoa lời, không kỹ nghệ này ra khỏi Columbia để trở thành Panama ( chắc Hoa Kỳ là vừa dọa nat, vừa cho tiền).
Hoa Kỳ cho đào kênh này, tốn kém hàng tỷ bạc hiên nay.
Sau khi hoàn tất thì Hoa Kỳ quản trị Kênh Panama theo thảo hiêp với chính quyền Panama mới thành lập.
Hết tất cả tiền thu được khi tầu bè xử dụng Kênh Panama, được chia lại cho dân chúng Panama 1 phần và Panama trở thành 1 quốc gia trù phú.
Vào đầu thập niên 80, TT Carter đùng đùng trả lại Panama Kênh đào này với thỏa thuận là có quy chế đặc biệt với người Mỹ, Mỹ sẽ tiếp tục trông nom như cũ, bảo trì và xư dụng Kênh Panama như xưa, chỉ khác là chủ quyền trên giấy tờ là chính phủ Panama.
Bây giờ tình trạng thay đổi, Panama lại kiếm được nhân tình mới là Trung Hoa.
Tập Cận Bình hứa hẹn là chúng tôi có đủ tài năng nhân lực và phương tiện để quản trị Kênh Đào này, và sẽ mang lại thêm rất nhiều lợi tức cho Panama.
Một trong các quyết định của Panama là tăng tiền tất cả các tầu bè xử dụng Kênh Panama để cha con nó chia chác với nhau.
Thế sự thay đổi, Kênh Panama do người Mỹ đào, xây lên từ 1 đống đá khô cằn, mà bây giờ do Trung Hoa Cộng Sản Quản trị và tăng giá giấy phép các tầu bè Hoa Kỳ xử dụng lên bội phần.
Như vậy tôi nghe thấy còn bực mình, chứ đừng nói gì tới TT Trump.
Xin các anh chị click vào link để coi thêm tin tức cũa Reuter Truyển Thông Anh Quốc viết về Ngoại Trưởng Đan Mạch tuyên bố
Rất thân mến,
Nguyen Thuong Vu
JERUSALEM, Jan 13
(Reuters) - Denmark recognises that the United States has security interests in
the Arctic and is ready to discuss these with the incoming administration of
President-elect Donald Trump, Danish Foreign Minister Lars Lokke Rasmussen said
on Monday.
"We agree that
the Americans have certain concerns about the security situation in the Arctic,
which we share and therefore in close cooperation with Greenland, we are ready
to continue talks with the incoming U.S. president, in order to ensure legitimate
American interests," he told a news conference in Jerusalem.
Nụ Xuân Đầu - Kim Oanh
Ướp tình trao nụ xuân đầu
Ấp yêu vương vấn trăng màu Hương Xưa
Tình yêu tuổi mộng chợt vừa...
Bồi hồi như thuở đón đưa rộn ràng
Bao mùa xuân thắm về ngang
Bấy mùa chờ đợi võ vàng nhớ nhung
Xuân nay thời khắc tương phùng
Người xưa có hiểu tình chung sắc màu
Hoa! Em! Là nụ xuân đầu!
Thơ & Hình Ảnh: Kim Oanh
Melbourne Đầu Xuân 9.9.2024
Qua Cơn Mê (Văn Nghệ Tết Trong Trại Tù Yên Hạ) - Phan Lạc Phúc
…”Bạn ơi nếu tôi có một điều ước, tôi ước mong cho ngày nào trời đất phong quang, chúng ta được trở về đất nước Việt Nam yêu dấu, muốn đi đâu thì đi. Tôi sẽ đi tới những trại tù năm cũ, thăm lại người xưa, thăm lại các bạn tù chúng ta còn nằm lại. Tôi sẽ tới trại Yên Hạ, tới quận Phù Yên hỏi xem ông cụ Việt trại trưởng năm xưa còn sống hay không? Nếu gặp được ông cụ tôi sẽ nầm lấy tay mà nói “Tôi là là cựu tù nhân Yên Hạ đây, cụ còn nhớ tôi không, thưa cụ?”… Một mai qua cơn mê, xa cuộc đời bềnh bồng, tôi lại về bên em…- Trần Trịnh- Nhật Ngân.Tôi vừa nhận thư từ Seattle, Mỹ gửi sang. Không phải những người bạn thân quen của tôi mà nhìn tên người gửi thấy đề T. Nguyen lạ hoắc. Sang xứ sở văn minh thực dụng này, tên tuổi lộn đầu lộn đuôi mà chữ viết cũng ít khi dùng đến nên tôi cầm lá thư mà chưa nhớ ra ai. Mỗi người sinh ra trên trái đất này đều có một nhân dáng riêng, cũng như có một nét chữ riêng, có ai giống ai đâu? Bây giờ bỏ cái riêng tư ấy đi, dùng toàn chữ in sẵn trong computer – tiện lợi thì có tiện lợi thật nhưng cầm cái thư tôi thấy nó lạnh lùng, khô khốc… Bề ngoài bao thơ không cho tôi một tín hiệu tình cảm nào, tôi hờ hững mở thư. Nhưng vừa đọc, tôi đã vô vàn cảm xúc: “Anh P. ơi, chắc anh không nhớ được em đâu, nhưng em nhớ anh hoài, em nhớ “ông già chăn ngựa”. Em là “La Sơn Phu Tử” đây.” Những cụm từ “ông già chăn ngựa ” và “La Sơn Phu Tử” đã như chiếc chìa khóa mở ra một quãng đời tù tưởng đã nhạt nhòa trong ký ức…
Dạo
ấy là cuối năm 1977, chúng tôi vừa từ giã trại tù quân quản Liên trại 2 để đến
một nhà tù chính thức Yên Hạ – Sơn La thuộc Công an – Bộ Nội vụ. Cùng là đi cải
tạo nhưng bên trong có chia ra nhiều loại. Loại cải tạo trong Nam tương đối nhẹ
nhàng hơn, ngắn hạn hơn. Tù nặng, tù lâu là ra Bắc. Những năm đầu ra Bắc, tù
đặt dưới quyền quân quản, tức là do bộ đội quản lý. Sau chừng từ 2 đến 3 năm tù
được chuyển dần từ trại “trâu xanh” (bộ đội) sang trại “bò vàng” (công an). Ở
trại tù chính thức của Bộ Nội vụ như trại Yên Hạ này chúng tôi được gặp những
bạn tù anh em ta bị bắt từ hồi Mậu Thân (1968) cũng như một số anh em khác, tù
binh từ trận Hạ Lào (1971). Những trại tù này thường là trại hỗn hợp vừa có tù
chính trị (như tụi tôi) vừa có tù hình sự. Bên hình sự có thiếu gì những người
tù bị hình án nặng nề từ 20 năm đến chung thân ở đây.Đến trại Yên Hạ này, tôi
được gặp Trung tá Kh., dân Tiếp vận bị bắt hồi Mậu Thân khi về Huế ăn Tết thăm
gia đình. Anh còn sống sót không nằm trong nấm mồ tập thể mấy nghìn người, kể
ra cũng phải tạ ơn Trời Phật. Cho đến lúc này thì Kh. đã có thâm niên 9 năm tù,
kinh nghíệm hơn tụi tôi nhiều lắm (mới có trên 2 năm). Khi được hỏi về sự khác
nhau, giống nhau giữa 2 trại trâu xanh và bò vàng Kh nói: “Một bên là dao
găm, một bên là thuốc độc, không biết bên nào êm ái hơn bên nào”. Ngừng một lát
Kh. Nói tiếp: “Tuy nhiên, qua các trại miền Bắc tôi thấy cuộc sống tù đày tùy
thuộc khá nhiều vào trại trưởng. Mới chuyển sang trại bò vàng Công an mà các
bạn được về đây là khá đấy. Ông cụ Việt, trại trưởng trại này là một biệt lệ
trong các cai tù… Rồi các bạn sẽ thấy”.
Chúng tôi nhận ra biệt lệ
này ngay trong lần đầu tiên lên hội trường nghe “huấn thị”. Trại trưởng trại
Yên Hạ, cấp bậc Trung tá Công an, thường được gọi thân mật là cụ Việt, là một
ông già tóc bạc, tuổi trên dưới 60, dáng vẻ trầm tư, phát ngôn mực thước. ông
nói “Chúng tôi được trên giao nhiệm vụ quản lý các ông, cải tạo viên chính
trị. Phạm nhân chính trị có quy chế riêng. Trại sẽ áp dụng đúng quy chế ấy đối
với các ông. Tôi mong các ông chấp hành nội qui nghiêm chỉnh để trại chúng tôi
thực hiện tốt mục đích trên giao mà các ông cũng tạo được kết quả bước đầu
trong học tập cải tạo”.
Khác với cán bộ CS thường
thay, trại trưởng Yên Hạ nói ngay vào vấn đề, ngắn gọn, cụ thể – không lèm bèm
chửi mắng mà cũng không lý thuyết chính trị rẻ tiền. Nhưng điều đặc biệt là tù
nhân chúng tôi chưa bao giờ nghe thấy ở đâu là ông cụ Việt này gọi chúng tôi là
“các ông”. Sau tháng 4 đen 75, chúng tôi tự biết mình đang đi xuống nấc thang
thứ bét của xã hội, thuộc vào giai cấp bị triệt tiêu, chưa bị hành hạ, bắn giết
lúc nào là may lúc ấy. Có bao giờ chúng tôi nghĩ rằng mình lại được gọi là “các
ông” như thế. Tìm hiểu về người trại trưởng, tôi lại phải hỏi Kh. , người tù
thâm niên ở đây. Được tiếp xúc với trại trưởng nhiều lần, nên Kh. dường như
hiểu biết khá rõ về ông cụ Việt. Kh. nói: ông ta là người có văn hóa, nói tiếng
Pháp khá hay, nguyên là trưởng xa (chef train) của Sở Hỏa xa thời Pháp. ông ta
hình như có tham gia hội kín, hội hở trước 1940 và sau mới chuyển theo Cách
mạng. Vì “quá trình” như thế nên bây giờ gần tuổi về hưu rồi mà cấp bậc vẫn lẹt
đẹt trung tá. Xem như tên trại phó Đặng U. dân răng đen mã tấu chính tông mới
chưa đến 40 mà đã thiếu tá Công an rồi. Nó bóp còi qua mặt ông ta mấy hồi…”
Đây là trại tù chính thức
của Công an miền Bắc, và tôi nhận ra rằng những trại tù sau này mà tôi sẽ đi
qua đều có một kiến trúc tương tự. Tường đá bao quanh cao chừng 4m (ở đây Sơn
La “lưới núi” nên xây tường bằng đá hộc), ở trên có chăng thêm 3 tầng dây thép
gai chằng chịt. 4 góc có 4 chòi canh, công an bò vàng gác suốt ngày đêm, đầu
giờ, cuối giờ kẻng đánh lia chia, gắt gỏng. Ngay bên cạnh cổng giữa đi vào là
văn phòng trực trại, nhìn vào một cái sân rộng gọi là sân “tập kết” nơi tù các
đội tập họp đợi giờ xuất trại đi làm. Cuối sân tập kết là Nhà Văn Hóa hay Hội
trường, vừa là nơi hội họp, học tập toàn trại vừa là nơi trình diễn văn nghệ.
Dọc hai bên sân tập kết là 2 khu nhà. Gọi là khu A và khu B. Mỗi khu lại chia
ra nhiều lô nhỏ có tường bao quanh. Mỗi lô có một nhà tù dài chia ra làm 2 lán.
Mỗi lán chứa 2 đội tù, từ 70 đến 100 người, tùy theo nhân số lúc vắng lúc đông.
Chúng tôi đến trại Yên Hạ này đầu mùa rét tháng 11 năm 1977 lúc tù rầm rộ kéo
về mỗi người tù chỉ có được chừng 50cm vừa ăn vừa nằm chật cứng. Khu A là khu
dành cho chúng tôi, tù chính trị, khu B đối diện là khu hình sự. Theo quy định
nhà tù, lô này không được sang lô kia, nếu không có phép của trực trại, và khu
này với khu kia thì tuyệt đối cấm không được lai vãng.
Một buổi trưa, chúng tôi
vừa tạm thu xếp chỗ nằm xong chợt có tiếng la giật giọng từ bên khu B đối diện
vọng sang: “Chết tôi rồi, cứu tôi với. ôi cụ Việt ơi!” Từ một lô nhà khu hình
sự một người tù đang cố sức chạy ra sân tập kết. Nhưng anh ta chạy không được
vì một cán bộ Công an bò vàng đang nắm tóc người tù kéo giật xuống mà lên gối.
Tiếng kêu cứu của người tù tắc nghẽn giữa những tiếng hự hự liên tiếp. Người
cán bộ này ra đòn rất gọn rõ ra có nghề . Người tù rũ xuống như một đống giẻ
rách mà cán bộ chưa tha. Còn “sút” thêm mấy quả vào lưng vào bụng. Chợt có
tiếng ông cụ Việt từ một căn nhà gác ở bên ngoài cổng trại (ở dưới là văn phòng
trại trưởng, ở trên là nơi ở) nói vọng vào: “Cái gì thế?” Có tiếng trại trưởng
là cán bộ mới từ từ bỏ đi… Tù bên khu B mới ra cõng người tù hình sự vào nhà,
hình như đã ngất đi, trào máu họng.
Vừa mới sang nhà tù Công
an mà chúng tôi đã được “dàn chào” như vậy nên rét quá. Lại phải đi hỏi Kh. bạn
tù thâm niên. Kh. nói “Tù hình sự ở đây nó khiếp lắm. “Đầu gấư’ cả đấy. Hở ra
là nó giết nhau ngay. Cho nên cán bộ an ninh kiêm chấp pháp chuẩn úy Trần M.
mới dữ như vậy. Nhưng trại trưởng ông cụ Việt thì ông ta không cho phép đánh
tù. Có mặt ông là không được phép. Nhưng mà sau lưng ông là nó đánh ra gì. Đánh
chết bỏ. Vài bữa nữa đi làm các bạn đi về phía Mường Thải, thấy có cái nghĩa
địa mả cũ mả mới lô nhô, đó là chỗ tù theo nhau ra nằm ở đấy” – “Tù chính trị
cũng vậy à”. – “Cũng nằm một chỗ nhưng có khác. Mả tù chính trị thì hơn được
cái bia, hoặc là bằng đá hoặc là bằng gỗ. Còn mả hình sự thì vùi nông một nấm,
coi như xong.”
Vài nấm mộ từ cải tạo)
Sau vụ dàn chào ghê rợn, một số anh em tù cải tạo
thầm thì to nhỏ với nhau rằng: “Trại trưởng ông cụ Việt đóng vai ông Thiện, phó
trưởng trại Đặng U. với cán bộ giáo dục (tức chính trị viên của trại) Nguyễn
Hồng L., và cán bộ an ninh kiêm chấp pháp Trần M. đóng vai ông Ác. Đó là trò
vừa đấm vừa xoa thường thấy.” Nhưng ở lâu hơn, tôi thấy hai khuynh hướng này
đối chọi nhau rõ rệt, không phải chỉ là sách lược đối phó nhất thời.
Đã gần hết năm, một buổi
họp bàn về tổ chức vui Tết năm Ngọ (1978) được cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L.
chủ trì. Anh cán bộ mặt gà mái này tuyên bố: “Các anh sống một cuộc sống tay
sai, trước là cho Pháp sau là cho Mỹ nên các anh thiếu văn hóa, hay là không có
văn hóa. Bây giờ đi cải tạo, Cách mạng phải hướng dẫn các anh, dạy dỗ các anh
sống có văn hóa. Trong dịp Tết này, trại dành cho các anh một nửa chương trình,
một nửa cho khu A, một nửa cho khu B. Các anh hãy rán theo đường lối của Cách
mạng mà sửa soạn một chương trình văn nghệ, để xem các anh có mở mắt ra được
chút nào không?”
Còn ông trại trưởng ông cụ
Việt, khi gặp ban Văn nghệ chúng tôi được triệu tập lo chương trình Tết thì ông
cụ lại nhỏ nhẹ nói rằng: “Tết là một ngày lễ truyền thống của dân tộc. Các ông
là người có học. Tôi hy vọng các ông sẽ đóng góp được một chương trình văn nghệ
có ý nghĩa”. Cách ăn nói, thái độ khi tiếp xúc với chúng tôi của ông cụ Việt
trại trưởng nó ôn tồn, thoải mái, không có vẻ nghiến răng căm thù như thường
thấy nơi cán bộ CS. Phải chăng nguồn gốc xuất thân của ông đã khiến ông có một
niềm thông cảm tự nhiên đối với chúng tôi, những người tiểu tư sản thua quân
mất đất. Năm ấy chủ trương đấu tranh giai cấp còn rất mạnh; ở miền Nam đang vào
cao điểm đánh tư sản, mại bản nên dân “Ngụy” chúng tôi từ trong tù cho đến
ngoài xã hội được coi như một lũ “cùi” không ai dám đến gần. Đúng theo quy
luật, chúng tôi là giai cấp bị triệt tiêu. Có những người bạn tù, có anh em
ruột thịt làm lớn ở ngoài Bắc.
Những nhà CM ấy đã vào Nam
nhận họ, nhận “hàng”, nhận tiền, nhận bạc để khi ra Bắc, nhờ mang một số quà đi
thăm người thân cải tạo. Nhưng dù là anh em ruột thịt, cùng mẹ cùng cha nhưng
phần lớn các nhà CM ấy quên luôn, không dám đi thăm. Dính líu với ngụy quân
ngụy quyền là phản động. “Thời kỳ phát động chiến dịch, bố tôi bị đi cải
tạo là tôi cũng phải quên bố tôi luôn nếu tôi muốn có sổ gạo, có bát cơm mà ăn,
huống hồ là anh em họ hàng”, một người tù hình sự đã nói với tôi như vậy. Thế
mà ở đây đang mùa đánh tư sản mại bản, ông cụ Việt chánh giám thị trại tù lại
gọi chúng tôi là “các ông”. Tôi chưa gặp ở đâu, cai tù CS lại gọi đối xử với tù
nhân như vậy… Trại triệu tập ban Văn nghệ tù chính trị bằng hai cách. Theo
nghề nghiệp trước đây ghi trong hồ sơ và tin tức nhận được về những người tù có
khả năng văn nghệ. Một người bạn của tôi được gọi ra thành lập ban kịch. Đó là
bạn Nguyễn Văn Th. nguyên đạo diễn điện ảnh và sân khấu. Anh cũng là người được
giải thưởng văn chương toàn quốc thời Đệ nhất Cộng hòa… cùng với nhà văn Nguyễn
Mạnh Côn. Th. già là bạn cùng khóa 2 Thủ Đức và cùng ngành Chiến tranh Chính
trị với tôi nên một bữa Th. tìm gặp tôi và nói: “Cán bộ chính trị nó chửi mình
nặng như thế thì dù là tù đi nữa, mình cũng phải làm cái gì chứ ông”. Nể lời
bạn nên tôi cũng vào ban văn nghệ với một nhiệm vụ khiêm nhượng “phụ tá khói
lửa”. Ở miền Bắc, kịch cũng như điện ảnh bao nhiêu năm qua đều sống với đề tài
chiến tranh nên tổ chức nào cũng phải có người lo về khói lửa tức là vấn đề kỹ
xảo về súng bắn, mìn nổ, lửa cháy, v.v… Nhưng nhiệm vụ khởi đầu của tôi chỉ là
đem đến ban kịch một cái nùi rơm và cái điếu cày để anh em giải lao hút thuốc.
Ngẫm ra rất đúng với nhiệm vụ được giao: có khói và có lửa.
Nguyễn Văn Th. được lệnh
viết một cái kịch ngắn cho anh em trình diễn. Nhưng mà bạn tôi kẹt, viết mãi
không ra. Một bữa tôi mới nói với Th.: “Mình “sức voi” mà đi viết kịch. Tư
tưởng mình khác, tư tưởng của họ khác. Đầu óc họ luôn luôn căm thù, nghi kỵ, không
khéo rồi bút sa gà chết. Tại sao mình không lấy kịch của họ mà “chơi?” – “Nhưng
mà kịch của họ, nó chỉ chửi bố mình không làm sao mà diễn”, Th. đủng đỉnh trả
lời như vậy.
Khi mới về trại, tôi có
thời gian lo liên lạc mượn một số sách, báo cho anh em, nên tôi biết thư viện
trại có một số kịch bản. Trong trường kịch Quang Trung của Trúc Đường có một
màn có thể tách ra diễn được. Tôi ngỏ ý với Th. già: “Màn Lửa Kinh Thành trong
kịch Quang Trung này viết khá. Nếu chơi màn kịch này, mình có 2 điều lợi. Thứ
nhất mình không mất công viết, kịch của họ, tác giả của họ mình khỏi lo về phần
tư tưởng. Thứ hai kịch lịch sử nên anh em ta không có mặc cảm khi tập và khi
diễn. Như thế may ra mới có “chút lửa” cho anh em”. Tôi đưa kịch bản Lửa Kinh
Thành cho Th. đọc và bạn tôi đồng ý; sau đó kịch được đưa lên ban Giáo dục
duyệt. Trong khi đó bộ phận nhạc do một số anh em ngành Tâm lý chiến đảm trách
lo hát đồng ca, tốp ca, đơn ca và độc tấu tây ban cầm. Anh em bên nhạc cũng
đồng ý chọn trình bày những bài ca ít sắt máu, ít căm thù mà vẫn bàng bạc một
tấm lòng yêu quê hương xứ sở. Chương trình tổng quát được chuẩn y, gồm 30 phút
ca nhạc, một giờ kịch, anh em bắt đầu vào tập dượt.
Chúng tôi tập ở trên Hội
trường, anh em hình sự tập trong một căn nhà khu B. Chúng tôi được biết anh em
hình sự được nghỉ lao động ăn tập trước chúng tôi 2 tuần theo một chương trình
đã được công diễn từ những năm trước, nay chỉ ôn luyện lại cho thuần thục. Nửa
buổi, khi chúng tôi đang uống nước cầm hơi thì anh em văn nghệ hình sự xuống
nhà bếp đem về một rổ khoai lang “bồi dưỡng”. Theo như chúng tôi cảm nhận, ban
Giáo dục trại đang dốc hết tâm lực để phần trình diễn của anh em hình sự nhuần
nhuyễn, vượt trội hơn phần văn nghệ của tù chính trị, nhằm “dạy cho tụi ngụy
một bài học về văn hóa”.
Anh em trong ban Văn nghệ
khu A tuy không nói ra nhưng cảm thấy có trách nhiệm trong trò chơi văn nghệ
của mình. Đói thì đói nhưng anh em tập dượt hết mình.
Còn gần một tháng nữa mới
đến Tết nhưng không khí thi đua văn nghệ giữa 2 khu A, B đã lan truyền khắp
trại. Anh em khu A đi làm ngoài, có bữa kiếm được củ khoai, miếng sắn lại dấm
dúi đem cho. Chúng tôi hiểu được sự chăm lo, kỳ vọng của anh em. Cuộc chiến
tranh quân sự tàn rồi, cuộc chiến tranh văn hóa còn đang tiếp diễn.
Một hôm đang nửa buổi,
trại trưởng ông cụ Việt vào hội trường dự khán anh em chúng tôi tập dượt. Thấy
gần trưa rồi mà ban Văn nghệ khu A vẫn xuông tình, ông cụ hỏi: “Anh em không
nghỉ ăn bồi dưỡng hay sao?” Mấy người có trách nhiệm mới trình bày với trại
trưởng là chúng tôi vẫn tập “xuông” không có “bồi dưỡng”. Ông cụ Việt liền cho
gọi thi đua (mấy anh tù được cất nhắc lên làm chân chạy việc cho ban giám thị)
lên chỉ thị: “Cung cấp ngay chế độ bồi dưỡng hằng ngày cho đội văn nghệ khu A”.
Ông cụ còn dặn thêm: “lệnh trại trưởng cấp thêm cho mỗi đội văn nghệ của A lẫn
B mỗi ngày một gói trà. Anh em tập dượt ca, kịch cần thấm giọng”. Thế là hàng
ngày, “phụ tá khói lửa” là tôi lại thêm việc đun nước pha trà cho anh em nhấm
nháp.
Đi vào thực hiện kịch lịch
sử đối với chúng tôi, nó có ưu điểm nhưng cùng một lúc nó kéo theo nhiều điều
phức tạp. Thứ nhất tập dượt cầu kỳ. Người “ngày xưa” ăn nói cử chỉ khác người
ngày nay. Một ông quan văn với một ông quan võ chào hỏi, vuốt râu nó khác nhau,
không giống nhau. Cách phát âm hay nói theo giọng nhà nghề “đài từ” của kịch
lịch sử khác với kịch thời đại. Hơn nữa trang trí sân khấu, cách phục sức cho
nhân vật kịch “ngày xưa” nó đòi hỏi nhiều nghiên cứu, nhiều phụ tùng hơn kịch
“bây giờ”, cái kho đạo cụ của trại không thỏa mãn được. Vào việc đạo diễn Th.
già bấn xúc xích về việc dàn cảnh, về đạo cụ nên bạn già yêu cầu tôi lo giúp về
phần tập luyện.
Bạn Th. già biết dạo xưa
tôi có sinh hoạt trong Sông Hồng Kịch Xã ở Hà Nội trước khi động viên vào quân
đội, trong khi đó Th. già viết cho báo Giang Sơn. Chúng tôi biết nhau từ ngày
ấy. Vả chăng tôi vốn sinh trưởng ở nhà quê mà làng tôi vốn là đất chèo, có một
phường chèo thường trực ở trong làng nên tự nhiên tôi quen thuộc với một số ước
lệ của tuồng, chèo cổ. Những năm đi kháng chiến ngoài bưng, tôi đi theo một
đoàn Tuyên truyền xung phong nên tôi cũng tàm tạm có một số kinh nghiệm về sân
khấu. Cho nên nhận lời bạn già, tôi đang là “phụ tá khói lửa” lại thêm một chức
vụ nữa “phụ tá đạo diễn”.
Không gian kịch là tư dinh
Đinh Đề Lĩnh, viên quan trấn thủ kinh thành Đông Đô (Thăng Long – Hà Nội). Thời
gian là đêm mồng 4 tháng Giêng năm Kỷ Dậu đêm trước của toàn quân vua Quang
Trung đại phá quân Thanh. Vở kịch đòi hỏi 5 vai quan trọng: Đinh Đề Lĩnh, trấn
thủ Thăng Long; thất vọng trước sự yếu hèn của hôn quân Lê Chiêu Thống, căm hận
trước sự tham tàn bạo ngược của quân tướng nhà Thanh nên phút cuối cùng Đinh Để
Lĩnh nghe theo lời khuyến dụ của La Sơn Phu Tử, đặc sứ của vua Quang Trung
Nguyễn Huệ, mở cửa thành, đốt kho lương thảo khi nghĩa quân tấn công. Vai chính
Đinh Đề Linh do Nguyễn Huy T., đại úy đài Tự Do cục Tâm lý chiến đảm trách. T.
là một con người tài hoa, hát hay, nhảy giỏi, dáng người cao mà thanh, vừa văn
vừa võ, đã nhập vai Đinh Để Linh rất đẹp. Anh chơi kịch từ thời sinh viên nên
có đủ bản lĩnh trên sân khấu vừa say mê vừa tỉnh táo.
Vai La Sơn Phu Tử do
Nguyễn T. cũng đại úy bên Tổng cục Chiến tranh Chính trị (người ở Seattle vừa
viết thư cho tôi) nhận lãnh. Nguyễn T. vốn là em một người bạn tôi, nên tôi
biết T. từ khi chưa bị động viên vào quân đội. T. đi Hướng đạo nên quen thuộc với
sân khấu. T. không dám tin ở tài sức của mình nhưng tôi khuyến khích T. nhận
vai La Sơn Phu Tử. T. vốn người Thanh Hóa, nói được giọng già, dáng người văn
nhã mà cứng cỏi, lại chuyển sang gíọng Nghệ An – Hà Tĩnh rất ngọt nên có đầy đủ
dáng vẻ của một mưu sĩ “đàng trong”. Một vai phản diện rất gay là vai tướng nhà
Thanh, nói tiếng Việt ngọng líu ngọng lo mà tham dâm hiếu sắc do Trung tá Lê
Văn Hóa, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn văn nghệ Quân đoàn 4 phụ trách. Anh là
người tràn đầy kinh nghiệm sân khấu lại thêm là “vua cười” của đội, luôn mồm
hát, no cũng hát, đói cũng hát “Ngộ bên Tàu à… ngộ mới sang – sang Nam Việt bán
buôn làm giàu…” nên vai tướng Tàu như là vai viết riêng cho anh vậy.
(trong trại tù)
Người nữ độc nhất, cô chủ quán mê hoặc tướng Tàu
do đại úy Tôn Thất L. thủ vai. Anh đi tù cực khổ, đói khát như vậy mà vẫn da
trắng tóc dài, mắt sắc như dao làm gái Thăng long rất đẹp. Riêng có một vai quê
mùa, vai ông già chăn ngựa thọt chân, luôn luôn say xỉn do một đại úy Cảnh sát
đảm nhận vai mà tập mãi chưa vô. Anh có nhân dáng quê mùa, cục mịch, say mê vai
diễn nhưng tiếng cười, giọng nói của anh nó văn minh quá, thành thị quá thiếu
mất chất nhà quê. Mà đây là vai quần chúng vai đại diện cho nhân dân phản kháng
nên trại để ý lắm. Thiếu úy Công an Q. đại diện cho phòng Giáo dục, hằng ngày
theo dõi chúng tôi tập dượt, lắc đầu trước vai ông già chăn ngựa mà phê bình
đủng đỉnh “chưa được”. Sau rồi, đạo diễn Th. già mới tham khảo ý kiến anh em mà
bảo tôi rằng: “Ông khỏi mất công dượt cho anh ấy nữa.
Ông thì vừa già, vừa chân
tập tễnh, lại vừa có chất quê… thế thì ông chơi ngay cái vai ấy đi cho nó tiện
việc sổ sách.” Anh em cũng ồn ào đề nghị nên tôi lại kiêm luôn vai cụ Triệu ông
già chăn ngựa. Sở dĩ đạo diễn Th. già và tôi chú ý đến giọng nói là vì khi diễn
kịch ở đây, chúng tôi diễn “chay” không có ban nhạc làm nền (background music).
Vì vậy phải đặt trọng tâm vào giọng “thoại”, đưa vào đó nhiều màu sắc để phần
nào quên đi cái thiếu vắng nhạc nền kia.
Có giọng Bắc trầm hùng
cứng cỏi của Đinh Đề Lĩnh, giọng miền Trung uyển chuyển, sâu sắc của La Sơn Phu
Tử, giọng ngọng nghịu của tướng Tàu, giọng Bắc pha Huế đài các của cô chủ quán,
giọng quê mùa bạo liệt của ông già chăn ngựa. Nút kịch được thắt khi La Sơn Phu
Tử đang đêm được ông già chăn ngựa nhà ở gần bên đưa vào gặp Đinh Đề Lĩnh ở tư
dinh, thuyết điều hơn, lẽ thiệt. Kịch được thắt thêm 1 nút khi tướng Tàu sục
sạo đi tìm cô chủ quán xinh đẹp bất ngờ xộc vào tư dinh Đinh Đề Lĩnh khi La Sơn
Phu Tử còn đang hiện diện. Để tránh cho cơ mưu của “đàng trong” đừng bại lộ,
cũng là cởi nút cho vở kịch… ông già chăn ngựa liền dũng cảm nhảy vào đâm chết
tướng Tàu rồi cùng chết. Cái chết bất ngờ của ông già chăn ngựa như một giọt
nước làm tràn ly khiến Đinh Đề Lĩnh còn đang do dự, chuyển hẳn sang thế nghĩa
quân… mở cửa thành, đốt kho lương thảo khi đại quân vua Quang Trung tràn tới.
Sau đó, bình minh ngày 5 tháng 1 năm Kỷ Dậu cũng vừa hiển hiện.
Để lo việc trang trí sân
khấu và phục sức cho nhân vật kịch, trung tá Quân cụ Tr., nguyên sinh viên Mỹ
Thuật ngày nào bây giờ là trưởng ban đạo cụ liền đem cái tài hoa còn lại của
mình sửa chữa mấy đôi bốt hư của cán bộ thành hia cho văn quan, võ tướng nhà
Lê, cải biến mấy cái mền dạ cũ màu đỏ, màu xám thành nhung y cho Đinh Đề Lĩnh,
cho tướng nhà Thanh. Mấy cái đường kẻ đen trên tấm mền đỏ ngày nào bây giờ dưới
bàn tay thần tình của Tr. đã biến thành hoa văn “thủy ba sóng rợn”. Tướng nhà
Thanh thì nhung y lẫm liệt, hia mão đàng hoàng. Nhưng khi Đinh Dề Lĩnh, võ quan
nhị phẩm triều đình đội mão theo đúng nghi thức thì tôi có ý kiến là Đinh Đề
Lĩnh không nên đội mão chỉ nên đội khăn. Đội mão xem ra nó “cải lương” hơn,
không truyền thống bằng cái khăn lượt Việt Nam. Đạo diễn Th. già đồng ý. Anh
Tr. cũng đồng ý tuy rằng anh rất tiếc chiếc mão “võ quan nhị phẩm” rất công phu
của anh.
Trong thành tích trang trí
tư dinh của Đinh Đề Lĩnh ngày Tết, anh Tr. đắc ý nhất là 3 chữ đại tự anh viết
trên bức hoành phi (bằng giấy): Huyết do hồng. Tr. vừa là nghệ sĩ vừa là trí
thức. Th. già và tôi hiểu ý anh, nắm tay anh thông cảm. Thiếu úy Công an Q.
người thường xuyên sinh hoạt với chúng tôi một bữa mới hỏi Th. già về ý nghĩa
mấy chữ nho này. Th. giải thích: đây là 3 chữ cuối trong vế đối, nhắc lại chiến
công chống xâm lược phương Bắc của tiền nhân “Đằng Giang tự cổ Huyết do hồng”
(Nước sông Bạch Đằng từ xưa đến nay vẫn còn đỏ máu). Tôi thấy Thiếu úy Q gật
gù, ngẫm nghĩ, và từ đó thái độ đối với chúng tôi có khác. Anh em chúng tôi dù
sống kiếp tội đồ khổ sở, đói khát nhưng trong công tác văn nghệ này ai củng cố
gắng đóng góp một chút gì, để hy vọng nói lên rằng: chúng tôi thua trận, bị cầm
tù, bị lăng mạ nhưng chúng tôi có văn hóa theo cách riêng của chúng tôi.
Đã đến ngày 30 Tết, năm Tỵ
sắp sang năm Ngọ (1977-1978). Nghe anh em lưu cựu ở đây lâu nói rằng chưa có
bao giờ trại ăn Tết to như thế. Có lệnh của trại trưởng là bao nhiêu tiền quỹ
của năm cũ chi cho bằng hết nên Tết đến thịt trên 10 con heo, 1 con bò; tát ao
lấy cá chắm, cá chép lên ăn Tết. Mấy vườn su hào cũng nhổ “đại trà” làm dưa.
Toàn là món “cao cấp” cho toàn trại, toàn thể tù nhân ăn Tết. Trong 10 năm đi
tù cải tạo, tôi ngẫm lại chưa có năm nào, ở đâu được ăn một cái Tết tù như vậy.
Ngoài các món ăn, anh em tù nhân còn được lĩnh mỗi người hai bánh chưng, thuốc
lá, thuốc lào, và đêm 30 đi xem kịch tất niên về toàn trại còn có cháo lòng bò
bồi dưỡng. Nghe phong thanh là sau Tết trại trưởng trung tá Trần Việt sẽ nghỉ
hưu nên ông xã cảng “cái gì của tù là trả hết cho tù”.
Bữa tổng dượt có mặt đủ
ban Giám thị trại, chương trình của khu A chúng tôi được cán bộ giáo dục Nguyễn
Hồng L. chăm chút rất kỹ. Y ta để ý rất nhiều đến những sự “đóng góp” của chúng
tôi vào vở kịch, hỏi khá kỹ về câu đối “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng “. Vốn
bản tính đa nghi nên y không muốn đưa vào bất cứ điều gì không có trong kịch
bản. Ông cụ Việt, có lẽ ông ta là người rộng rãi kiến văn nên ông cụ nói: “Tư
dinh một viên võ tướng có tâm hồn với đất nước mà treo bức hoành Đằng Giang tự
cổ huyết do hồng thì được lắm. Để đối phó với cường lân phương Bắc lại càng hay
nữa .” Nhưng cán bộ giáo dục tỏ ý ngần ngại, khi chúng tôi định hát đoạn đầu
của bài Thăng Long Hành Khúc của Văn Cao vào đoạn kết của vở kịch. Nguyên văn
trong kịch bản chỉ có “tiếng hô sát của đại quân ta nhỏ dần rồi màn hạ”. Ở đây
chúng tôi trong hậu trường sẽ hô “sát, sát” đồng loạt rồi hát từ từ nhỏ đến to
dần lên “Cùng ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng, trông khói sương
chiều ám trên dòng sông. Nhị Hà còn kia Nhị Hà còn đó, lũ quân giặc Tôn sập cầu
trôi đầy sông.” Màn từ từ khép và đến đó là dứt kịch. Chúng tôi muốn cho cái
“coup de rideaư’ nó thêm sức thuyết phục.
Đã thử lại lúc màn hạ này
mà không có tiếng đồng ca Thăng Long Hành Khúc ở bên trong. Nó nguội đi nhiều
lắm. Cán bộ giáo dục cuối cùng chấp nhận “cách đạo diễn” của chúng tôi nhưng
nhất quyết không bằng lòng 2 chữ “giặc Tôn” mà phải đổi ra là nhà Thanh “cho nó
rõ nghĩa” (chữ của y ta, bởi vì giặc Tôn có thể liên tưởng đến Tôn Đức Thắng
chăng?).
Tối 30 Tết, trại Yên Hạ
nôn nả hẳn lên. Mới 7 giờ đêm, mà hội trường đã chật cứng. Phạm nhân khu A ngồi
bên phải. Khu B bên trái. Những dãy ghế phía trên là dành cho quan khách, gồm
cán bộ khung xã sở tại, huyện ủy Phù Yên, cán bộ Công an và gia đình. Cứ như ý
kiến bữa tổng dượt thì đêm 30 Tết, ban Văn nghệ sẽ diễn trong trại. Mồng 4 Tết
chúng tôi sẽ ra huyện lỵ Phù Yên diễn cho dân chúng tới xem. Cho nên buổi diễn
hôm nay là buổi diễn trong chương trình vui Tết đón Giao thừa, vừa là buổi phúc
khảo trước khi ban Văn nghệ “đem chuông đi đấm xứ người”.
Chương trình khu B, bên
hình sự được diễn đầu tiên. Cũng đồng ca, đơn ca, một màn kịch ngắn “đánh Mỹ”
và kết bằng màn dân ca Quan họ Bắc Ninh. Anh em hình sự chơi chương trình này
đã “thuộc” nên đối đáp, tung hứng rất là nhuần nhuyễn. Nhưng vì “bổn cũ soạn
lại” nên nó làm cho tù chính trị chúng tôi chăm chú hơn là khán giả sở tại.
Bên hình sự có một ca sĩ
tên Ng. hát rất hay, rất kỹ thuật; nghe nói anh ta đã tốt nghiệp thanh nhạc nên
hát đâu có thua gì ca sĩ trên đài phát thanh. Ca sĩ bị tù mút mùa vì nghe nói
anh mắc tội làm tem, phiếu giả. Kịch “đánh Mỹ” thì không có gì mới. Vẫn theo
công thức cũ. “Mỹ cút, ngụy nhào, quân ta kẻ thù nào cũng đánh thắng, khó khăn
nào cũng vượt qua”. Nhưng phải công nhận anh em hình sự chơi nhạc cảnh Quan họ
“Mời trầu, giã bạn” rất đằm thắm, ý nhị và duyên dáng. Đây là một tiết mục hay.
Khi anh em cúi đầu chào khán giả, chúng tôi dù ở trên sân khấu, đang sửa soạn
“ra trò” mà chúng tôi cũng không ngừng vỗ tay tán thưởng. Đoàn trưởng đoàn kịch
khu B. Quách H., đứng ở cánh gà phía bên kia, đứng nghiêm, để tay lên ngực cúi
đầu chào lại chúng tôi như một sự cảm thông cái tình tri âm, tri kỷ. Có lẽ
“cái đinh” của đêm văn nghệ hôm nay đối với khán giả địa phương là Văn nghệ khu
A, tù chính trị. Họ chưa bao giờ được biết miền Nam thật sự như thế nào? Miền
Nam đã thua, đã tan nát nhưng những tàn dư của miền Nam, lũ tù chính trị chúng
tôi, vẫn còn đây. Họ đã được nghe “nhà nước ta” nói rất nhiều về miền Nam,
nhưng “trăm nghe sao bằng một thấy”. Văn nghệ, là một thái độ sống. Họ muốn
biết thái độ sống của miền Nam thế nào qua những đại diện khốn khổ nhưng trung
thực là chúng tôi. Chúng tôi cũng cảm nhận được điều đó nhưng trong tình trạng
tù đày, bó buộc như thế này, biết ăn, biết nói làm sao? Thôi thì “sức người có
hạn, được đến đâu hay đến đó”.
Qua mấy màn ca nhạc, đồng
ca, đơn ca, tôi nghiệm ra là về kỹ thuật, chúng tôi không sánh bằng anh em hình
sự. Điều dễ dàng nhận thấy là tù chính trị già hơn, nên hơi hám kém hơn. Nhưng
hiệu quả sân khấu thì chưa chắc ai hơn ai. Lấy ví dụ như ca sĩ Văn B. của chúng
tôi hát làm sao tốt bằng, khỏe bằng Ng. bên khu B, nhưng khi anh hát xong tiếng
vỗ tay có lẽ nhiều hơn, nồng ấm hơn. Ng. hát giọng ngực, lớn, vang nhưng anh
hát theo lề lối thường thấy ở ngoài Bắc, không rõ lời. Nhiều khi không biết anh
hát cái gì nữa chỉ thấy trước sau giọng ngân vang rền rĩ mà thôi. Còn Văn B.
anh là ca sĩ tài tử (ngoài Bắc kêu bằng nghiệp dư, thích thì hát chơi không
phải nhà nghề) nên hát bài nào anh phổ tâm tình vào bài hát đó. Anh không trưng
bày giọng hát mà như văn nghệ thường thấy ở miền Nam, anh có một tâm sự để mà
kể lại. Anh thuộc loại ca sĩ trữ tình (chanteur de charme) không phải ca sĩ
Opera như khuynh hướng ngoài Bắc. Cho nên nghe Văn B. ca sĩ miền Nam, hát không
giỏi bằng, không khỏe bằng nhưng nó dễ nghe hơn, nó thấm thía hơn, nó con người
hơn. Mà cũng có thể vì cách hát của anh khác lạ hơn nên anh được chú ý và tán
thưởng.
Tiết mục gây được nhiều
tiếng cười sảng khoái là màn tốp ca. Anh em chúng tôi dựng tiết mục này theo
lối AVT, nhằm kiếm được nụ cười trong tình trạng tối ám của nhà tù. Mà điều này
cũng là một thực tế. Chúng tôi là phạm nhân nhưng trong đời sống chúng tôi vui
cười nhiều hơn cán bộ coi tù. Ở ngoài Bắc, hoặc là người ta sống căng thẳng quá
hoặc là người ta phải ngụy trang lối sống cho nên phần đông mọi người mặt khó
đăm đăm. Đây là bệnh táo bón tinh thần thường thấy nơi xã hội thiếu tự do. Ba
bạn Đỗ H., Văn B., Trịnh P. hát hò, đối đáp với nhau thoải mái. “Cái gì nhúc
nhích là ta chén liền “. Tiếng cười đồng cảm vang lên. Từ cánh gà nhìn xuống,
tiếng cười lan tỏa chỉ có người cau mặt là cán bộ giáo dục…
Màn gây ấn tượng sâu sắc
là độc tấu Tây ban cầm. Đây là loại đàn nhiều người chơi. Nhưng tập tành đến
nơi đến chốn chơi được nhạc cổ điển hay bán cổ điển thì có rất ít người. Người
anh em chơi Tây ban cầm của chúng tôi đã có trên 10 năm cầm đàn. Anh bữa ấy độc
tấu một bản bán cổ điển. Một cây đàn Tây ban cầm mà như một dàn nhạc. Có lúc
réo rắt như violon, lúc nhảy nhót như mandoline, khi rộn rã như piano, khi trầm
hùng như một đoàn quân nhạc đón đoàn chiến binh chiến thắng trở về . Tôi nghĩ
đám đông khán giả kia chưa chắc đã hiểu hết ý nghĩa của bài vừa diễn tấu nhưng
nhìn bàn tay buông bắt đầy kỹ xảo, nghe âm thanh tiết tấu phong phú, họ hiểu
rằng chơi đàn như vậy là một kỳ công. Kỳ công ấy là văn hóa.
Bây giờ bắt đầu tiết mục
cuối cùng, tiết mục chủ yếu chấm dứt đêm văn nghệ, kịch Lửa Kinh Thành, trung
tâm đầu tư công sức của chúng tôi. Tôi nhìn suốt một lượt. Sân khấu đã trang
trí chỉnh tề. Diễn viên đã sẵn sàng, đạo cụ đầy đủ. Th. già nhìn tôi. Tôi giơ
tay ra dấu sẵn sàng. Trưởng ban đạo cụ kiêm trang trí sân khấu, họa sĩ Tr. đưa
cho Th. một thanh gỗ. Rất trịnh trọng Th., nhà đạo diễn giơ cao thanh gỗ nện 3
lần xuống sàn sân khấu. 3 tiếng gõ truyền thống của sân khấu kịch bắt đầu. Màn
từ từ mở. Tư dinh quan Đề Lĩnh với hoành phi, câu đối, lộ bộ, cờ hiệu trên án
thư, kiếm treo trên tường đã phút chốc đưa người xem về không khí trang trọng
và sương kính của thế kỷ 18. Một tràng pháo muộn của đêm mồng 4 Tết từ đâu vẳng
lại. Đinh Đề Lĩnh, võ phục uy nghiêm, lưng mang đoản kiếm tiến lại gần án thư,
cúi mặt thở dài. Chợt lính hầu khép nép hiện ra chắp tay thưa:
– Bẩm quan, người vừa đi
chầu về.
– Có chầu chực gì được
đâu. Hoàng thượng còn bận sang hầu Tôn Tổng đốc… Ở nhà có chuyện gì không ?
– Bẩm quan, có ông cụ
Triệu mấy lần sang kêu về cỏ ngựa. (Có tiếng i ới bên ngoài vang lên: Quan lớn
về chưa ?) Đấy lại có tiếng ông cụ…
– Ra mời ông cụ Triệu vào
đây.
(Ông cụ Triệu, ông già
chăn ngựa, tập tễnh vì thọt chân, lảo đảo vì say rượu, chầm chậm bước vào).
– Xin kính chào quan lớn.
– À cụ Triệu (giọng độ
lượng), Thế nào ? Cụ đã làm lễ tạ ông vải chưa?
– Bẩm quan, các cụ nhà tôi
có về đâu mà tiễn. Con cháu còn không đủ ăn lấy gì mà thỉnh các cụ. Bẩm quan,
từ ngày Hoàng thượng hồi loan đến giờ, nhờ ơn Hoàng thượng mà cả nước này đói
xanh xao cả người ra đấy quan lớn ạ.
Vừa nghe đến đó, cả khối B
hình sự như chạm phải một luồng điện, vùng lên vừa vỗ tay vừa cười la ầm ĩ. Qua
nửa chương trình, tôi nghiệm ra khán giả khu B thưởng thức văn nghệ rất nhạy
bén. Không thích là ồ, là suỵt, là thở dài ào ào, mà thích là vỗ tay là cười la
thoải mái. Ở đây kịch vừa mới bắt đầu, động tác chưa “chuyển”, tại sao anh em
lại hoan nghênh như vậy? Sau hỏi ra mới biết là chưa có ở đâu dám động đến cái
đói thâm căn cố đế của miền Bắc như vậy. Cả nước đói “xanh xao” mà vẫn phải
luôn miệng “ơn đảng ơn người”. Đến những cảnh sau, khi động đến sự thối nát của
đương triều, sự bạo ngược của đoàn quân họ Tôn là anh em hình sự lại vỗ tay rôm
rả. “Cái quân họ Tôn này là nó vừa trí trá vừa ngông cuồng” (vỗ tay). “Tại sao
nhà Lê lại có một ông vua ươn hèn như vậy, cõng rắn cắn gà nhà (vỗ tay rất
lâu).
Người miền Bắc sống dưới
một chế độ chuyên chính lâu ngày, đã trở thành một vương quốc nói dối. Không ai
dám công khai nói thực ý kiến của mình. Có nói là phải nói gần nói xa, nói cạnh
nói khóe. Đói phải nói là no, khổ phải nói là sướng. Đang trong tình trạng ấm
ức như thế, ơn đảng ơn người như thế mà bây giờ có người dám nói thẳng ra giữa
chốn trù nhân quảng tọa “là từ ngày Hoàng thượng hồi loan đên giờ nhờ ơn Hoàng
thượng mà cả nước đói xanh xao cả người ” thì dân hình sự nghe nó sướng quá, nó
thỏa mãn quá. Nói đến quân họ Tôn thì họ không nghĩ đến Tôn Sĩ Nghị mà nghĩ đến
Tôn Đức Thắng”. Ông vua nhà Lê ươn hèn thối nát họ không nghĩ đến vua Lê Chiêu
Thống mà lại nghĩ đến ông “vua” Lê Duẩn đương thời.
Thực tình khi trình diễn
chúng tôí không hề có hậu ý đó. Chỉ cốt tìm một kịch lịch sử để cho anh em có
chỗ diễn mà thôi, những sự kiện trên hoàn toàn là sự trùng hợp tình cờ. Nhưng
anh em hình sự lại nghĩ chúng tôi cố ý nên khi vở kịch kết thúc là anh em hình
sự đứng dậy vỗ tay như pháo nổ, nồi niêu xoong chảo gõ loạn lên, hoan hô kịch
liệt. Đội trưởng đội văn nghệ khu B, Quách H. chạy lại nói với Th. và tôi: “Các
đàn anh chơi kịch đâu ra đấy”. Mấy chú hình sự “đồng nghiệp văn nghệ” thì chạy
lại cõng Đinh Đề Lĩnh, La Sơn Phu Tử mà quay mòng mòng.
Điều làm trại phó Đặng U.,
cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L. và cán bộ an ninh kiêm chấp pháp Trần M. khó
chịu hơn hết là họ muốn qua văn nghệ khu B dạy cho chúng tôi một bài học về văn
hóa thì bây giờ chính anh em hình sự sau buổi trình diễn lại càng gần gũi thân
thiết với chúng tôi hơn.
Cái vui của đêm văn nghệ
không kéo dài được bao lâu. Ngày mồng 2 Tết, còn đang ngày nghỉ, Th. và tôi
cùng mấy anh em bên ca nhạc có lệnh đi họp với cán bộ giáo dục, đã nhận được
một tin choáng váng “buổi diễn hôm mồng 4 Têt ngoài huyện Phù Yên được hủy
bỏ. Đội văn nghệ nghiệp dư giải tán ngay sau kỳ nghỉ Têt”. Chúng tôi phải về
làm kiểm điểm về “những sai phạm trong công tác văn nghệ”. Ngày mồng 4 Tết
trước khi nộp kiểm điểm, Th. và tôi được thiếu úy Q. phụ tá giáo dục, gọi ra
nói khẽ: “Trước sau như một, phải cam kết là diễn y như kịch bản, không thay
đổi một chữ”. Không hiểu bạn tôi Th, làm kiểm điểm ra sao, riêng tôi cứ y thế
thi hành.
Có lẽ thiếu úy Q., người
đi sát chúng tôi khi tập dượt, phần nào thông cảm chúng tôi sau hơn một tháng
trời sát cánh nên chút thiên lương còn lại đã khiến y chỉ cho chúng tôi cái cạm
bẫy mà chúng tôi cần tránh. Nếu chúng tôi, trong khả năng thường thấy của đạo
diễn, có sửa đổi kịch bản cho nó thêm phần sống động, là chúng tôi có thể bị
ghép vào tôi “bôi xấu chế độ có hệ thống” một trọng tội thuộc hàng quan điểm.
Thực ra chúng tôi chỉ linh động phần trang trí mà không hề đổi thay kịch bản
một chữ nào. Đương sự, phó trại trưởng Đặng U. đã chính thức lên trại trưởng
khi Tết ra, cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L., cán bộ an ninh kiêm chấp pháp Trần
M. khi đọc lại nguyên văn kịch bản của Trúc Đường chắc cũng nhận ra điều đó.
Nhưng người CS vốn luôn luôn cảnh giác, cảnh giác nhiều quá thành đa nghi nên
mới “có tật giật mình” như thế.
Sau một tuần lễ kiểm điểm đi kiểm điểm lại, người
chịu tội thay cho toàn thể ban văn nghệ khu A là bạn trẻ Đỗ H. bên phần nhạc.
Thật ra khi sáng tác ra bản nhạc vui kiểu AVT, nhiều anh em xúm lại cùng làm,
trong đó có tôi. Nhưng khi bị cán bộ giáo dục quy tội “bôi bác chế độ” trong
câu “cái gì nhúc nhích là ta chén liền” Đỗ H. một mình nhận hết cho anh em.
Trong 3 người ca hát AVT, Đỗ H. cũng là người hát duyên dáng nhất, nên bị cán
bộ gà mái Nguyễn Hồng L. cho rằng “nhảy dậm giựt phát huy văn hóa đồi trụy”.
Tôi thường ngày rất gần gũi Đỗ H., bởi vì H. ngoài việc tính tình khẳng khái,
hát giỏi, thơ hay, anh còn là một người “biết sống”. Nửa đùa nửa thật nhiều lúc
anh gọi tôi là “ông thầy”. Có miếng khoai củ sắn anh thường chiếu cố đền tôi.
Một hôm trời mưa không đi
ra ngoài làm được anh cũng “bồi dưỡng” tôi miếng sắn. Tôi thấy rõ ràng sắn khẩu
phần của trại đâu phải sắn cải thiện bên ngoài. Cho nên dù luôn luôn đói, tôi
không nhận củ sắn H. cho. “Anh cứ ăn đi mà” – “Chú mày coi tao ra làm sao mà
lại đi ăn sắn khẩu phần của chú mày cho được”. Đỗ H. đủng đỉnh “Nóỉ thật với
anh, H. chỉ ăn môt nửa số sắn trại phát là đủ rồi. Tập cho cái bao tử nó quen
đi. Chế độ này nó chỉ giỏi nắm cái bao tử của mình. Mình tập cho bao tử nó teo
lại thì dù có bị nắm, nó cũng không ảnh hưởng bao nhiêu. Em thấy ngoài hiện
trường anh cuốc hăng quá. Cuốc chút chút thôi chớ”. Nghe xong tôi mới tỉnh ra
mà nói: “Thôi chú mày đừng có gọi tao là ông thầy nữa, chú mày mới đúng là ông
thầy của tụi tao”.
Người anh em của tôi, Đỗ
H. bị lên làm việc trên phòng an ninh chấp pháp liên miên. Đỗ H. có nhắn một
người bạn Nguyễn T. La Sơn Phu Tử nói với tôi là bất cứ ở đâu, trong trại ngoài
hiện trường đừng gặp Đỗ H., coi như không quen biết. Một buổi sớm mai, Đỗ H.
được đi làm trở lại. Đỗ H. gầy rộc, mặt mũi vêu vao, thâm tím. Sau này tôi mới
biết, đối với tù chính trị, cán bộ khi cần không có đánh công khai. Gọi lên
“làm việc”, đánh kín trong phòng chấp pháp.
*
Từ ngày trại phó Đặng U.
lên làm trại trưởng, lũ tù cải tạo chúng tôi gieo neo vất vả hơn nhiều. Khẩu
phần ít đi, làm việc nhiều hơn. Làm quần quật ban ngày, đêm còn “ngồi đồng”
bình bầu, tự phê, tự kiểm.. . Trời đã sang tháng 3, hoa gạođã bắt đầu nở đỏ,
chim “bắt cô trói cột” mà cán bộ bắt chúng tôi gọi là chim “khó khăn khắc phục”
đã ra rả ở đầu rừng. Từ khi trại phó Đặng U. lên, tôi được thăng chức làm “phân
cục trưởng” chuyên môn đi gánh c… Mỗi buổi sáng, gánh từ trại ra đội rau 3
chuyến là xong. Chuyến cuốì cùng, tắm rửa xong ra về anh em chúng tôi bất ngờ
gặp ông cụ Việt, nguyên trại trưởng đang ngồi trên chiếc xe đạp gần nhà kho của
trại. “Thưa cụ, cụ từ trên huyện về thăm trại”. – “Vâng, các ông đi làm; tôi về
lĩnh chút tem, phiếu”. Ngày ấy chế độ bao cấp còn thịnh hành, người ta sống
bằng phiếu gạo, phiếu đường, phiếu sữa, phiếu bột ngọt, phiếu thuốc lá, thuốc
lào, v.v… ông cụ Việt chắc chưa chuyển hộ khẩu về huyện Phù Yên nên hàng tháng
vẫn phải lên trại lĩnh chút nhu yếu phẩm. Tôi nghĩ vậy.
Nhưng buổi chiều đi làm
tôi vẫn gặp ông cụ ngồi trên chiếc xe đạp cũ bên cạnh cửa kho. Chưa ai phát nhu
yếu phẩm cho ông cụ, mà cũng không ai mời ông cụ vào nghỉ chân qua lúc ban
trưa. Tôi tự nghĩ tại sao cùng là cán bộ với nhau, người ta lại phũ phàng với
ông già như vậy? Tôi chợt nhớ đến câu nói của người tù hình sự khi mới về đây
“Đang phát động chiến dịch đánh tư sản mại bản nếu bố tôi có bị đi cải tạo tôi
cũng phải quên bố tôi luôn, nếu tôi muốn có bát cơm mà ăn “. Sự nghỉ hưu bất
ngờ và vội vã của ông cụ Việt có liên hệ gì đến việc ông cụ đối xử tử tế với tù
nhân, đến việc ông gọi chúng tôi là “các ông”. Câu hỏi này cứ làm tôi băn khoăn
thắc mắc mãi. Bất giác, một người tù khổ sai biệt xứ là tôi lại thấy cảm thương
một người cai tù già “cùng một lứa bên trời lận đận “.
Bạn T. “La Sơn Phu Tử” cái
thư của bạn làm tôi bồi hồi nao nức về chuyện văn nghệ trong tù 19 năm xưa. Bạn
nói là có lúc nào chúng ta gặp lại nhau “chơi” lại cái màn kịch “Lửa Kinh
Thành” không nhỉ? Khó lắm bạn ơi. Làm sao người ở lục địa này, người lục địa
kia hội họp bên nhau cho được. Lại còn chuyện người còn kẻ mất. “Tướng nhà
Thanh”, người bạn Lê Văn Hóa của chúng ta đã đi rồi. Anh mất ở trại Thanh Phong
rừng sâu Hạ Lào. Anh cứ phù lên xẹp xuống như “thủy triều”. Hôm cáng anh lên
tuyến trên rồi nghe tin anh mất ở đó, nằm trên cáng mà anh vẫn hát “ò e con ma
đánh đu, thằng Tây nhảy dù, Zoro bắn súng”. Người đâu mà lạ. Cười ngoài đời,
cười trong tù, cười luôn khi sắp chết.
Bạn nói trong thư “ước gì
chúng ta…”. Bạn ơi nếu tôi có một điều ước, tôi ước mong cho ngày nào trời
đất phong quang, chúng ta được trở về đất nước Việt Nam yêu dấu, muốn đi đâu
thì đi. Tôi sẽ đi tới những trại tù năm cũ, thăm lại người xưa, thăm lại các
bạn tù chúng ta còn nằm lại. Tôi sẽ tới trại Yên Hạ, tới quận Phù Yên hỏi xem
ông cụ Việt trại trưởng năm xưa còn sống hay không? Nếu gặp được ông cụ tôi sẽ
nầm lấy tay mà nói “Tôi là là cựu tù nhân Yên Hạ đây, cụ còn nhớ tôi không,
thưa cụ?”
Phan Lạc Phúc.
Vài dòng tiểu sử:
Sinh năm 1928,
Tốt nghiệp Khóa 2 Thủ Đức.
Năm 1965, là Chủ bút của tờ
nhật báo Tiền Tuyến và mở mục Tạp Ghi dưới tên Ký Giả Lô Răng.
Sau biến cố tháng Tư, 1975,
Trung Tá Phan Lạc Phúc đã qua các trại tập trung Long Giao, Suối Máu, ra Bắc ở
Liên trại 2 Sơn La, Phù Yên, Thanh Phong, Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh), Hà Nam Ninh, sau
cùng là Xuân Lộc Z30D.
Ra tù năm 1985, năm 1991, vợ
chồng ông đến định cư tại Sydney, Úc theo diện đoàn tụ.
Ông cầm bút trở lại, và cũng
với thể loại tạp ghi xuất hiện trên nhiều tờ báo khác tại Úc Châu như Chiêu
Dương, Văn Nghệ, Việt Luận, Dân Việt và Ngày Nay (Mỹ), Quê Mẹ (Pháp), Thời Báo
(Canada).
Ông mất năm 2016 vì đột quỵ
tại Sydney (NSW) Australia
Wednesday, January 15, 2025
Có Bao Giờ Bạn Nghĩ ? - Người Phương Nam
Có
bao giờ bạn nghĩ mình may mắn
Được
tái sinh trên miền đất tự do
Đêm
về không còn thấp thỏm âu lo
Quỷ
đỏ bất thần ập vô bắt bớ
Có
bao giờ bạn nghĩ mình tốt số
Sống
phủ phê trong xứ sở giàu sang
Khi
triệu triệu người đói khổ lầm than
Không
có miếng ăn dù mẩu bánh vụn
Có
bao giờ bạn nghĩ mình hạnh phúc
Được
náu nương một đất nước thanh bình
Đã không
còn nữa ác mộng đao binh
Để từ
đó bạn an cư lạc nghiệp
Có
bao giờ bạn thấy lòng hổ thẹn
Sau
một thời nhờ sống gởi vinh thân
Đã
quên ngày bỏ của chạy lấy thân
Quay
đầu về xun xoe bắt tay giặc
Tôi đã nghĩ không bao giờ trở lại
Khi quê hương vẫn đầy dãy bò vàng
Khi nước nhà còn cộng sản nghênh ngang
Người Phương Nam