Sunday, September 8, 2024

Sumaco - Đoàn Xuân Thu

Bản đồ Ma Rốc 

Nằm ở Bắc Phi (North Africa), giáp với Đại Tây Dương (Atlantic Ocean) và Địa Trung Hải (Mediterranean Sea), tiếng Anh: The Kingdom of Morocco. Tiếng Pháp: Maroc. Tiếng Việt là Ma Rốc.

Ma Rốc từng là một thuộc địa của Pháp suốt 44 năm dài, từ năm 1912 đến năm 1956. Nhưng Lục tỉnh Nam Kỳ chìm trong vòng nô lệ tới hơn cả trăm năm.

Cùng thân phận nhược tiểu, thuộc địa của thực dân Pháp, cùng thời gian; nên Lục tỉnh Nam Kỳ cũng không xa lạ gì với Ma Rốc.

Bằng cớ: nói không ai hiểu là nói tiếng Ma Rốc. Ma Rốc nói lái là ‘móc ra’. Cữ nhậu nầy tới phiên mình trả. Nhậu chực hoài ai chơi với mình?

Người Việt, trong đó có tui, nhớ tới Ma Rốc vì Ma Rốc sản xuất hộp cá mòi Sumaco tui ăn hồi còn chút éc.

Cá mòi, tiếng Anh ‘sardine’, loài cá dầu nhỏ thuộc họ cá trích. Tên Sardine được đặt theo một hòn đảo Sardina trong Địa Trung Hải (Mediterranean Sea), vùng biển có rất nhiều cá sardine, cá mòi.

Là nước xuất cảng cá mòi đóng hộp nhiều nhứt thế giới, 600,000 tấn/năm, hơn 62% sản lượng đủ loại cá, Ma Rốc đánh bắt được.

Cá mòi Sumaco được sản xuất tại tỉnh Agadir, ven Địa Trung Hải. Agadir cách thủ đô Rabat của Morocco khoảng 466 km về phía tây nam.

Trong một hộp cá mòi (sardine in tomato sauce) của Ma Rốc, có cá mòi (Sardines) loại cá nhỏ, thịt trắng và sốt cà chua (tomato sauce) làm từ cà chua tươi, bóc vỏ, bỏ hạt, nghiền nhỏ được nấu chung với tỏi, dầu ô liu, húng quế, ngò và gia vị Maroc như tiêu và ớt paprika.


Vào thế kỷ 19, Pháp xua quân chiếm nhiều nước trên thế giới làm thuộc địa để bóc lột tài nguyên, trong đó có Việt Nam và Ma Rốc. Pháp đã xây dựng các công ty sản xuất cá mòi tại Ma Rốc. Rồi cá mòi của Maroc được vận chuyển đi phát cho lính Pháp ở Việt Nam. Tuy nhiên, ăn hoài cũng ngán, lính Lê Dương Legionnaire (Légion étrangère) đem bán cho dân địa phương. Thế là, người Việt mua Sumaco một món xa xỉ mà ai cũng muốn được ăn thử một lần.

(Rồi sau tháng Tư, 1975, thuyền nhân Việt Nam tị nạn CS vượt biển đến được Đảo Galang, trong quần đảo Batam, Indonesia. Hay Pulau Bidong ở Kuala Terengganu, Malaysia.

Trong khẩu phần lương thực được Cao Ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc phát mỗi ngày: có cả cá mòi đóng hộp. Ăn hoài tất ngán, bà con mình đem hộp cá mòi đi đổi lấy cá tươi của ngư phủ địa phương.)

Lâu lâu, bữa nào siêng siêng, tui đẩy ‘trolley’ cho em yêu đi Coles supermarket Footscray. Tui hay thấy mấy bà Úc đen, ú nu như con hà mã, mua Tuna trong dầu Olive hộp 185g giá $2.20. Còn em yêu mua về một hộp cá mòi Sumaco của Morocco nặng 125 gr giá $1.75 với hai ổ bánh mì. Tui nịnh em: “Đi chợ giỏi ghê; biết lựa mua cá mòi của Ma Rốc vừa ngon, vừa rẻ!”

Bấy lâu nay, tui nghe mấy nhà tâm lý dạy tui là đàn bà, con gái, nhứt là người Việt mình, khoái nịnh lắm. Nghe nịnh là mấy em sướng tỉ tê, nhắm mắt để mật rót vào tai đến nỗi không thấy đường đi. Chính vì vậy trong kho ngữ vựng tiếng Việt mới có chữ ‘nịnh đầm’. Tụi Tây có chữ ‘galant’.

Nhưng anh giáo dạy trường Việt ngữ thứ bảy chê tui ngu. Ảnh giảng: nịnh là khen dóc; đầm là phụ nữ. Nịnh đầm, tiếng động từ, khen, ca ngợi, tâng bốc phụ nữ một cách quá mức, không chân thành để lấy lòng em đem về xào khóm nhậu chơi. Nịnh đầm là nói dóc, không chân thật mà là chân giả (dối).

Còn ga lăng (galant), mượn từ tiếng Pháp, có nghĩa là lịch duyệt, là vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa. Anh nào biết ga lăng tất sẽ đào hoa. Lúc đó được mấy em mê tít thò lò thì mặc tình mà đào mỏ, làm Casanova cho ấm cái tấm thân ‘ròm’.

Giacomo Casanova người Ý, sinh ra tại Venice đào hoa, tưng bừng gái gú bu như ruồi nhưng em nào cũng tin như bắp nướng là ảnh yêu chỉ một mình em. Còn mấy con ngựa bà khác ảnh chỉ qua đường ghé lại mà thôi.

Bánh mì cá sumaco


Tui hỏi email của Casanova để xin làm đệ tử. Anh giáo bĩu môi nói: Chừa chỗ cho người ta dốt với. Trình độ lèng èng cỡ anh thì sức mấy? Dẻo miệng cỡ tui thì may ra. Nhưng ổng chết mấy mươi đời vương rồi. (1725-1798).

Em yêu của tui dĩ nhiên rất khoái nịnh. Ngày nào không nghe nịnh là em ăn cơm nuốt không trôi. Em nói và biểu tui không được cãi: “Sumaco của mấy thằng hải tặc Thái Lan mắc gấp đôi của người ta. Cho em, em đem đi vụt thùng rác.

Vậy là em mua một hộp cá mòi Sumaco của Ma Rốc về làm điểm tâm. Lửa vừa, em yêu đổ dầu ăn, tỏi vào chảo. Thêm hành tây, chút muối xào trong vài phút cho thơm. Thêm cá mòi với nước sốt cà chua, đường, nửa muỗng cà phê tiêu và 3 muỗng canh nước. Đun sôi và để nhỏ lửa trong 2 phút rồi tắt bếp. Em phết bơ bánh mì, trút cá mòi vào với ngò rí và một nhúm tiêu đen.

Món cá mòi bánh mì của em yêu ngon hết xẩy. Bữa điểm tâm, sáng, nhưng về hưu rồi, đâu có đi cày, cuốc gì, bịnh gì mà cữ? Tui uống beer, ăn cá mòi, hành tây ngâm giấm. Ngà ngà say, tui chui vô phòng để ngáy pho pho mơ về quê cũ.

Nước Úc với nền văn hoá đồ hộp dành cho dân “low income”, dân thu nhập thấp, dân nghèo như tui. Trái lại, quê mình hồi xưa, dân có tiền mới được ăn đồ hộp nhập cảng từ bên Tây.

Tui thời thơ ấu, ba tui làm Bưu Điện, hôm nào phải trực về trễ ba hay mua đồ ăn về cho vợ, cho con. Bữa ba mua bánh gan, bánh da lợn của em Thuý bán trên lề đường Trưng Trắc Mỹ Tho. Bữa ba mua một hộp cá mòi Sumaco với mấy ổ bánh mì về cho con. Má vẫn chờ ba về để ba má ăn cơm chung.

Hộp cá mòi Sumaco của Ma Rốc đối với người xa xứ, già như tui, gợi lại những hồi ức sâu đậm về thời thơ ấu. Tui nhớ cá mòi Sumaco rắc tiêu ăn với củ hành xắt lát mỏng ngâm giấm và bánh mì mới nướng.

Thương thằng em, chia cho mầy một miếng. Để ba mất, anh em mình đều khóc. CS vào thôi đã hết những ngày vui.

ĐXT

Nợ Nần Trả Vay - Đỗ Công Luận

Saturday, September 7, 2024

Thế Lày Là Thế Lào?



Thanh Loan chuyển

Câu Chuyện Cái Bụng - BS. Tăng Quốc Kiệt

 

Theo hiểu biết thông thường, con người chỉ có một não bộ nằm trong sọ.


Năm 1998, người ta bắt đầu nói tới não bộ thứ hai, do quyển sách “The Second brain” của Michael D. Gershon, giáo sư Đại Học Columbia, ông nhận thấy có sự tương đồng của não bộ và các neurons, lót mặt trong ruột, ông cũng nhận thấy hai não bộ liên lạc chặt chẽ với nhau, tạo nên một trục não bộ-ruột, các vi trùng trong ruột tổng hợp các chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitteurs)

Trong ruột, các vi trùng vô hại (nói đúng hơn là có lợi cho loài người) nhiều đến nỗi không tài nào đặt tên cho hết được, trước kia gọi là flores intestinaux nay gọi là “microbiotes ” (tiếng Anh:microbiota) Vi trùng đường ruột quyết định nhiều chuyện trong lĩnh vực y khoa, mà trong tương lai, các khảo cứu sẽ nhắm vào đó để định bệnh, chữa bệnh, tiên liệu bệnh sắp xảy ra v.v..

Mới đây, người ta nhận thấy trẻ sơ sinh nếu thiếu 4 loại vi trùng đường ruột trước ba tháng tuổi sẽ tăng nguy cơ bị bệnh suyễn (có nghĩa là ở dơ sống lâu chăng?)

Lucy, tổ tiên loài người , sống cách đây 3 triệu năm, ruột chỉ dài 1,2m. Nhưng, ngày nay, chúng ta có ruột dài tới 8 mét với bề mặt trong ruột 200m vuông, tương đương với một sân tennis chứa 200 triệu neurons,100.000 tỉ vi trùng, gồm 8000 đến 10.000 loài khác nhau, mười lần hơn số tế bào của cơ thể loài người.

Vi trùng ruột có 500.000 genes, so với 22.000 genes của loài người.

Trong phân người, 90% là xác vi trùng (ghê chưa?) 

Khi nói tới vi trùng, thì phải nói thuốc trụ sinh, Brett Finley của đại học BC Canada, nhận thấy, nếu cho Vancomycine cho chuột con, sẽ làm đảo lộn microbiotes, và gây bệnh suyễn, còn nếu cho thuốc này cho chuột đã trưởng thành thì không sao. Phản ứng cũng tương tự như vậy ở trẻ sơ sinh trước 24 tháng tuổi.

Trong ruột, càng có nhiều vi trùng càng tốt, điều này làm các nhà vi trùng học đặt lại vấn đề: dân cư ở các nước tiên tiến có khuynh hướng ở sạch thái quá, lúc nào cũng xài thuốc khử trùng, xịt xịt  khắp nơi, làm cho số vi trùng đường ruột giảm thiểu, khiến làm tăng các bệnh: béo phì, dị ứng, tiểu đường, cao huyết áp, thiếu phản ứng miễn nhiễm, tăng bệnh tim mạch, bệnh cröhn v.v… Người ta thắc mắc có phải là các bệnh tâm thần, tự kỉ (autisme), trầm cảm (dépression) quên v.v… là do thiếu hụt các microbiotes mà ra.

Theo bài báo đăng trên Nature (2013) các nhà nghiên cứu nhận thấy số vi trùng trong ruột bệnh nhân béo phì ít hơn so với nhóm người không béo phì.

 

Một thí nghiệm khác, lí thú hơn (đăng trong báo Science của đại học Washington ở St Louis): khi đem vi trùng ruột của người béo phì cấy vào ruột chuột A và vi trùng ruột của người với số cân bình thường cấy vào ruột chuột B , A và B là 2 chuột sanh đôi đồng nhât, ăn cùng một loại thực phẩm; một thời gian sau, chuột A trở nên béo phì.

Một khảo cứu khác trên bệnh tiểu đường loại 1, đăng trên tờ Immunity cho thấy vi trùng đường ruột có khả năng bảo vệ, hơn nữa chữa khỏi bệnh tiểu đường loại 1 trên chuột.

Đối với các bệnh tâm thần, giáo sư Stephen Collins, bs chuyên khoa đường ruột của đại học Mc Master ở Hamilton(Ontario) nghĩ là các vi trùng trong ruột tiết ra các chẩt có thể ảnh hưởng trên não bộ, và các chất này sẽ kiểm soát độ stress, vui buồn của chúng ta, nhưng là vi trùng gì? Đó là  đề tài nghiên cứu hết sức nóng bỏng.

Ở Montreal, gs Guy Rousseau, thuộc bệnh viện Sacré Coeur, chứng minh là sau khi bị nhồi máu cơ tim (infarctus) 65% bệnh nhân bị trầm cảm, và cách tránh trầm cảm mà ông làm là đem vi trùng cấy vào ruột bệnh nhân.

Ở London, Western Ontario, Canada, gs Derick Fabe, giám đốc chương trình nghiên cứu về bệnh tự kỉ, thấy là các trẻ em Somalie, sau khi định cư ở Canada, tỉ số bệnh tăng lên, ông nghi là do các chất độc tiết ra bởi các vi trùng đường ruột, do không tiêu hóa được các thứ thực phẩm mà dân Somalie không quen dùng như lúa mì và sữa , quan điểm này còn nhiều tranh cãi.

Trong số ba bệnh neurodegenerative: Alzheimer, Parkinson, SLA (slérose latérale amyotrophique) nhất là bệnh Parkinson, người ta nhận thấy ở các bệnh nhân này, các triệu chứng đường ruột xuất hiện khá lâu trước khi các bệnh trên xuất hiện.


Ngày nay người ta xếp lọai các vi trùng đường ruột vào ba nhóm chính:

– Bactesroides

– Prevotelle

– Ruminococcus

Kế đó các vi trùng sẽ được xếp vào các nhóm nhỏ để tiện việc khảo cứu. Hi vọng một ngày không xa, chúng ta sẽ có một “carte de microbiotes” giúp bác sĩ biết được bệnh nhân thiếu vi trùng gì trong ruột để bôm vào ruột chữa bệnh!

Bệnh colite pseudomembraneuse gây ra bởi Clostridium difficile, khi hết thuốc chữa, bác sĩ dùng phân của người lành bơm  vô ruột già của người bệnh giúp chữa khỏi nhiều trường hợp nan giải.


Cả ngàn năm trước, sách thuốc Trung Hoa đã viết “bệnh đi vào bằng cửa miệng”, có thể do thức ăn , một loại vi trùng nào đó sẽ sanh sôi nẩy nở hơn các vi trùng khác.

Như vậy, một nông dân ở đồng bằng nam bộ, xơi tất cả con gì nhúc nhích, thì sẽ có nhiều vi trùng, sẽ khỏe như voi. Còn các cô tiểu thư khuê các ăn uống nhỏ nhẹ, kiêng khem sẽ bị đủ thứ bệnh chăng?

Đó là ý riêng của tác giả, chưa có khảo cứu nào chứng minh


Tác giả mong bài viết này, giúp độc giả có khái niệm về microbiotes và vai trò của nó, mà càng ngày giới truyền thông sẽ nói tới rất nhiều.

 

BS. Tăng Quốc Kiệt

UNBELIEVABLE Martial Arts Audition Wins The Golden Buzzer on Britain's Got Talent!..

Đố Vui Việt Sử - Đào Hữu Dương - Nguyễn Xuân Vinh


“Đố Vui Việt Sử” là một tập thơ lục bát gồm có một trăm câu đố về lịch sử và văn học sử Việt Nam đề ra bởi luật sư Đào Hữu Dương và hai trăm câu thơ trả lời của giáo sư Nguyễn Xuân Vinh.

 

Dụng ý của hai tác giả là dùng một thể thơ thật nhẹ nhàng và hấp dẫn để nhắc nhở các thanh thiếu niên ôn lại những trang sử Việt Nam và nuôi dưỡng tinh thần nhớ nước, thương nòi ở nơi đất khách. Tập thơ in ra lần đầu ở San Diego, vào năm 1985, đã được gửi tặng các trường dậy Việt ngữ. Cuốn sách này cũng được Trung Tâm Việt Ngữ Văn Lang ở San Jose, CA in lại để làm tài liệu dậy tiếng Việt.
 
Chúng tôi in lại ở đây như là một tài liệu giáo dục quý giá cho thế hệ trẻ

****************************************************** 
 
Câu hỏi của LS. Đào Hữu Dương
 

1. Vua nào mặt sắt đen sì?
2. Vua nào trong buổi hàn vi ở chùa?
3. Tướng nào bẻ gậy phò vua?
4. Tướng nào dùng bút đánh lừa Vương Thông?
5. Ngựa ai phun lửa đầy đồng?
6. Voi ai nhỏ lệ ở giòng Hóa Giang?
7. Kiếm ai trả lại rùa vàng?
8. Súng ai rền ở Vũ Quang thủa nào?
9. Còn ai đổi mặc hoàng bào?
10. Nữ lưu sánh với anh hào những ai?
11. Nhà thơ lên đoạn đầu đài?
12. Tướng Tàu chui ống chạy dài Bắc phương?
13. Tướng Nam chẳng thiết phong vương?
14. Rắc lông ngỗng, thiếp nghe chàng hại cha?
15. Anh hùng đại thắng Đống Đa?
16. Đông du khởi xướng bôn ba những ngày?
17. Lũy Thầy ai đắp, ai xây?
18. Hồng-Sơn Liệp-Hộ, triều Tây ẩn mình?
19. Vua Bà lừng lẫy uy danh?
20. Ấu nhi tập trận, cỏ tranh làm cờ?
21. Vua nào nguyên-súy hội thơ?
22. Hùng-Vương quốc-tổ đền thờ ở đâu?
23. Đại vương bẻ gẫy sừng trâu?
24. Rừng Lam khởi nghĩa áo nâu anh hùng?
25. Hại dân bán nước tên Cung?
26. Đục chìm thuyền địch dưới sông Bạch-Đằng?
27. Lý triều nổi tiếng cao tăng?
28. Bình-Ngô ai soạn bản văn lưu truyền?
29. Mười ba liệt sĩ thành Yên?
30. Bỏ quan treo ấn tu tiên thủa nào?
31. Ai sinh trăm trứng đồng bào?
32. Bình-Khôi chức hiệu được trao cho người?
33. Tây-Sơn có nữ tướng tài?
34. Cần-vương chống Pháp bị đầy xứ xa?
35. Tổ ngành hát bội nước ta?
36.. Khúc ngâm Chinh-Phụ ai là tác nhân?
37. Vua nào sát hại công thần?
38. Nhà văn viết truyện Tố-Tâm trữ tình?
39. Thái-Nguyên chống Pháp dấy binh?
40. Hà-Ninh tổng đốc vị thành vong thân?
41. Vua nào mở nghiệp nhà Trần?
42. Nêu gương hiếu tử diễn âm lưu truyền?
43. Công lao văn học Nguyễn-Thuyên?
44. Lừng danh duyên hải Dinh-Điền là ai?
45. Nhà thơ sông Vị, biệt tài?
46. Vua nào chống Pháp bị đầy đảo xa?
47. Ngày nào kỷ niệm Đống Đa?
48. Biên thùy tiễn biệt lời cha dặn dò?
49. Mê-Linh xây dựng cơ đồ?
50. Bến Hàm-Tử bắt quân thù xâm lăng?
51. Húy danh Hoàng-Đế Gia-Long?
52. Tướng nào hương khói Lăng-Ông thủa giờ?
53. Rồng thiêng kết nghĩa Âu-Cơ?
54.. Thánh Trần nay có bàn thờ ở đâu?
55. Đời nào có chức Lạc-Hầu?
56. Tướng Châu-Văn-Tiếp, ở đâu bỏ mình?
57. Danh nho thường gọi Trạng Trình?
58. Cha con cùng quyết hy sinh với thành?
59. Đầm Dạ-Trạch nức uy danh?
60. Sớ dâng chém nịnh không thành, từ quan?
61. Công thần vì rắn thác oan?
62. Ai mời bô lão dự bàn chiến chinh?
63. Vua nào dòng dõi Đế-Minh?
64.. Vĩnh-Long thất thủ, liều mình tiết trung?
65. Ngày nào trẩy hội Đền Hùng?
66. Ngày nào sông Hát, nhị Trưng trẫm mình?
67. Núi nào ngự trị Sơn-Tinh?
68. Sông nào ghép lại bút danh thi hào?
69. Gốc nguồn hai chữ đồng bào?
70. Bôn ba tổ chức phong trào Đông du?
71. Hùm Thiêng trấn đóng chiến khu?
72. Vua nào thành lập Hội Thơ Tao-Đàn?
73. Dẹp Thanh giữ vững giang san?
74. Thiết triều nằm lả khiến tàn nghiệp Lê?
75. Hóa-Giang giữ trọn lời thề?
76. Mười năm kháng chiến chẳng nề gian lao?
77. Móng rùa thần tặng vua nào?
78. Bình Chiêm, Dẹp Tống, Lý trào nổi danh?
79. Dâng vua sách lược “Trị-Bình”?
80. Trạng nguyên tướng xấu ví mình hoa sen?
81. Người Tàu dựng đất Hà-Tiên?
82. Họ Lương chống Pháp, Thái-Nguyên bỏ mình?
83. Quy-Nhơn thất thủ, quyên sinh?
84. Lê Triều sử ký soạn thành họ Ngô?
85. Công thần mà bị quật mồ?
86. “Vân-Tiên” tác giả lòa mù là ai?
87. Đại-Từ nổi tiếng tú tài?
88. Đem nghề in sách miệt mài dạy dân?
89. Dâng vua cải cách điều trần?
90. Sánh duyên công chúa Ngọc-Hân, vua nào?
91. Thi nhân nổi loạn họ Cao?
92. Xây thành đắp lũy, họ Đào là ai?
93. Họ Phan lãnh ấn khâm sai?
94. Phòng khuya vọng tiếng thuyền chài tương tư?
95. Đông y lừng tiếng danh sư?
96. Lời thề diệt địch trên bờ Hóa-Giang?
97. Vân-Đồn ai thắng danh vang?
98. Am mây ẩn dật chẳng màng lợi danh?
99. Mùa xuân nào phá quân Thanh?
100. Bao giờ trở lại thanh bình Việt Nam?
 


Giải đáp của GS. Nguyễn Xuân Vinh

Trước đèn đọc sách Đào quân:
“Đố Vui Việt Sử”, gieo vần họa thơ.
Duyên văn tao ngộ từ xưa,
Nặng lòng đất nước, bây giờ luyện thi.
1. Vua nào mặt sắt đen sì ?
Tướng Mai-Hắc-Đế, sử ghi chống Đường.
2. Quét chùa mà tướng đế-vương,
Lý-Công, tên Uẩn, xuất đường lên ngôi.
3. Phò vua, chống giặc cõi ngoài,
Đức Trần-Hưng-Đạo dẹp suôi hận lòng.
4. Bút thần đâu sợ Vương-Thông,
Thù cha, Nguyễn-Trãi có công dựng triều.
5. Gậy thần, ngựa sắt cao siêu,
Thiên-Vương Phù-Đổng một chiều thét vang.
6. Voi lầy, nhỏ lệ Hóa-Giang,
Đại-Vương Hưng-Đạo quyết đường dẹp Nguyên.
7. Kiếm thần, lập quốc, báo đền,
Vua Lê trả lại rùa thiêng trên hồ.
8. Vũ-Quang, chống Pháp lập đô,
Súng do Cao-Thắng, phất cờ cụ Phan.
9. Lê-Lai đổi mặc áo vàng,
Để vua Lê-Lợi thoát vòng gian lao.
10. Triệu, Trưng kể lại biết bao
Nữ nhi sánh với anh hào kém chi
11. Ngang tàng cung, kiếm, cầm, thi,
Ông Cao-Bá-Quát sá gì phân thây!
12. Thoát-Hoan, Vạn-Kiếp sa lầy,
Ống đồng chui rúc, từ đây kéo về.
13. Nước Nam, làm quỷ ai thề ?
Tướng Trần-Bình-Trọng chẳng nề Bắc-Vương.
14. Lông ngan làm chước dẫn đường,
Mỵ-Châu, Trọng-Thủy còn vương hận lòng.
15. Đống-Đa thây giặc điệp-trùng,
Quang-Trung Nguyễn-Huệ anh hùng phương Nam.
16. Họ Phan có cụ  Sào-Nam,
Bôn ba khởi xướng, luận bàn Đông-Du.
17. Nguyễn-Vương giữ vững cơ đồ,
Lũy xây Trường-Dục, Duy-Từ có công.
18. Nguyễn-Du tạm lánh sơn trung,
Truyện Kiều thi phẩm, anh hùng nổi danh.
19. Triệu-Bà Lệ-Hải Tài-Trinh,
Ngàn năm dân Việt tôn vinh, phụng thờ.
20. Mục đồng tập trận ấu thơ,
Tiên-Hoàng Bộ-Lĩnh phất cờ bông lau.
21. Thánh-Tôn, nguyên súy, công hầu,
Tao-Đàn lập hội, lựa câu họa vần.
22. Đền Hùng, hương khói phong vân,
Lâm-Thao là chốn nhân dân hướng chầu.
23. Phùng-Hưng bẻ gẫy sừng trâu,
Tôn thờ Bố-Cái, sức đâu hơn người.
24. Lam-Sơn áo vải, lòng trời,
Vua Lê khởi nghĩa, muôn đời ghi công.
25. Họ Hồ chính Nguyễn-Sinh-Cung,
Liên-Sô dâng nước, khốn cùng nhân dân.
26. Yết-Kiêu, Dã-Tượng sả thân,
Đục chìm thuyền địch, mấy lần Đằng-Giang.
27. Lý-Triều Vạn-Hạnh cao tăng,
Cùng Từ-Đạo-Hạnh tiếng vang pháp thiền.
28. Bình-Ngô Đại-Cáo sách tuyên,
Văn tài  Nguyễn-Trãi lưu truyền mai sau.
29. Thành Yên, liệt sĩ rơi đầu,
Vang danh Thái-Học, lưu sầu Quốc-Dân.
30. Tiên-Du, treo ấn từ quan,
Giáng-Hương, Từ-Thức theo nàng lên tiên.
31. Âu cơ, trăm trứng nở truyền,
Ngàn năm Hồng Lạc, con Tiên, cháu Rồng.
32. Bình-Khôi, chức hiệu Nguyên-Nhung,
Lệnh Bà Trưng Nhị được phong tướng tài.
33. Tây-Sơn lẫm liệt thần oai,
Quần thoa ai sánh tướng Bùi-Thị-Xuân.
34. Cần-Vương vì nước gian truân,
Vua Hàm-Nghi trải tấm thân lưu đầy.
35. Lập ngành Hát Bộ từ đây,
Tổ-sư Đào-Tấn, bậc thầy xướng ca.
36. Đoàn thư, Chinh-Phụ dịch ra,
Trần-Côn trước tác khúc ca ngậm ngùi.
37. Gia-Long từ độ lên ngôi,
Công thần giết hại, nhiều người thác oan.
38. Tố-Tâm, tác giả Song-An,
Chữ Hoàng-Ngọc-Phách, lời than tự tình.
39. Thái-Nguyên chống Pháp, dấy binh,
Lưu danh Đội Cấn, gây tình quốc gia.
40. Pháp quân tiến đánh thành Hà.
Tuẫn trung, Hoàng-Diệu, Chính-Ca một thời.
41. Chiêu-Hoàng nhà Lý truyền ngôi
Cho chồng Trần-Cảnh nối đời làm vua.
42. Diễn âm gương hiếu ngày xưa,
Ghi công Văn-Phức, vốn thừa Lý gia.
43. Hán văn chuyển tiếng nước nhà.
Thơ Nôm, Đường luật chính là Nguyễn-Thuyên.
44. Kim-Sơn, Tiền-Hải, dinh điền,
Uy danh Công-Trứ, tiếng truyền đời sau.
45. Tú Xương, sông Vị, không giầu,
Tiếng thơ cao ngạo, ai rầu mặc ai.
46. Duy-Tân vì nước rời ngai,
Thực dân uy hiếp đưa ngài đảo xa.
47. Mồng Năm kỷ niệm Đống-Đa,
Tháng Giêng chiến thắng, hùng ca Ngọc-Hồi.
48. Tiễn cha, Nguyễn-Trãi nhớ lời
Phi-Khanh còn vẳng núi đồi Nam-Quan.
49. Bà Trưng khôi phục giang san,
Mê-Linh khởi nghĩa, dẹp tan quân thù.
50. Danh Trần-Quang-Khải ngàn thu,
Chương-Dương cướp giáo, bắt tù Hàm-Quan.
51. Nguyễn-Triều, khởi sự gian nan,
Bôn ba Phúc-Ánh, Bắc Nam hợp lòng.
52. Tả-Quân, thờ phụng Lăng-Ông,
Tướng Lê-Văn-Duyệt có công phá thành.
53. Âu-Cơ, tiên nữ giáng trần,
Hợp duyên cùng Lạc-Long-Quân giống Rồng.
54. Đức Trần-Hưng-Đạo phá Mông,
Đền thờ Kiếp-Bạc, tôn sùng khói hương.
55. Ngàn năm thời đại Hùng-Vương,
Lạc-Hầu, Lạc-Tướng, chức thường gọi quan.
56. Tướng Châu-Văn-Tiếp thân tàn,
Vĩnh-Long, Mang-Thít đầu hàng Tây-Sơn !
57. Trạng Trình phong tước Quốc-Công,
Bỉnh-Khiêm họ Nguyễn, vốn dòng Cổ-Am.
58. Hùm thiêng sớm đã về âm,
Tri-Phương cùng với Nguyễn-Lâm giữ thành.
59. Chống Lương, Dạ-Trạch uy danh,
Triệu-Vương, Quang-Phục hiển vinh một thời.
60. Chu hiền xin chém bẩy người,
Vua nghe kẻ nịnh, ông rời chức quan.
61. Vì tay Thị Lộ thác oan,
Công thần Nguyễn-Trãi gia toàn chu di.
62. Diên-Hồng quyết chiến còn ghi,
Đời Trần bô lão kém gì tráng sinh.
63. Tổ Hùng tên hiệu Đế Minh,
Dương-Vương Lộc-Tục, con mình phong vua.
64. Vĩnh-Long chống Pháp đành thua,
Ông Phan-Thanh-Giản, ơn vua tuẫn người.
65. Dù ai buôn bán ngược xuôi,
Đền Hùng trẩy hội mồng Mười tháng Ba,
66. Hàng năm kỷ niệm Hai Bà,
Tháng Hai, mồng Sáu trầm hà Hát-Giang.
67. Tản-Viên che phủ mây vàng,
Sơn-Tinh chuyện cũ đưa nàng lên cao.
68. Tản-Đà, bút hiệu thi hào,
Núi sông hai chữ ghép vào thành tên.
69. Cùng trong một bọc Rồng Tiên,
Trứng trăm con nở, nối truyền đời ta.
70. Đông-Du cách mạng sơn hà,
Bội Châu lừng lẫy tiếng nhà họ Phan.
71. Hùm thiêng Yên-Thế họ Hoàng,
Nổi danh Hoa-Thám giữ vùng chiến khu.
72. Đời Lê bình trị thiên thu,
Thánh-Tôn mới lập hội thơ Tao-Đàn.
73. Thăng-Long giữ vững giang san,
Quang-Trung Nguyễn-Huệ đánh tàn quân Thanh.
74. Ngọa triều, tửu sắc liệt mình,
Uổng cho Long-Đĩnh tan tành nghiệp ê.
75. Hóa-Giang giữ trọn lời thề,
Thánh Trần không thắng không về tới sông.
76. Mười năm kháng chiến thành công,
Ơn vua Lê-Lợi, non sông phục hồi.
77. Kim-Quy chuyện móng ngàn đời,
An-Dương-Vương được Rùa trời ban giao.
78. Bình Chiêm, dẹp Tống, Lý hào,
Câu thơ Thường-Kiệt: Nam trào, Nam cư.
79. Đời Lê, Lương đống tâm tư,
Đắc Bằng, quốc sách dâng thư trị bình.
80. Trạng nguyên họ Mạc thấp mình,
Đĩnh Chi thảo phú ví tình hoa sen.
81. Hà-Tiên Nam Việt cuối miền,
Nhờ tay Mạc-Cửu dựng nên mật trù.
82. Thái-Nguyên chống Pháp, giặc thù,
Ông Lương-Ngọc-Quyến thiên thu tuyệt mình.
83. Quy-Nhơn, Võ-Tánh quyên sinh,
Đài cao đốt lửa, chiếm thành Tây-Sơn.
84. Sĩ-Liên, Sử-Ký Đại-Toàn,
Triều Lê soạn thảo, danh thần họ Ngô.
85. Nguyễn phò, gây dựng cơ đồ,
Tướng Lê-Văn-Duyệt, quật mồ thảm thay.
86. Vân-Tiên, tác giả ai hay ?
Cụ đồ Đình-Chiểu, xưa nay mù lòa.
87. Đại-Từ, cách mạng sơn hà,
Hải-Thần, cụ Nguyễn bôn ba nước ngoài.
88. Thám-Hoa Nhữ-Học, thiên tài,
Học nghề in sách miệt mài dạy dân.
89. Tâu vua, Trường-Tộ điều trần,
Tiếc thay Tự-Đức canh tân không màng.
90. Ngọc-Hân tài sắc vẹn toàn,
Quang-Trung Nguyễn-Huệ điện vàng sánh duyên.
91. Văn tài  Bá-Quát vô tiền,
Quốc-Oai treo ấn, cự thiên, kháng đình.
92. Lũy-Thầy, Đồng-Hới, Quảng-Bình,
Duy-Từ nổi tiếng xây thành, khai sơn.
93. Khâm sai Bắc Việt chiêu dân,
Cụ Phan-Kế-Toại, văn thần vua phong.
94. Trương-Chi hát vọng khuê phòng,
Mỵ-Nương nghe tiếng, đem lòng tương tư.
95. Đông-Y Hải-Thượng danh sư,
Dương-An Toàn-Trạch, đề thư dụng truyền.
96. Trận này không phá giặc Nguyên,
Không về sông Hóa, lời nguyền Đạo-Vương.
97. Vân-Đồn thắng địch tuyệt lương,
Quân Nguyên nản chí, công dường Khánh-Dư.
98. Bạch-Vân về ngụ, tâm tư,
Thi văn, lý đoán, ẩn cư Trạng Trình.
99. Quang-Trung thần tốc phát binh,
Mùa xuân Kỷ-Dậu chiếm thành Thăng-Long.
100. Lời ca con cháu Tiên Rồng :
Cộng nô tiêu diệt, non sông thanh bình.

Bước Chân Thiền Hành - Minh Lương

Bến Đỗ! - Sỏi Ngọc


Viết cho cuộc từ giã cõi tạm của anh T. 

Sỏi Ngọc 


Đưa người ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm không vàng vọt

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong? 

(Tống Biệt hành – Thân Tâm)


Anh ngồi bất động trước hiên nhà, những chú chim sẻ truyền cành ríu rít hót, những cô bướm đủ màu lượn lờ bay quay tưởng chừng như muốn đậu lên cả người anh, anh vẫn yên lặng như pho tượng, không để ý đến những vật thể linh động bao quanh mình, kể cả dải nắng chan hòa ấm áp đang phủ lấy con người bệnh hoạn của anh.

Anh bồi hồi nhớ lại khoảng thời gian cách đây 50 năm, hồi anh còn trẻ khỏe, khi anh chị mới lấy nhau; anh di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, chật vật học ra bằng bác sĩ, lập gia đình với chị khi ấy chị mới chỉ là một thiếu nữ thơ ngây của một gia đình trung lưu miền Nam.

Cuộc sống của anh chị nhẹ nhàng thoải mái với đồng lương bác sĩ của anh, sau đó hai con trai ra đời, chưa được bao lâu thì miền Nam Việt Nam bị cưỡng chiếm.

Anh ĐNT và chị HM hồi mới cưới nhau. 


Chẳng bao giờ anh có thể ngờ được cả gia đình phải bỏ nước ra đi, phải trốn chạy hung thần giặc đỏ, hy sinh thân mình chống chọi với gió bão ác nghiệt của biển cả để tìm đến bến bờ tự do.

Gia đình anh chị được chính phủ Canada cấp cho một căn nhà nhỏ tại một thị trấn khá xa, nằm trong tiểu bang Quebec, Berthierville, vào những năm 1976-1977, lúc ấy hai con trai mới lên 5 và 7;  cho dù có khó khăn cực nhọc cách mấy, anh vẫn mang ý nghĩ trong đầu phải phấn đấu, kiếm tiền nuôi gia đình; chị cũng không quản ngại thức khuya dậy sớm, làm những món ăn Việt Nam thật đặc biệt là chả giò, xôi, bún, bán cho người dân bản xứ trong vùng, phụ thêm chút thu nhập để nuôi các cháu nhỏ và tạo điều kiện để anh yên tâm đi học lấy lại bằng bác sĩ hành nghề trên đất khách; mặc dù cả ngày chị chạy lên chạy xuống, hết đón con đến đi chợ, rồi làm bếp, chị không hề thấy mệt, ngược lại thấy vui với sự bận rộn mỗi ngày, vui với sự hài lòng, nụ cười của khách hàng mỗi lần chị làm món ngon cho họ thưởng thức bữa cơm tối; số tiền thu được chị đã chắt chiu từng đồng nuôi dậy các con, vén khéo trong gia đình mà anh không cần phải lo lắng đến.

Berthierville nằm ở phía Bắc sông St-Laurent, rất ít dân cư chỉ một hai ngàn người, mọi người ai cũng biết nhau, yêu quý và giúp đỡ lẫn nhau, nhất là lúc ấy nguồn thu nhập chính của chị từ món chả giò nổi tiếng nên ai cũng biết đến chị và gia đình; con cái chị được dậy dỗ và lớn lên giữa những người dân bản xứ hiền lành, tốt bụng và giàu lòng nhân ái

Cái lạnh cắt da, cơn gió hú, những tảng băng tuyết rơi từ nóc nhà lăn ùn ùn xuống thành từng đống trước mặt anh khi anh mở cửa đi làm vào buổi sáng ở những tháng một, hai khi mùa đông Canada tới, thương các con dậy đi học sớm với hai ba lớp áo lạnh, ủng, găng tay, mũ nón len mà mặt vẫn đỏ au, da bị dộp phồng đỏ vì quá lạnh, anh chị đã bàn nhau dọn về Montreal cho bớt lạnh, vả lại lúc đó anh đã học xong bằng bác sĩ chỉ còn thực tập trong nhà thương mà thôi.

Ngày anh chị rời bỏ thành phố nhỏ Berthierville làm khuấy động cả một góc thị trấn, ai cũng thương mến, đến giã từ, mọi người bịn rịn tặng quà và chúc tụng những lời lẽ đẹp nhất như một hành trang tinh thần giúp anh chị tiến mạnh hơn và tin tưởng ở tương lai trên quê hương thứ hai này.

***
Tôi có hẹn ở phòng mạch của anh khi anh ở độ tuổi 50, còn tôi mới bước vào đại học năm thứ nhất. Tôi đến khám để xin thuốc antibiotique (kháng sinh) vì đau cổ, ho hai tuần vẫn chưa khỏi.

Gặp người đồng hương vào thời đó, anh vui lắm, hỏi tôi:

-Cô qua đây lâu chưa? Bên này lạnh quá nên ai cũng ho cũng cảm, đi ra ngoài phải lấy foulard (khăn quàng cổ) quấn mấy vòng như thế này rồi mới ra đường, chứ không thì sẽ bị cảm suốt! Thôi lấy 10 viên này về uống thử nếu hết thì thôi, còn ho thì gặp lại tôi nhé.

Anh muốn trêu tôi, lấy chiếc khăn quàng quấn chung quanh cổ, xiết mạnh, chỉ chừa hai con mắt trợn to và chiếc lưỡi thè dài ra, làm tôi đang đau cổ nói giọng khàn đặc cũng phải bật cười thành tiếng.

Anh nói chuyện rất có duyên, lúc nào cũng pha trò tếu lâm, làm người bệnh quên cả bệnh tình của mình; từ phòng mạch bước ra, ai cũng mang nụ cười trên môi như đi thăm người thân chứ không phải vào khám bệnh. Tiếng cười của anh vang dội ra cả ngoài phòng đợi. Khách khám với anh ngày càng đông. Họ rất mến ông bác sĩ gia đình này, vừa hài hước lại vừa hiểu tâm trạng bệnh nhân.

Sự thành đạt về gia đình, con cái lập nghiệp tốt, làm anh chị thêm hưng phấn, không còn lo sinh kế; cuộc đời đẹp hơn khi xung quanh có những người bạn thân, mối giao hảo cùng đẳng cấp được rộng mở, anh chị quen biết nhiều người hơn trong đó có đủ độ tuổi gặp nhau vui chơi ăn uống, ca hát nhảy nhót cuối tuần.

Những lần ra mắt sách trong cộng đồng người Việt, thỉnh thoảng tôi gặp anh chị, chị cũng là một trong những cây bút chuyên viết truyện tình cho nguyệt san của Montreal; gặp chị như cá gặp nước, tôi và chị hàn huyên không bao giờ dứt về văn chương, gia đình, cuộc sống. Chị trẻ hơn mẹ tôi không nhiều nhưng trong giới văn nghệ thường xưng hô « anh chị » cho trẻ trung nên tôi cũng không ngoài luật đó!

Tuy tôi và anh chị không cùng độ tuổi nhưng chúng tôi phải nói là bén duyên nhau, chuyện gì chúng tôi chung tay làm đều thành công như những lần làm văn nghệ ủy lạo các bác lớn tuổi ở nhà già, ra mắt sách cho nhóm, văn nghệ bỏ túi đến nhà những người bạn thân, sinh nhật bạn bè… Những tiếng cười nói, yêu thương đã làm chúng tôi thật sự gần gũi và quên đi tuổi tác của mỗi người.

***

Trong ba năm covid, mọi người ở trong nhà, chính phủ cấm không được hội họp, anh đứng ra thành lập một nhóm mạt chược mà anh là người thầy dậy.

Từ ở Việt Nam, anh đã chơi mạt chược rất giỏi, nhưng vì mưu kế sinh nhai khi mới đến một đất nước mới lạ lẫm nên anh chưa “trổ tài,” thời kỳ covid quá nhàn nhã, đây chính là cơ hội, anh lập ra từng nhóm bốn người dậy chúng tôi đánh mạt chược, vui, thật hào hứng và luyện trí nhớ cho khỏi quên khi lớn tuổi. Anh thâu một cuốn băng DVD dậy cách đánh mạt chược, và cũng viết một quyển sánh với những thế trận khó và cách tính điểm ra sao…

Chúng tôi đã quên đi những ngày tháng nhàn chám bị cô lập mà ai cũng lo học thêm cách đánh mới để ra quân đánh cho thắng, chúng tôi chơi một tuần hai lần ở nhà anh chị, còn khi về nhà thì tập luyện thêm những thế đánh hóc búa làm sao để có thể “ăn” được ông thầy. Lúc đó tên tuổi của anh vang rộng vì không ai có thể “hạ gục” anh trên những ván mạt chược.

Quân bài mạt chược 

Những ngày tháng bên nhau thân mật, ngắn ngủi trôi qua…

Bất thình lình tôi nghe chị nói anh bị suy thận và phải làm lọc thận mỗi hai lần trong tuần. Anh vẫn mang tâm trạng tích cực, vẫn tươi cười mỗi khi gặp bạn bè thân thiết, anh chấp nhận và hiểu rằng chuyến xe mà anh đang đi cùng mọi người sắp sửa đỗ bến! Và người xuống bến sẽ là anh!

Anh vẫn dậy và chơi mạt chược rất cừ khôi, khi vào cuộc, anh quên tất cả bệnh hoạn, mà chỉ tập trung suy nghĩ sao cho ăn được đối phương, nên khi ngắm mọi người chơi mạt chược tôi có cảm tưởng như anh không hề mang bệnh trong người mà trái lại rất khỏe, giọng nói sang sảng, tiếng cười thật vui, nhưng có ai biết đâu là sau khi chúng tôi ra về thì anh thấm mệt! Anh vẫn chấp nhận chịu đựng đau đớn để được gặp bạn bè, để được tiếp tục đánh mạt chược, để quên đi căn bệnh đang đeo bám trong chốc lát, anh muốn thi gan với con bệnh đang đè lên con người của anh mỗi lúc một nặng hơn.

Một ngày họp mặt bạn bè, chị nói với chúng tôi có thể đó là lần cuối vì anh đã rất mệt rồi, anh không thở nổi nữa, mỗi lần anh đi lọc thận về, anh té nằm lăn ra đất vì đi không nổi, còn chị đã 80, làm sao có đủ sức để đỡ anh lên giường, nên chị để anh nằm yên dưới đất mà bấm 911 gọi xe cứu thương.

Cơ thể anh lúc nóng, lúc lạnh, rất kỳ quái! Có khi thì rất nóng phía sau lưng, chị phải lấy đá chườm phía sau, nhưng phía trước ngực lại phải đắp mền vì lạnh run!

Bên cạnh những đau đớn mệt nhọc, anh vẫn khôi hài. Anh vẫn nói những lời rất yêu thương, đầy biết ơn đến người vợ bên cạnh mình từ 50 năm nay, anh còn viết một bài báo nói về việc lọc thận làm cơ thể bị lạnh run, cách khắc phục như thế nào, gởi đi khắp nơi cho người cùng bệnh rút kinh nghiệm, vì là một bác sĩ 40 năm nên những thuốc chích vào người, anh đều tìm hiểu phản ứng phụ của nó ra sao.

Ơn nghĩa vợ chồng, anh đã viết một bài riêng cho chị trên tập san y sĩ ta main dans ma main (tay em trong lòng tay anh), trong đó anh nhắc đến Le temps qu’il nous reste (thời gian còn lại của chúng ta) của tác giả Fernand Gignac, một người bạn thân của anh chị đã dịch lại như sau:

Anh nhắm mắt lìa trần mãi mãi

Trên đôi môi sót lại nụ cười

Anh đi anh đã đi rồi

Còn em, em mất nửa đời tiếc thương

Trái tim em, vẫn thường đập nhẹ

Nhưng cho ai, nhưng để làm gì?

 

Thiên đường mở, bước quen đi

Tim em lỗi nhịp bởi vì dáng anh

Xiết đôi tay, quên nhanh tất cả

Thấy thời gian giờ đã ngừng trôi! 

(Lộc Bắc)

Một ngày cuối Tháng Tám, vợ chồng tôi chở anh chị đi chơi, ăn uống; đang ăn bỗng dưng anh nhìn xa xăm, nói vu vơ như không cần người nghe:

-Tôi cần một phương pháp trợ tử!

Tôi giật mình lo lắng đưa mắt nhìn chị, nước mắt đong đầy trong hốc mắt, chị nhẹ nhàng tâm sự:

-Ai cũng phải đến ngày đó thôi! Anh đã chịu đựng đau đớn mỗi lần lọc thận về, ăn uống không được ngon miệng nữa, ngủ nửa đêm thức giấc vì nóng hay lạnh quá, không được uống quá nhiều nước cho dù có khát cách mấy vì thận đã không làm việc nổi. Anh lại thương chị mỗi khi thấy chị cực giúp anh làm vệ sinh cá nhân. Con cái ở xa, chúng có cuộc sống riêng, đâu thể lúc nào cũng kề cận lo cho cha mẹ mãi được, khi cần chúng có thể đến giúp có hạn mà thôi… Rốt cuộc chỉ còn hai ông bà già! Cuộc đời có giới hạn, mình đã xây dựng, sống với tất cả nỗ lực, bổn phận trách nhiệm đã xong, thì bây giờ Chúa gọi về lúc nào anh chị cũng chấp nhận thôi!

Lần ấy, tôi thật ái ngại, thấy anh bước đi không còn khỏe như những lần gặp nhau trước nữa vì càng lớn tuổi mắt càng mờ, anh nói thật cảm động:

-Trước mắt anh như có một làn mây bao phủ, anh muốn chỉ một lần được nhìn chị cho rõ hơn để kiếp sau có thể tìm thấy chị mà lấy làm vợ….

***

Bỗng một buổi tối sau giờ cơm, tôi nhận được một điện thư của chị nói rằng đã để anh vào palliative care (phòng chăm sóc cuối đời). Tôi run hết cả người, nước mắt chảy dài xuống má không nói được một lời nào, bàng hoàng, xót xa nghĩ đến anh. Tình cảm của tôi giành cho anh chị cũng như những người thân trong gia đình, làm tôi câm nghẹn không nói lên được một lời nào; biết rằng tình trạng của anh bệnh như thế đó, biết rằng anh sẽ từ giã chúng tôi một ngày không xa, nhưng thật sự tôi chưa hề sửa soạn tư tưởng sẽ mãi mãi không gặp anh và sẽ chỉ nhìn thấy chị trong tương lai một mình cô độc ở tuổi 80!

Tôi nhớ lại hình ảnh bố tôi gầy còm vì bệnh nan y phổi ở tuổi 86, khi bố cảm thấy sự sống không còn cần thiết nữa, ông không muốn bị mổ xẻ, cắt cứa đau đớn nên đã can đảm tự chọn vào palliative care, ở đây ông được ăn uống tất cả những gì mình thích, không cần kiêng cữ nữa, mỗi ngày y tá sẽ chích cho ông một mũi thuốc morphine giảm đi những giác quan, tức là giảm đi sự cảm nhận, đau đớn, và đồng thời những giấc ngủ lâu và triền miên hơn, trong vòng một tuần bố đã ra đi nhẹ nhàng trong một giấc ngủ sâu…

Bây giờ tôi mới hiểu những người đàn ông trụ cột, gánh vác trách nhiệm của gia đình can đảm và dứt khoát như thế!

***

Vừa bước vào phòng bệnh, tôi thấy cả gia đình anh chị cùng hai con trai, con dâu, và các cháu quây quần bên giường bệnh, còn anh thì vẫn ngủ thật say, không nước biển truyền vào mạch máu hay ống oxygen cắm vào mũi để thở như những người bệnh bình thường khác.

Đúng thật là “ra đi trong bình an nhẹ nhàng” nhưng sao trái tim tôi quặn thắt!

Trên tường những hình ảnh kỷ niệm của gia đình anh chị từ ngày lấy nhau cho đến tận bây giờ, hình các con cháu nô đùa bao quanh anh chị thật hạnh phúc. Tất cả chỉ là phù du khi con người đến một khúc quanh?!

Trên chiếc bàn nhỏ, tôi thấy một quân bài mạt chược thật to bự mà một người học trò nào đó đến tặng ông thầy dậy mạt chược, vì thực tình anh chính là vị hoàng đế của mạt chược Montreal! không có ai có thể chơi qua nổi khi anh còn khỏe.

Những cánh hoa rực rỡ màu tươi thắm trên bàn trong góc cũng không đủ làm căn phòng vui tươi hơn, chúng tôi phải đè nén lòng khi nói chuyện với nhau, tôi sợ nếu sơ xuất điều gì sẽ làm nước mắt của tôi và chị tràn ngập cả phòng!

90 năm sống của anh qua những hình ảnh, gia đình con cháu vây quanh ở phút cuối, làm lòng tôi se thắt, đúng là cuộc sống này chỉ là một chặng dừng chân ngắn ngủi trong hành trình dài vô tận của sự tồn tại ở một cõi khác sau cái chết ở trần gian.

Tôi hỏi chị:

-Anh vào đây nằm từ bao giờ? Và đã quyết định chuyện này từ bao lâu rồi ạ?

-Thực sự mà nói anh đi lọc thận từ 4 năm rưỡi nay rồi, dạo gần đây sau khi từ nhà thương về anh rất mệt, ăn ngủ không yên, anh cứ bị đau nhức trong cơ thể ngày càng nhiều, rất khó chịu; tuổi đã cao, có kéo dài sự sống hơn nữa cũng chẳng để làm gì mà phiền thêm cho con cháu mỗi khi có chuyện, anh thực sự muốn ra đi êm ả, nên đã nói chuyện này với cơ quan y tế nơi mà họ cử những y tá đến chăm sóc cho anh hàng tuần tại nhà. Anh đã bàn với chị và các con, chính anh là người quyết định….

Câu chuyện chúng tôi bị cắt ngang khi anh hơi tỉnh lại, tôi đứng bên cạnh, vuốt tay anh: anh vẫn còn minh mẫn khi nói đúng tên tôi, anh lại còn thêm:

-Mắt mờ quá không thấy rõ…

Xiết chặt tay anh cho một lần cuối, tôi cố nuốt nước mắt vào trong, cổ họng nghẹn lại, những lời nói cuối cùng từ giã cho một kiếp người, khi anh còn nhận biết:

-Chúc anh… đi chơi xa thuận buồm xuôi gió, chúc anh đi thật bình an…

Chị thêm vào:

-Anh nhớ chờ em nhé!

Ơn em hồn sớm ngậm ngùi

Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau. 

(Giữ đời cho nhau- Từ Công Phụng)


Sỏi Ngọc


Nồi Chiên Không Dầu Có Hại Không? Cẩn Thận Khi Cho Trẻ Tập Võ, Tác Dụng Phụ Thuốc Suyễn - BS. Phạm Hiếu Liêm

Friday, September 6, 2024

Tôi Sống Còn Trong Cơn Đại Hồng Thủy - Hoàng Thị Như Huy


Sáng nay bầu trời âm u màu xám xịt như muốn sụp đổ với những cơn mưa liên tục xối xả, báo hiệu con nước sắp vượt bờ dòng Hương.

Thẩn thờ nhìn trời đất với nét mặt đầy lo âu, mẹ liên tục chặc lưỡi thở dài với giọng thật buồn: “Trời sắp hành cơn lũ lớn!”

Với kinh nghiệm của người từng sống bao năm trên mảnh đất luôn xảy ra những cơn lũ thảm khốc, mẹ nhìn sắc trời, sắc nước, tiên đoán được những gì sắp xảy đến. Lũ trẻ vẫn hồn nhiên vô tư nô đùa nhìn con nước chảy trên dòng sông trước ngõ.

Nước theo cơn mưa đổ, đang lên dần, lên dần... mẹ hối hả gọi tôi mang tơi, xăn cao quần, lội ra mảnh vườn nhà, cố nhặt nhạnh nhanh những hoa màu trong vườn vì đêm nay lũ về, tất cả sẽ bị cuốn đi.

Dưới mưa, mặt mẹ ướt đầm, dáng gầy đang ra sức vật lộn với cây ba lùn có buồng chuối non đã ngả nghiêng vì mưa gió. Mẹ kéo lê cả buồng chuối vào nhà. Tôi nhặt mấy mớ rau lang, bông ngót, rau dền...nơi những luống rau sắp bị dòng nước bạc ngập tràn, nhổ nhanh mấy bụi sắn củ còn non, hái nhanh mấy trái khế chua trên cành cây đã tả tơi vì gió... những thức không mong đợi ấy, là miếng ăn trong những ngày sắp tới nếu cơn lũ đổ về cầm chân không thể ra chợ mua sắm như mọi ngày.

Cơn mưa vẫn xối xả.Con nước đục ngầu đang mấp mé ngoài bờ sông.Tiếng loa đài thúc giục phòng chống bão lụt vang lên ra rả... Mẹ lặng lẽ ngồi nấu những món ăn.

Tôi lẩn quẩn bên mẹ để phụ giúp. Cắt thân chuối sứ nơi cuối vườn vừa gãy đổ, mẹ làm món dưa chuối của quê nghèo. Chỉ hai ngày ủ muối, sẽ có món dưa chuối, thêm một chén nước ruốc kho, dậy hương chanh và tỏi ớt, đủ cho ta cầm hơi qua những ngày lũ đến...

Mẹ lột vỏ củ sắn ngâm vào thau nước. Phần để luộc, phần để kho. Những củ sắn non chưa đến vụ bị cơn lũ tràn về ngập úng nên phải nhổ nhanh kẻo thối.

Bụng đói phải nấu cái gì nhanh mới được! Mẹ nấu tạm món sắn luộc chấm muối ớt. Trong cơn lành lạnh của buổi trời mới lập đông, cái tất bật chạy lũ đang đổ về miền đất thấp trũng...những miếng sắn chín mềm thơm thơm được chấm với muối ớt giã mịn, đủ tiếp sức ta qua cơn đói lòng khi cơn lũ đã tràn ngập vườn.


Nước đã lên, nước đang tiếp tục dâng lên!

Vừa lội trong lũ, vừa ăn củ sắn luộc chấm muối ớt bùi bùi cay cay! Ngoài trời mưa vẫn xối xả. Lũ vẫn sẽ còn lên cao. Món sắn kho với chút mỡ và ruốc của quê mình cũng là món ăn ngon khi đã đói run vì lội nước. Múc ra tô, trên nền sắn trắng, điểm mấy giọt ớt màu đỏ, mấy cọng hành ngò xanh... vừa ăn vừa thổi, vừa cảm nhận cái bùi bùi, thơm thơm, mằn mặn... thật là một miếng khi đói bằng gói khi no.

Lột vỏ phần vỏ cứng bên ngoài, lấy lớp vỏ sắn màu hồng, mẹ xếp chồng nhau rồi cắt từng sợi nhỏ, ngâm trong nước muối để khi ăn khỏi phải bị say. Những vỏ sắn vốn dĩ chỉ tận dụng làm thức ăn cho lũ heo nuôi trong chuồng, nay lại được mẹ chế biến thành món dưa chua. Nước hâm ấm ấm, vị muối mằn mặn, thêm lượng nước cháo hồ... Mẹ cho vỏ sắn vào hũ sành, cài chặt miệng, đổ nước ngập đầy. Một hai ngày sau, dưa chuyển hương thơm, vị chua... cái hương vị vừa dân dã vừa lạ lùng ấy cũng đã từng cho tôi được thưởng thức trong những mùa lũ đến.

Con nước đang cuồn cuộn tràn bờ sông. Bác Tư đi đánh mẻ cá về ngang qua cổng, gọi cho một mớ để kho khô. Tôi chạy ra nhận mớ cá từ lòng hảo tâm của người hàng xóm. Mớ cá mùa lũ quen thân gồm đông đủ họ nhà Tràu, Giếc, Trê, Cấn, Mại... bé tẻo teo.

Những ai đã từng ở Huế trong mùa lũ, từng được ăn món cá mùa lũ kho khô khi chân đang phải ngâm lạnh giá trong nước lũ mới thấy hết cái hương vị nhớ đời của nó.

Người Huế có cái thú đi đánh rớ cá nước lũ. Một người đánh cá, hàng chục người đứng xem. Khi mớ cá vừa cất lên, người ta có thể cho nhau hoặc bán kiếm chút tiền mọn.

Những mớ cá bé tẻo teo này không hẳn là miếng ngon, nhưng nếu khéo chế biến, chúng sẽ thành những dĩa cá vàng nâu, bóng mượt. Khi đói lòng ta nhìn chỉ muốn ăn ngay.

Mẹ vội vã kho trách cá để cả nhà ăn dần. Những quả ớt kim nho nhỏ màu đỏ, được mẹ bỏ vào kho cùng. Ớt cay sẽ xua đi cái tanh của những con cá nhép.

Bữa cơm chiều, mẹ lại nấu cho cả nhà món chuối ba lùn kho ruốc. Nồi chuối kho dậy hương thơm, khi lũ đã vào tận mé sân nhà.

Chuối kho nóng hôi hổi được múc ra bát, thêm hành lá, rau răm, ngò... hương thơm của các loại rau gia vị, phả vào cái mũi của lũ trẻ háu ăn. 

***

Buổi tối, nước lũ đã vào nhà. Tôi phụ giúp Mẹ kê ghế nâng bốn chân giường. Các em tôi leo lên ngồi trên đó với một mớ ngổn ngang áo quần sách vở. Chúng ngồi xếp thuyền giấy thả xuống bập bềnh trên nước với những nụ cười sung sướng của con trẻ...

Mắt mẹ tối sầm lại khi con nước vẫn đang lạnh lùng dâng... Mẹ sai tôi nấu nhanh một nồi cơm lớn, băm bó sả vừa nhổ trong vườn, xào với ruốc thành món muối sả đơn giản của kẻ nghèo. Tôi chưa hiểu sao phải nấu cơm khi đêm đã buông nhưng mẹ bảo cứ làm theo. Nước lùa nhanh vào nhà xuyên qua ống chân. Khi nồi cơm vừa chín thì bếp lò bị nước đẩy trôi bập bềnh. Ôi thôi! cái ghế nhựa, cái thau, cái xô, đôi dép, đôi giày... cả hũ dưa sáng nay vừa muối đang trôi bập bềnh trong nước! Mẹ nhanh tay lấy cây rựa gác lên cao; quơ vội mấy thức có thể ăn được: nồi cơm, nồi cá kho, hũ muối sả, mấy gói mỳ ăn liền, bịch nước uống... lên giường.

Chiếc giường giờ như một chiếc tàu chở cả nhà tôi cùng mấy thứ còn lại trong cái gia sản nghèo nàn này.

Lội trong nước, tôi cố đưa lên cao những gì còn lại... Khi nước lên cao ngang bụng hai mẹ con không còn đủ sức. Cơn lạnh đột ngột toát ra từ tận xương tủy. Mẹ kéo tôi lên chiếc giường. Mấy đứa em đã ôm nhau ngủ lăn lóc như mấy củ khoai của quê nghèo. Mẹ ôm lũ con vào lòng. Trong bóng tối, tôi cảm nhận hơi ấm của mẹ đang ấp ủ cho cả lũ chúng tôi. Tôi nhắm mắt tận hưởng cái cảm giác êm đềm ấy, cố ru mình ngủ lấy lại sức cho một ngày sắp đến.

Nhưng đêm đã không tĩnh lặng. Con nước vẫn đang tiếp tục dâng cao hơn. Khi biển nước mênh mông đã sắp nhấn chìm xóm nhỏ của chúng tôi, tôi đã nghe muôn âm thanh kêu gọi nhau từ nhà này vọng sang nhà khác. Tôi sợ hãi đến muốn òa khóc. Nhưng tôi cố gượng. Tôi không khóc. Vì tôi là chổ dựa duy nhất của mẹ trong đời này, trong chính khoảnh khắc này.Giờ đây nếu tôi tỏ sự yếu hèn, thử hỏi mẹ biết trông cậy vào ai?

Tôi nghe có tiếng ai đó kêu vang tên mẹ con tôi:

- Mạ con mụ Bê có còn đó không? có chi để ăn không? 

Mẹ chồm người lên, nhanh như sóc, đu người lên đòn tay, dùng cây rựa, phá vỡ một khoảng trống trên mái nhà. Mẹ nhoài ra trong cái khoảng bóng tối mênh mông ấy kêu gào đáp lại:

- Mạ con tui còn đây!

Tôi bất chợt tủi thân khóc òa. Tiếng khóc của tôi đánh thức lũ em dậy. Giờ chúng mới thấu hiểu được nỗi kinh hoàng của lũ khi thấy bốn bề nước mênh mông, cất tiếng khóc phụ họa, tạo nên một bản hòa tấu thê lương.

Mẹ cũng khóc. Mẹ đưa tay áo lau khô nước mắt leo lên cái tra trên tận sát mái nhà, lần lượt đưa mấy đứa em tôi lên nằm trên ấy. Nồi cơm, trách cá cũng được chuyển lên cùng. Mẹ bảo: 

- Đi đâu thì miếng ăn, thức uống phải theo đó.

Khi mà ngọn lửa kỳ diệu của bếp không thể bập bùng trong lũ, thì ra mẹ đã lo xa sai tôi nấu nồi cơm to là thế!

Có tiếng chèo khua từ chiếc ghe nhỏ đang áp sát mái nhà. Người láng giềng tốt bụng hôm qua cho tôi mớ cá, nay lại bơi ghe đi tiếp cứu những gia đình neo đơn trong xóm nhỏ...

Tôi ngồi bó gối trong bóng đêm. Bên ngoài là biển nước mênh mông.Tiếng mưa xối xả. Đó đây lại vẳng lên tiếng kêu gọi nhau đan xen trong tiếng mưa như thác đổ. Khi tiếng gọi không còn đủ sức vọng, người ta lại khua soon nồi để tạo tiếng vang xa hơn. Vang xa hơn để hỏi nhau ai còn ai mất, vang xa hơn như những lời kêu cứu...

Đêm trôi thật chậm... thật chậm... Lũ em lại tỉnh giấc, bốc cơm nguội ăn với cá kho, muối sả... cho đến miếng cơm cháy tận đáy nồi.

***

Lũ sẽ còn về mãi trên đất Huế quê tôi. Người Huế sẽ mãi lưu truyền những kinh nghiệm để sống chung với lũ, gìn giữ những tấm lòng khi tắt lửa tối đèn, mênh mang trong lũ.


Huế mùa lũ

Hoàng Thị Như Huy

Trách Ai Bây Chừ? - Đỗ Công Luận

40 Năm Tìm Bạn - Đoàn Kế Tường

Minh hoạ của manhhai: Pháo binh Nhảy Dù

Gần 40 năm trời trôi qua, tôi đã lần mò khắp nơi, và kể từ khi có internet thì ngày nào cũng lang thang trên khắp các trang mạng, cố tìm cho bằng được tông tích người bạn chí cốt là Ngô Văn Khiêm, nguyên Đại Úy, Pháo đội trưởng, pháo đội A, Tiểu đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù. Gặp gỡ bất cứ ai, nghe nói trước đây ở binh chủng Dù, tôi cũng dọ hỏi. Nhiều lần nhờ Du Tử Lê, liên hệ với anh em Nhảy Dù đang định cư ở Mỹ hỏi giùm, nhưng số anh em mà Du Tử Lê quen biết cũng chỉ lắc đầu. Mọi chuyện tưởng như đã không còn hy vọng, khi tuổi đời ngày càng chồng chất và thời gian còn lại trên trần gian cũng chẳng bao nhiêu. Bỗng dưng, cách nay nửa tháng, tôi tình cờ đọc được một bài viết ngắn của vài anh em Nhảy Dù đi tìm xác đồng đội mới hay 1 năm trước đây, những anh em này, nhờ sự hướng dẫn của dân làng, đã tìm được 1 nấm mồ tập thể,chôn gần 2 xe GMC những chiến sĩ mũ đỏ đã vị quốc vong thân ngày 16/4/1975 tại phi trường Phan Rang. Bao gồm Trung tá Trần Văn Sơn, Lữ đoàn Phó, Lữ đoàn 2 Dù, Thiếu Tá Đặng Đình Tựu, trưởng ban 3 Tiểu Đoàn 1/Pháo Binh Dù, Đại Úy Ngô Văn Khiêm, Pháo đội trưởng Pháo đội A,Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Dù, và nhiều anh em vô danh khác. Cà Tèm, một chiến sĩ mũ đỏ trong nhóm đi tìm xác cho biết, tất cả chỉ còn là những nắm xương tàn nằm chung với nhau một huyệt, nên đã giữ nguyên trạng nấm mồ tập thể và chỉ xây một cái miếu nhỏ để thờ. Ngay sau đó, tôi được đọc thêm một bài viết của Thiếu Tá Nhảy dù Trương Dưỡng, mới hiểu rõ bạn mình và đồng đội đã chiến đấu hào hùng và hy sinh bi tráng như thế nào. Dĩ nhiên, tôi đã khóc, khóc một cách tự nhiên cho dù “tuổi già hạt lệ như sương!” Sau bao nhiêu năm tìm nhau, giờ thì mới hay bạn mình đã vĩnh viễn nằm xuống và ở lại với mảnh đất Phan Rang trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. 


Năm 1965, giã từ mái trường Thiếu Sinh Quân thân yêu, tôi thực sự bước vào cuộc chiến. Đơn vị đầu tiên trong đời chiến binh của tôi là trại LLĐB Lộc Ninh, nằm cuối phi đạo dã chiến, đủ cho các loại máy bay C123, C119 và Caribu lên, xuống. Tất cả đều nằm lọt thỏm giữa những cánh rừng bạt ngàn, xanh um trên nền đất bazan đỏ hơn màu máu. Cũng giống như hầu hết các trại LLĐB khác vào thời đó, toàn nằm dọc theo biên giới, hiếm có trại nào tọa lạc gần khu dân cư nên buồn lắm. Ấy vậy mà chỉ chưa đầy 3 tháng, tôi lại được lệnh lên trực thăng về tăng cường cho trại Chí Linh (Sông Bé) giữa lòng chiến khu Đ, cách Đồng Xoài chỉ hơn 10 cây số đường chim bay. Chưa hết, ở Sông Bé được mấy tháng, tôi lại vác ba lô lên thẳng Phước Long (BCH B14 LLĐB), trình diện Đại Úy Lưu Yểm (về sau ông làm tỉnh trưởng Phước Long, rồi Biên Hòa) và được điều phối về trại Bù Đốp. Đến khi thành lập trại Tống Lê Chân (B16 LLĐB), tôi lại theo chân mấy đại đội Biệt Kích Quân tăng cường qua đó một thời gian để làm hàng rào phòng thủ, bảo vệ cho công binh Mỹ san ủi mặt bằng, xây cất công sự..Cứ thế, quanh quẩn mãi với mấy cái trại biên phòng, thuộc B14, B15, B16 cũng mất hết mấy năm. Sau Mậu Thân, tôi lại được quay trở về lại Lộc Ninh.


Lúc bấy giờ, trại LLĐB Lộc Ninh đã dời lên ở giữa sân bay, cách chi khu Lộc Ninh 1 km, khu trại cũ dưới thung lũng được làm khu gia binh do một trung đội BKQ canh gác, bảo vệ. Quân số trong trại bao gồm 1 toán A LLĐB Hoa Kỳ (12 người), 1 toán A LLĐB VN (12 người) 2 Trung đội Trinh Sát, 4 Đại Đội BKQ (1 Đại đội toàn người Miên và 3 Đại đội có dàn chỉ huy là người Kinh, còn từ cấp Trung đội trưởng trở xuống, hầu hết là người dân tộc Stieng). Tổng cộng tất cả hơn 400 tay súng nhưng 1 nửa quân số luôn hoạt động bên ngoài, có khi cách xa trại vài chục cây số là thường. Mọi sinh hoạt trong trại đều diễn ra dưới những căn hầm bán lộ thiên với 2/3 nằm dưới mặt đất và những giao thông hào kiên cố. Giữa năm 1968 trại bị Công trường 7 và 2 trung đoàn Q.762 Q.763 VC tấn công. Trận đánh khốc liệt này được đài phát thanh Quân Đội và các báo tại Sài Gòn hồi đó gọi là trận Dạ Chiến Lộc Ninh. 


Vài tuần lễ sau khi trận chiến đi qua, có mấy xe Công Binh vào trại ủi đất để làm vị trí cho Pháo Binh. Chúng tôi được thông báo là trại sẽ được tăng cường 2 khẩu 105 ly. Chỉ 1 ngày sau khi vị trí hoàn chỉnh, thì 1 trung đội Pháo Binh thuộc Tiểu Đoàn 52/PB, Sư Đoàn 5, kéo súng vào trại. Chỉ huyTrung đội này làTrung Úy Nguyễn Trí Thức với 2 sĩ quan Tiền Sát Viên còn rất trẻ: Chuẩn Úy Ngô Văn Khiêm và Chuẩn Úy Huỳnh Công Ni. Khỏi phải nói, có thêm mt trung đội người Kinh trong trại, chúng tôi vui biết chừng nào... Ngay buổi chiều hôm đó, tôi đã sang vị trí của họ để làm quen. Ngô Văn Khiêm quê ở Chợ Gạo, Mỹ Tho. Tánh tình hồn hậu, hay nói chuyện tiếu lâm và rất chân tình nên dễ gần gũi. Còn Huỳnh Công Ni gốc gác Đà Lạt, hiền lành nhưng có cung cách một công tử, con nhà giàu. Kể từ đó, tôi với Khiêm trở thành đôi bạn thân. Tối nào tôi cũng qua vị trí của Khiêm ngồi tán gẫu đủ thứ chuyện trên đời. Có hôm nhậu lai rai, có hôm pha cà phê ngồi uống cho tới khuya. Không ít lần, đang ngồi với nhau thì bị pháo kích. Tôi lao xuống giao thông hào chạy vội về vị trí. Chưa đến nơi đã nghe tiếng 105 ly phản pháo, át cả tiếng đạn súng cối nổ trên phòng tuyến. Những lần như thế, mới mờ sáng Khiêm đã chạy qua đánh thức tôi dậy, vừa nói, vừa cười: 

– Tao sang coi mày còn sống hay đã chết! 

Ở Lộc Ninh, trời đã buồn lại càng buồn hơn nữa vào những ngày mưa. Mưa làm cho mặt đất đỏ lầy lội, dính chặt như keo, nên chỉ còn ngồi trong hầm nhìn ra khoảng không gian chật chội, nặng chĩu màu mây xám xịt. Lúc bấy giờ, Huỳnh Công Ni đã có vợ, nên thường đem hình ra khoe với chúng tôi. Con gái Đà Lạt lúc nào cũng chưng diện thật đẹp. Còn tôi và Khiêm thì chưa đứa nào có được mối tình đầu. Khiêm kể: 

 Hồi còn đi học ở Mỹ Tho, tao cũng phải lòng vài con bạn cùng lớp. Nhưng nhát quá, mới đứng gần đã run nên không dám tỏ tình, đành để mấy em ôm cặp theo mấy thằng bạo miệng, bạo mồm. Xong tú tài thì xếp bút nghiên vào Thủ Đức, ra trường, đi làm pháo thủ toàn ở những nơi khỉ ho, cò gáy, thế là dang dở đời trai. 


Thứ bảy, chúa nhật, hôm nào không hành quân, tôi và Khiêm cũng rủ nhau ra phố chợ Lộc Ninh vào quán A Lìn, bên bờ suối, ngồi uống cà phê. Đó là một phố chợ không đèn, hiu hắt với vài hàng quán lèo tèo và 1 bến xe bụi bặm, loe hoe vài chiếc xe đò cũ kỹ chạy đường Lộc Ninh-Bình Long. Dãy phố bên hông bến xe là tiệm thuốc tây Mặc Khải (thân phụ của nhà văn nữThụy Vũ). Nhưng ở đây vào ngày cuối tuần cũng rộn ràng bước chân của những cô thiếu nữ ở các làng cao su thuộc đồn điền Cexo của Tây, đổ ra mua sắm. Thấy chúng tôi ngắm nghía các em một cách say sưa, mấy anh em Hạ Sĩ Quan An Ninh bên chi khu góp ý: 

 Các xếp đừng đụng tới mấy em ở làng 2, làng 7, làng 9, làng 10, toàn là VC không đó. Mấy làng này nằm ngoài vòng kiểm soát của mình nên đậu nhiều hơn xôi! 

Thật ra có cho kẹo thì chúng tôi cũng không dám đụng đến các em. Ít khi nào chúng tôi còn nấn ná ngoài chợ khi trời sắp ngã về chiều. Cứ kéo nhau vào trại là chắc ăn. Điều mà tôi với Khiêm thường nói với nhau là nghĩ đến một ngày phải chia tay, mỗi đứa một phương trời. Đời lính biết đâu mà hẹn trước! 


Rồi một hôm, Chi Thông Tin Lộc Ninh tổ chức một đêm văn nghệ cây nhà lá vườn. Đây là 1 sinh hoạt văn hóa hiếm khi diễn ra ở cái vùng đất heo hút này. Trong số quan khách được mời có cả tôi và Khiêm. Đó là 1 đêm vui mà tiết mục hấp dẫn nhất là các em nữ sinh trường Trung học Lộc Ninh (Đệ nhất cấp) được các thầy cô dẫn đi làm khán giả cổ động... Trong số đó có con bé Mai thật dịu dàng, xinh xắn và dễ thương. Dường như Khiêm chẳng để ý đến những gì đang diễn ra trên sân khấu, mà chỉ quay sang chiêm ngưỡng cô bé như bị hút hồn. Nó chỉ Mai cho tôi, và nh tôi tìm cách nói với cô bé, lát nữa có người muốn đưa về, có được không? Tôi cứ tưởng mình làm chuyện cầu âu cho vừa lòng bạn, nhưng không ngờ Khiêm và Mai quen nhau từ đó và tôi nghiễm nhiên trở thành ông mai. Một ông mai mặc áo rằn ri, chân đi giày bốt-đờ-sô. Giữa mùa mưa năm đó, Trung đội của Khiêm kéo súng về đồi Đồng Long (An Lộc), thay thế vào đó là 1 trung đội khác. Sáng sớm, tôi chạy qua chỗ Khiêm thì thấy 2 khẩu 105 ly đã được móc vào 2 xe GMC. Hai chúng tôi chỉ kịp ôm nhau nói lời từ biệt trước khi tôi dẫn 1 Đại đội Biệt Kích đi nằm đường, rải từ ngã ba Xóm Bưng đến cầu Cần Lê trên quốc lộ 13, để an ninh lộ trình cho trung đội của Khiêm di chuyển. Gần trưa, tôi đứng ở đầu cầu Cần Lê, thì Khiêm đi qua, nó ngồi trên ca-bin chiếc GMC đầu tiên, cố thò đầu ra hét với tôi: 

 Mày ở lại mạnh giỏi, thế nào cũng gặp lại nhau. Tao luôn nhớ mày. 

Tôi quay mặt sang hướng khác, không nhìn đoàn xe đi qua. Xong nhiệm vụ, tôi rút quân về. Buổi chiều ngồi một mình uống cạn mấy lon bia mà nhớ bạn đến nao lòng. Ngày đó, làm gì có điện thoại di động như bây giờ. Ngay cả điện thoại hữu tuyến cũng chỉ nối đường dây nội bộ trong phạm vi trại mà thôi. Liên lạc xa chỉ trông cậy vào máy siêu tần số với hệ thống quay đầu bò (dinamo) và 1 hiệu thính viên... Còn liên lạc ngắn thì có máy ANPR C25. Chính vì thế mà có nhớ nhau đến mấy, tôi và Khiêm cũng không thể liên lạc với nhau. Mấy tuần sau, tôi nhận được thư Khiêm, nó nói, về nằm với Pháo Đội trên đồi Đồng Long, sát nách tỉnh lỵ Bình Long nên cũng đỡ khổ. Gần cuối thư nó viết: “Tao báo cho mày 2 tin vui. Thứ nhất, tao và Huỳnh Công Ni vừa làm đơn xin thuyên chuyển qua Pháo Binh Nhảy Dù, đơn đã được chuyển đi. Thứ hai, Mai cũng vừa về Bình Long trọ học (đệ nhị cấp). Tao định sẽ cưới Mai làm vợ, nhưng không biết nhà người ta có chịu gả con cho đám lính tráng như tụi mình hay không?” Tôi đã đọc thư Khiêm nhiều lần đến thuộc lòng. Tháng sau, theo chân một cuộc hành quân mở đường để đoàn công-voa của đồn điền cao su CEXO chở gạo lên cho hơn 10 ngàn công nhân cạo mủ. Tôi về Bình Long gặp Khiêm. Buổi trưa, Khiêm, Mai và tôi rủ nhau vào 1 quán cơm ở chợ cũ, đầu con dốc Đại Lộ Hoàng Hôn. Nhìn hai đứa nó khắng khít bên nhau trông rất hạnh phúc và đẹp đôi khiến tôi cũng vui lây niềm vui của bạn. Ăn cơm xong, chẳng biết đi đâu vì tỉnh lỵ quá nhỏ, quá nghèo. Thế là vào 1 quán cà phê ngồi tâm sự. Mấy tháng sau, thì Khiêm thư cho tôi báo đã cùng với Ni qua Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù. 


Năm 1970, tôi về Chiến Đoàn 3 Xung Kích Lưu Động (B23 – Mike-Force) ở Long Hải. Chiến đoàn có 3 Tiểu đoàn Biệt Kích Quân Tiếp Ứng, quanh năm đi hành quân xa. Tôi may mắn gặp Thiếu Tá Ngô Đình Lưu, nhận ra người miền Trung với nhau nên xếp cho về ban 5, suốt ngày chỉ quanh quẩn ở hậu cứ. Thời gian này, Ngô Văn Khiêm được Tiểu Đoàn 1/PB Dù cho đi học mt khóa Chiến Tranh Chính Trị kéo dài hơn tháng tại trại Lê Lợi, trong Biệt Khu Thủ Đô, đường Lê Văn Duyệt. Còn Mai thì theo gia đình về Sài Gòn ở Thanh Đa và mới bước vào Đại học Văn Khoa. Thế là cuối tuần nào tôi cũng từ Long Hải vù về Sài Gòn, cặp kè với Khiêm ra Thanh Đa đón Mai. Có khi vào rạp Rex coi xi nê, có khi ra Mai Hương ngồi ăn kem, chứ chẳng biết làm gì hơn ở cái đất Sài Gòn hoa lệ mà chúng tôi thì tiền lính-tính liền! 


Giữa năm 1970, tôi từ giã cuộc đời Biệt Kích, quay về quê nhà ở Quảng Trị. Cứ tưởng còn lâu mới gặp lại Khiêm. Cuối năm đó tôi nhận được tin Khiêm lên Bình Long làm đám cưới với Mai, nhưng tôi không về được. Nào ngờ, đầu năm 1971, Khiêm tham dự hành quân Lam Sơn 719, đánh sang Hạ Lào.Khi đơn vị của Khiêm triệt thoái về Đông Hà, tôi đã đi tìm và gặp được cả Khiêm lẫn Ni và thêm 1 người bạn mới có cái biệt danh là “Dưỡng Cà Lăm”. Lúc bấy giờ cả 3 đã đeo lon Trung Úy. Sau chiến dịch này, Huỳnh Công Ni xin về Pháo Binh Diện Địa, thuộc Tiểu Khu Lâm Đồng. Tôi đưa Khiêm về nhà. Mẹ tôi hỏi nó muốn ăn gì? Nó nói thèm canh chua miền Nam lắm. Mẹ tôi, một bà Mẹ quê miền Trung chơn chất, ít khi bước ra khỏi lũy tre làng. Nay vì chiến tranh phải tản cư lên tỉnh, nên không biết canh chua nam bộ là thứ gì. Thế là 2 đứa ra chợ mua cá lóc, me chua và đủ món gia vị, đem về tự nấu. Chẳng hiểu có ngon lành gì không mà Khiêm cứ khen lấy, khen để. Chiều hôm đó, tôi và Khiêm về Huế. 2 thằng chui xuống 1 chiếc đò dưới chân cầu Gia Hội, kêu chủ đò chèo ra neo giữa lòng sông Hương nằm tâm sự cứ như là nhân tình. Đó là lần đầu tiên tôi nghe Khiêm triết lý về cuộc sống. Nó nói: 

 Chiến tranh ngày càng khốc liệt. Cứ đánh hết trận này đến trận khác. Tao nghĩ thế nào cũng có ngày ngã gục, không thì cũng tàn phế, bởi đi đêm hoài phải có lúc gặp ma. Tao học được ở đời lính 2 điều. Thứ nhất là ý nghĩa 4 chữ “ Cư-An Tư-Nguy” quá tuyệt vời trên phù hiệu của trường Thủ Đức. Nhưng từ khi học được câu này thì chưa bao giờ “Cư An” mà chỉ toàn là “Tư Nguy”. Thứ hai là khẩu hiệu “Nhảy Dù – Cố Gắng hết sức khiêm nhường. Quả thật, không ngày nào là không cố gắng, cố gắng không ngưng nghỉ mà chẳng biết cái gì đang chờ mình ở phía trước! Thôi thì cứ tiếp tục cố gắng, cố gắng đến cùng vậy. 

Rồi Khiêm nhắc đến Mai, đến cái tương lai thật đơn sơ mà hai đứa mơ ước. Tôi nghe mà thương nó lắm, bởi cảm giác như bạn mình chẳng khác nào một con ngựa hồng sắp mỏi vó! Sáng sớm hôm sau, hai đứa lại chia tay, lại hẹn ngày gặp lại. Khiêm ra Đông Hà với đơn vị đang tái phối trí, còn tôi về Quảng Trị. 


Mùa hè đỏ lửa 1972, tôi làm phóng viên chiến trường, hết theo chân các đơn vị TQLC, đến Nhảy Dù tiến về Cổ Thành. Một lần biết được Pháo đội của Khiêm đang chốt vị trí tại 1 bãi cát bên phải quốc lộ 1, gần ngã 3 Hải Lăng, lúc bấy giờ Khiêm đã lên Đại Úy, giữ chức vụ Pháo đội trưởng Pháo đội A, Tiểu đoàn 1 Pháo binh Dù. Chúng tôi ngồi ăn trưa trong tiếng nổ ì ầm liên tục, rung chuyển cả mặt đất. Tiếng đạn 130 ly từ trên núi rót xuống, tiếng 105 ly của Khiêm bắn đi yểm trợ cho các cánh quân đang tiến về Cổ Thành. Ai mà yếu bóng vía và không giỏi chịu đựng, chỉ cần ở đây vài phút là đã run như cầy sấy. Vậy mà Khiêm và các chiến binh can trường vẫn sống một cách hào hùng hết ngày này, sang tháng khác trong hoàn cảnh như thế. 

Khiêm hỏi tôi bà già và các em đang ở đâu? Tôi cho Khiêm biết tất cả đều bình an và đang sống ở khu tản cư Non Nước, Đà Nẵng. Quả thật, trong chiến tranh, người dân Quảng Trị cũng gian truân chẳng kém gì đời lính. Họ liên tục có những cuộc bỏ phiếu bằng chân để lựa chọn. Bất chấp bom đạn trên đầu, cứ tìm nơi nào có bóng dáng người lính VNCH mà đến… 

Sau bữa cơm, tôi thấy nét mặt Khiêm đượm buồn, cho dù sạm nắng và dày dạn phong sương rất nhiều. 

Khiêm nói: 

– Báo cho mày biết, tao sắp làm cha. Ngày trước, chẳng ngán gì đường tên, mũi đạn, bất quá “áo bào thay chiếu anh về đất” là cùng. Còn bây giờ, khi biết mình sắp có con thì hơi lạnh cẳng! Thôi thì cứ phó thác cho số phận. 

Ngưng một lát, Khiêm đứng dậy móc trong túi quần trận ra đưa cho tôi một xấp tiền. Nó nói tiếp: 

– Đường từ đây về Huế rất an toàn, tất cả đều nằm trong sự kiểm soát của mình, ngoại trừ pháo kích thì không biết đâu mà lần.Lát nữa tao cho tài xế lái xe jeep đưa mày về Huế. Đó là lệnh, mày không được cãi. Mày không nên ở đâyđêm nay.Tao gởi mày 5 ngàn.Cho mày 2 ngàn, coi như tao rửa lon Đại Úy trễ với mày. Gởi bà già 3 ngàn cho tao yên lòng. Tao ở giữa chiến trận thì để tiền trong túi mà làm gì. Mày cứ tiêu giùm tao.

Tôi xiết chặt tay Khiêm và nắm lấy thật lâu. Tự nhiên tôi trào nước mắt, chỉ thốt được một câu: 

– Tao thương mày quá Khiêm ơi! 

Khiêm nhìn tôi cố cười gượng: 

– Đ.m tinh thần Biệt Kích của mày đâu rồi? Ngày xưa tao ngưỡng mộ cái ngang tàng của mày lắm mà. Sao bây giờ lại yếu đuối thế! 

Đó là lần cuối cùng tôi gặp Khiêm! Cho dù thỉnh thoảng tôi vẫn ghé lại hậu cứ Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Dù, nằm sát Tiu Đoàn 9 trong trại Hoàng Hoa Thám để hỏi tin tức và biết chắc nó vẫn chân cứng, đá mềm trên khắp nẻo chiến trường. 


Sau ngày 30/4/1975, tôi hy vọng Khiêm sẽ trở về, nhưng chờ hoài chẳng thấy. Một thời gian sau, tôi khăn gói đi vào trại tù, nơi được gọi là trại cải tạo! Ròng rã 10 năm lao lý, mỗi lần có số anh em từ trại khác chuyển đến, tôi đều dọ hỏi, nhưng cũng chẳng có ai biết Khiêm ở đâu. Năm 1985, tôi ra trại. Lại tiếp tục tìm kiếm. Bấy giờ tôi lại hy vọng bạn mình đã nhanh chân di tản được sang Mỹ, vì nghe nói Nhảy Dù và TQLC đi nhiều lắm. Cho đến khi có internet, tối nào trước khi tắt máy đi ngủ, tôi cũng gõ vào Google “Đại Úy Ngô Văn Khiêm pháo đội trưởng pháo đội A tiểu đoàn 1 pháo binh sư đoàn nhảy dù” và lần nào mạng cũng cho kết quả “Không hiển thị”. 


Thế rồi, một buổi tối đầu tháng 7/2014, tôi đã hồi hộp đến nghẹn thở khi thấy tên Khiêm xuất hiện trên mạng, trong bài viết mang tựa đề “Cải táng những chiến sĩ mũ đỏ đã vị quốc vong thân ngày 16/4/1975 tại phi trường Phan Rang tỉnh Ninh Thuận”. Người viết muốn thông báo cho bà con, bạn bè, thân hữu của Trung Tá Sơn, Thiếu tá Tựu và Đại Úy Khiêm là đã tìm được nấm mồ tập thể, chôn hài cốt của 3 anh em có cấp bậc cao nhất và một số chiến hữu khác dưới chân Núi Ngỗng, xã Ninh Sơn. Tháng 3/2013, một ngôi miếu nhỏ được xây dựng tại đó, sau 38 năm những cánh hoa dù về an ngh giữa lòng đất mẹ mà không ai nhang khói! Ý chừng để tránh phiền toái, tác giả bài viết ký tên là Cà Tèm với số điện thoại khuyến mãi: 01886423011. Mừng quá, tôi bấm ngay số điện thoại của Cà Tèm nhưng chỉ nghe tổng đài trả lời “số thuê bao đã tạm khóa, xin quý khách gọi lại sau”. Thất vọng, nhưng tôi vẫn kiên trì gọi mỗi ngày 3 lần: sáng, trưa,chiều... Rồi gần 10 ngày sau, một buổi sáng tôi nghe chuông đổ. Đầu máy bên kia một giọng đàn ông lớn tuổi vang lên. Tôi giới thiệu ngay mình là bạn chí cốt của Ngô Văn Khiêm, rất xúc động khi đọc được tin này và rất cảm kích trước việc đi tìm xác đồng đội của anh em. Người đàn ông nói, anh ta cũng là chiến sĩ mũ đỏ và quê quán tại Phan Rang. Vì quá thương chiến hữu mà mấy chục năm qua cứ lùng sục, tìm kiếm để lo cho đồng đội một nấm mồ mới thấy yên lòng. Sau đó, Cà Tèm cho tôi số điện thoại thường dùng và tên thật của anh. Tôi hỏi Cà Tèm, hiện nay Khiêm có còn thân nhân nào không? Cà Tèm nói có, chị Mai vợ của anh đang ở Úc. Dù đã có gia đình mới nhưng hôm xây miếu cho anh Khiêm, chị cũng gởi tiền về. Tôi lại hỏi Cà Tèm có cách nào liên lạc được với Mai không? Cà Tèm nói sẽ gọi điện thoại cho người em chồng hiện nay của Mai đang định cư ở Sài Gòn. Nhờ anh ta chuyển ngay cho Mai tên và số điện thoại của tôi. Nếu cần thì Mai sẽ gọi. Cà Tèm cúp máy. Tôi tưởng nếu có thì cũng phải chờ một vài ngày Mai mới gọi cho tôi, bởi đã mất liên lạc với nhau hơn 40 năm rồi còn gì. Ấy thế mà chỉ 1 tiếng đồng hồ sau, chuông điện thoại của tôi reo, đầu máy bên kia giọng một người phụ nữ đứng tuổi nói trong xúc động: 

– Có phải anh Tường không? Em là Mai vợ anh Khiêm ở Úc gọi về cho anh đây. 

Quá xúc động, tôi hét lên trong máy: 

– Mai ơi, Mai khỏe không? 

– Em khỏe. Mấy chục năm qua, em cũng nhiều lần dò hỏi tin tức về anh nhưng không có ai trả lời chính xác. Anh Tường ơi, tội nghiệp Khiêm lắm. Những ngày tháng cuối cùng không hiểu linh tính thế nào mà Khiêm thường nói với em: “Nữa, anh chết đi, anh sẽ kiếm cho em 1 người chồng tử tế. Còn thằng nào không đường hoàng anh sẽ không gả em đâu.” Rồi Khiêm lại mang hết đồ đạc về nhà và dặn dò em, chiến tranh chừng cũng sắp kết thúc, anh sẽ về sống mãi mãi bên em.” 

Ngưng một lát, dường như để nén cảm xúc, Mai nói tiếp: 

– Suốt đêm 16/4/1975, em không thể chợp mắt một phút nào cả. Lòng cứ nóng như lửa đốt. Mấy ngày sau, có 1 người y tá thuộc đơn vị của Khiêm, tên là Phan Bá Em đến nhà cho em biết. Sáng hôm đó, bên mình hầu như đạn dược, lương thực đã cạn kiệt và VC đã tràn vào phi trường. Trung Tá Trần Văn Sơn, Lữ đoàn phó, Lữ đoàn 2 Dù bị trúng 1 băng đạn vào người, ngã gục tại chỗ. Kế đó, Thiếu tá Đặng Đình Tựu cũng bị trúng đạn pháo kích và tử trận, còn Khiêm thì bị thương nặng ở bụng và ở chân. Vừa lúc đó có 1 chiếc máy bay chở đồ tiếp tế ra và bốc thương binh về. Khiêm được đưa lên máy bay và y tá Em băng bó tạm thời. 

Lúc bấy giờ, y tá Em cũng bị thương nhẹ ở tay. Nhưng rồi, phi trường bị pháo kích nặng, máy bay không cất cánh lên được. Ông Em nói với Khiêm: “Đại úy bị thương nặng, không đi được, phải nằm lại thôi. Còn em, trong tình hình này phải rời đây ngay.” Khiêm nắm tay người y tá và dặn, “cậu cố gặp vợ con tôi, kể cho họ biết. Nói là tôi yêu thương vợ con lắm. Thôi cậu đi đi. Chúc may mắn.” Thế là Khiêm không bao giờ về nữa! Những ngày cuối tháng 4/75, chiến trường Long Khánh bùng nổ dữ dội, em rất muốn ra Phan Rang tìm anh Khiêm, nhưng đường xá chưa lưu thông. Đến ngày 4/5, em ra Phan Rang, đến phi trường thì gặp đám bộ đội còn trẻ canh gác ở đó cho biết, đơn vị dọn dẹp phi trường và thu gom xác chết vài tuần trước đã di chuyển đi nơi khác. Còn họ mới đến vài ngày nay nên không biết gì cả. 2 tháng sau, em trở ra Phan Rang 10 ngày cứ tìm kiếm, hỏi han khắp nơi, nhưng đành chịu thua. Sau đó, vì cuộc sống, em khai chồng chết và nhờ có học mấy năm văn khoa, em được họ cho học 1 lớp sư phạm ngắn hạn, rồi phân phối về dạy trường Trung học Giồng Ông Tố. Đến năm 1982, em gặp anh Hứa Duối, nguyên Đại Úy, Đại đội trưởng 204, Quân cảnh Dù. Anh Duối trong thời gian đi tù cải tạo thì gia đình tan nát. Tụi em đã dắt dìu nhau vượt biên sang Úc và đã sống với nhau 32 năm, có được 2 đứa con, đứa nào cũng ngoan và học hành đến nơi, đến chốn. Riêng cháu Sơn, con anh Khiêm, năm nay đã 42 tuổi rồi và rất thành đạt ở Úc. Quả thật, anh Khiêm đã phù hộ cho em gặp được người chồng tốt, vừa là đồng đội cũ của anh. Anh Duối là một người đàn ông hết mực tử tế với gia đình… 


Nghe Mai kể, lòng tôi buồn vui lẫn lộn. Cuối cùng, tôi cũng biết rõ tin tức của Khiêm. Thì ra, gần 40 năm qua, bạn tôi đã nằm lại ở một nơi đèo heo hút gió vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Một cuộc chiến với hồi kết thúc thật bẽ bàng...! 

Bây giờ là tháng 7 âm lịch. Một buổi tối ngồi trong quán cà phê với mấy người bạn trẻ, tôi đem câu chuyện tình bạn của tôi và Khiêm trong thời chinh chiến với đoạn cuối còn nguyên vẹn cảm xúc kể cho họ nghe và quyết định vài hôm nữa sẽ ra Núi Ngỗng, Phan Rang để đốt cho Khiêm và anh em nằm lại ở đó một nén nhang. Nào ngờ những người bạn trí thức trẻ đó không những hết sức ủng hộ mà còn muốn theo chân tôi trong chuyến đi này một cách nhiệt tình. Thế là cùng nhau bàn bạc, chọn ngày 9/8 (13/7 âm lịch) khởi hành bằng xe lửa. Theo đúng kế hoạch, 4 chú cháu chúng tôi, bao gồm 2 kỹ sư điện là Hồ Cao Anh Tuấn và Nguyễn Bá Tuệ, cùng với bác sĩ Đoàn Nguyễn Hoài Lê rời ga Sài Gòn lúc 9 giờ tối. 6 giờ sáng hôm sau ra tới PhanRang, nhờ Cà Tèm dẫn đường lên Núi Ngỗng. Cúng xong, chúng tôi xuống bãi biển Ninh Chữ nằm ghế bố nghỉ ngơi, chờ đến tối ra ga Tháp Chàm quay về lại SàiGòn. 


Trở lại chuyện đi tìm hài cốt bạn, từ Phan Rang, chúng tôi theo quốc lộ 27 hướng lên Đà Lạt 20 cây số. Rẽ phải, vào một con đường đất ngoằn nghèo, chạy qua những sườn đồi trơ trụi, tha hồ gió cát mịt mù. Mới 9 giờ sáng mà nắng đã như thiêu, như đốt, giữa vùng đất cằn không một bóng cây xanh. Đi thêm 3 cây số nữa là tới 1 ngôi miếu nhỏ, sơn màu xanh da trời, nằm chơ vơ trên 1 miếng đất trống, bên phải 1 con đường mòn. Đó là nơi an nghỉ của Khiêm và một số đồng đội của nó. Tội nghiệp bạn tôi, khi còn sống thì lặn lội ở những nơi rừng sâu, núi thẳm gần như suốt thời trai trẻ. Khi nằm xuống, cũng ở một nơi đèo heo hút gió mà ngủ giấc ngàn thu! Nơi đây, ngày không một bóng người qua lại, đêm thiếu vắng cả ánh đèn dầu leo lét. Bạn tôi nằm dưới chân một hòn núi cô đơn, mang dáng dấp một con ngỗng trời, đầu hướng ra biển đông thì thầm sóng vỗ. 


Chúng tôi dọn lễ vật đã chuẩn bị sẵn. Thắp nhang, rót rượu, đốt thuốc mời nhau, chẳng khác gì những bữa tiệc tương phùng, lính tráng ngày xưa! Cho dù giờ đây, Khiêm chỉ còn là một nắm xương tàn, dưới nền ngôi miếu nhỏ. Nhưng tôi tin linh hồn của Khiêm và những anh em nằm lại nơi đây, đã được những con ngỗng thiêng ở chân núi này chở theo những cánh hoa dù bay thẳng về trời từ lâu. 

 

Đoàn Kế Tường