Tuesday, February 28, 2023

Dòng Sông Êm Đềm - Lê Nguyên Hằng & Nguyễn Thạch Hãn

Núi Đá Bia - Phú Yên

Tháp Nhạn - Tuy Hòa

Trại Pulau Bidong - Mã Lai


Người Việt sống ở hải ngoại được mục kích một “hiện tượng” rất sôi nổi, rầm rộ. Đó là hoạt động của các hội đoàn.

Thành phố nào có chừng vài trăm người Việt, thế nào cũng có vô số hội đoàn. Hội cựu học sinh các trường trung học, đại học, hội đồng hương các tỉnh thành Việt Nam từ Bắc chí Nam, hội cựu quân nhân các binh chủng QLVNCH. Ngoài ra còn có các hội đoàn tôn giáo, đảng phái chính trị. Hội đoàn giống như một cái cây được chăm sóc cẩn thận, càng ngày càng vươn cao, xum xuê cành lá.

Các hội đoàn có một hoạt động giống nhau là tương trợ, giúp đỡ hội viên trong cơn hoạn nạn, chia sẻ nhau những vui buồn mất mát. Thông tin cho nhau những tin tức sốt dẻo, lợi ích và hơn nữa yểm trợ cho những nhà bất đồng chính kiến bên Việt Nam. Có những điều trong nước không làm được nhưng hải ngoại làm được như vận động dư luận thế giới, quyên góp tài vật về giúp đỡ nạn nhân thiên tai bão lụt…

Các cuộc họp bạn đó còn hâm nóng những “truyền thống” có lẽ đã mất dần trong nước như vinh danh công ơn Thầy Cô, giúp đỡ các Thầy Cô hay bạn học cũ gặp hoàn cảnh khó khăn, vinh danh những thành đạt của con em thế hệ thứ hai, thứ ba.

Một điều hay nữa không thể bỏ qua là nhờ những buổi họp mặt mà bao nhiêu người ĐÃ TÌM LẠI ĐƯỢC người thân và bạn bè thời trẻ đã mất liên lạc hằng hơn nửa thế kỷ, để có dịp nói ra những điều bấy lâu còn giữ kín trong lòng “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy…” Người nói hả hê vì thấy trái tim mình nhẹ đi một chút, không còn ấm ức nữa. Người bị nghe cũng cảm thấy rất sung sướng hãnh diện vì bao lâu nay vẫn còncó người ngưỡng mộ mình cơ đấy!

Các hội đoàn hầu hết đều có “Trang Nhà” trên mạng để đưa lên tin tức, thông báo, hoạt động văn hóa, văn nghệ, nhờ vậy người Việt khắp nơi trên thế giới và cả ở Việt Nam nữa có dịp thưởng thức bao nhiêu tác phẩm giá trị cả trong và ngoài nước.

Đọc đến đây có vị chắc cũng nóng lòng, “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi…” Trong dịp họp mặt hội cựu học sinh, tôi đã tìm được người bạn XA CÁCH NHAU HƠN NỬA THẾ KỶ. Đây là câu chuyện bạn kể cho tôi nghe, tôi viết ra hầu cống hiến quý vị.

TUY HÒA nơi tôi ở cách nay gần 60 năm, là một thành phố nhỏ hiền hòa nằm sát bờ biển, giống như nàng “Mỹ Nhân Ngư” phơi tấm thân kiều diễm trên bãi cát trắng tinh. Nàng dựa đầu trên núi Chóp Chài, đôi mắt mơ màng nhìn ra biển Đông, nghe gió thổi vi vu qua những bãi thùy dương dày đặc trên bãi biển Đại Lãnh, đầu đội vương miện hình Tháp.

Ai từng đi qua Tuy Hòa, nhìn lên Tháp Nhạn đứng hiên ngang trên đỉnh núi, soi mình bên giòng Đà Giang lững lờ trôi, đều ngậm ngùi cho nền văn minh một thời rất huy hoàng của nước Chiêm Thành. Cả một vương quốc đã mất hẳn dấu tích, chỉ còn lại vài cái tháp đứng trơ gan cùng tuế nguyệt!

Xa kia về phía nam là ngọn Thạch Bi Sơn (Núi Đá Bia) cao ngất quanh năm mây phủ, đánh dấu chiến công hiển hách của vua Lê Thánh Tôn một thời đại phá quân Chiêm Thành. Đó cũng là biên giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành thời Hậu Lê.

Tôi là một trong nhóm người BẮC DI CƯ nhỏ nhoi, được may mắn định cư và lớn lên trên vùng đất tự do ấm cúng Tuy Hòa, nơi mà người dân có tiếng là chất phác, đôn hậu và nhiệt tình.

Thời 54, chính quyền cho cất 1 xóm độ vài chục căn nhà tranh vách đất vâyquanh cái giếng nước trên 1 mảnh đất khá rộng, để đón dân Bắc Kỳ di cư. Tất cả sinh hoạt của trại đều xảy ra ở đó. Từ tắm rửa, giặt quần áo, xách nước về nhà để nấu ăn, chuyện gẫu, trai gái gặp gỡ làm quen. Đó đúng là 1 tụ điểm hội họp, giống như sân đập lúa ở mt làng quê, bởi vì chẳng có một thứ giải trí nào khác.

Trại di cư được tổ chức theo kiểu làng xã thời xưa: có một trưởng trại, vài vị trong ban hội đồng, họp nhau thường xuyên để cải thiện đời sống cư dân. Ngoài ra hội đồng trại còn lo việc phân phối thực phẩm và làm cái gạch nối giữa dân di cư và chính quyền thành phố. Hồi xưa chưa có điện thoại, nên tôi được chỉ định làm “thằng mõ” để thông báo tới từng gia đình những tin tức từ ban hội đồng trại đưa ra. 

Mỗi nhà đều có “Sổ Gia Đình”. Chính quyền tùy theo nhân khẩu mà cấp phát nhu yếu phẩm như dầu hôi để nấu ăn và thắp đèn, gạo, đường, đồ hộp, sữa bột, bột mì, bột bắp. Sữa thì pha với nước sôi để uống, ai không quen, Tào Tháo đuổi là chuyện thường. Bột mì và bột bắp chẳng biết làm gì, nấu chè mãi ăn cũng ngán bèn nhồi với đường thành hình những con thú như bò, gà, heo, rồi chiên lên ăn, cũng ngon ra phết!

Có cả quần áo nữa, những bộ quần áo rộng thùng thình tuy cũ nhưng còn rất tốt. Bà con tháo ra và sửa lại cho đúng khổ người mình. Sau này còn cấp heo con để nuôi làm giống. Những con heo Mỹ trắng bóc mắt xanh lè trông rất lạ mắt, mau lớn như thổi, to như một con bê, khác hẳn với mấy con heo đen thui, nhỏ xíu của xứ mình.

Hầu như xóm Bắc Kỳ di cư nhà nào cũng nuôi một vài con heo, heo nái cơ. Thỉnh thoảng có anh chàng nhà quê, dắt theo chú heo nọc nhỏ xíu, đi lang thang ngoài đường, tay cầm chiếc roi thật dài, để điều khiển heo như người ta chăn vịt vậy. Khi heo nái bắt đầu kêu la om xòm và phá phách trong chuồng, cứ gọi anh ta vào là vài tháng sau, chủ trại sẽ có một bầy heo con đẹp đẽ. Anh ta chẳng làm gì đâu, con heo của anh làm thôi. Thấy chú heo nọc nhỏ xíu đứng gần nàng heo nái to kềnh mà tội nghiệp. Tôi cũng tò mò đứng xem chú làm gì, mỗi lần như vậy, Nội lại đuổi đi chỗ khác chơi. Khi chàng heo nọc làm xong phận sự, được chủ nhân cho ăn một nồi cám to nấu với đậu xanh bảo là “để lấy lại sức”. À thì ra chú làm việc cũng vất vả lắm đấy.

Vài năm sau, khi những người di cư đã có thể tự lập, chế độ cấp phát thực phẩm cũng chấm dứt theo.

Đời sống trong trại di cư KHÁC THẬT XA với các trại của vùng kinh tế mới sau này. Đó là một đời sống tạm đầy đủ, êm đềm, tự do và tự tin cho tương lai của gia đình và đất nước. 

Trẻ con đều được đi học mà không phải trả bất cứ một khoản học phí nào. Tôi có những bạn cùng lớp đạp xe đi học từ những vùng thôn quê xa xôi. 

Bệnh viện đều miễn phí, rộng rãi và hợp vệ sinh. Xã hội có tôn ti trật tự và lễ nghĩa: kính trên nhường dưới. Cửa nhà không cần khóa hai ba lớp.Chẳng phải thời Nghiêu Thuấn, nhưng tương đối hạnh phúc yên bình cho tới khi những tai họa từ trên núi đổ xuống: Ám sát, chặn đường, pháo kích, súng nổ khắp nơi.

Ba tôi dạy học mãi ngoài Hội An, nên tôi ở lại Tuy Hòa với Ông Nội và 2 bà cô để tiện bề học hành và hầu hạ Ông. Tôi coi Ông giống như Cha, nhưng đôi khi cũng rất buồn, cô đơn và tủi thân. Bởi vì tuổi Ông già hơn Cha nhiều và khó gần gũi. Những lúc như vậy, hầu như tôi chỉ có bé Uyên là người thân thích nhất.

Uyên là “cô bé lọ lem” nhà hàng xóm, nhỏ hơn tôi 6, 7 tuổi gì đó. Ba Uyên là quân nhân, luôn vắng nhà. Mẹ Uyên thương tôi như con bà vậy. Tôi chỉ biết ai cũng gọi bà là CÔ BA NAM KỲ. Lúc rảnh rỗi tôi hay lại nhà em chơi.

Bé Uyên thường theo tôi đi nhà thờ. Đó là ngôi thánh đường nhỏ xíu, gần một giòng sông, có những hàng cây keo cao ngất mọc bên bờ, đầy gai và hoa trắng nõn, dày cơm, ngọt lịm. Chúng tôi hái hoa keo ăn chán chê, rồi ngồi trên bờ cát nhìn xuống dòng sông nhỏ bé lững lờ trôi, ngắm by chim chiền chiện đuổi nhau trên đám cỏ lau kêu ríu rít, quên cả vô nhà thờ cầu nguyện.

2 đứa chúng tôi sống bên nhau như 2 trẻ mồ côi lạc loài. Tất cả tình thương tôi đều dành cho Uyên, chiều chuộng em như chính em ruột của mình. Uyên cũng cảm nhận được điều đó nên luôn mè nheo tôi:

- Anh Hai, mấy con chim đó tên là gì dzậy?

- Người ta gọi là chim chiền chiện.

- Ai đặt tên cho nó dzậy?

- Anh hổng biết.

- Chắc má nó đặt tên cho nó phải hông?

- Chắc Ba nó đặt đó, giống như Ba đặt tên cho em dzậy.

- Ừ há. Bắt nó cho em đi, anh Hai.

- Nó chạy nhanh lắm, làm sao anh bắt được.

- Cẳng anh dài hơn cẳng nó mà.

- Nhưng nó có cánh.

- Thôi em hổng chơi dzới anh nữa đâu, anh lớn như dzầy mà hổng bắt được con chim nhỏ xíu đó.

- Để nó sống với ba má , bắt nó làm chi tội nghiệp, lỡ nó nhớ ba, buồn rồi bịnh chết mất sao.

- Anh Hai ơi, em nhớ Ba quá hà, bữa nào Ba dzìa, em nói Ba dẫn anh em mình đi ăn cơm gà xiu xiu nghe.

- Ừ phải đấy.

Tôi thấy mắt em đỏ hoe và quên mất chuyện đòi bắt chim chiền chiện. Tôi ôm em thật chặt, và hôn lên tóc em. Tôi thương em và thương tôi quá đỗi.

- Ngoan đi, anh còn một đồng đây, anh mua bánh rán cho em ăn nghe?

- Hổng chịu đâu.

- Chè đậu dzán dzậy?

- Hổng chịu.

- Kẹo kéo nhá, quay số trúng, chịu hông?

Nghe quay số mắt em sáng lên nhưng phụng phịu:

- Em chỉ muốn ăn kẹo bột thôi.

- Kẹo bột là kẹo gì dzậy trời?

- Kẹo đường đen rắc bột trắng đó.

- Trời đất, kẹo đường cứt trâu đó hả?

Em mở to mắt tròn xoe như hai viên bi thủy tinh và gật đầu lia lịa.

- Mở miệng ra coi, còn mấy cái răng mà đòi ăn kẹo bột. Em có biết là ăn nhiều đường sẽ bị sún răng không? Con gái mà sún răng trông xấu lắm mà còn bị bạn “lêu lêu” nữa đó.

- Thiệt hông? Anh xạo, em mét má cho coi.

- Sao hổng thiệt, em sờ dzô thì biết, coi chừng răng sún cắt đứt tay đó nghen.

Con bé có vẻ sợ thiệt, rơm rớm nước mắt. Tôi phải ôm Uyên dỗ dành. Có lẽ tôi thương em nhất trên đời. Em ở ngay bên tôi, an ủi tôi, cần tôi che chở, dẫn dắt, tất cả mọi thứ khác đều quá xa vời.

- Em thấy anh Hai khóc nè!

- Đâu có, cát bay dzô mắt anh đó.

- Anh Hai xạo quá, rõ ràng em thấy tóc em ướt mà.

- Chắc con chim chiền chiện bay ngang nó tè trên đầu em, vì em đòi bắt nó đó.

Em cười rũ rượi, và đấm trên ngực tôi liên hồi. Chúng tôi quên hết muộn phiền.

Muốn đến nhà thờ phải lội bộ ngang ga xe lửa rồi băng qua nhiều đồi cát, tôi vừa đi vừa kể chuyện cho Uyên nghe, đó là những chuyện tôi đọc được trong các trang báo thiếu nhi, hay những truyện nhi đồng như Bạch Tuyết Và Bẩy Chú Lùn, Cô Bé Lọ Lem, Cô Bé Quàng Khăn Đỏ, Thằng Người Gỗ... Nhiều khi vừa cõng em vừa kể chuyện, tới lúc cô bé đã ngủ gục trên vai tôi lúc nào không biết. Mỗi lần đi ngang ga xe lửa, mùi cơm gà xiu xiu từ gánh hàng rong của chú Ba lại làm bụng 2 đứa tôi cồn cào, nước miếng thi nhau chảy ra như mưa rào. Ôi những miếng thịt gà vàng ngậy, bóng lưỡng nằm trên đĩa cơm nấu bằng nước gà luộc rồi chiên với mỡ gà. Lần nào đi ngang qua hàng cơm gà Uyên cũng dán mắt vào đó, chân bước đi không nổi. Tôi chỉ có mỗi ước mơ nhỏ bé, một ngày nào đó sẽ mua cho Uyên một dĩa cơm gà xiu xiu! 

Có lần cô Ba mắc đi sanh em bé, Cô xin phép Nội cho tôi qua ngủ trông nhà và Uyên cho Cô. Cô phải vào nhà hộ sanh sớm kẻo tối có chuyện gì đi không kịp. Tỉnh nhỏ làm gì có phương tiện chuyên chở như bây giờ, đêm hôm chỉ có nước lội bộ thôi.

Tôi dắt Uyên về Nội ăn cơm rồi 2 đứa về nhà em ngủ. Dạo đó, tôi đang học đệ lục (ngang lớp 7 bây giờ), kể cũng đã lớn rồi. Uyên còn nhỏ lắm. Buổi tối em nhất định đòi tôi ngủ chung giường, Uyên nói:

- Em ngủ một mình sợ lắm, em vẫn ngủ chung với Má.

- Nhưng anh là con trai, em là con gái không ngủ chung được.

- Thế Ba với Má vẫn ngủ chung đó sao.

- Ba với Má thì khác, lớn lên em sẽ hiểu.

- Em thấy khác gì đâu, em hổng chịu đâu.

Giọng Nam Kỳ nhõng nhẽo, mếu máo, khiến tôi không thể làm phật ý em được. Đợi khi em ngủ say, tôi gỡ tay ra, trải chiếu, ngủ trên thềm nhà. Buổi sáng khi vừa mở mắt ra, đã thấy em nằm ngủ say sưa bên cạnh. Uyên ngây thơ và vô tư như thiên thần.

Từ ngày có em bé, Uyên không còn được Mẹ chăm sóc như xưa, em quanh quẩn bên tôi nhiều hơn, buổi tối thường ăn cơm chung với tôi và đòi chỉ em làm bài tập.

Cô tôi buôn bán cam. Một bà cô khác ở Saigon, cứ cách một ngày lại gởi hàng ra bằng xe lửa. Tôi chỉ việc ra lãnh mang về, Cô lo phân phối cho bạn hàng ngoài chợ.

Đường xe lửa xuyên Việt chạy ngang thành phố. Mỗi khi về tới, tiếng còi tàu “ò e…, ò e…” đánh thức cả thành phố đang ngái ngủ. Tôi vội mướn xe xích lô chạy ra nhà ga để lãnh nhận những cần xé cam nặng trĩu... Bao giờ tôi cũng giấu một hai trái để cho Uyên, em thích lắm. Đó là thứ quà rất xa xỉ thời đó.

Năm cuối cùng trung học đệ nhất cấp, tôi chuẩn bị đi Saigon học tiếp. Sẵn có tiền Nội cho, tôi dẫn Uyên đi ăn cơm gà xiu xiu, đó là bữa ăn ngon nhất trên đời tôi và em được ăn. Dù sau này đi khắp năm châu bốn bể, tôi cũng không thấy bữa ăn nào ngon như thế.

Lúc tôi lên đại học thì Uyên vừa vào trung học. Mỗi năm cứ vào dịp hè tôi lại đáp xe lửa về Tuy Hòa thăm Nội và Uyên. Tôi hay dẫn em leo núi Nhạn hái trái sim màu tím thẫm ngọt lịm hay trái dú dẻ màu vàng tươi, thơm ngát. Đó là những ngày hè vui nhất trong đời. Uyên càng lớn càng xinh đẹp hơn, không còn là cô bé lọ lem ngày nào. Chúng tôi vẫn leo lên mấy đồi cát đi về phía nhà thờ bên dòng sông thời thơ ấu, nhưng em không còn bắt tôi cõng và cũng không còn đòi ăn kẹo bột nữa.

Đôi khi chúng tôi ra ngồi ngoài bãi biển yên lặng nhìn mông lung về phía chân trời, mắt dõi theo những chiếc thuyền lững lờ trôi về nơi xa xăm. Sự tin yêu và thông cảm đã khiến chúng tôi hiểu lòng nhau mà không cần phải nói thành lời.

Chiến cuộc ngày càng khốc liệt hơn, đời tôi rồi cũng sẽ như những chiếc thuyền vô định trên biển cả mênh mông kia.

Những năm “học đại” thật vất vả, tôi vừa phải lo kiếm sống vừa phải vùi đầu vào đống sách vở cao ngất ngưởng, chẳng nên cơm cháo gì, được vài cái chứng chỉ vớ vẩn, vứt ra đường không ai thèm lượm.

Rồi vụ thảm sát Tết Mậu Thân xảy ra, thời hạn hoãn dịch vì học vấn không còn hiệu lực nữa. Tôi cầm Lệnh Gọi Nhập Ngũ mà lòng bâng khuâng khôn tả. Những ngày tháng mơ mộng của tuổi cắp sách đến trường đã chấm dứt. Cuộc đời tôi đi vào một ngõ rẽ, đầy chông gai, và tương lai thì rất mập mờ.

Tôi đã 23 tuổi và có đúng 1 tháng để gói ghém tuổi học trò cất vào ngăn tủ khóa lại kỹ càng trước khi bước vào quân ngũ.

Tôi trở lại Tuy Hòa thăm Nội và từ giã Uyên. Em vừa xong trung học đệ nhất cấp, chuẩn bị lên đệ tam (lớp 10). Uyên đã biết e lệ khi đi bên tôi, con mắt to đen láy có dáng tôi trong đó. Con đường đi lên đồi cát dẫn đến dòng sông tuổi nhỏ, chúng tôi đã đi qua biết bao nhiêu lần, nhưng lần này thật mới, xa lạ, ngập ngừng, e thẹn. Nắng sớm mai trải dài trên những đồi cát, chỗ sáng chỗ mờ, tạo thành những đợt sóng cát vô tận như những đợt sóng ngầm trong lòng 2 đứa.

Chúng tôi ngồi bên nhau bên bờ sông dưới hàng keo rậm rạp, nhìn cặp kỳ nhông đầy màu sắc rượt đuổi nhau trên bãi cát.

- Anh Hai kỳ ghê hà, sao nhìn em hoài dzậy?

- Anh muốn mang bé đi mãi mãi trong tim anh, dù có phiêu bạt tận chân trời góc biển nào đi nữa.

- Thôi hổng chịu đâu, anh Hai ở lại đây dzới em.

- Hổng được đâu, người ta nhốt anh trong tù thì sao?

- Em sẽ biến thành con muỗi, chui vô thăm anh mỗi ngày, chịu hông?

- Hổng chịu, muỗi chích đau lắm.

- Em thương anh hổng chích anh đâu mờ.

- Ý trời! Mấy con muỗi cái chích đau dữ lắm đó.

- Thôi làm con kiến dzậy, hổng được, con bươm bướm chịu hông?

- Chịu, người ta đưa anh lên rừng thì sao bướm bay cho nổi?

- Em sẽ hóa thành con chim bay theo anh.

- Người ta thảy anh xuống biển thì sao?

- Em sẽ hóa thành con cá lội theo anh. Thôi em hổng chơi dzới anh nữa đâu, tối ngày đòi đi này nọ, hổng chịu ở đây dzới em.

Em thật ngây thơ, chuyện đời đâu phải cứ muốn là được. Tôi cũng như chiếc lá lênh đênh trên dòng sông dưới kia, trôi hoài trôi mãi, cố vẫy vùng cũng không thoát khỏi số phận, cho đến ngày chịu nằm yên ngoài biển khơi.

Rồi cũng đến lúc tôi phải ra đi. Bước lên con tàu, nhìn Uyên ở lại sân ga, trong bộ quần jean áo trắng tôi mới mua cho em, hai vạt áo chemise cột chéo vào nhau, trẻ trung nhí nhảnh hết sức, đang sụt sùi lau mắt. Tiếng còi tàu thét lên, tim tôi như vỡ ra từng mảnh, con tàu từ từ lăn bánh.

Em ở lại ôm ấp mối tình ngây thơ, còn tôi ra đi mang theo hình bóng em trên con đường vô định.

Những năm tháng miệt mài với chiến trận, tôi theo đoàn quân mũ nâu, lội khắp các tỉnh miền Trung rồi lên cao nguyên Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột, Phú Bổn, Phú Túc, Đức lập, Dakto, Ben Het, Quốc lộ 14, nhiều lắm kể sao cho hết. Tôi đi đến đâu cũng mang theo bé Uyên trong tim. Em như thiên thần hộ mệnh, giúp tôi vượt qua bao gian nan, nguy hiểm, cho đến ngày Ban Mê Thuột thất thủ, tôi trở thành tù binh.

Những năm tháng tù đày hình ảnh em luôn ở bên cạnh tôi, có lúc là con muỗi, đậu ngoan ngoãn trên cánh tay tôi, có lúc là con chim hót líu lo trên cành cây giúp tôi quên đi những bó cây rừng nặng nề trên vai. Có lúc tôi thẫn thờ thấy em là con bướm đang chập chờn trước mặt, cười cợt, khiến lòng tôi quên đi bao nhiêu phiền não. Vâng, em đã giữ đúng lời hứa theo tôi từng bước chân lưu lạc tù đày. Tôi gọi tên em khe khẽ trong cơn sốt rét rừng lạnh run người, rồi nóng bỏng. Tôi thấy em mặc áo trắng toát, đuôi áo xòe ra tận chân trời. Tôi cầm tay em đi bên dòng sông tuổi nhỏ, những con kỳ nhông sặc sỡ bu đến bên em, rồi tất cả bay lên khỏi từng mây trong bầu trời nắng chan hòa, có những đàn chim chiền chiện nâng áo em như thể đang trong ngày cưới, ở một vùng trời thênh thang, xa hẳn cõi trần thế khổ đau.

Rồi tôi cũng được thả ra khỏi trại tập trung cải tạo của cộng sản. Nhưng khi trở lại Tuy Hòa, thành phố đã xa lạ, tan tác.

Chú Ba với gánh cơm gà xiu xiu đã phiêu bạt nơi nào. Nội tôi đã qua đời, cô tôi đã có chồng vẫn còn trong trại tù nào đó tận đâu ngoài Bắc. Căn nhà Uyên ở nay đã thuộc về người khác, có lẽ là cán bộ từ miền Bắc vào. Em ở đâu, gia đình tôi lưu lạc phương nào tôi chẳng biết. Đúng là cảnh nước mất nhà tan. Thành phố nay đã thay đổi, chẳng nhìn thấy một nụ cười, phố xá xơ xác điêu tàn.

Tôi tìm về dòng sông tuổi nhỏ, nơi tôi và em đã từng đến để sưởi ấm tâm hồn. Những con chim chiền chiện vẫn còn đó, những hàng cây keo cao ngất vẫn còn đây, những con kỳ nhông vẫn vô tư đuổi nhau trên bãi cát. Tôi tự hỏi đã có bao nhiêu thế hệ chiền chiện bay ở đây? Bao nhiêu lần lá keo thay đổi, nhưng dòng sông thời thơ ấu vẫn còn y nguyên, như tấm lòng của tôi đối với Uyên. Nước vẫn lững lờ trôi êm đềm, mang theo cả tuổi thơ của hai đứa tôi đi mất. Tôi muốn khóc, cho em, cho tôi, cho tất cả những người Việt Nam điêu linh, khốn khổ vì chiến tranh, vì hận thù. Nước mắt tôi đã cạn khô từ những ngày trong lao tù tủi nhục. Linh hồn tôi đã bay khỏi địa ngục trần gian, để lại một thân xác bơ vơ, rã rời.

Tôi thấy mình cô đơn hơn bao giờ hết, hơn cả những ngày còn rất bé bỏng, trong một làng quê hẻo lánh bên bờ sông quê nội thuộc “vùng Tề.”

Thời chiến tranh Việt - Pháp trước 1954, “vùng Tề” là cách gọi vùng đất bị người Pháp kiểm soát để phân biệt với “Vùng Tự Do” mà Việt Minh đã đặt được cơ sở. Thật ra đây là những vùng “xôi đậu” giống như ở một số nơi mất an ninh tại Miền Nam sau này. Ban đêm lính trong đồn có thể pháo bừa vào đó, ban ngày Việt Minh cũng làm như thế. Ngoài Bắc có câu “Ấm ớ hội tề”, chỉ mấy ông hội đồng làng tề ba hồi ngả bên này ba hồi ngả bên kia, tùy theo hoàn cảnh.

Tôi đã chứng kiến những ngày điêu linh tan tác ở đó.

Đó là một làng nhỏ, thuộc tỉnh Thái Bình, chỉ cần đi bộ vài cây số đến bến đò Tân Đệ, theo chuyến đò ngang, bên kia sông đã là thành phố Nam Định. Có lần tôi theo Nội qua Nam Định thăm người bà con, cả thành phố đóng cửa kín mít, vì đám Tây Lê Dương vừa đi hành quân về, nhiều đứa say rượu đập phá ngoài đường.

Nội có 5 người con, 3 trai 2 gái. Bác Cả hoạt động cho Quốc Dân Đảng tận ngoài miền Trung đã đổi tên đổi họ biệt tích giang hồ. Chú tôi theo Việt Minh, thỉnh thoảng về thăm nhà ban đêm, chốc lát rồi đi. Có lần Chú về và xin với Mẹ cho tôi theo Chú qua bên “Vùng Tự Do”.

Chú cõng tôi trên lưng, đi hằng chục cây số trong đêm tối, giữa những bờ ruộng, tiếng ễnh ương kêu vang bên tai. Tôi ngủ trên lưng Chú lúc nào không biết.

Sáng thức dậy, thấy mình nằm trên chiếc chõng tre trong căn nhà lá xa lạ. Tôi học những lớp vỡ lòng ở đó, trong 1 đình làng, trẻ con chơi nhiều học ít. Học nửa buổi, còn nửa buổi ra cánh đồng bắt sâu trên những ruộng lúa mới trổ bông hay hái rau muống mang ra chợ bán gây quỹ cho đội (thiếu nhi). Đêm đêm, xách “đèn chai” đi họp đội hay tập nhảy “son đố mì”.

Tôi còn nhớ được vài bài hát đại khái như “Bác Hồ Chí Minh là mặt trời” hoặc “Đảng lao động Việt Nam, đảng của chúng ta, vì cơm áo tự do, ăn no nằm chết giữa đường...” Có cả những bài ca tụng LiênSô như “Dân Liên Sô, vui hát trên đồng xanh,đây bao la ánh nắng xuân chan hòa...”, bây giờ nhớ lại thấy vô duyên và kỳ cục.

Tôi ở với Chú được một thời gian, một hôm Mẹ sang đón tôi về. Chỉ vài ngày sau, Pháp đi càn (hành quân) qua bên đó, Chú bị chết ngạt dưới hầm bí mật. Nếu Mẹ qua trễ chắc tôi đã đi theo chú mất rồi.

Ba tôi ở Hà Nội nhưng hay về thăm Nội, đôi khi đi thăm Chú hoặc lang thang qua những làng lân cận thăm bạn bè. Một hôm, tay đồn trưởng đám dân quân tự vệ sai lính bắt Ba đánh cho một trận rất nặng, lớn lên tôi vẫn còn thấy những vết sẹo trên người ông, lúc thả ra ông về ở hẳn Hà Nội, không dám bén mảng về quê nữa, vì cả 2 bên đều nghi ngờ. Một thời gian sau, Việt Minh phục kích giết chết tay đồn trưởng trên đường ra bến đò Tân Đệ.

Trước hiệp định đình chiến năm 54, gia đình Nội lần lượt từng người bỏ trốn qua Nam Định. Tờ mờ sáng, Mẹ đội thúng như mang rau ra chợ bán, dắt tay tôi đi nhanh trên con đường làng dẫn ra bến đò. Có vài người chào hỏi nhưng Mẹ chỉ ậm ừ vài câu và vẫn rảo bước không ngừng.

Khoảng gần trưa, chúng tôi đến Nam Định, chiều hôm ấy, tất cả gia đình gặp nhau đầy đủ ở nhà một người bà con. Ban đêm, cả thành phố hoạt động rầm rộ trong bóng tối để chuẩn bị ra đi. Vài ngày sau chúng tôi theo họ lên mấy chiếc xe vận tải chờ sẵn trên con đường phía Bắc hướng đi Hà Nội.

Hà Nội những ngày chuẩn bị di cư, thật nhộn nhịp hối hả nhưng vẫn không mất đi vẻ đẹp đài các quyến rũ. Đồ đạc, bàn ghế, quần áo cũ bày bán đầy đường. Ban đêm trai gái Hà Thành thanh lịch vẫn dẫn nhau đi dạo bờ hồ, ăn kem, tình tứ trò chuyện, có lẽ như những tử tù cố gắng thưởng thức bữa ăn sang trọng cuối cùng.

Hà Nội trong mắt chú bé nhà quê, thật là đẹp, không thể tưởng tượng nổi, cái gì cũng mới lạ hơn hẳn Nam Định như chú từng thấy. Tôi còn nhớ lần đầu tiên Ba mua cho cây kem, tôi vừa cắn một miếng đã phun ra và quăng ngay xuống đất. Chú bé nhà quê, chưa từng được ăn cái gì lạnh như thế, giống như có con dao nhỏ giấu trong cây kem vừa đâm vào miệng, cũng có thể vì mấy cái răng sún nó nhát chú.

Tôi vẫn thích nhìn về phía bên kia bờ hồ, có những đèn xe ô tô ẩn hiện trong các lùm cây. Một món quà Ba cho tôi, quý lắm, tôi còn giữ rất lâu khi đã vào miền Nam, đó là cây viết cán bằng nhựa, trên cán có chỗ nhô hẳn ra, lộng vào đó là hình chiếc cầu rất nổi tiếng, cầu Long Biên. Nếu để đúng tầm nhìn, cây cầu sẽ hiện ra rõ ràng, như thật.

Ở Hà nội một thời gian ngắn, Ba tôi đưa cả đại gia đình đi Hải Phòng rồi lên “tàu há mồm” cập bến Nha Trang. Ba mẹ tôi đi Hội An còn tôi theo Nội và Bà Cô vào định cư ở Tuy Hòa từ đấy.

Tôi còn quá nhỏ để hiểu được những mất mát khi phải bỏ quê hương ra đi, hay những sợ hãi trốn tránh cả 2 bên Việt Minh và Tây, nhưng quá quen thuộc với những chuyến đi bất chợt, vi vã trong đêm tối. Tôi đã có thể đi một mình trong đêm hằng vài cây số trên những con đường quê hẻo lánh một mình không hề sợ hãi.

Trong biến cố di tản miền Trung thời 75, Ba Mẹ tôi may mắn thoát được về Saigon yên ổn, ở chung nhà Bà Cô. Tôi đoàn tụ với gia đình sau khi ra tù.

Từng bước chân, từng cánh tay cử động cũng có những con mắt theo dõi. Trong nhà phải nói chuyện thì thầm với nhau tưởng như trong vách kia có cả trăm lỗ tai đang nghe ngóng. Những bữa ăn vội vã, một mắt nhìn vào bàn ăn còn mắt kia phải canh chừng ngoài cửa, công an khu vực có thể vào nhà bất cứ lúc nào, đi từ trước ra sau không cần hỏi han một tiếng. Tôi chưa từng tưởng tượng ra được có một ngày mình phải ở trong một hoàn cảnh như thế và cũng chưa từng đọc được trong sách vở có một thiên đường hạnh phúc như thế trên thế gian này.

Tôi không thể sống trên quê hương giữa những người CÙNG MÁU MỦ ĐỒNG BÀO mà lòng đầy hận thù chia rẽ. Cuộc sống thật sự không có ngày mai cho những người bị gọi là NGỤY.

Sau 2 lần vượt biên thất bại,cuối cùng tôi cũng đến được Pulau Bidong Mã Lai trên con tàu bé tí teo, cùng với mấy chục con ma đói rách rưới, hôi hám, bẩn thỉu, không còn đủ sức lết ra khỏi thuyền.

Có những đêm cả trại chạy ồ ra cầu Jetty đón nhận thuyền nhân mới đến, xem có thân nhân bạn bè của mình không. Chẳng ai muốn hỏi hành trình của họ ra sao, có bị cướp biển hay không, dù có khốn khổ, nguy hiểm, tủi nhục ra sao thì đó cũng chỉ là sự lập lại của chính mình. Hàng ngàn con mắt nhìn đám tân thuyền nhân như nhìn chính mình cách đây chẳng bao lâu, đẫm lệ, thầm thì an ủi “Cám ơn Trời Phật,tất cả những khổ đau chẳng là chi nữa, HÃY LÀM LẠI TỪ ĐẦU, miễn sống sót và xa chốn địa ngục trần gian là tốt rồi!”

Có những đêm không ngủ được, nhớ Uyên, nhớ Nội, nhớ gia đình Ba Mẹ, bạn bè, chiến hữu đã từng cùng tôi vào sanh ra tử, tôi lần lên đồi tôn giáo, cầu nguyện. Nhìn xuống đám nhà thuyền nhân dưới kia, những cái được gọi là nhà đó chỉ là mấy nhánh cây rừng làm cột, lợp tôn mỏng, thùng giấy hoặc lá dừa. Hàng chục ngàn con tim đang thổn thức trong đó, có những người cố dỗ giấc ngủ như tôi, có những người đang khóc thầm vì mất vợ, mất chồng, mất con, mất cha mẹ, anh em. Có những người đang tự trách mình vì đã bỏ rơi bạn bè, chiến hữu trong lúc thập tử nhất sinh. Họ đang cố gắng quên đi những tủi nhục một đời, tù đày, ức hiếp, hăm dọa, đánh đập, chiếm đoạt tài sản, rồi bị săn đuổi như một loài thú hoang, còn chịu nạn hải tặc, cưỡng hiếp... Ngoài biển mênh mông kia, biết bao nhiêu oan hồn còn vất vưởng vì nỗi oan khiên chưa được giải, chưa biết tỏ cùng ai, không nỡ mang xuống tuyền đài. Biết đâu có Uyên trong đó.

Tim tôi quặn đau, nghẹt thở. Tôi cầu xin Trời Phật dù thế nào cũng dẫn em qua cầu khổ đau, tôi khấn nguyện ơn trên hãy mở tay cứu giúp các linh hồn còn vất vưởng ngoài biển khơi được về cõi vĩnh hằng. Tôi miên man nghĩ từng giả thiết về em, đã chết trên đường vượt biên ư? Không, không thể được, em là thiên thần có Chư Thiên phò hộ, không thể chết được. Cũng có thể em còn ở Việt Nam hay đã đến một trong những trại tỵ nạn nào đó, hoặc biết đâu, đã đến được bến bờ tự do. Tôi an ủi mình, có thể lắm chứ, em là Thiên Thần mà! Tôi điên rồi!

Cơn điên cứ miên man như thế trong nhiều giấc mơ, theo tôi vượt qua biển Đông, về tận Tuy Hòa, leo qua những đồi cát bên dòng sông tuổi nhỏ. Tôi thấy Uyên và tôi đang đùa giỡn bên nhau, rượt đuổi mấy con kỳ nhông, hay công kênh em trên vai để hái hoa keo hoặc vờ làm bẫy để bắt mấy con chim chiền chiện cho em. Tôi nghe tiếng em cười, tiếng em nhõng nhẽo đòi ăn kẹo bột. Tôi còn nước mắt để khóc không? Nhưng nghe nghèn nghẹn trong tim rồi rơi vào giấc ngủ mê. Tôi thấy em đang chơi vơi giữa đại dương, hai tay giơ lên giữa những cơn sóng phủ đầu. Tiếng kêu cứu của em bị át bởi tiếng gầm gừ của đại dương: “Anh Hai, cứu em, cứu em, cứu em…” 

Tôi giật mình tỉnh dậy, mồ hôi vã ra như tắm, đầu hâm hấp nóng. Trời đã khuya, tôi đọc kinh và thầm cu nguyện cho em. Bầu trời trong vắt đầy sao, có lẽ em đã là một vì sao lấp lánh trên kia. Tôi lặng lẽ trở về căn chòi lá mà lòng đầy nghi hoặc. Em đang ở đâu?

“Pulau Bidong có list thì dông” Tôi học được trên đảo như vậy và dông lẹ, bỏ lại bao nhiêu hệ lụy buồn vui, khắc khoải đời thuyền nhân. Từ giã những cặp tình nhân bất đắc dĩ với những mối tình vá víu tạm bợ.

Đầu thập niên 80, tôi đặt chân lên đất Mỹ, làm lại cuộc đời từ con số không. Kể như vẫn còn may mắn. Đời tôi luôn luôn gặp may mắn, tôi tin như vậy, cho nên tôi vẫn để ý tìm Uyên khắp nơi. Đi dự họp mặt của các hội đoàn đồng hương, cựu quân nhân, các hội cựu học sinh, sinh viên...

Tôi định cư tại thành phố Austin, thủ phủ của Texas. Ban đầu được một nhà thờ Công Giáo đỡ đầu do hội thiện nguyện USCC giới thiệu. Một người trong nhà thờ giúp tôi kiếm được việc làm trong kho hàng của siêu thị, việc làm bán thời gian ban đêm. Công việc tuy cực nhọc nhưng cũng chẳng thấm thía gì so với những tháng ngày còn lêu bêu bên ViệtNam. Austin có một trường đại học rất nổi tiếng, đó là trường UT to lớn vĩ đại.

Sau khi thi lấy bằng tương đương trung học, mấy người nhà thờ giúp tôi điền đơn xin học bổng và ghi danh học ở đó, có cả một ông councelor của trường cũng trong hội nhà thờ giúp tôi từng bước. Thật là mủi lòng, những người không cùng máu mủ với mình thì hết lòng giúp đỡ, còn đồng bào ruột thịt của mình thì xua đuổi mình như con chó dại. Vui mừng hết sức, thế là bao nhiêu năm bỏ quên sách vở lại được sờ mó, ôm ấp, hít thở mùi giấy mực. Thong dong một mình, không còn lo chiến tranh, trốn tránh, bắt bớ, tù đày nữa. Tôi lại sách đèn như xưa, lòng đầy hân hoan của một cậu bé mới lớn.

Nhiều năm qua đi. Ra trường rồi đi làm. Một hôm, theo người bạn cùng sở bay về Cali tham dự buổi họp mặt của một Hội Đồng Hương.

Tôi đã gặp lại Uyên!

Chúng tôi ôm nhau giữa đám đông khóc mùi mẫn, khóc thoải mái, khóc tự nhiên, khóc thật to cho mọi người cùng khóc. Trong đám đông đồng hương này có biết bao nhiêu người cũng đã từng khóc như chúng tôi. Khóc để trôi đi bao điều còn giữ kỹ trong lòng, không nói ra được. Khóc để nói với mọi người rằng chúng tôi đã tìm thấy báu vật đánh mất bao nhiêu năm trời.

Khóc đã đời, chúng tôi buông nhau ra. Nhìn mặt Uyên son phấn tèm lem như thời bé bỏng nghịch đất cát, tôi bật cười. Em hỏi sao tôi cười. Tôi nói tôi đã tìm lại được tuổi thơ của chúng ta, tôi vui lắm. Em muốn kể cho tôi nghe những gian truân, gia đình tan nát, đổ vỡ, chết chóc, nhưng tôi không muốn nghe. 

Tôi tìm thấy em là đủ rồi, những cái khác hãy quên đi, quên đi, quên đi…

 

Mến tặng MC và các bạn cựu học sinh Nguyễn Huệ Tuy Hòa, gia đình chiến sĩ Mũ Nâu.

Cám ơn các hội đoàn người Việt tại Hoa Kỳ bao năm qua vẫn không ngừng sinh hoạt, tạo ra biết bao họp mặt đầy ý nghĩa, cho những đồng hương lưu lạc có cơ hội gặp gỡ tìm lại được nhau.


Lê Nguyên Hằng & Nguyễn Thạch Hãn

https://vvnm.vietbao.com/a207804/dong-song-em-dem

Monday, February 27, 2023

Phóng Sanh - Minh Lương

Lý Do Bạn Không Nên Giết Nhền Nhện - Huỳnh Chiếu Đẳng


Nguồn tin và chi tiết: https://www.housedigest.com/1199236/heres-why-you-shouldnt-kill-spiders-in-your-home/

HCD tóm tắt bản tin : Có thể bạn không biết là có hàng trăm con côn trùng đang sống trong nhà bạn. Một nghiên cứu năm 2016 thấy có nhiều loại nhện khác nhau trong số những loài côn trùng tìm thấy trong nhà, với ruồi, muổi, bọ cánh cứng, dán kiến...

Khi bạn nhận thấy con nhện ở trong phòng, phản ứng đầu tiên của bạn là gì? Bạn có giết con nhện không? Hay là bạn cứ để mặc nó? Nghiên cứu cho thấy cứ để con nhện sống yên bình trong nhà là điều tốt. Con nhện không chỉ giúp bạn khỏi phải dọn dẹp những mớ hỗn độn vương vãi trên sàn hoặc tường mà còn mang lại một số lợi ích đáng chú ý khác.

Lợi ích chính của nhện là chúng ăn côn trùng mà bạn không muốn có mặt trong nhà, như muỗi, kiến, bọ cánh cứng, ruồi và bướm đêm. Có hai cách mà nhện bắt côn trùng; hoặc săn lùng côn trùng hoặc bẫy chúng bằng mạng nhện.

Các loại bọ như muỗi và ruồi gây khó chịu nhất là gây bịnh. Một nghiên cứu năm 2018 do Tạp chí Nghiên cứu Muỗi Quốc tế công bố cho thấy nhện đặc biệt hữu ích trong việc tiêu diệt muỗi mang mầm bệnh sốt rét.

Hầu hết các loài nhện đều không nguy hiểm. Không giống như những con nhện độc lớn mà bạn có thể đã thấy trong phim, hầu hết tất cả các loài nhện sống ở Hoa Kỳ đều vô hại với con người.

HCD: Hy vọng sau khi đọc bài nầy các bạn bớt sợ và bớt giết nhền nhện. Chúng vô hại và có ích giúp chúng ta diệt những loài côn trùng không tốt như ruồi, muổi, kiến, dán.


Huỳnh Chiếu Đẳng (Quán ven đường)

Mong Rằng...


 

Huỳnh Chiểu Đẳng (Quán ven đường)

Chả Lụa - Vũ Thế Thành

Nhà văn Nguyễn Tuân nói rằng, chẳng có nơi nào trên thế giới làm giò lụa ngoài Việt Nam. Điều này đúng. Ai chẳng biết cái thứ thịt xay nhuyễn, bó lại đem nấu, đem hấp, xông khói hay để lên men, thì nơi đâu chả có, thậm chí có cả bề dày lịch sử ngàn năm như xúc xích Tây, lạp xưởng Tàu. Nhưng chả lụa Việt Nam muôn đời vẫn là… chả lụa. Chả lụa không bao giờ tương cận với xúc xích hay lạp xưởng… 

Chả lụa là món ăn truyền thống của người Việt, xuất xứ từ miền Bắc. Cuộc di cư một triệu người từ Bắc vào Nam năm 1954, đã đem văn hóa hai miền xích lại gần nhau, kể cả thứ văn hóa ẩm thực mà chỉ có… dân nhậu mới ‘đủ thẩm quyền’ đưa ra phán quyết sau cùng được. Nào là canh chua cá lóc, rựa mận, thịt heo giả cầy… Giò lụa (tiếng Bắc) hay chả lụa (Nam) cũng ở dưới góc nhìn như thế. 

Hương lụa một phần do lá chuối

Hương chả lụa không thể nhầm lẫn với hương bất cứ loại thịt xay, thịt bằm nào khác đem luộc, dù rằng chả lụa cũng chỉ là loại thịt heo xay nhuyễn rồi đem luộc hoặc hấp. Cái hương ấy một phần do lá chuối. Hương dồn xuống đầu dày chả lụa, nơi đó thơm nhất. Chưa hết, lá chuối mỗi nơi mỗi khác: lá chuối ở vùng Đồng Nai, Biên Hòa mỏng lá hơn vùng Mỹ Tho, Tiền Giang, nên các tay làm chả lụa ở hai đầu vùng trên vùng dưới Sài Gòn này cứ kèn cựa nhau về cái hương lụa tự nhiên. 


Xúc xích Tây có hàng trăm loại, mỗi vùng mỗi khác, mỗi nước mỗi khác, nhưng đều có điểm chung, đó là xúc xích thiên về vị hơn là hương. Ở thời buổi khoa học kỹ thuật này, biết bao là gia vị, tha hồ mà công nghiệp hóa cái gọi là… ‘xúc xích truyền thống’. 

Chả lụa xem ra nhẹ về vị mà nặng về hương. Hương tinh tế hơn vị nhiều, và cho dù thị trường đầy rẫy hương nhân tạo, nào là hương nếp, hương cốm, hương chanh, hương sầu riêng, hương cà cuống… nhưng hương chả lụa thì không. Chả lụa mà xài hương thì ra mùi thịt hộp. Chẳng hiểu hương và vị có nói lên sự khác biệt văn hóa Đông Tây hay không, chứ cứ tưởng tượng mấy cụ già ngày xưa ngồi uống trà rung đùi thưởng thức hương của mấy giò lan hay thủy tiên xem ra thoát tục hơn nhiều. 

Cái tính dai giòn của chả lụa mới là chuyện nhức đầu. Dai và giòn là hai đặc tính ngược chiều. Dai nhiều thì hết giòn, giòn nhiều thì hết dai. Xúc xích Tây cũng chuộng dai giòn, nhưng không cuồng nhiệt như chả lụa. Mấy ông Tây chế ra đủ loại phosphate để làm giòn dai xúc xích, nhưng cái cảm giác ‘cắn sựt’ (good-bite) của xúc xích, dù là xúc xích loại nào đi nữa, cũng thua xa cảm giác ‘cắn sựt’ của chả lụa, không những thế, nhai nhè nhẹ, miếng chả lụa vẫn còn cảm giác ‘dai’. Vừa giòn lại vừa dai đâu phải chuyện dễ.


Về mặt khoa học, có thể giải thích đại khái chuyện dai giòn thế này: khi con heo vừa chết, nhiều phản ứng sinh hóa xảy ra làm pH của thịt giảm dần dần đến điểm đẳng điện (isoelectric point). Đồng thời hai loại protein cơ thịt là actin và myosin xoắn lại thành actomyosin, làm mất đi các điểm háo nước trên dây protein. Hậu quả là khả năng giữ nước ở cơ thịt yếu đi, khi xay thịt thành mọc, nhũ tương này trở nên nhão, độ quết dính yếu, nên cấu trúc sản phẩm kém dai giòn. Đó là lý do vì sao làm chả lụa phải làm bằng thịt “nóng” (vừa giết mổ xong), thịt để lên phản còn… giựt giựt. Xúc xích Tây dùng phosphates để nâng pH và phân giải actomyosin trở lại thành actin và myosin. Myosin hút nước, tạo gel và làm dai giòn sản phẩm. 

Các cụ ta thuở xưa đâu biết phosphate, phụ gia là gì, cứ thịt nóng mà xài (lúc đó pH của thịt chưa xuống thấp, nên còn khả năng giữ nước, hòa tan protein của thịt và tạo độ quết dính), bỏ vào cối, thêm mắm muối, rồi miệt mài giã, mà phải giã thật đều tay cho đến khi mọc thịt quết dính. Chả lụa sau khi luộc thơm phức và dai giòn hơn cả xúc xích. Khoa học ngày nay thừa nhận rằng, tác động cơ học (giã tay) như vậy cũng làm phân giải actomyosin, nhưng vẫn chưa biết giải thích vì sao. Ông cha ta cũng không cần biết vì sao, chỉ cần biết rằng, hễ giã không đều tay, thì tính dai độ giòn của chả lụa sẽ không cân đối. Bởi thế mới có chuyện, nghe tiếng giã giò là biết đẳng cấp làm giò tới đâu. 

Xưa và nay… 

Ngày xưa đình đám, giỗ chạp người ta mới dùng đến chả lụa. Ngả heo xong, lựa lấy miếng thịt ngon nhất đem giã giò. Chả lụa là món ăn ‘quý phái’ trong giới bình dân, năm thì mười họa mới có. 

Chả lụa thời nay khác xa rồi, bánh cuốn chả lụa, bánh mì chả lụa, bún bò mì Quảng cũng thêm chả lụa, trẻ con chán cơm thời nhai chả lụa cho có… chất. Chả lụa chạy theo nhịp sống công nghiệp, chế biến công nghiệp, cạnh tranh công nghiệp, giá cũng công nghiệp, thị trường quá nhiều loại chả lụa, nhìn hoa cả mắt.


Cái nghề chả lụa thời nay đâu phải ở nghệ thuật giã giò hay nêm nếm, mà là nghệ thuật nhìn… mặt thịt. Phải biết nhìn mặt thịt để biết chọn thịt vai đấu với thịt mông, trộn lẫn với thịt nách, hay lấy thịt heo già, heo nọc đấu với thịt heo non, heo nái, sao cho ra chả lụa với giá thành cạnh tranh nhất. Khách hàng thời công nghiệp mấy ai bàn cãi chả lụa, họ sống hối hả, ăn mau nuốt vội với thực phẩm đông lạnh, xài lò viba và chảo không dính, ai rỗi hơi mà nói chuyện dai giòn. 

Cách giết mổ cũng lắm phần ‘hiện đại’, người ta dí điện hoặc nện búa cho heo ‘ngất’ đi, rồi mới thọc tiết. Thịt heo bị choáng bởi điện giật, cơ co, chắc chắn sẽ khác xa thịt heo thọc tiết còn sống. 

Chất lượng thịt heo kiểu đó, sản phẩm ra ồ ạt kiểu đó phải gắn liền với ‘tự động hóa’, hơi đâu mà giã tay. Ngoài Bắc dùng loại một cối xay, trong Nam dùng loại hai cối, chạy điện cho khỏe. Máy xay thịt kiểu đó chỉ nghiền cho thịt nhỏ li ti (tạo nhũ tương thịt), chứ đâu làm nhuyễn ‘gân cốt’ như giã giò. Thịt nhuyễn mới tạo độ quết, là khởi đầu để đạt cân đối giữa độ dai và giòn của chả lụa.


Loại hai cối mà dân trong Nam thường dùng để làm chả lụa xem ra cũng lắm chiêu phép. Một cối gọi là ‘máy chém’ để nghiền, một cối gọi là ‘máy thúc’ để làm nhuyễn. Thúc không kỹ thì mọc lột xột. Chém quá tay thì mọc chảy. Heo non thúc ít, heo già thúc nhiều. Muốn mọc giò rỗ xốp thì thúc sơ chém kỹ. Cần mặt giò trơn láng thì thúc kỹ chém sơ… Đủ mọi thủ thuật kĩ xảo. Chẳng hiểu vì sao dân trong nghề chả lụa lại gọi máy nghiền là ‘máy chém’, có điều mười ông làm chả lụa ở Sài Gòn, thì cũng vài ba ông bị ‘chém’ ngón tay. Sanh nghề tử nghiệp! 

Để thêm phần cạnh tranh, chả lụa được cho thêm bột gạo, bột nếp, bột mì, bột năng, bột bắp… có khi cả vài thứ bột trộn lại theo ‘bí quyết’ riêng. Có bột mặt giò mới đẹp và mịn. Ít bột gọi là ‘đệm’ bột, nhiều gọi là ‘độn’ bột. Chả lụa giá nào cũng có là vậy. 


Thịt đã thế, máy đã vậy, lại thêm bột, muốn làm dai giòn chả lụa phải xài tới… thuốc. Người ta xài hàn the (borax) để giải quyết sự cố này. Thực ra, hàn the tạo độ dai giòn kém, mặc dù nó có thể tạo độ ổn định nhũ tương thịt trước mắt. Người ta dùng hàn the là để ‘cứu’ thịt khi xài phải thịt ‘nguội’ (sau giết mổ hai đến ba giờ), vì lúc xay mọc thịt sẽ nhão chảy (hàn the làm tăng pH của thịt), nhưng hàn the chủ yếu được dùng cho mục đích bảo quản. Bảo quản kiểu nào thì kiểu, chả lụa treo lủng lẳng ở xe bánh mì, ở hàng bánh cuốn cả vài ngày, thì hàn the cũng bó tay. 

Hàn the bị cấm, người ta quay sang xài phosphate của xúc xích để làm giòn làm dai chả lụa. Nhưng phosphate cũng năm bảy đường phosphate, nhiều loại phosphate. Bản thân phosphate không thể ‘cứu vãn’ chả lụa ‘công nghiệp’. Nếu phosphate không được phối thêm với những chất khác, nó có thể làm mọc thịt bị khô, chả lụa ‘bể’ mặt, rạn chân chim và nhất là làm mất hương chả lụa.


Hương nhờ lá, nhưng giờ đây người ta bỏ mọc thịt vào bao nylon rồi mới gói lá chuối. Hương lụa vì vậy giảm đi nhiều. Có nơi còn gói bao nylon nhuộm xanh giả lá để ra cái điều công nghiệp hóa… truyền thống. Làm thế có khác nào thiếu nữ Việt bỏ áo bà ba mặc đồ đầm, vén váy chuệch choạc bước xuống thuyền tam bản. 

Có nơi còn hào hứng rút chân không. Chả lụa được bỏ vào bao nylon chịu nhiệt, hấp tiệt trùng cao áp, rút chân không để bảo quản được vài ba tháng. Hấp như đồ hộp kiểu đó, thì xương cốt cũng nhừ, còn gì mà dai với giòn. Chả lụa loại này gọi là… bánh thịt. 

Chả lụa bị bầm dập bởi nền văn minh và nhịp sống công nghiệp như vậy, lấy gì mà nói tới hương, tới vị, tới cái đầu dày giò lụa, tới giòn, tới dai.

Đầu năm, nhai miếng chả lụa, đôi chút… ngậm ngùi.


(Bài Chả lụa này viết cách nay khoảng 20 năm, đăng trên báo Xuân tạp chí Tia Sáng. Máy móc làm chả lụa bây giờ hiện đại hơn nhiều. Chả lụa giã tay bây giờ chỉ còn biểu diễn trong những dịp hội hè)

 

Vũ Thế Thành  (Sài Gòn 2003)

Vấn Vương - Hàn Thiên Lương


Đàn ai thê thiết giữa chiều

Hồn ta du tử ngậm ngùi xót xa.

Bước đi vướng trọn nỗi nhà

Ở đây năm tháng quan hà bơ vơ !

 

Hoàng hôn sương khói mịt mờ

Thuyền trăng thôi chở tình thơ thuở nào

Rì rào lá  cỏ xôn xao

Thương đời xa biệt nỗi sầu mênh mông!

 

Nắng chiều chênh chếch ngàn thông

Vàng phai ủ dột khiến lỏng ngẩn ngơ

Dưới cầu nước chảy lặng lờ

Chim trời lẻ bạn thẩn thờ về đâu,?

 

Núi rừng xanh biếc một màu

Dương như quê cũ nỗi sầu quanh đây

Vành khăn ai rũ trắng mây

Thoát trông thêm xót những ngày ly hương!

 

Lá rơi từng chiếc vấn vương

Cõi lòng ly xứ …niềm thương nỗi buồn !

Làm sao quên được cội nguồn

Viền trăng mé núi con đường bờ đê!

 

Dù xa vạn dặm sơn khê

Lòng gần gang tấc lũy tre ao nhà

Nhớ hoài màu áo hoa cà

Nghiêng nghiêng vành nón đường xa trở về!

 

Dù chưa một tiếng hẹn thề

Mà sao vương vấn tình quê thuở nào

Chiều tà lá cỏ lao xao

Xót  hồn du tử gửi sầu về xa !

 

Hàn Thiên Lương

Nhà Sư - Tên Trộm Và Lòng Bao Dung


A) Thuở xưa, có một vị hòa thượng thiền sư Ryokan tu hành ở một ngôi chùa nằm trên ngọn núi. Một đêm, TS đi tản bộ trong rừng. Dưới ánh trăng, TS đột nhiên ngộ ra một điều gì đó nên trong lòng rất vui sướng. TS liền hân hoan trở về chùa. Nhưng vừa về đến chùa thì TS phát hiện một người ăn trộm đến chùa trộm đồ.

Người ăn trộm sau một hồi tìm kiếm, đã không tìm được vật gì để lấy cả. Anh ta vừa quay trở ra thì gặp vị thiền sư. Vốn dĩ, vị hòa thượng thiền sư đã đứng im lặng chờ ở ngoài cửa được một lúc mà không vào vì TS sợ làm kinh động đến người ăn trộm kia. TS đã sớm biết rằng người ăn trộm kia sẽ không thể tìm được thứ gì để mà lấy đi, cho nên TS đã cởi sẵn chiếc áo khoác và cầm trên tay.

Người ăn trộm vừa ra cửa thì kinh ngạc nhìn thấy vị thiền sư. TS nói: “Người đã phải đi từ xa đến đây thăm ta, dù sao thì cũng không thể để người tay không mà ra về. Đêm đang lạnh, người hãy mặc chiếc áo này vào mà đi !”. Nói xong, vị thiền sư liền khoác chiếc áo của mình cho người ăn trộm. Người ăn trộm bất giác không biết làm sao liền cúi đầu đi vội.

TS nhìn thấy bóng dáng của người ăn trộm đi dưới ánh trăng rồi biến mất vào trong rừng, không khỏi cảm khái mà thốt lên rằng: “Thật đáng thương! Chỉ mong ta có thể tặng cho ông ấy một vầng trăng sáng !”. Vị TS nhìn người ăn trộm đi khuất liền vào trong phòng, để trần như vậy mà tọa thiền.

Ngày hôm sau, vị thiền sư thấy chiếc áo khoác của mình được để ở ngoài cửa một cách ngay ngắn, chỉnh tề, trong lòng không khỏi bùi ngùi xúc động. Ông mừng rỡ tự nói: “Cuối cùng thì ta cũng đã tặng được cho ông ấy một vầng trăng sáng”.

Trong kinh Phật từng nói: “Chỉ một ý niệm cũng khiến hoàn cảnh thay đổi”. Khổng Tử cũng nói: “Khoan dung thì được lòng mọi người”. Cho nên, chỉ một câu nói, một hành động nhỏ hay chỉ một nụ cười thôi đã đủ để khiến cho người xấu quay đầu hướng thiện.


B)Với những người bình thường, gặp một tên trộm là việc chẳng vui vẻ gì. Thế nhưng, đối với các bậc Thánh nhân, gặp một tên trộm lại là một điều thú vị. Câu chuyện cảm hóa những tên trộm dưới đây của các trí giả mang đến cho chúng ta thật nhiều cảm xúc.

Khi Bồ Tát Long Thọ tu hành, cuộc sống của ông vô cùng giản dị, gia sản duy nhất chỉ là một cái bát. Nhưng ông lại là thiên tài với trí tuệ vô song, ngay đến cả đức vua cao quý, hoàng hậu hay những người có địa vị, quyền lực đều là học trò của ông.

Có một vị hoàng hậu rất sùng kính Thiền sư Long Thọ, đã đặc biệt làm ra một cái bát quý giá cho ông. Khi hòa thượng Long Thọ cầm cái bát bằng sứ đến hoàng cung, hoàng hậu nói với ông rằng: “Ta muốn ngài đáp ứng cho ta một việc”. 

Thiền sư Long Thọ nói: “Trên người tôi chẳng có thứ gì ngoài cái bát này, hoàng hậu muốn tôi làm chuyện gì nào?”. 

Hoàng hậu nói: “Ta chính là muốn cái bát đó”. 

Ông nói: “Vâng, vậy mời người nhận lấy nó”.

Hoàng hậu lại nói: “Vẫn chưa hết, ta muốn đổi cho ngài cái bát của ta, hãy nhận lấy cái bát này”. Hòa thượng đáp: “Không vấn đề gì, bát nào cũng được”. 

Ông hoàn toàn không biết rằng hoàng hậu đã ngầm đưa cho mình một cái bát bằng vàng quý giá. Trên đường trở về, ông dừng chân tại một ngôi miếu đổ nát. Trước đó, có một tên trộm đã phát hiện chiếc bát quý giá quý giá trên tay Thiền sư Long Thọ, liền bám theo ông đi vào trong miếu.


Ngôi miếu chỉ còn lại 4 vách tường, không có mái che, mọi thứ hoang tàn đổ nát. Trên bức tường có một cánh cửa sổ, và tên trộm trốn ở bên ngoài thám thính. Anh ta biết rằng các nhà sư Phật giáo mỗi ngày chỉ ăn một bữa, liền tính toán: “Đợi đến khi ông ta ăn no ngủ say, mình có thể ra tay, đó là thời điểm thích hợp nhất. Hơn nữa, ngôi miếu này đã hoang phế nhiều năm, một bóng người cũng không có, quả là thuận lợi”.


Sau khi Thiền sư Long Thọ ăn xong liền ném cái bát ra ngoài cửa sổ ngay chỗ tên trộm đang ẩn nấp. Tên trộm không thể tin vào mắt mình: “Sao lại có loại người như thế này? Ăn xong rồi lại vứt cái bát quý giá này đi, hay là cái bát này không có giá trị gì?”.

Thế là tên trộm đứng dậy hỏi: “Tôi có thể vào hỏi ông mấy điều được không?”.

Thiền sư Long Thọ nói: “Chàng trai, để dẫn cậu vào đây, ta đã phải ném cái bát ra đó! Cậu vào đi, cái bát đó ta cho cậu, nên cậu không phải là tên trộm, nó là món quà của ta. Ta là một người nghèo không có gì ngoài cái bát này, ta cũng biết rằng mình không thể giữ nó được lâu, bởi vì khi ngủ cũng sẽ có người lấy mất. Cậu đã không ngại phiền phức mà đi theo ta từ thủ phủ về đây, ta sớm đã biết điều đó rồi. Thời tiết mùa hè rất nóng, xin đừng từ chối món quà của ta!”. 

Tên trộm nói: “Ông thật kỳ lạ, ông không biết cái bát này rất quý giá sao?” 

Thiền sư Long Thọ nói: “Sau khi ta lĩnh ngộ được chân lý cuộc đời thì những điều khác đều không còn giá trị nữa rồi!”. 

Tên trộm nhìn Long Thọ và nói: “Vậy xin ông hãy nói cho tôi biết, ông đã lĩnh ngộ được chân lý gì mà còn giá trị hơn chiếc bát vàng này vậy?”.

Thiền sư Long Thọ đáp: “Một điều rất đơn giản!” 

Tên trộm nói: “Trước khi ông nói ra hãy để tôi giới thiệu, tôi là một tên trộm nổi tiếng”. 

Thiền sư nói: “Ai mà không như thế chứ, đừng quan tâm đến những thứ vụn vặt đó! Bởi vì con người sinh ra đều tay trắng, về sau lại có được rất nhiều thứ từ những người khác, nên tất cả mọi người đều là tên trộm, cho nên đừng lo lắng. Dù cậu làm gì cũng không thành vấn đề, chỉ cần làm tốt là được, và cần nhớ kỹ: Khi cậu ăn cắp đồ của người khác, cậu hãy nghĩ đến cảm giac của họ. Nếu cậu không thể cân nhắc đến cảm xúc của người khác, vậy đừng ăn cắp nó. Chỉ có nguyên tắc đơn giản vậy thôi!”. Tên trộm nói: “Điều này quá dễ dàng. Nhưng sau này liệu tôi có thể gặp lại ông không?”

Thiền sư Long Thọ nói: “Ta sẽ ở lại đây hơn 10 ngày. Thời gian này cậu đều có thể đến, nhưng trước tiên cậu hãy làm theo những gì mà ta đã nói”. Tên trộm đã thử điều này trong mười ngày, và anh ta thấy rằng đó là việc làm khó nhất trên đời. Có những lúc muốn trộm đồ, nhưng khi nghĩ tới cảm giác của người khác, thì ham muốn ăn trộm đồ của anh ta lại tan biến đi. Ngay cả khi anh ta vào ăn cắp trong cung điện, lúc mở ra những ngăn tủ đầy vàng bạc châu báu khiến anh ta không suy nghĩ gì hết, nhưng anh ta lại nhớ tới lời hứa, nên đành không trộm đồ nữa. Cuối cùng, anh ta không trộm một thứ gì, liền đến gặp Thiền sư Long Thọ và nói: “Cuộc sống của tôi đã bị ông đảo lộn hết rồi. Bây giờ tôi không thể ăn cắp bất cứ thứ gì hết”.

Long Thọ đáp: “Vấn đề là ở cậu chứ không phải ở ta. Nếu cậu muốn quay trở lại nghề cũ, thì hãy quên đi cảm giác của mình”.

Tên trộm lại nói: “Nhưng những khoảnh khắc đó rất quý giá. Cả đời tôi chưa bao giờ được tự do như hôm nay, yên ổn, an tĩnh, vui vẻ, kể cả những vật báu trong vương quốc cũng không thể so sánh được. Bây giờ thì tôi đã hiểu ra ý nghĩa trong câu nói ‘sau khi hiểu được chân lý thì những điều khác đều không có giá trị’ của ông rồi. Tôi đã nếm được hương vị của nước cam lộ, và tôi nghĩ ông mỗi thời mỗi khắc đều đang đắm mình trong đó rồi. Ông có thể nhận tôi làm đệ tử và cho tôi đi theo được không?”

Thiền sư Long Thọ nói: “Quả thực mỗi thời mỗi khắc ta đều tham ngộ chân lý. Lúc đầu khi cậu đi theo, ta đã muốn cảm hóa để cậu trở thành đệ tử của ta rồi. Lúc đó, cậu muốn trộm cái bát vàng của ta, nhưng ta lại muốn giữ tâm cậu ở lại. Việc làm của chúng ta ngẫu nhiên nhưng lại trùng hợp thần kỳ”.


Sưu tầm