Friday, July 26, 2024

Con Tôi - Hải Triều


Thuở ấy, đời lính của tôi nó kéo dài lê thê, “chuyện trăm năm” đôi lúc nó cũng lóe lên trong đêm tối như đóm sáng hỏa châu, rồi buồn tình tắt ngúm ngay sau đó. Mỗi lần về phép, bà cụ cứ càm ràm: “Bộ mày muốn ở vậy suốt đời sao con!” Bà cụ nói hoài, tôi mềm lòng theo lời khuyên của Mẹ. Tôi “sang sông” khoảng tháng 7 năm 1974, không nhớ ngày nào, và sau đó, vào tù cộng sản tháng 5 năm 1975. Nếu biết có ngày oan nghiệt 30 tháng Tư 75, tôi không “sang sông” làm gì cho đau khổ cả chùm.


Sau những năm tháng trong vòng rào kẽm gai của cộng sản, ở tù về, tôi mới có thằng nhóc con ra chào đời; nó ra đời mà không coi ngày. Thằng con tôi là thằng tù con, hay thằng con tù cũng vậy, dưới trời xã hội chủ nghĩa đen thui khi nó theo cha mẹ vô tù sau chuyến vượt biển bất thành. Dường như lúc sinh ra, nó không khóc. Dường như nó chờ và cam chịu phận số theo cha nó.


Ra tù “cải tạo”, tôi hiểu là chế độ này không sống được nếu tôi muốn làm một con người, sống như một con người. Và tôi quyết định ra đi. Tôi không muốn mình bị chế độ “súc vật hóa” như điều cụ nhạc sĩ Tô Hải tiết lộ trong hồi ký của ông mới đây. Tôi ra biển hàng chục lần mà không thoát; gia tài, nhà cửa không cánh mà bay hết vào tay đảng, và tôi đã đưa vợ con, các em tôi vào tù tiếp khi thằng nhóc nhỏ con tôi mới sinh không đầy 3 tháng.

Ra tù vượt biên, tôi lại đi tiếp. Tôi ở thế cùng đường không còn gì để mất, tôi bất chấp từ cái tù đến cái chết, tôi bất chấp mệnh số. Mỗi lần đi là mỗi lần thằng nhóc phải uống Phenergan, loại thuốc trị ho, dị ứng và cũng là thuốc ngủ. Nó ngủ như cọng bún trên vai tôi trong những đêm vượt rừng ra biển... Những lần sau cùng, thằng nhóc lớn dần, 3 tuổi, nó biết làm thinh khi vượt rừng ra biển ban đêm mà không cần uống thuốc ngủ. Thế nhưng, mỗi lần đi không thoát, bầu đoàn thê tử lội rừng phờ phạc trở về, thằng bé xuống xe “lam” chạy một mạch trên con đường ruộng vào nhà ông ngoại ở Phú Lâm, cách Phan Thiết khoảng 6 cây số về hướng Sài Gòn. Có người hỏi “con đi đâu về vậy?” thì nó nói tỉnh bơ: “Dạ con đi vượt biên!” Ông ngoại và mấy dì nó lại mừng vì không mất thằng nhóc. Hàng xóm chả ai thắc mắc, chả ai báo công an vì lời nói của thằng bé…


Rồi cũng tưởng như mọi lần trước đi xuyên rừng, hôm sau lại thất thểu trở về, nhưng hôm nay cả nhà sốt ruột không thấy thằng nhóc chạy trên bờ ruộng như mấy lần trước, chờ đến chiều vẫn biệt tăm, ông ngoại và mấy bà dì tất tả mò xuống xóm biển gần Bình Tú, phía Nam phi trường Phan Thiết, dò hỏi tin tức; bà con cho biết khi hôm có mấy người dùng súng cướp ghe phóng ra biển…

Ông cụ thất thần nhìn ra biển rộng mênh mông. Biển xanh biền biệt thấp thoáng bóng chim hải âu. Ông biết thằng rễ, con gái và cháu ông đã thoát được ra biển thật. Dường như hai dòng nước mắt ông ứa ra. Con ông và thằng cháu ông thương đứt ruột đã biến mất ở cuối chân trời.

Ông lặng lẽ về nhà, buổi chiều bỏ cơm, tối nhìn xuyên đêm đen về hướng đại dương sóng vỗ… Lòng ông chùng xuống, âu lo. Ông thức với ác mộng, ông ngủ với ác mộng. Công an biên phòng săn đuổi, bão tố, hải tặc, chìm ghe... cái nào cũng có thể giết chết con cháu ông như cơn lốc lặt gọn những chiếc lá trên cành cuối thu.

Mỗi đêm, ông ra sân thắp nhang, đứng giữa trời sao lồng lộng, hướng về đại dương khấn nguyện. Ông cầu xin một chút nhiệm mầu mong manh…


Cuối cùng thì tôi cũng đem vợ con thoát được qua Pulau Bidong trên một chiếc thuyền con lớn hơn chiếc ghe câu của cụ Nguyễn Khuyến một chút, tay lái ghe là một cây đòn, chỉ cần một cơn bão nhỏ cũng đủ chôn cả đám vào lòng biển! Tôi không biết là đời mình chưa tới số, Chúa, Phật chưa kêu tên, hay nhờ lời nguyện cầu của ông cụ, hay chính đời mình đã hết cái số khốn nhục dưới trời xã hội chủ nghĩa giăng giăng màu cờ đỏ trên khắp nước…


Vào giữa tháng 5/1980, bước chân lên đảo Pulau Bidong đầy nghẹt người tỵ nạn cộng sản đến trước, sống chen chúc ở khu C với những bà con, nhưng tôi thấy hạnh phúc cùng đất trời bao la, lồng lộng, không có hàng rào kẽm gai dưới đất, và dường như không có hàng rào kẽm gai cả trên trời như tôi vẫn thường nghĩ trong những ngày sa cơ trong cơn tù tội! Những ám ảnh hàng ngày về cơn ác mộng bị cộng sản “gom bi” bắt giam lại trong các trại tù không còn, giấc ngủ không vỡ từng đêm khi nghe tiếng chó sủa hay tiếng côn trùng im bặt vì nghe tiếng chân người vào ngõ ban đêm..

Được thở không khí tự do trên đảo tỵ nạn, tôi nhận dạy tiếng Anh vỡ lòng cho mấy đứa nhỏ tại Trung Tâm Sinh Ngữ, và nhờ vậy, bỗng nhiên tôi có một lũ nhóc học trò bất đắc dĩ xa lạ lần đầu tiên trong đời… Cuộc sống tái sinh cả trong giấc ngủ.

Đang tạm vui những ngày đầu tự do trên đảo vài tháng, một hôm, bà xã nôn oẹ. Cứ tưởng vì nàng ngán thịt gà Cao Ủy mà nôn, ai ngờ những ngày chỉ ăn cá, hay nhịn ăn, nàng cũng oẹ nôn như thường. Tôi đưa vợ lên bệnh viện Jetty trên đảo khám bệnh... và tôi “tá hỏa tam tinh” khi tin bệnh viện báo “vợ ông có bầu!


Lúc đầu thoạt nghe tin, tôi kêu lên một tiếng “Trời!“, không phải tôi sợ có con, mà vì tôi ngạc nhiên. Tôi tự hỏi vậy thì bà xã có bầu khi còn ở Việt Nam, có bầu khi tôi đang tổ chức các chuyến vượt thoát sinh tử mà ôm theo chỉ một thằng nhóc con cũng đã khổ lên khổ xuống, huống chi có thêm một nhóc thứ hai thì làm sao dám liều mạng. Thôi, tôi nghĩ ra rồi; thì ra, trong thời gian trước ngày vượt biên, tôi còn ở trại lao động tự giác Bình Tú, mỗi thứ Bẩy, khi công an cho phép vài anh em chia phiên về nhà nhận thực phẩm hay đi chợ, và họ bỏ trại về phố xem hát hôm sau mới lên trại, tôi đã lén ở lại đêm với vợ, và nhóc nhỏ lén xuất hiện lúc nào trong bụng mẹ mà tôi không biết.

May mà con tôi trong bụng mẹ đã bình an theo tôi suốt cuộc hải trình rủi may đến được Bidong. Tôi không muốn con tôi sinh ra trên cái đảo quá nhiều chuột núi, cắn cẳng, cạp giò khi đang ngủ, phương tiện y tế và sinh sống thiếu thốn, nên khi chính phủ Canada nhận, tôi đi ngay.


Tháng 9/1980, tôi đến Canada và định cư ở thành phố Nigara Falls. 3 tháng sau, một bé gái chào đời khi tuyết giăng giăng đổ đầy trời. Bé Minh Châu là cô bé của một gia đình tỵ nạn đầu tiên sinh tại thành phố này, và thị trưởng Niagara Falls đã gửi tặng cho bé Minh Châu một cái gối tuyệt đẹp.

Càng lớn, cô bé càng bụ bẫm, dễ thương. Có lần trong một thoáng vô tình trong cơn ác mộng vượt thoát, tôi nghĩ sự xuất hiện của Minh Châu trong bụng mẹ hoàn toàn ngoài ý muốn, và nó xuất hiện như một “tai nạn” trong cơn khổ nạn cùng đường của cha nó, một tên tù không thể sống trên chính quê hương của mình; nhưng mỗi khi ôm con vào lòng, thay tả, tắm cho con, cho con ăn, ru con ngủ, nhìn gương mặt đẹp như thiên thần của con, tôi hối hận về những ý nghĩ ban đầu chợt thoáng qua. Không! Con không phải là tai nạn! Con là niềm hạnh phúc của ba khi liều thân ra đi và đến bờ tự do! Và tôi nhận ra Minh Châu chính là món quà Thượng Đế âm thầm ban cho tôi trong chuyến vượt thoát sau cùng. Nếu lần này tôi không thoát, bị bắt sống giữa biển, cả nhà vô tù, Minh Châu sẽ chào đời trong tù, và ở tù như cu Nguyên anh nó, và chắc chắn đời nó sẽ khốn khổ, rủi ro, bất hạnh hơn nhiều. Hoặc giả ghe chìm trong cơn bão, đời tàn giữa trùng khơi, thì nào ai biết con tôi trong bụng mẹ đã theo mẹ cha vào lòng biển lạnh, không ai biết Minh Châu là ai trên cuộc đời này, dù là trong một phút giây phù du của sự sống.


Cu Nguyên lúc đó chỉ mới 3 tuổi, một hôm chở con đi chợ bằng chiếc xe đạp, tuyết thình lình đổ, trời lạnh bất ngờ, thằng bé ngồi sau xe té xuống tuyết vì lạnh cóng. Thằng này lì, ngày xưa vượt biển băng rừng, nó không khóc, nay tuyết lạnh tê người nó không la...

Tôi bỏ xe bên lề đường, cõng con và mang bao thức ăn chạy về nhà, hai tay cóng lại, cầm chiếc chìa khóa trong tay mà không làm sao mở khóa nhà, cuối cùng khi vô nhà được, hai cha con khui lổ “heat” thọc tay vào cho đỡ cóng. Tôi ôm con, nắm lấy hai tay nhỏ xíu của thằng bé mà muốn khóc... Tôi nói với con tôi: “Ba sẽ đưa con về vùng ấm Vancouver!” Lúc đó, tôi chưa biết mặt mũi thành phố Vancouver tròn méo ra sao, chỉ nghe thằng bạn bảo Vancouver đẹp và ấm, mùa đông không khắc nghiệt!


Mấy tháng sau, mùa Thu Niagara Falls ào đến với những chiếc lá vàng bắt đầu rụng theo những cơn gió chuyển mùa, tôi quyết định chuyển về Vancouver. Tiễn chúng tôi, bé Nguyên và bé Minh Châu tại sân ga Niagara Falls là hai vợ chồng bà S. Lowe, bà ngoại nuôi của Minh Châu, và những đứa nhỏ quấn quít Minh Châu. Xe hỏa lăn bánh, tôi thấy những giọt nước mắt của hai ông bà Lowe và mấy đứa nhỏ, tay vẫy chào tiễn biệt. Tôi ngậm ngùi nhìn lại thành phố thân yêu đã đùm bọc gia đình tôi gần một năm qua.

Minh Châu và Nguyên lớn lên tại thành phố đẹp nhất miền Tây Canada. Vancouver đã trở thành quê hương thứ hai của cha con tôi trong 30 năm, gần nửa tuổi đời của tôi. Tôi giữ cho con không mất tiếng Việt như giữ một gia tài, một nghĩa vụ đối với gia đình và với đất nước.

Khi Minh Châu còn học bậc tiểu học, tôi sắm cho con một cái áo dài, chụp hình con gửi về cho Nội, Ngoại xem- cả làng xóm họ hàng xúm nhau xem hình cô bé, và nó trở thành niềm vui, niềm thương nhớ của hai bên Nội Ngoại. Ai cũng mong chờ một ngày gặp Minh Châu bằng xương bằng thịt khi nó có dịp về thăm quê hương của cha mẹ, một quê hương mà nó không có một hình ảnh nào trong ký ức nhưng nó vẫn thương, vẫn thấy một cái gì ràng buộc qua cha, qua mẹ, một sự ràng buộc vô hình rất lạ lùng…

Khi Minh Châu xong bậc đại học, tôi quyết định cho con tôi về thăm Nội Ngoại trước ngày ông, bà cụ quá già hay có thể bất ngờ theo ông bà mà không nhìn mặt được cháu. Trước khi lên máy bay, tôi gọi Minh Châu và bảo:

– Ba gửi cho con 100 đô la để con cho bà Nội. Gặp Nội, con phải nói là tiền của con cho Nội, và con phải cầm tay Nội hỏi Nội có khoẻ không? Con thay Ba thăm Nội. Con nói tiếng Việt giỏi, bà Nội rất là thích. Con nhớ lời ba dặn nghe!

– Dạ con nhớ! Nhưng làm sao con biết ai là bà Nội?Ai là bà Ngoại?

– Bà Ngoại mất rồi, chỉ còn bà Nội, con về với Mẹ! Mẹ sẽ bảo cho con! Nhưng con nhớ khi gặp bà Nội, con phải ôm bà Nội thay ba nghe!Ba nhớ bà Nội lắm, nhưng ba không về được!Con nhớ nghe!

– Dạ! Con nhớ!

*******

Minh Châu và mẹ nó về thăm nhà mà không báo trước. Xe ngừng ngoài quốc lộ 1, nhà tự bên Ngoại cách lộ 2 đám ruộng. Mẹ nó chỉ:

– Con đi trước! Nhà ông ngoại ở cuối con đường ruộng này, chỗ có mấy cây dừa! Xem các Dì có nhận ra con hay không?

– Lỡ mấy Dì không nhận ra con thì sao?

– Thì Mẹ đi sau con mà!

Mấy bà Dì bên Ngoại không nhận tin báo trước, ngạc nhiên nhìn ra đường lộ, thấy một cô gái lạ đi trên bờ ruộng, dần vào sân, ngơ ngác nhìn vào căn nhà có cấu trúc xa lạ. Một cô gái lạ xinh xắn, dong dỏng cao, có nước da trắng tần ngần đứng lại trước sân nhà làm cả nhà ùa ra, định hỏi “cô là ai, tìm ai” thì đột nhiên nghe cô gái nói:

– Thưa Dì! Con là Minh Châu!

Cùng lúc thì mẹ Minh Châu xuất hiện ở bờ ruộng. Cả nhà ngạc nhiên mừng rỡ ùa ra ôm Minh Châu và đón mẹ nó. Trong phút giây ngạc nhiên, mừng rỡ bất ngờ đó có cả nước mắt và tiếng khóc của mấy bà chị. Ngoại Minh Châu mất trước khi Minh Châu chào đời, và bà cụ không hề biết cả cu Nguyên lẫn Minh Châu.

Tin Minh Châu theo mẹ về quê Ngoại lan khắp làng, và bà con hàng xóm kéo đến nhà Ngoại Minh Châu như cái hội Tết. Đêm về, cả nhà bu quanh Minh Châu hỏi đủ thứ chuyện, mà phần lớn là muốn nghe cô bé nói tiếng Việt, đúng là tiếng Việt rất chuẩn, nhưng không có âm sắc Phan Thiết hay Sài Gòn, là lạ và dễ thương.


Sau mấy ngày ở bên quê Ngoại, Minh Châu theo mẹ về thăm quê Nội. Đêm đầu tiên ở nhà Nội, nhớ lời bố, Minh Châu cứ ngồi quấn quít cạnh bà Nội. Các cô, chú nó quay quần quanh Minh Châu trong buổi sum họp gia đình hiếm hoi vì gần 20 năm bố Minh Châu vẫn không về. Minh Châu bỗng nắm lấy tay bà Nội và hỏi:

– Bà Nội khỏe không?

Nội trố mắt ngạc nhiên, chụp hai tay đứa cháu lần đầu tiên trong đời bà gặp. Cả nhà tưởng Minh Châu làm thinh vì không biết tiếng Việt, nên mấy cô chú nó nghe Minh Châu nói chuyện với Nội, cùng lúc buột miệng:

– Không ngờ Minh Châu nói tiếng Việt giỏi như vậy!

Nhưng người ngạc nhiên và hạnh phúc nhất vẫn là bà Nội. Hai tay bà vẫn nắm tay Minh Châu, bà mân mê vuốt tay cháu mà bà tưởng như trong cơn mơ. Cô bé nói tiếp:

– Con mới ra trường, chưa đi làm. Con cho Nội 100 đô la nghe Nội!

Một lần nữa, bà cụ ngạc nhiên nhìn trân trân vào mặt đứa cháu. Bà không nói một lời, bà cứ cười.. Và Minh Châu lấy tờ 100 đô la trong túi đặt vô tay bà Nội. Bà cảm động ôm cháu vào lòng.

Tôi đã xa bà, bỏ nước ra đi tính ra, đến ngày Minh Châu thay bố về thăm bà Nội, cũng xấp xỉ 20 năm. Minh Châu là máu thịt của bà, Minh Châu là hình ảnh của tôi. Tôi không đo lường được hạnh phúc và niềm vui của Mẹ tôi ra sao khi bà ôm Minh Châu vào lòng, nhưng tôi biết bà tràn đầy niềm vui.....

Sáng sớm hôm sau, khi Minh Châu còn ngủ say vì trái giờ giấc, Mẹ tôi đi khắp xóm làng, bà ghé từng nhà quen, nhà bà con, bà trò chuyện. Chuyện bà nói chỗ nào, nhà nào cũng giống nhau:

– Cháu tui là con thằng Hai, nó đẻ ở bên Mỹ, nó mới dìa thăm tui, nó cho tui 100 đô, và tụi bay biết không, nó nói tiếng Diệt rành như mấy đứa ở Sài Gòn! Tui đâu có ngờ! Tên nó là Minh Châu. Ba nó đặt tên Diệt Nam cho nó đó!

Mấy đứa em tôi phone qua cho biết Má rất vui trong mấy ngày Minh Châu ở với Nội. Trước khi vô lại Sài Gòn để về Canada, má con Minh Châu trở lại nhà Ngoại ở thêm vài hôm. Một buổi sáng, cả nhà rủ nhau đưa Minh Châu thăm Đá Ông Địa và Mũi Né. Trên đường đi, mấy bà Dì ghé chợ Phan Thiết mua nhãn bỏ theo xe ăn. Khi xuống xe, Minh Châu vẫn nắm trong tay võ và hột nhãn, không chịu bắt chước mấy đứa con bà chị vứt võ nhãn theo đường. Mấy Dì nhắc đi nhắc lại nhiều lần:

– Minh Châu! Con bỏ vỏ và hột nhãn xuống đường đi! Cầm theo tay làm chi vậy?

Cô bé vẫn làm thinh. Đi theo Mẹ và mấy bà Dì một lúc, nó thấy một thùng rác ghi trên nắp thùng bằng tiếng Việt: “thùng rác”, Minh Châu lửng thửng đạp qua đống rác vứt bừa bãi những rác đủ loại. Đến thùng rác, nó giỡ nắp thùng bỏ một nắm vỏ và hột nhãn vào, phủi tay và về chỗ mẹ nó, không nói một lời, vẫn vui vẻ trò chuyện, vui chơi. Mấy bà Dì, mấy đứa nhỏ cứ đăm đăm nhìn Minh Châu và nghĩ trong đầu: “Con nhỏ này lẩn thẩn thiệt!’

Buổi chiều về lại nhà, gia đình tiếp tục cái không khí vui vẻ như mấy hôm đầu. Mấy bà Dì khơi chuyện học hành, nghề nghiêp tương lai, và có người chợt hỏi:

– Còn mấy hôm nữa con về lại Canada, con thấy Việt Nam ra sao?

Cô bé hơi bất ngờ về câu hỏi, nó nhìn mẹ nó. Mẹ nó cũng không biết nó trả lời ra sao. Suy nghĩ vài phút, Minh Châu nói thẳng vào câu hỏi:

– Con thấy Việt Nam đẹp, Mũi Né cảnh rất là đẹp, nhưng nhìn chung thì dường như chỗ nào xứ của Mẹ cũng “disorganized”!

Mấy bà chị đồng loạt nhìn vào mẹ nó:

– Lương! Minh Châu nó nói cái gì vậy?

– Thì nó nói chỗ nào cũng mất trật tự! Tiếng Anh là như vậy, nhưng ý nó ra sao thì …. Minh Châu! Con nói rõ ý con chứ mẹ biết ý con ra sao đâu!

– Bộ mẹ không thấy hồi sáng nay con tìm thùng rác sao? Con đâu có thể vứt rác xuống đường. Hồi sáng ra Mũi Né, con thấy thùng rác, con mừng, đến gần thùng rác thì thấy rác vứt lung tung, khi giở thùng rác thì thùng rác chỉ có mấy cọng rác, trống trơn. Bên Canada đâu có chuyện này mẹ! Sao kỳ vậy? Cái này là không có vệ sinh, không có trật tự, không có tổ chức!

Cả nhà đều biết Minh Châu nói cái gì, biết nó nói đúng, nhưng hơi ngạc nhiên về cách nói thẳng và chững chạc của cô bé. Mấy bà Dì, mấy ông anh con Dì đều là thành phần giáo chức, bắt đầu nhìn Minh Châu không còn là một cô bé hời hợt từ nước ngoài mới về, không biết gì…

Chưa hết, hôm cuối cùng trước khi vô lại Sài Gòn để về Canada, sau bữa cơm chung gia đình, đủ mặt mọi người, khi thắp nhang cho ông bà Ngoại xong, một người anh con bà Dì yêu cầu Minh Châu phát biểu vài lời cùng gia đình. Cô bé nhìn mẹ, đắn đo gom một mớ tiếng Việt vào đầu sắp xếp ý tưởng để nói. Ai cũng nhìn chăm chăm vào mặt Minh Châu chờ nghe nó nói cái gì.

– Dạ, theo con thì con thấy thì mấy mươi năm trước, mẹ và anh Nguyên đã may mắn được Dad dắt ra khỏi Việt Nam. Con đã thấy Sài Gòn, con đã thấy Phan Thiết. Xứ của mẹ không sống được! Con nói thiệt!

Câu nói của Minh Châu làm cả nhà sửng sốt, mà dường như cùng lúc mấy bà chị đều có ý hỏi mẹ Minh Châu một câu giống nhau. Một bà chị hỏi:

– Lương! Bộ ở ngoải bố nó dạy Minh Châu chuyện chính trị hả?

– Trời ơi mấy bà! Mấy đứa nhỏ sinh, lớn lên và học ở nước ngoài, nó lanh và khôn lắm, tự nó quan sát, tự nó tìm hiểu, tự nó suy luận. Cái gì trong đầu nó ra sao thì nó nói như vậy! Nói thiệt ra, có lần tôi nghe ba nó nói với nó là “nếu lần đó ba dắt mẹ và anh cu Nguyên đi không thoát, có thể ba ôm anh Nguyên nhảy xuống biển chết;hay nếu ba còn sống,ba ở tù, mẹ sinh con ra ở Việt Nam, con và anh Nguyên lớn lên cơ cực, nghèo khổ, phải đi chăn bò, bán vé số hay bán khoai lang ngoài chợ... Và sau đó, có thể ba chết trong tù, bỏ con lại bơ vơ…”

Ba nó hỏi nó có hiểu ý ba nó nói hay không. Nó nói nó hiểu. “Con hiểu! Con hiểu!” Có thể từ điều đó, từ những điều ba nó nói mà nó hiểu phần nào tình trạng sống trong nước, nó hiểu vì sao ba nó bỏ nước ra đi, để rồi nó nhìn sự việc sâu đậm, cụ thể hơn trong những ngày ở Việt Nam.


Buổi sáng từ giã bà con quê Ngoại để lên xe vô Sai Gòn, cả nhà ôm Minh Châu bịn rịn không muốn rời. Sinh ở Canada chỉ có Cha, Mẹ và người anh, hôm nay cô bé chợt cảm thấy vòng tay quê Ngoại man man nồng ấm những tình cảm rất lạ trong những giây phút chia tay. Cô bé bỗng như thấy một sợi dây vô hình nào đó muốn cột cô với quê Mẹ. Câu nói của Minh Châu đêm hôm trước đã làm cho cô bé lớn hơn so với lúc mấy bà Dì gặp cô bé lần đầu... cả nhà biết Minh Châu nhìn ra thực trạng của quê hương cha mẹ, điều mà ít đứa trẻ Việt Nam nào nhận ra và dám nói thẳng thừng.

Chiếc xe đò lăn bánh hướng Sài Gòn, có những bàn tay vẫy chào từ giã, có những giọt nước mắt của người ở lại, và dường như mấy bà Dì còn văng vẳng nghe tiếng nói của Minh Châu “Xứ của Mẹ không sống được! Con nói thiệt!…”

Khi mọi người tụ lại ở nhà tự, trên gương mặt ai cũng buồn buồn sau khi chia tay má con Minh Châu, bỗng có người buột miệng như vừa khám phá ra một cái gì: “Con nhỏ này tính tình chắc giống Bố nó! Mấy mươi năm không về là không về. Nó giống Bố nó từ gương mặt tới tính tình!” 


Suốt ngày hôm Minh Châu rời quê Ngoại, căn nhà tự vẫn còn đông người, nhưng một khoảng trống vắng đã để lại đâu đó trong gia đình, trong trí nhớ của mọi người. Ánh nắng chiều vàng vọt lết qua sân nhà. Nhà dọn cơm chiều trước sân như mọi hôm, và dường như bữa cơm không còn ngon miệng và vui vẻ như hôm qua...


Hi Triu

Khi Ta Chịu Cúi Xuống...



Lượm trên mạng

Đêm Gọi Mặt Trời - Đỗ Công Luận

Bạn Sinh Ra Là Một Nguyên Bản, Đừng Chết Như Một Bản Sao


"Hầu hết mọi người là người khác, những suy nghĩ của họ là ý kiến của người khác, cuộc sống của họ là sự bắt chước, cảm xúc của họ là một câu trích dẫn"

– ~Oscar Wilde~

* * *

Khi đọc truyện Gatsby vĩ đại của Scott Fitzgerald, tôi vô cùng thích thú với đoạn mở đầu: "Hồi tôi còn nhỏ tuổi, nghĩa là hồi dễ bị nhiễm các thói hư tật xấu hơn bây giờ, cha tôi có khuyên tôi một điều mà tôi ngẫm mãi cho đến nay: – Khi nào con định phê phán người khác thì phải nhớ rằng không phải ai cũng được hưởng những thuận lợi như con cả đâu."

Ông không nói gì thêm, nhưng vì hai cha con chúng tôi xưa nay vẫn rất hiểu nhau mà chẳng cần nhiều lời nên tôi biết câu nói của ông còn nhiều hàm ý khác.

Vì vậy tôi không thích bình phẩm một ai hết. Lối sống ấy đã mở ra cho tôi thấy nhiều bản tính kì quặc, nhưng đồng thời khiến tôi trở thành nạn nhân của không ít kẻ chuyên quấy rầy người khác." Tôi cũng rất thích một chi tiết trong truyện Doraemon, đó là mỗi khi Nôbita và Doraemon lạc vào một thế giới khác, bất cứ thế giới nào, thì ở nơi đó cũng xuất hiện những nhân vật có nhân dáng tương tự Nôbita, Xuka, Xêkô, Chaien.... nhưng tính cách lại có thể rất khác.

Điều đó luôn khiến tôi mỉm cười. Cuộc sống này cũng vậy... Ở đâu đó ngoài kia là những người có thể giống ta. Ở đâu đó ngoài kia là những người có thể rất khác ta.

Có người ưa tụ tập với bạn bè. Có người mê mải rong chơi. Có người chỉ thích nằm nhà để đọc sách. Có người say công nghệ cao. Có người mê đồ cổ. Có người phải đi thật xa đến tận cùng thế giới thì mới thỏa nguyện. Có người chỉ cần mỗi ngày bước vào khu vườn rậm rạp sau nhà, tìm thấy một vạt nấm mối mới mọc sau mưa hay một quả trứng gà tình cờ lạc trong vạt cỏ là đủ thỏa nguyện rồi.


Tôi nhận ra rằng, hai sự phấn khích đó có thể rất giống nhau. Cũng giống như người ta có thể phản ứng rất khác nhau khi đứng trước thác Niagara hùng vĩ, người này nhảy cẫng lên và ghi nhớ cảnh tượng đó suốt đời, nhưng cũng có người nhìn nó và nói: "Thác lớn nhỉ?" rồi quên nó đi ngay sau khi trở về nhà mình.

Sao ta phải lấy làm lạ về điều đó? Sao ta phải bực mình về điều đó? Sao ta lại muốn rằng tất cả mọi người đều phải nhảy lên khi nhìn thấy thác Niagara? Chúng ta vẫn thường nghe một người tằn tiện phán xét người khác là phung phí. Một người hào phóng đánh giá người kia là keo kiệt. Một người thích ở nhà chê bai người khác bỏ bê gia đình. Và một người ưa bay nhảy chê cười người ở nhà không biết hưởng thụ cuộc sống...

Chúng ta nghe những điều đó mỗi ngày, đến khi mệt mỏi, đến khi nhận ra rằng đôi khi phải phớt lờ tất cả những gì người khác nói, và rút ra một kinh nghiệm là đừng bao giờ phán xét người khác một cách dễ dàng. Cách đây nhiều năm, khi xe hơi ở VN vẫn còn là thứ vô cùng xa xỉ, người bạn của tôi sau một thời gian quyết tâm dành dụm và vay mượn đã mua được một chiếc.

Chỉ là một chiếc xe cũ thôi. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ anh chỉ là một nhà báo với thu nhập vừa phải và vẫn đang ở nhà thuê. Gia đình phản đối nói anh phung phí. Đồng nghiệp xì xầm rằng anh đua đòi.

Bạn bè nghi ngại cho là anh học làm sang. Nhưng anh vẫn lẳng lặng làm. Và anh tâm sự với tôi rằng: từ hồi còn nhỏ xíu, anh đã luôn mơ mình được ngồi sau vô lăng, được tự lái xe lên rừng xuống biển. Ước mơ đó theo anh mỗi ngày. Vì vậy anh đã gom góp suốt thời gian qua, cho đến khi có thể mua được một chiếc xe cho riêng mình. Chỉ thế thôi.


Rồi anh nhìn tôi và hỏi: Tại sao tôi phải trì hoãn ước mơ chỉ vì sợ người khác đánh giá sai về mình? Sao tôi phải sống theo tiểu chuẩn của người khác? Tôi không thể tìm ra một câu trả lời đủ thuyết phục cho câu hỏi đó.

Bởi thế, tôi luôn mang theo câu hỏi của anh bên mình. Nó nhắc tôi rằng, rất nhiều khi chúng ta vì quá lo lắng về những điều người khác đã nói, sẽ nói, và có thể nói mà không dám sống với con người và ước mơ đích thực của mình. Một người bạn khác của tôi đeo đuổi việc làm từ thiện, quyên góp, chia sẻ.

Ban đầu vì lòng trắc ẩn. Rồi vì niềm vui cho chính bản thân. Rồi, như một món nợ ân tình phải trả. Rồi, như một cuộc đời phải sống. Chị như ngọn nến cháy hết mình cho người khác. Ấy vậy mà rất nhiều lần tôi thấy chị khóc vì những lời người khác nói về mình.

Như vậy đó, kể cả khi ta hành động hoàn toàn vô vị lợi, cũng không có nghĩa là ta sẽ ngăn ngừa được định kiến và những lời gièm pha ác ý. Vậy sao ta không bình thản bước qua nó mà đi? Thỉnh thoảng chúng ta vẫn gặp những người tự cho mình quyền được phán xét người khác theo một định kiến có sẵn. Những người không bao giờ chịu chấp nhận sự khác biệt. Đó không phải là điều tồi tệ nhất.


Điều tồi tệ nhất, là chúng ta chấp nhận buông mình vào tấm lưới định kiến đó. Cuộc sống của ta nếu bị chi phối bởi định kiến của bản thân đã là điều rất tệ, vậy nếu bị điều khiển bởi định kiến của những người khác hẳn còn tệ hơn nhiều. Sao ta không thể thôi sợ hãi, và thử nghe theo chính mình? Thật ra, cuộc đời ai cũng có những lúc không biết nên làm thế nào mới phải. Khi ấy, ba tôi dạy rằng, ta chỉ cần nhớ nguyên tắc sống cơ bản cực kỳ ngắn gọn: Trước hết, hãy tôn trọng người khác. Rồi sau đó, nghe theo chính mình.

Hãy tôn trọng. Bởi cuộc đời là muôn mặt, và mỗi người có một cách sống riêng biệt. Chẳng có cách sống nào là cơ sở để đánh giá cách sống kia. John Mason có viết một cuốn sách với tựa đề "Bạn sinh ra là một nguyên bản, đừng chết như một bản sao" Tôi không biết nó đã được dịch ra tiếng Việt chưa, nhưng đó là một cuốn sách rất thú vị. Nó khiến tôi nhận ra rằng mỗi con người đều là một nguyên bản, duy nhất, độc đáo và đáng tôn trọng.

Hãy nghe theo chính mình, bởi chính bạn là người sẽ hưởng thụ thành quả, hay gánh chịu hậu quả, cho dù bạn có làm theo hay sống theo ý muốn của bất cứ ai. Tôi luôn xem nguyên tắc ấy như đôi giày mà tôi phải mang trước khi ra khỏi nhà. Xỏ chân vào đôi giày đó, và đi khắp thế gian, đến bất cứ nơi nào bạn muốn.


Con người sinh ra và chết đi đều không theo ý mình. Chúng ta không được sinh ra với ngoại hình, tính cách, tài năng, hay sự giàu có mà mình muốn chọn lựa. Nhưng chúng ta đều có một cơ hội duy nhất để được là chính mình. Chúng ta có một cơ hội duy nhất để sống như mình muốn, làm điều mình tin, sáng tạo điều mình mơ ước, theo đuổi điều mình khao khát, yêu thương người mình yêu. Bạn biết mà, cơ hội đó chính là cuộc đời này – một chớp mắt so với những vì sao.

Bởi thế, đừng để mình cứ mãi xoay theo những tiếng ồn ào khác, hãy lắng nghe tiếng nói trái tim của bạn.

 

Lính thủy sưu tầm và chuyển

Thursday, July 25, 2024

Cảnh Thu Vàng Tại Mỹ - Minh Lương

Phúc Duyên Gặp Gỡ - Sương Lam

Xin mời bạn đọc bài thơ Phúc Duyên Gặp Gỡ dưới đây của người viết xem như là lời tâm tình của người viết gửi đến quý thân hữu đáng yêu đáng quý của tôi.

Phúc Duyên Gặp Gỡ

Viết tặng các thân hữu của SL


Có những mến thương nảy mầm ươm nụ

Có những cảm tình trổ nhụy chồi xanh

Chỉ chờ một ngày hội đủ duyên lành

Sẽ khai mở thành thân tình quí mến

 

Xin hãy để cho Tình Thương đổ bến

Vì dòng đời vui ít khổ đau nhiều

Kiếp con người có sống được bao nhiêu

Trăm năm tuổi mấy ai mà sống đủ

 

Gốc Thiện Tâm mà trời cao đã phú

Hãy vun bồi cho trổ nụ đơm hoa

Để xóa tan đau khổ cõi Ta Bà

Người người được thấm nhuần tình thương mến

 

Cám ơn người đã dừng chân ghé bến

Bến yêu thương, bến quí trọng, thân tình

Nếu ta cùng chung một kiếp nhân sinh

Thì ta hãy thương yêu trong cuộc sống

 

Tôi thích một hoa hồng khi còn sống

Còn hơn là trăm vạn đóa hoa tươi

Lúc chết đi ai biết được tình người

Là thành thật hay chỉ lời dối trá?

 

Đừng cân lượng và cũng đừng mặc cả

Vì tình thương không đơn vị đo lường

Chỉ biết rằng: ta thành thật yêu thương

Ta sẽ được niềm vui và hạnh phúc 

Sương Lam

 

Mời Bạn nghe nhạc trong Ảnh Thơ Phúc Duyên Gặp Gỡ

https://www.youtube.com/watch?v=9pMMrMwJvAM

Bài thơ gửi Bạn (pinterest.com)  

https://www.pinterest.com/pin/801640802454532610/  


 Board Thân Hữu Văn Nghệ

https://www.pinterest.com/suonglamportland/th%C3%A2n-h%E1%BB%AFu-v%C4%83n-ngh%E1%BB%87/

Trong khi đi tìm trên internet tài liệu viết bài hôm nay, người viết đã đọc được bài viết "Gặp Gỡ Trong Đời Một Chữ Duyên" của Thầy Thích Tánh Tuệ, xin mời quý bạn cùng đọc với người viết nhé:

Gặp Gỡ Trong Đời Một Chữ Duyên 


Theo lời Phật dạy, giữa người với người luôn tồn tại một mối nhân duyên từ kiếp trước, vì vậy, trong cuộc sống này, khi ta gặp và yêu thương một ai đó đều có nguyên do. Không ai là vô duyên vô cớ xuất hiện trong cuộc đời của bạn cả, sự xuất hiện của mỗi người đều có nguyên do, đều đáng được cảm kích.

Trong kinh, đức Phật đã nói bốn loại nhân duyên.

Tất cả chúng ta có mặt với nhau ở đây không phải tự nhiên mà do có nhân duyên với nhau nhiều đời nên nay mới gặp.

– Có người mình chưa bao giờ biết, nhưng vừa gặp thì thấy thân thiện, quen quen, như đã gặp ở đâu rồi. – Có người vừa mới gặp là đã thấy ghét. Đó là dấu hiệu cho thấy mình đã có thiện duyên và ác duyên với nhau từ nhiều kiếp trước, bây giờ mới gặp lại đây.

Người mình từng mang ơn thì vừa trông thấy liền cảm mến. Người đã tạo oán thì trông thấy liền bực mình. Con người chúng ta do tạo các nhân duyên thiện ác lẫn lộn nên sanh ra ở cõi ta bà phải kham nhẫn này. Từ duyên mà lại, cũng từ duyên mà tan. Đủ duyên thì còn, hết duyên thì hết. Khi nhân duyên còn thì có phá phách cỡ nào cũng không hỏng được, khi duyên hết rồi thì có níu kéo kiểu nào cũng bị rã tan.

Mọi thứ bắt đầu từ duyên phận, kết thúc cũng lại do duyên phận. Khó có ai trong đời chưa một lần thốt lên cái câu quen thuộc: “Thôi thì cái duyên cái số”, hay “Duyên phận đã định rồi”.

Có phải thực sự duyên phận đã được trời định rồi hay không, hay tất cả là do con người tự tạo? Khi đầy yêu thương, người ta thường nói “có duyên” để tìm cơ hội gần gũi. Lúc đã cạn tình cảm, người ta lại nói “hết duyên” để lấy cớ dứt tình. Thực ra gặp gỡ được nhau thì đúng là thiên duyên, còn vui hay buồn, hợp hay tan, gần hay xa, đi hay ở, nắm hay buông, nâng lên hay đặt xuống, đón nhận hay chối bỏ, phải chăng đều là do trần định, đều nằm trong chính nhân thế lòng người.

Bạn chỉ là người khách qua đường trong cuộc đời của người khác, chỉ có thể cùng người khác đi cũng chỉ một đoạn đường đời. Điều đó chính là tính hữu hạn mà bạn cho được người khác, vậy thì làm sao có thể mong cầu người khác cho đi sự vô hạn được?

 

Mười năm, hai mươi năm hay một trăm năm của một đời người, cũng chỉ là một đoạn đường. Chúng ta chỉ có thể có duyên cùng đi với nhau chỉ một đoạn nào đó thôi, đừng nhầm lẫn cố chấp, sở hữu. Khoảnh khắc hiếm hoi nào còn duyên, có được, chúng ta nên quan tâm, cho ra hơn là nghĩ người khác phải tuân thủ theo kiểu của mình. Như thế, sẽ không bị nhận hiểu sai lầm, biết tôn trọng và giúp đỡ người khác, đưa đến một cuộc sống tích cực, vui tươi, không làm khổ mình và người.

Người sống ở trên đời

Bởi vì xem nhẹ, cho nên vui vẻ.

Bởi vì xem nhạt, cho nên hạnh phúc.

Giữa đất trời, chúng ta đều chỉ là những hành khách qua đường, rất nhiều người đời và sự tình chúng ta không cách nào có thể làm chủ nổi cho được. Ví như thời gian đã trôi qua, ví như người đã rời xa!

Chữ “Tâm” 心 có ba nét chấm, đều hướng vào trong, chẳng có một điểm nào là hướng ra ngoài.

Bạn càng muốn nắm giữ lấy nó, thói thường nó lại càng rời xa bạn nhanh nhất. Tất cả tùy duyên, duyên sâu đậm thì quấn quýt đoàn tụ, duyên nhạt nhẽo thì tùy nó rời đi.

Cảnh giới của người biết tu đó là: “Sống là thương mà lòng chẳng vấn vương”. Có thể xem nhẹ, xem nhạt được bao nhiêu thì thống khổ sẽ càng rời cách xa bạn bấy nhiêu.

” Gặp gỡ trong đời một chữ Duyên

Trân trọng bên nhau phút hiện tiền

Người đến, ân cần cho hết dạ

Người về, thôi vướng bận niềm riêng”

Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ

Namo Buddhaya

Kính tri ân Thầy Thích Tánh Tuệ.  


Người viết có phúc duyên gặp gỡ những người bạn tốt, không phân biệt tôn giáo, tuổi tác, giới tính  v...v... hết lòng giúp đỡ tôi qua thời gian trong quá khứ  và hiện tại trên cõi ảo mênh mông, dù chưa một lần gặp mặt: anh Bửu Viên,  Bùi Phương,  anh Trần Năng Phùng, anh Trình Huỳnh, anh Tiến TS, anh Duy Quang, anh  Sáu Nguyễn,  Người Phương Nam, Lê thị Kim Oanh ….v à các bạn hữu văn nghệ trong các Nhóm văn nghệ mà tôi hiện đang sinh hoạt  như  các Nhóm văn nghệ dưới đây:

 

                                                                                   "CoGaiViet@googlegroups.com<cogaiviet@googlegroups.com>,



DaiHocSuPham-VanKhoaSG




ThiềnNhànSương LamGroup <thin-nhn@googlegroups.com>,

Tôi chỉ tham gia sinh hoạt với các nhóm văn nghệ có đôi chút ân tình với tôi như đã kể trên mà thôi, dù tôi được nhiều nhóm văn nghệ khác mời gọi tham gia vì đối với tôi tình cảm thương mến nhau mới là quan trọng, không có mục đích chính trị, phe phái, danh lợi v..v. 

Tôi vẫn tôn trọng nguyên tắc sống "vui mình ích người" và  "tùy duyên mà sống" để cho tinh thần được thoải mái, an lạc.  Bạn đồng ý chứ? 


Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé. 

 Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

Sương Lam

(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 721-ORTB 1152-72424) 

 

Sương Lam

Website: www.suonglamportland.wordpress.com

http://www.youtube.com/user/suonglam

https://www.pinterest.com/suonglamt/ 

Nhiều Câu Hỏi Mới Lạ !! Cẩn Thận Với Amidan, Loãng Xương, Statin, Hạch Lao, Ngón Tay Cò Súng - BS. Phạm Hiếu Liêm

Di Cư 1954 - Đỗ Duy Ngọc


Ngày này cách đây 70 năm, gia đình tôi chuẩn bị di cư vào Nam. Hồi đó nhà tôi ở Đồng Hới, di cư bằng máy bay chứ không đi tàu há mồm như những người ở miền Bắc.

Trong trí nhớ của tôi, chẳng có một hình ảnh nào của chuyến bay đó vì lúc đấy tôi còn nhỏ, chỉ mới có mấy tuổi. Bay vào Quảng Trị, sau đó vào Huế rồi vào Đà Nẵng ở đó mấy chục năm.

Hồi mới lớn, tôi thấy trong tủ sách của Ba tôi có một tờ báo với một bài phóng sự của một phóng viên người Pháp, trong đó có một đoạn phỏng vấn ba tôi kèm hình chụp gia đình tôi cạnh chiếc phi cơ. Ba tôi mặc veste trắng, anh tôi và tôi đội chiếc mũ phớt, mặc áo khoác màu sáng. Mẹ tôi mặc áo dài và chị tôi mặc đầm chân mang sandale. Hình ảnh đó chứng tỏ chuyến đi được chuẩn bị rất chu đáo chứ không có gì gấp gáp.

Tôi nhớ trong ảnh mặt tôi ngu ngơ lắm, hình như là ngạc nhiên trước khung cảnh mới và chưa hết ngỡ ngàng vì lần đầu tiên được đi phi cơ. Lúc này gia đình tôi chỉ có 5 người gồm ba mạ và anh Hai, chị tôi và tôi. Đến năm 1972 có đến 10 người con không kể 4 người đã mất. Sau này nhà tôi chuyển nhà cũng là lúc tôi bắt đầu quan tâm đến tờ báo đó thì tôi không tìm thấy nữa. Chắc nó đã thất lạc khi gia đình tôi dọn dẹp để thay đổi chỗ ở.

Tôi rời quê khi tuổi còn bé, ký ức về quê nhà tôi chẳng nhớ rõ. Chỉ nhớ hồi vào ở Huế gần dốc Nam Giao, tôi ngồi trên xe đẩy bị lao xuống dốc giờ vẫn còn vết sẹo trên đầu. Mười mấy năm ở Đà Nẵng, tuổi thơ tôi lớn lên ở đó, nhiều kỷ niệm khắc ghi cũng ở đó, ký ức một thời của lứa tuổi mới lớn cũng đều ở đó nên lắm khi người ta hỏi quê quán, tôi thường trả lời là Đà Nẵng. Ở Đà Nẵng thời ấy cũng có nhiều người quê Quảng Bình di cư vào. Phần đông là người Công Giáo khu Tam Tòa. Vào Đà Nẵng họ cũng gắn bó nhau và thành lập khu Tam Tòa ở Đà Nẵng.


Theo tư liệu, cuộc di cư 1954 đã có hơn một triệu người vào Nam. Đã có nhiều hình ảnh ghi lại cuộc di cư có một không hai này. Tuy nhiên, rất ít bài viết về việc này ngoài những bài viết của các nhà văn, nhà báo, nhà thơ thể hiện tâm trạng nhớ nhung về nơi chôn nhau cắt rốn mà họ đã lìa xa. Nỗi nhớ đó thành thơ, thành nhạc nhưng thiếu những bài phóng sự ghi lại cuộc di cư đặc biệt này.

Đa số người miền Bắc đều đi vào miền Nam và nhà nước non trẻ của chính phủ Ngô Đình Diệm đã bố trí cho họ vào những khu vực ven đô, một cách để ngăn ngừa sự xâm nhập của những người hoạt động Cộng Sản. Gia Kiệm, Phương Lâm, Biên Hòa...Hố Nai, Xóm Mới, khu Ông Tạ được hình thành trong giai đoạn này. Những người di cư đã mang lại cho miền Nam một luồng không khí mới trong văn học, nghệ thuật cũng như trong sinh hoạt xã hội.

Ổn định được hơn triệu người di cư trong một thời gian ngắn là công lao của chế độ Đệ nhất Cộng Hòa. Và người di cư đã đạt được nhiều thành tựu trên nhiều lãnh vực trong khoảng 20 năm từ 1954 đến 1975. Từ một triệu người, giờ đây con số của các gia đình di cư chắc đã hơn 10 triệu. Sau 1975 họ được gọi là Bắc Kỳ 9 nút để phân biệt với Bắc Kỳ 2 nút là những người miền Bắc vào Nam sau 1975.


Đã 70 năm. Ngày này bây giờ ngoài những gia đình di cư còn nhắc lại với cháu con, báo chí nhà nước không đả động tới. Đất nước đã thống nhất, con sông Bến Hải, cầu Hiền Lương không còn là nhát dao chia cắt. Nhưng sao lòng người vẫn cảm thấy chia xa. Chợt nhớ đến câu thơ của nhà thơ Chế Lan Viên:

"Ở xứ chim không di cư, người phải di cư

Lưu vong chính trên mình Tổ quốc".

Lòng bỗng xót xa.


ĐỖ DUY NGỌC 20.07.2024

https://haingoaiphiemdam.com/a63938/do-duy-ngoc-di-cu-1954

Nỗi Lòng Người Đi - Nguyễn Duy Phước

Wednesday, July 24, 2024

Viêm Phổi Ở Người Già - Một Nguyên Nhân Không Phải Do Trời Lạnh.


Mùa đông năm nay có vẻ sẽ lạnh hơn những năm khác. Mọi người vẫn hay khuyên nhau giữ ấm, nhất là người già, để tránh bị viêm phổi. Tuy nhiên, người già còn có thể viêm phổi vì 1 lý do khác, không phải do trời lạnh!


Mùa đông năm trước, Mẹ tôi bị viêm phổi, phải đi cấp cứu rồi nằm viện 10 ngày. Bản thân tôi và mọi người xung quanh đều nghĩ rằng Mẹ bị viêm phổi vì trời lạnh. Tuy nhiên, nguyên nhân thật sự lại không phải như vậy. Hôm nay tôi muốn kể lại để chia sẻ với mọi người một trải nghiệm mới mà tôi tin rằng có nhiều người chưa từng nghe nói.

Đợt đó, Mẹ tôi bị ho kéo dài, khò khè, và ho có đàm. Sợ Mẹ bị viêm phổi, tôi lấy hẹn đưa Mẹ đi bác sĩ. Nghe phổi của Mẹ, ông bác sĩ gia đình (bs Việt Nam) khẳng định chỉ là ho bình thường thôi, không phải viêm phổi. Bác sĩ không kê toa mà biểu tôi ra mua thuốc over the counter (là thuốc mua tự do, không cần toa bác sĩ). BS dặn là thuốc này làm loãng đàm, sẽ khiến bệnh nhân ho nhiều, nhưng không có gì đáng lo.

Cả đêm, Mẹ tôi ho suốt. Tới gần sáng thì Mẹ bắt đầu bị đau mạn sườn bên phải. Cơn đau càng lúc càng nhiều, cử động cũng đau, đi hay đứng, hay nằm cũng đau. Tôi gọi xe cứu thương. Họ tới nơi, kiểm tra mọi triệu chứng, nghe tim nghe phổi, rồi đưa Mẹ đi cấp cứu. Tới bệnh viện, họ lập tức chỉ định thử máu, chụp CT, chụp X quang, đo điện tim vv... Nói chung là mọi loại xét nghiệm cần thiết đều được thực hiện trong vòng 1 tiếng đồng hồ. Không bao lâu sau, họ có kết luận ngay là Mẹ tôi bị viêm phổi. Đến chiều, sau khi thực hiện thêm vài bước kiểm tra nữa, họ nói trong phổi có nước (fluid). Tuy nhiên, do lượng fluid không nhiều lắm nên họ không cho rút ra, chỉ điều trị bằng trụ sinh.

Đến ngày thứ 3, họ cho chụp hình lại, và thấy fluid vẫn còn y nguyên. Quyết định đưa đi rút fluid trong phổi ra. Tiếc là, fluid trong phổi Mẹ tôi quá đặc, ông bác sĩ dùng hết sức bình sinh kéo ống xy lanh mà chỉ có thể kéo ra 1 giọt fluid bé xíu. Vậy là ông bác sĩ đành chịu thua, chỉ ráng gửi 1 giọt fluid đó qua lab để họ coi thử coi có kết luận được gì không.

Ngay sau đó, họ chuyển Mẹ tôi qua 1 phòng chụp hình khác. Ở đây, Mẹ được ngồi trước 1 cái máy chụp quang tuyến có nối thẳng với màn hình. Thay vì chỉ chụp hình, máy sẽ truyền hình ảnh lên màn hình trước mặt để chính bệnh nhân có thể nhìn thấy cùng với 2 vị bác sĩ chuyên môn. Vì Mẹ không rành tiếng Mỹ, cần có thông dịch, nên tôi cũng được có mặt trong phòng lúc đó. Họ nói họ muốn theo dõi phản xa nuốt của Mẹ tôi.

Họ cho Mẹ nhai bánh, uống dung dịch đặc, và uống nước lọc. Mỗi khi Mẹ cắn, nhai, và nuốt (hay uống nước, rồi nuốt), màn hình sẽ hiện lên hình ảnh thực quản và khí quản của Mẹ. Bánh hay nước thì được thể hiện bằng màu đỏ. Nhìn lên màn hình, người ta có thể thấy đường đi của bánh hay nước (màu đỏ), đi thẳng vô thực quản hay không.

Lúc Mẹ ăn bánh, và uống dung dịch đặc thì đường màu đỏ đi thẳng vô thực quản. Đến lúc Mẹ tôi uống nước thì có một ít nước bị lọt qua khí quản. Cả 2 vị bác sĩ cùng gật gù, và yêu cầu Mẹ uống lại lần nữa. Lần này, trước khi uống, Mẹ được yêu cầu cúi đầu xuống, để cằm hướng vô cổ. Trong tư thế đó, Mẹ tôi uống nước, và nước chảy trọn vô thực quản, không còn “đi lạc” qua khí quản nữa.

Sau đó, họ giải thích lại cho tôi hiểu, rằng khi chúng ta uống nước, thỉnh thoảng cũng có nước chảy lạc qua khí quản. Theo phản xạ tự nhiên, chúng ta sẽ SẶC. Nhưng người già có khi mất phản xạ SẶC. Khi đó, những tia nước nhỏ đi lạc vô khí quản sẽ đi thẳng xuống phổi và nằm lại đó. Lâu dần, nó gây ra viêm phổi. Và đặc biệt là nó gây tổn thương cho phổi bên phải. Vì vậy, Mẹ tôi mới bị đau bên mạn sườn bên phải, nơi có vết fluid trong phổi.

Như vậy, trận viêm phổi đợt đó của Mẹ tôi không phải là do bị nhiễm lạnh mà ra. Nguyên nhân thật sự LÀ DO UỐNG NƯỚC VÀ NƯỚC ĐI LẠC VÔ KHÍ QUẢN, mà Mẹ tôi thì MẤT PHẢN XẠ SẶC.

Để khắc phục tình trạng này, bác sĩ dặn Mẹ tôi mỗi khi uống nước nhớ cúi đầu xuống. Cách tốt nhất là uống nước bằng ống hút. Vì khi uống bằng ống hút, tự nhiên mình sẽ cúi đầu xuống để ngậm uống hút.

Dĩ nhiên, không phải người già nào viêm phổi cũng vì lý do này. Nhưng đây cũng là 1 lý do.

Đã được nghe các bác sĩ giải thích, được tận mắt chứng kiến quá trình bác sĩ kiểm tra và kết luận, tôi muốn kể lại mọi người cùng biết. Ví dụ như một lúc nào đó các bạn nhận ra cha mẹ già của mình không còn hay bị sặc nữa, thì có lẽ cũng nên khuyên ông bà uống nước bằng ống hút cho an toàn, nếu không thì cũng chú ý tư thế cúi đầu xuống, hướng cằm vô cổ khi uống nước ... Hay nếu thấy người thân ho mà đau mạn sườn bên phải thì bạn cũng có thể đề nghị bác sĩ cho làm test kiểm tra theo hướng này.

Một chút chia sẻ để bạn bè cùng biết. Mong các vị thân sinh của chúng ta luôn được bình an, mạnh khỏe, vui vầy cùng con cháu.


(Copy từ tác giả Hoa Tam, nhóm Kết Nối Việt)
Hanh van chuyển