Thursday, July 3, 2025

Mùa Ấu Quê Nhà - Đức Ngôn


Hằng năm, cứ đến mùa nước nổi là đồng ruộng ở khu vực ĐBSCL lại ngập tràn ấu, một trong những loại cây nhiều người dân chọn trồng nhằm tăng thu nhập trong mùa lũ.

Cây ấu có thể sống được quanh năm, nhưng sinh trưởng tốt và cho năng suất cao vào mùa mưa. Bởi thế, cứ đến mùa nước nổi, trong lòng mỗi người con xa xứ lại nhớ về mùa ấu quê hương.

Từ lâu loại cây thủy sinh này đã gắn bó với quê tôi – một vùng đất trũng hay bị ngập nước và thường xuyên có lũ về. Không biết ai là người đầu tiên tìm được loại cây trồng thích hợp như ấu để giúp bà con tăng thu nhập cho gia đình trong mùa nước nổi, ai là người đầu tiên thấy được cái trắng trong tinh khiết trong những trái ấu xù xì mộc mạc nép mình khiêm tốn dưới những lớp lá non.

Có người gọi trái ấu, có người gọi củ ấu, cách nào cũng được, cũng là ấu mà thôi.

Ca dao có câu:

Thân em như củ ấu gai

Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen

Ai ơi nếm thử mà xem

Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.

Đó chính là đặc điểm của trái ấu. Dù vẻ ngoài đen đúa, méo mó, gai góc nhưng bên trong lại trắng nõn, ngọt bùi. Có rất nhiều loại ấu: ấu Đài Loan, ấu gai… nhưng ở quê tôi trồng phổ biến ấu sừng trâu vì loại này dễ trồng lại cho rất nhiều trái.


Từ tháng 6 đến tháng 11 âm lịch, nhất là mùa nước về, những chiếc lá ấu như hàng ngàn bàn tay bé xíu xanh mướt đang xòe ra đón ánh nắng mặt trời, những chiếc lá ấu tươi tốt báo hiệu một mùa ấu bội thu. Với trẻ con, mùa này vui lắm. Thích nhất là lúc rủ nhau ra ruộng ấu hái những trái ấu non, đứa nào cũng hào hứng. Đứa trên bờ nhặt ấu, đứa xuống ruộng hái. Ban đầu còn đứng trên bờ, sau đó lội luôn xuống ruộng ấu. Vỏ ấu non rất mềm và dễ tách, không cứng như ấu già nên chúng tôi rất thích.

Nói vậy chứ hái ấu vất vả lắm, phải lội trong nước cả ngày, đôi khi còn bị gai ấu đâm vào tay tứa máu. Bà con quê tôi vẫn hay đùa “hái ấu riết mặt cũng đen như trái ấu”, vậy mà không ai nỡ bỏ cái nghề trồng ấu này. Ba má tôi cũng như bà con trong vùng đều sống bằng nghề trồng ấu từ lâu lắm rồi. Dễ trồng, không tốn nhiều công chăm sóc, những ruộng ấu tốt tươi đã cùng bao người dân vượt qua khó khăn vất vả. Nhiều người còn tận dụng những ao nước, ruộng ngập nước trong mùa lũ để trồng. Cứ nhà này thu hoạch thì nhà kia đến giúp không phải trả tiền thuê mướn. 

Mùa ấu đến cũng là lúc má tôi vất vả nhất, vừa thu hoạch bán ấu, vừa lo cơm nước gia đình nhưng má không quên dành phần cho chúng tôi nồi ấu luộc đầu mùa ngọt lịm. Và cũng đến mùa ấu là nhà tôi lại có nhiều món ăn được chế biến từ loại trái đặc biệt này. Nào là ấu luộc, ấu nấu chè, ấu non ăn sống… nhưng tôi thích nhất là món canh trái ấu. Có lẽ má muốn đãi cả nhà một bữa thật ngon bù lại những ngày vất vả và mừng ấu trúng mùa.

Bữa cơm gia đình đầm ấm chan chứa thương yêu thoang thoảng mùi hương ấu đầu mùa mãi là ký ức đẹp trong tuổi thơ tôi và cái âm thanh lốp cốp của những trái ấu già va vào thành nồi đã trở thành quen thuộc.

Với trẻ con vùng đất ấu như chúng tôi, mùa này ngày nào cũng được ăn ấu, ăn mãi thành ghiền, có khi chúng tôi còn lấy cọng dừa xâu ấu lại thành chùm như một chùm sừng trâu ngộ nghĩnh rồi đọ xem xâu ấu của đứa nào kết được dài hơn. Ấu luộc khoảng 30 phút là chín, lúc đó vỏ ấu lại chuyển sang màu đen như những cái sừng trâu, đúng như tên gọi của nó: ấu sừng trâu.


Ba thường dạy chúng tôi đừng đánh giá việc gì hay nhận xét một con người chỉ qua vẻ bề ngoài. Cũng như trái ấu vậy, bề ngoài trông méo mó, đen đúa, xù xì vậy mà bên trong lại trắng ngần, rất bùi, rất thơm. Những gai góc đắng cay đã theo ba suốt bao năm trời để cho chúng tôi có được cái ngọt, cái ngon trong cuộc đời này.

 

Đức Ngôn

Ngày Độc Lập Hoa Kỳ - Đỗ Công Luận

Bài Tình Thơ Tháng Bảy - Sương Lam



Tháng Bảy xứ Mỹ rộn rã tiếng pháo mừng Ngày Độc Lập.  Những năm mới đến xứ Mỹ, người viết cũng  nôn nao sửa soạn mền chiếu, thức ăn thức uống để sang Vancouver, WA xem đốt pháo bông và cùng chung vui với cư dân sở tại.  Thật là náo nhiệt, thật là vui vẻ. Những năm sau này, người viết ở nhà xem đốt pháo bông trên Tivi cho “tiện việc sổ sách” để khỏi mệt tấm thân  “không còn trẻ nữa” của mình.

Nhìn những chùm pháo bông sáng đẹp trên bầu trời, nhìn những em bé nhảy múa ca hát vô tư, nhìn những nụ cười ánh mắt của người dân Mỹ đón mừng lễ hội một cách thoải mái, tự do trên màn ảnh, tôi thấy đất nước Mỹ này quả thật an bình, hạnh phúc.  Tự nhiên trái tim của một người sống hơn 30 năm nơi xứ người bừng dậy lên tình cảm vui buồn lẫn lộn. Tôi ngậm ngùi nhớ đến chuyện xưa tích cũ nên đã cảm hứng viết xuống bài thơ Bài Tình Thơ Tháng Bảy để nói lên tâm sự của mình.  Người viết nghĩ rằng đó cũng là tâm tình của những ai cùng một nhịp đập trái tim tình cảm như tôi. 

 Người viết xin được chia sẻ tâm sự này đến với các bạn và hy vọng rằng quý bạn sẽ cảm thông với người viết.  Xin cảm tạ quý bạn.

Bài Tình Thơ Tháng Bảy


Tháng Bảy quê người  hoa đăng lễ hội

Mừng đón Ngày Độc Lập với Tự Do

Pháo nổ trên cao, thiên hạ chuyện trò

Khắp chốn muôn nơi, mọi người ca hát 

 

Tháng Bảy quê mình nắng vàng bãi cát

Cái nóng nung người đỏ lửa Trị Thiên

Đại lộ kinh hoàng thuở nọ hiện tiền

Bao già trẻ gánh gồng đi lánh nạn 

 

Tháng Bảy nơi đây nắng hồng buổi sáng

Hoa nở đầy vườn muôn sắc khoe xinh

Khắp chốn muôn nơi, đờn trống xập xình

Mừng ngày Độc Lập hơn hai trăm năm lập nước 

 

Tháng Bảy chốn xưa, kẻ sau người trước

Lẳng lặng ra đi bỏ cửa bỏ nhà

Bỏ lại quê hương, cha yếu mẹ già

Tìm bến Tự Do ở nơi xa chốn lạ 

 

Một kiếp thuyền nhân lênh đênh nơi biển cả

Sóng nước bập bềnh trôi nổi chiếc thuyền con

Quyết chí ra đi với hy vọng sống còn

Cho con trẻ được sống đời hạnh phúc 

 

Rồi thoáng đó, bóng thiều quang bay vút 

Và bây giờ đã mấy chục năm qua 

Đã bao lần Tháng Bảy lại trôi qua

Đã bao lúc ngắm pháo bông rực rỡ 

 

Và tự hỏi:  biết có ai trăn trở

Nhớ tích xưa Chức Nữ với Ngưu Lang

Tháng bảy mưa Ngâu, cầu Ô Thước nhịp nhàng

Đưa ta về trùng phùng người thân cũ

 

Những đứa trẻ lớn lên nhớ gì về quê cũ 

Những người già nằm xuống hồn phách ở nơi đâu

Nhìn người vui sao ta lại ưu sầu 

Ta viết xuống Bài Tình Thơ Tháng Bảy 


Sương Lam

Người viết lại lang thang trên internet đi tìm tài liệu về ngày lễ quốc gia quan trọng này đem về đây chia sẻ với quý bạn để chúng ta, dầu muốn dầu không, một khi đã sống ở xứ Mỹ này cũng cần nên biết tại sao dân Mỹ đã đón mừng ngày Lễ Độc Lập này một cách tưng bừng, náo nhiệt như thế?  Xin mời quý bạn đọc qua tài liệu dưới đây:

Ngày Độc lập Hoa Kỳ

Tại Hoa Kỳ, Ngày Độc Lập, còn gọi là 4 tháng 7 (the 4th of July), là một ngày lễ liên bang để kỷ niệm Tuyên ngôn Độc lập được ký năm 1776.

Ngày lễ này thường được đi kèm với những cuộc diễu hành, liên hoan ngoài trời, và nhiều buổi lễ công cộng. Từ năm 1777, pháo bông đã được đốt để đón mừng ngày lễ.

 Lịch sử

Tuy ngày 4 tháng 7 đã được kỷ niệm từ lâu, nhiều người cho rằng ngày này không chính xác. Trong cuộc Chiến tranh Cách mạng, những người thuộc địa ở vùng Tân Anh (New England) đã đấu với Anh từ tháng 4 năm 1775. Kiến nghị đầu tiên trong Quốc hội Lục địa để giành độc lập được đưa ra trong ngày 8 tháng 6. Sau khi có nhiều bàn cãi, Hội nghị đã bí mật bầu (12-0) đòi độc lập từ Đế quốc Anh trong ngày 2 tháng 7. Hội nghị sau đó sửa đổi văn bản tuyên ngôn cho đến sau 11 giờ ngày 4 tháng 7, khi 12 thuộc địa bầu chấp nhận và đưa ra một phiên bản chưa ký cho các nhà in. (New York không bầu trong cả hai cuộc). Philadelphia đón mừng Tuyên ngôn bằng cách đọc nó với công chúng và đốt lửa mừng trong ngày 8 tháng 7. Mãi đến ngày 2 tháng 8 thì một phiên bản sạch mới được các thành viên trong hội nghị ký, nhưng vẫn giữ bí mật để họ khỏi bị quân Anh đánh trả đũa.

John Adams, được Thomas Jefferson cho là một trong những người quan trọng nhất trong phía đòi độc lập, viết thư cho vợ Abigail trong ngày 3 tháng 7 rằng ông tin rằng ngày 2 tháng 7 sẽ được kỷ niệm làm ngày độc lập trong các thế hệ tới. Ông đã sai hai ngày. Tuy biểu quyết trong ngày 2 tháng 7 là việc quyết định, ngày 4 tháng 7 là ngày được viết trong bản tuyên ngôn. Văn bản của Jefferson, sau khi được Hội nghị hiệu đính, được chấp nhận trong ngày 4. Đó cũng là ngày đầu tiên dân chúng Philadelphia nghe được tin về việc đòi độc lập chính thức này.

Phong tục

Ngày Độc lập được chào đón với những biểu hiện yêu nước. Nhiều nhà chính trị thường đọc diễn văn ca ngợi các di sản và người dân của Hoa Kỳ. Các gia đình thường làm cuộc liên hoan ngoài trời, thường tụ họp với những người bà con ở xa, vì được nghỉ nhiều ngày cuối tuần hơn. Các cuộc diễn hành được diễn ra sáng ngày 4, vào buổi tối thường có pháo bông ngoạn mục. Trong dịp lễ thì nhiều gia đình treo cờ Hoa Kỳ ở trước nhà để mừng

Trong một số tiểu bang, dân thường được phép mua pháo bông nhỏ hơn để đốt. Vì lý do an toàn, một số tiểu bang cấm điều này hay hạn chế cỡ của pháo bông.

(Nguồn:  Trích trong vi.wikipedia.org)

 Mời quý bạn thưởng thức youtube dưới đây do Sương Lam thực hiện thay cho lời kết bài tâm tình hôm nay của người viết, bạn nhé.


Youtube Mừng Ngày Quốc Khánh nước Mỹ - Happy 4th of July

Sương Lam thực hiện

https://youtu.be/UmHiVcuTiiQ

Happy 4th of July

Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé. 

 Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

Sương Lam

(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 768-ORTB 1199- 7-2-2025)


Sương Lam

Website: www.suonglamportland.wordpress.com

http://www.youtube.com/user/suonglam

https://www.pinterest.com/suonglamt/

Wednesday, July 2, 2025

Tình Chiến Hữu: Chiếc Xe Lăn - Nguyễn Phước Bảo Tiên


I.

Nhìn qua cửa kính từ bồn rửa tay, bệnh nhân đã được tiền mê. Nhân viên phòng mổ đang chuẩn bị dụng cụ. Tôi dùng vai bên phải đẩy cửa bước vào. Một cô y tá choàng áo cho tôi, rồi đeo găng tay. Luôn luôn là latex số bảy rưỡi. Anh nhân viên gây mê nhìn tôi, nhẹ nhàng nói qua khẩu trang: “Chờ ông”. Dưới ánh đèn sáng rực, tôi nhìn lại một lần cuối đầu gối bên phải của bệnh nhân. Cần phải cắt bỏ một phần ba dưới xương đùi và làm lại mỏm cụt. Sau đó, mới có thể lắp ráp chân giả vào được.

Không phải ca mổ cấp cứu nên anh em trong toán phẫu thuật có thể hỏi nhỏ nhau: “Sao để lâu vậy nhỉ.” Không có điều kiện. “Thế ban đầu bị cái gì.” Mìn nổ, bay mất hai cẳng chân, chuyển từ tiền phương về trong tình trạng shock. Bác sĩ lúc đó chỉ có thể tháo khớp gối cứu mạng. Không ngờ bệnh viện đóng cửa, để luôn cho đến nay. “Đau lắm nhỉ.” Ừ không hiểu sao bệnh nhân chịu đựng nỗi. Periosteol, màng xương, là vùng chịu cảm giác đau nhiều nhất.

Chuẩn bị và săn sóc thì lâu nhưng ca mổ chỉ kéo dài khoảng 45 phút là xong. Tôi bước ra ngoài, viết hồ sơ bệnh án và thuốc men hậu phẫu. Xong thay áo bước xuống khu hồi sức.

Bên ngoài nắng đã lên rất cao.


ll.

Bác Bảy đánh cộp cốc rượu xuống bàn, hít sâu một hơi thuốc lào. Nhả khói, rồi lên giọng:

“Mẹ kiếp! Ông là trung sĩ thủy quân lục chiến, lữ đoàn đóng ở Mỹ Chánh, bảo vệ phía bắc Huế. Đang chỉ huy tiểu đội đuổi theo môt toán Sao Vàng thì mìn nổ. Nó hất tung ông lên tuốt trời xanh. Khói và cát bay mù mịt, thằng em chạy bên cạnh cũng lãnh đạn như thế. Xong chẳng biết gì nữa. Tỉnh dậy trong hầm bệnh viện dã chiến, nghe loáng thoáng các bác sĩ bảo nhau: ‘Bên trái cưa, bên phải tháo khớp. Chờ trực thăng đưa về sau.’ Rồi ông lại mê tiếp. Chẳng thấy đau đớn gì cả. Có lẽ mấy thằng em lụi morphine nhiều quá. Chỉ buồn ngủ. Người lả đi như con bún. Ngo ngoe không nỗi một ngón tay!”

Đám thanh niên trong quán chăm chú lắng nghe. Đa số là thanh niên xung phong, đi vùng kinh tế mới. Buổi tối tụ tập, thắp đèn dầu ngồi lai rai với nhau. Có thằng hỏi tiếp:

- Rồi sao bác về đây?

- Hộ khẩu.

- Nghĩa là sao?

- Là hậu khổ. Thằng này ngu quá!  Chính quyền bắt về địa phương cư trú. À, ông chưa kể xong, mày cứ cắt ngang hông. Còn rượu không. Rót!

Không khí vui hẳn lên, giữa đám đông nghèo cùng cực của vùng núi non heo hắt. Mới tám giờ tối. Khí lạnh đã bao trùm cả vùng đồi hoang sơ Tiên Lãnh này. Ban ngày, họ lên rừng cắt dây mây, ôm lại thành từng bó; chiều đem về đếm lại cho hợp tác xã mây tre. Những người không lao động được thì chẻ, gọt, tước ra thành từng sợi nhỏ. Nhóm khác thì đan lại thành những cái quạt, cái đập bụi, ghế mây. Nghe nói nhà nước xuất cảng qua tận Liên Xô!

Bác Bảy cao hứng kể tiếp.

- Rồi chẳng có trực thăng gì ráo. Tối hai lăm tháng ba, ông được xe cứu thương chở về bệnh viện Mang Cá, Huế. Họ chuyền máu, thuốc men, nói vài hôm sẽ chuẩn bị mổ lại. Súng đạn vẫn nổ ầm ầm ngoài xa. Chiều hôm sau, mở mắt thấy cả khu bệnh xá vắng vẻ lạ thường. Nghe mấy ổng đã quyết định bỏ Huế. Ngồi dậy, choáng váng lắm. Một tay trung uý quân y. Bơ phờ. Có lẽ suốt cả tuần làm việc không ngủ. Cái tay này được lắm. Dễ thương hết sức. Ở lại với thương binh đến giờ phút chót. Cái giờ thứ 25 ấy, bọn bây chả hiểu gì đâu.

Rồi sao nữa- Bọn trẻ lao nhao hỏi:

- Tay bác sĩ bế ông lên chiếc xe lăn duy nhất còn lại, rồi đẩy vội ra ngoài sân. Cứ vài ba phút lại có tiếng hoả tiễn, đại bác bay lạc qua đầu. Không khí đầy mùi pháo, mùi thuốc súng, một y tá nhét ông lên xe dodge rồi cùng nhiều bệnh nhân khác chạy xuôi về Nam.

- Thế gia đình bác đâu?

- Tán loạn, biết đâu mà tìm, hỏi cắc cớ!

Làm tiếp một điếu thuốc lào nữa, lim dim đôi mắt, ông chậm rãi kể:   

 - Mất hai ngày mới vượt qua đoạn đường trăm cây số. Đến được Đà Nẵng, gặp gia đình vài ngày thì cái thành phố này tiêu luôn. Thật là khỉ gió! Chưa đánh nhau đã tan hàng. Coi như ông gãy súng.  

Rồi ông hề hà:

- Có chiếc xe lăn, đỡ lắm, ban ngày ông nấu cơm, lo việc nhà. Cho đến khi nhà nước bảo phải đi kinh tế mới lập nghiệp. Lưu lạc nơi này. Ấy, mới có chuyện kể các chú nghe.


lll.

Bác Bảy đến tìm tôi một chiều mưa, quán cà phê nhỏ vàng vọt ánh đèn dầu vắng khách. Co ro và rút người vào trong tấm áo mưa, hai tay chầm chậm giữ xe đứng yên, chiếc xe lăn là tài sản cuối cùng ông có được sau cuộc chiến. Bác lúi húi moi ra một điếu thuốc lá. Nhẹ nhàng để trong lòng bàn tay tôi và nói:

- Nhờ bác sĩ, mỏm xương đùi đã hết đau. Từ từ sẽ kiếm cách đi chân giả hoặc đeo nạng gỗ. Có chút chuyện gia đình, cho phép được không?

Tôi mỉm cười, lấy điếu thuốc châm lửa cho ông vui lòng. Gió chiều hôm ấy rất lạnh. Có những hạt mưa phùn bay lất phất qua hàng hiên. Miền Trung vào mùa đông thường mưa và lạnh kéo dài cả tháng.

- Giúp được gì, tôi sẽ gắng.

Ngần ngừ một lát, ông nói:

-Tôi cần tiền. Muốn bán cái xe lăn này.

Tôi cắn chặt điếu thuốc, nó chợt như muốn rớt. Cái cảm giác tê rần trên môi và cay cay trong mí mắt. Nhìn thẳng vào mắt ông, đôi mắt vẫn sáng rực sức sống.

- Nhưng nó là đôi chân của bác. Tôi bảo.

- Cả tuần rồi, sáng đi ra chợ Cồn, chiều về tay không. Chả có ma nào dám mua. Tôi biết bác sĩ có nhiều bệnh nhân trong thành phố. 

- Rồi sống làm sao khi không có nó? Tôi sẽ có cách. Tôi sẽ không chết, nhưng cả gia đình tôi chẳng sống được vì hết gạo. Bọn nhỏ  cháo cả tháng nay. Ngày một bữa. Đói rã người!


lV.

Nhớ lại có bệnh nhân người Hoa ở cuối phố. Vỡ mạch máu não. Liệt nửa người đã hơn mấy năm nay, chữa trị thế quái nào mà hồi phục được. Gia đình cần xe lăn. Một phần cho dễ dàng trong cuộc sống, một phần để đưa vào Sài Gòn, gặp phái đoàn phỏng vấn đi đoàn tụ nước ngoài. Cũng âu do duyên nghiệp. Thế là tôi cho địa chỉ bác Bảy để họ thương lượng nhau.

Gia đình người bán vui, có tiền mua gạo qua cơn bĩ cực. Người mua cũng vui. Chỉ có tôi và bác Bảy ngỡ ngàng nhìn nhau. Không nói được gì. Lặng lẽ. Tôi chỉ cho bác cách đệm làm chân giả, chống nạng để tạm sống qua ngày. Chúa ơi, thời 1980, bác sĩ như chúng tôi làm việc chưa đủ sống, hẳn là giúp người khác.


Thời gian, cuộc sống cứ thế trôi đi. Tôi cũng ra đi, bỏ lại sau lưng tất cả, những mơ ước và hoài bão, muốn xây dựng một cái gì tốt đẹp hơn cho quê hương mình… Thế nhưng, cái mặc cảm để một chiến binh trên bước đường cùng. Tàn phế. Phải chịu đau khổ hơn. Đày đọa hơn, làm tôi không ngủ yên. Nhiều đêm, trong giấc mộng, tôi vẫn thấy hình ảnh bác Bảy trở về. Không xe lăn, không nạng gỗ. Lê lết trong thành phố bởi thiếu hẳn đôi chân, giữa muôn ngàn người qua kẻ lại vô tình.


Năm 1996, tôi điện thoại cho Wheel For Humanity, một tổ chức vô vụ lợi ở Hollywood. Tôi bảo, muốn xin một xe lăn gởi về Việt Nam. Khi đến gặp họ, tôi thấy hàng chục người đang làm việc tình nguyện, không lương. Đây là một tổ chức chuyên đi xin, quyên góp, lượm lặt xe lăn cũ. Xong họ đem về chùi rửa, vô dầu mỡ, sửa sang lại rồi gởi đi khắp thế giới cho người khuyết tật.

- Bạn có kích thước, cân nặng của bệnh nhân không?

- Tôi nói bừa. Đàn ông, nặng trăm ba mươi pounds, cao năm feet năm.

Họ bảo OK, một tuần sau sẽ có, ông bạn có thể tự lo chi phí gởi về được chứ. Nhanh nhất  là gởi bằng đường hàng không. 


V.

Sau hơn hai mươi năm xa nhà, tôi đáp máy bay xuống phi trường Đà Nẵng. Thành phố thay đổi chóng mặt với những phố xá và nhà cao tầng. Trông bên ngoài, ai cũng có vẻ no ăn đủ ấm. Chiến tranh đã chấm dứt hơn ba mươi lăm năm rồi.

Tôi mua vé tàu lửa đi Huế. Tàu dừng lại ở Lăng Cô vài phút, tránh chuyến từ Bắc đi vào. Không khí ồn ào hẳn lên vì các em bé nhào lên, mời mua kẹo, mua quà. Trời rất nóng và ẩm ướt.  Sân ga ngập trong mùi gió mằn mặn của biển. Xen lẫn trong âm thanh ầm ĩ ấy, vang vọng tiếng hát của vài người hành khất bên đường. Có người hát cải lương, có người hát nhạc tự chế. Cái bài hát ngày xưa tôi cho là sến - Xuân này con không về - bây giờ nghe cũng thấy hay hay. Có lẽ nó đi vào đúng tâm trạng mình những ngày xa xứ.

Tàu hú còi chuẩn bị chạy. Cửa sổ kính được kéo xuống, có người nào đó bật máy lạnh lên. Rồi tàu từ từ lăn bánh. Tôi vẫn nhìn hai bên vệ đường. Phía trước, tay phải, dưới bóng cây là một người đang đàn guitar, cái microphone nhỏ cột trên vai áo. Tiếng hát vang lên qua một loa thùng, trơ vơ, tróc vỏ dưới chân. Người đàn ông ấy ngồi trên chiếc xe lăn và cụt hai chân. Chỉ vài giây khi tàu lướt qua, tôi nhận ngay ra đó là ai. Tôi dí người chồm sát cửa sổ, la lớn nhiều lần: Bác Bảy, bác Bảy... Nhưng bác không nghe. Bác cũng không nhìn thấy tôi bên trong khung cửa đầy hành khách. Hình như không ai nhận ra ai, giữa cái âm thanh cuồng nộ trong cuộc sống, trên quê hương này.


Khi tôi mở được cánh cửa sổ. Con tàu đã vùn vụt lao đi trong buổi chiều tắt nắng. Hình ảnh Bác Bảy không còn đó nữa. Nhưng người thương binh ấy, không bao giờ bị quên lãng trong trái tim tôi.

 

Nguyễn Phước Bảo Tiên

Khi Một Điều Gì Đó Rời Đi - Là Lúc Điều Mới Bắt Đầu - Youtube Phan Ngọc Thuận

Không Có Gì Là Rác Cả

Không có gì là rác cả

 

Inline image 1

 

Sống sót trở về sau chiến tranh tàn khốc giữa thập niên bốn mươi, Soko Morinaga tìm về căn nhà cũ, trực diện với những khó khăn và mất mát tận cùng của đời người. Cha mẹ không còn, anh chị em phân tán, nhà cửa, tiền bạc bị tịch thu. Ông cố ngoi lên bằng ý chí trở lại học đường nhưng đành chào thua vì cuộc vật lộn cam go, có khi bao tử thường xuyên lên tiếng kêu khóc. 
Giữa quạnh hiu đổ nát cả thân và tâm, một sự mầu nhiệm kỳ diệu nào đó đã dẫn bước chân vô định của Soko tới trước cửa chùa Daishuin ở Tokyo. Ngước nhìn mái chùa rêu phong, lưỡng lự đôi ba phút rồi Soko mạnh dạn gõ cửa. Người mở cửa chính là Đại sư Zuigan Goto. Soko ngỏ lời xin được đại sư thâu nhận làm đệ tử. Đại sư chỉ hỏi một câu duy nhất :
- Ngươi tin ta chứ ? Nếu không tin ta thì có ở đây bao lâu cũng chẳng học được gì, phí công ta thôi.
Soko trả lời :
- Con xin hết lòng tin tưởng 
Đại sư mở rộng cửa, lạnh lùng truyền :
- Theo ta. 
Soko líu ríu theo vào. Tới góc sân, đại sư chỉ cây chổi tre, ra lệnh : 
- Quét dọn vườn. 
Trước khi cầm chổi, Soko quỳ xuống bái tạ đại sư đã thâu nhận mình.
Công việc quét vườn thì có chi là khó, Soko hăng hái quét... quét… và quét. Không bao lâu đã gom được đống rác cao nghệu đầy đất, sỏi, đá vụn và lá khô. Dừng chổi, Soko lễ phép hỏi :
- Bạch thầy, con phải bỏ đống rác này đi đâu ạ ? 
Bất ngờ, đại sư quát lên :
- Rác! người nói gì? Không có gì là rác cả!
Soko ngẩn ngơ nhìn đống chiến lợi phẩm, không hiểu, đây không là rác thì là gì? Còn đang lúng túng thì đại sư lại bảo : 
- Vào nhà kho kia lấy cái bao lớn ra đây.
Khi Soko tìm được cái bao mang ra thì thấy đại sư đang dùng hai tay, gạt đám lá khô sang một bên. Ông lại bảo :
- Mở rộng miệng bao ra.
Soko tuân lời, lẳng lặng theo dõi thầy đại sư quơ từng ôm lá, bỏ vào bao, thỉnh thoảng lại giậm giậm cho lá xẹp xuống. Cuối cùng, những lá khô trong đống rác đã được nhồi vào bao, cột lại. Soko lại nghe lệnh truyền :
- Đem bao lá này vào nhà kho, để dành đun nước tắm. 
Vừa vác bao lá trên vai, Soko vừa nghĩ :
- Còn đống đất đá, không phải rác thì dọn đi đâu ? 
Ấy thế mà khi ở nhà kho ra, Soko thấy đại sư đang lượm những viên sỏi, đá vụn ra. Trước vẻ ngẩn ngơ của Soko, ông vừa hỏi, vừa sai : 

- Có thấy hàng hiên ngay dưới máng xối kia không ? Có thấy những chỗ bị nước mưa xoáy lồi lõm không ? Đem những sỏi, đá vụn này trám vào những chỗ đó. 
Soko vừa làm, vừa thán phục thầy mình, vì quả thật, sau khi trám, không những chỗ lồi lõm bằng phẳng mà còn đẹp hẳn lên nữa. 
Bây giờ, đống rác (theo Soko) chỉ còn lại đất và rêu. Lần này thì chắc chắn phải hốt, đổ đi rồi. Nhưng kinh ngạc biết bao khi Soko quay lại sân, thấy thầy mình thong thả nhặt từng miếng đất, từng tảng rêu trên tay, rồi chậm rãi nhìn quanh, tìm những khe tường nứt, những chỗ lõm nhỏ trên mặt đât, từ tốn trám vào.
Bây giờ thì đống rác không còn đó. Nhưng cũng không phải là vật phế thải vô dụng gom quẳng đi đâu. Mỗi loại rác, nếu biết tận dụng, sẽ lại trở thành hữu ích.
“Không có gì là rác cả” là bài học đầu tiên đại sư Zuigan Goto dạy cho người đệ tử vừa thâu nhận, sau này chính là Thiền sư Soko Morinaga nổi tiếng của xứ Phù Tang. Viện trưởng Đại học Hanazono, thuộc tông Lâm Tế Nhật Bản. 

Inline image 1
“Không có gì là rác cả !” tuy đơn giản mà bao hàm một thông điệp về triết lý duyên khởi. Trong rác có hoa và trong hoa có rác, rác chính là hoa và hoa chính là rác. Nhờ thấy được sự thật này nên không hề có sự loại bỏ, đối kháng và mâu thuẫn mà hoàn toàn nhuần nhuyễn, tùy thuận, các pháp cùng nương vào nhau để tồn tại và phát triển.


Hãy nhìn thật kỹ, thật sâu sắc vào những bất đồng, những việc không như ý và tất cả những gì được gọi là xấu xa, đáng loại trừ, vứt bỏ… “Nhìn” cho đến khi nào nhận ra “Không có gì là rác cả !” để ôm ấp, bao dung và tận dụng hết thảy thì cuộc sống này đẹp biết dường nào !

 

Lính thuỷ, sưu tầm & đính kèm ảnh.

 

HAVE A NICE DAY.