Wednesday, September 11, 2024

Bắt Đầu Từ Đó... Trần Trung Đạo


Bắt đầu từ đó. 

Từ những cửa biển Đà Nẵng, Sài Gòn, Vũng Tàu, Cam Ranh, Nha Trang sau những ngày tháng Tư, mùa bão lửa, năm 1975. Mẹ lạc cha. Vợ xa chồng. Anh mất em. Những đứa bé bị bỏ quên đứng khóc trên đường phố. Những chuyến hải hành vô định trên biển Đông trùng trùng gió bão. Đói khát. Lo âu. Bà mẹ quỳ lạy những tên hải tặc để xin tha cho đứa con gái chỉ mười lăm tuổi ốm o bịnh hoạn của bà. Nước mắt và những lời van xin của mẹ không lay động tâm hồn của những con người không còn một chút lương tri. Tiếng niệm Phật. Lời cầu kinh. Không ai nghe. Không có Chúa và không có Phật. Ở đó, trên bãi san hô của đảo Koh Kra, phía Nam vịnh Thái Lan, chỉ có những thân thể trần truồng, máu me nhầy nhụa, chỉ có tiếng rên của những con chim nhỏ Việt Nam bất hạnh và giọng cười man rợ của bầy ác điểu Thái Lan.


Bắt đầu từ đó. 

Từ trại tỵ nạn Camp Pendleton, Palawan, Laem Sing, Pulau Bidong, Sungai Besi, Bataan, Whitehead, Phanat Nikhom, Galang. Những địa danh xa lạ đã trở nên thân thiết. Ngửa tay cầm chén gạo tình người. Thank you, merci, danke, gracias. Tuổi hai mươi, ba mươi, và ngay cả năm mươi, bảy mươi mới bắt đầu tập nói. Những câu tiếng Anh bập bẹ, những dòng chữ Pháp, Đức, Tây Ban Nha ngập ngừng.


Bắt đầu từ đó.  

Từ những buổi chiều âm thầm nhìn qua bên kia biển, anh tự hỏi, phải chăng chấm đen cuối chân trời đó là quê hương. Cành hoa hồng được thả trôi trên biển để nhớ nhau trong ngày cưới. Con búp-bê được nhẹ nhàng đặt trên mặt nước xanh trong ngày sinh nhật của con. Vợ đã chết và con đã chết trong một lần vượt biển sau anh.


Bắt đầu từ đó. 

Từ đêm Giao Thừa đầu tiên. Không bánh chưng xanh. Không rượu nồng pháo nổ. Không một lời chúc tụng của bà con. Chỉ có tiếng hú của cơn bão tuyết dội vào khung cửa kính. Hai ngọn nến nhỏ, một bó hương thơm và những giọt nước mắt nhỏ xuống trong đêm Giao Thừa cô độc. Em bé mười ba tuổi lần đầu tiên tập cúng mẹ mình. Cúng về đâu và lạy về đâu. Trong lòng Biển Đông sâu thẳm, mẹ có còn nghe được tiếng khóc của đứa con đang lạc loài trên đất lạ.


Bắt đầu từ đó.  

Từ hành lang phi trường Tân Sơn Nhất, người lính già HO gạt nước mắt chào tạm biệt thân nhân, tạm biệt quê hương, nơi một lần máu mình đã đổ. Ra đi, mang theo những tên tuổi, những địa danh đã hằn sâu trong ký ức. Ra đi, để lại sau lưng tuổi thanh niên trong ngục tù xiềng xích. Ra đi, để lại bao đồng đội, chiến hữu, anh em đang tiếp tục đếm những ngày dài bất hạnh trên quê hương.


Bắt đầu từ đó 

Tiếng guốc không còn khua trên đường phố. Hàng cây sao đã héo. Hàng me xanh đã tàn. Hàng phượng vĩ không còn đỏ thắm. Những trụ đèn khuya trước cổng trường không còn ai đứng đợi. Những ô cửa của lớp học và của đời người đã đóng. Và cả một quê hương thân yêu cũng chừng như đã chết.


Ra đi. 

Ra đi.

Và từ đó chúng ta đi. Cảnh đời tuy có khác nhau. Tuổi tác tuy có khác nhau. Thời điểm tuy có khác nhau. Nhưng chúng ta, những người Việt Nam may mắn còn sống sót, cùng mang một nỗi đau chung: nỗi đau Việt Nam. 

Nỗi đau lớn dần theo mỗi ngày biệt xứ. Nước mắt của những bà mẹ Việt Nam khắp ba miền góp lại chắc đã nhiều hơn nước sông Hồng. Xương trắng của cha anh nếu chất lại chắc đã dài và cao hơn cả dãy Trường Sơn.

Hôm nay, cơn bão lửa dù chưa qua hết nhưng với ý chí vươn lên, những người Việt Nam may mắn còn sống sót, thay vì ngồi thở ngắn than dài cho số phận, đã dìu nhau đứng dậy, dìu nhau đi lên, sống một cuộc sống tích cực, làm những công việc tích cực cho bản thân, cho gia đình, cho đất nước. Nhờ thế, sau đêm tối trời của vận nước và đời mình, đa số chúng ta đã tìm được một cành mai hy vọng ở xứ người. Để từ đó làm điểm khởi hành lên đường đi dựng lại Mùa Xuân Dân Tộc. 

Hôm nay, đau buồn vẫn chưa nguôi nhưng sức sống không phải vì thế mà ngừng lại. Những thuyền nhân tí hon trên những chiếc ghe bằng gỗ mong manh ngày xưa bây giờ đã lớn. Các em đã thành những kỹ sư, bác sĩ tài ba, những khoa học gia lỗi lạc trong nhiều ngành. Ai đã dạy em nên người? Cha mẹ. Vâng. Thầy cô. Vâng. Nhưng còn hơn thế nữa, còn từ trong dòng máu Việt Nam.

Hôm nay, những con nước nhỏ dưới chân cầu đã trôi ra biển rộng. Nhưng không phải vì thế mà tan loãng trong đại dương bát ngát như hàng triệu con nước khác. Trái lại, những giọt nước từ sông Hồng, sông Hương, sông Ba, Thu Bồn, Trà Khúc, Cửu Long, Vàm Cỏ, vẫn hẹn một ngày bốc thành hơi, bay về tưới mát ruộng đồng xứ Việt thân yêu đã nhiều năm đại hạn.


Tất cả, một ngày không xa sẽ rơi vào quên lãng, sẽ tan biến đi theo chu kỳ sinh, trụ, dị, diệt của nhân sinh. Không quan trọng. Điều quan trọng, trong giờ phút còn có mặt, còn được góp phần, xin làm một que củi nhỏ để ngọn lửa hy vọng, tình người, tình đất nước, trong lòng mỗi chúng ta, đừng tắt. 

Cám ơn.

 

Trần Trung Đạo

Cua-Rơ (Coureur) Đạp Xe Điện


Lượm trên mạng

Con Gái Rượu - Vũ Thế Thành


Tôi gặp cha con họ trong một quán phở gần nhà thờ Ba Chuông, hồi năm 80 hay 81 gì đó.

Tối đó trời mưa. Đi chơi về khuya, tôi tấp vào quán phở. Quán vắng khách, chỉ có hai người: ông già và cô gái. Họ đang uống rượu, thủ thỉ nói chuyện.

Tô phở đã kết thúc mà mưa chưa dứt. Sài Gòn mưa tháng Bảy nhì nhằng bất kể lúc nào, tối khuya hay nửa đêm về sáng cũng không chừa…

- “Chú em qua đây làm một ly cho ấm bụng”, ông già nâng ly nói với qua.

Đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh. Mưa rả rích thế này, đang thèm rượu, mà uống một mình, cay ai chịu nổi! Không khách sáo, tôi bước qua bàn ông, cạn ly.

Ông già chỉ qua cô gái với chút hãnh diện: “Đây là con gái tôi. Nó làm ở tổ hợp đan lát. Hôm nay nó lãnh lương, rủ bố đi nhậu”. Cô gái trạc hai mươi, tóc ngắn, có da thịt, trông có vẻ quyết đoán.

Ông tự giới thiệu là họa sĩ. Trước năm 75, có triển lãm tranh ở nhiều nơi, kiếm tiền rủng rỉnh, tay chơi một thời. Bây giờ chẳng ai mua tranh, bèn đi vẽ thuê pa-nô, áp-phích qua ngày.

Tôi dốt hội họa bẩm sinh, dốt từ thời đi học, và bây giờ vẫn dốt, nên không hào hứng lắm với chuyện tranh ảnh, nhưng nghe ông kể cuộc đời lãng tử của ông, chuyện văn nghệ sĩ Sài Gòn…, cũng thấy vui vui.

Chuyện vãn, tôi đoán ông khoảng ngoài năm mươi, tóc dài chấm vai, thưa, nhiều sợi bạc, mắt hõm sâu, tinh anh, mặt gầy, xương xẩu, áo sơ mi đuôi tôm rộng thùng thình. Trông ông có vẻ già hơn tuổi nhiều.

Tô mồi gân bò còn hơi đầy, nhưng xị rượu gần cạn. Có vẻ như cha con họ uống nhiều, nói nhiều và nghe nhiều hơn là ăn. Tôi gọi thêm xị rượu, “Xin phép chú, từ chai này cháu tính, mời chú và cô em”. Ông xua tay, hơi to giọng: “Chú em gọi rượu được, tính tiền được, nhưng không được gọi tôi bằng chú, phải gọi là anh, mình là dân nghệ sĩ”.

Ông già chơi thế mới… nghiệt. Tôi hơn cô gái chừng năm, sáu tuổi chứ nhiêu. Thiệt lỡ cỡ… Tôi rót rượu mời ông, mời cô gái. Cô chỉ nhấp môi, lí nhí: “Cám ơn… chú”. Lỡ cỡ là ở chỗ đó! Ông già cười ha hả: “Con này nó chỉ phá mồi”.

Rượu ngấm qua bờ môi… Bỗng nhiên ông đứng dậy, lảo đảo, một tay vịn mép bàn, và hát:

“Ngày mai lênh đênh trên sông Hương

Theo gió mơ hồ hồn về đâu?

Sóng sầu dâng theo bao năm tháng

Ngóng về đường lối cũ tìm em…”.

Tiếng hát không cần nhịp, lúc ngắn lúc dài, khi hát khi nói, lúc nhỏ lúc to… Ông khom người xuống, tay phải áp vào tim, tay trái giang ra diễn đạt. Đã còng lưng sẵn, khi hát trông ông lại càng còng đến thảm hại.

Ông hát không cần người nghe, hát cho chính ông, hát để trang trải nỗi lòng. Rồi ông thẳng người lên:

“Thương em thì thương rất nhiều

mà duyên kiếp lỡ làng rồi

Xa em, lòng anh muốn nói…”.

Giọng ông khàn, gào lên như tiếng con gà bị cắt tiết. Tôi nhìn sang cô gái, mắt cô chăm chăm nhìn cha. Tôi buột miệng: “Mẹ đâu?”. Mắt cô vẫn không rời cha, môi mím chặt: “Bỏ đi rồi!”. Tôi thấy khóe mắt cô có giọt nước.

Những năm tháng đó, lòng người đổ vỡ nhiều, kẻ đi người ở, tâm trạng lao đao, nhân tình thế thái. Giọng hát của ông họa sĩ dở nhất trên đời, nhưng nghe ông hát, nhìn ông diễn mới cảm ra được số phận thế nào. Tiếng hát không đi vào lòng người thì đi về đâu? Ánh mắt của cô con gái nhìn cha đã ám ảnh tôi cả một đoạn đường dài.

*

Cách đây không lâu, tôi có đọc một truyện ngắn của một cô gái kể về cha mình. Cha cô là một người đàn ông có trách nhiệm, nghiêm khắc, thương con. Từ ngày qua Mỹ, ông làm quần quật để lo cho các con ăn học. Mục tiêu của ông là thế, rồi dựng vợ gả chồng. Mẹ cô tiếng Anh kém, chỉ ở nhà nội trợ.

Đến tuổi, mẹ cô lãnh tiền già, ba cô lãnh lương hưu. Mẹ cô bỗng đổi tính đổi nết, ăn nói ngang ngược, suy diễn lung tung. Ba cô trở nên ít nói, suốt ngày ở trong phòng, niềm vui duy nhất là đứa cháu ngoại. Rồi một hôm ba cô bỏ đi, để lại mảnh giấy nhắn, đừng lo cho ông và cũng đừng tìm ông. Cô lo lắng, dọ hỏi khắp nơi. Không ai biết tin về ông.

Một hôm cô nhận được thiệp mừng sinh nhật của ông gửi cho con gái cô. Ông nhớ cháu ngoại. Thư không ghi địa chỉ người gửi. Cô xin nghỉ phép, lần theo dấu bưu điện tìm cha. Hai cha con gặp nhau ở quán cà phê. Cô mời ông về nhà để cô chăm sóc, nhưng ông từ chối. Ông cho biết ông đang trông cửa hàng cho một người bạn học. Bà ta đã góa chồng, hiện ở với đứa con gái trạc tuổi cô. Cả hai đều quý ông, và ông cảm thấy thoải mái khi ở đó. Trông cha cô khỏe ra, vui hơn, cô thấy yên tâm.

Vài năm sau, ông về thăm nhà. Ngày hôm sau bị đột quỵ, rồi mất ở bệnh viện vài ngày sau đó. Mẹ cô cũng than khóc như bất cứ bà vợ mất chồng nào khác.

Ở nghĩa trang, cô thấy xa xa hai người phụ nữ mặc đồ đen, một già, một trung niên, lặng lẽ đứng dưới gốc cây. Một trong hai người dùng khăn chậm nước mắt.

Linh cảm cho cô biết họ là ai. Cô tiến về phía họ, định nói lời cám ơn đã chăm sóc cha cô những năm tháng cuối đời, nhưng cả hai đã quay lưng, bước ra khỏi nghĩa trang. Cô cảm thấy có điều gì đó ân hận và nuối tiếc…

Chuyện chấm dứt ở đây.

Cô thương cha, cô muốn phụng dưỡng, chăm lo ăn uống, sức khỏe cho ông. Cô cũng hiểu cha cô buồn bực, khổ tâm vì những lời nói ngang ngược của mẹ. Là con, cô cảm thấy mình khó xử. Cô muốn cha vui. Nhưng liệu cô có hiểu, người già như cha cô, khi xong nghĩa vụ với con cái, thường có xu hướng quay về với quá khứ, với những ước mơ thời trẻ, không phải để thực hiện hay nuối tiếc, mà để sống với giấc mơ, đắm chìm với nó như một níu kéo mà phần lớn cuộc đời, vì cơm áo gạo tiền, vì trách nhiệm với gia đình họ đã không dám phiêu lưu.

Người già thấm thía số phận hơn người trẻ. Lý trí và cảm xúc, cố chấp và khoan dung, tự tôn và nhẫn nhục… Yếu tố mâu thuẫn trong những cặp này đan xen vào nhau, vế sau thường trội hơn vế trước. Người già thường nghiêng về vế sau: cảm xúc, khoan dung và nhẫn nhục.

Như con hổ già trong gánh xiếc bỗng nhiên nhớ rừng, người già thường cô đơn, dễ tủi. Họ cần sự cảm thông và chia sẻ, nhưng bất cần trước sự mỏng manh của chính mình, hờ hững với tiện nghi vật chất. Thế giới tâm linh trở nên gần gũi hơn.

Với người già, thức ăn trở nên nhạt nhẽo, sức khỏe là điều miễn cưỡng. Con cái quan tâm đến cha mẹ già như một đối tượng khách quan; chữ hiếu được làm tròn bằng sự chăm sóc duy ý chí với những kiến thức khoa học hiện đại. Nước mắt chảy xuôi là quy luật, nhưng chảy ngược như thế liệu có phải là những thứ người già cần?

Khi cha mất, cô mới nhận ra nhu cầu tinh thần của ông. Người đàn bà lặng lẽ ở nghĩa trang đã làm cô hiểu ra điều đó.

Cô hiểu, nhưng chưa thấu được những giọt nước mắt “không chính danh” mà người phụ nữ kia đã phải nuốt ngược vào tim. Tử Kỳ mất rồi, cây đàn Bá Nha còn để làm gì? Cô chưa với tay được tới tri âm. Chưa với tay được, có lẽ vì cô chưa bao giờ ngồi… nhậu với cha cô. (chữ “nhậu” ở đây mà hiểu theo nghĩa cụng ly chan chát, thì buồn chết).

Không khí bàn nhậu thường làm tâm hồn người ta chùng lại, đôi khi nói với khoảng không, nói mà như không nói. Trong những khoảng khắc đó, cô có thể bắt gặp được cha cô. Người già biết quãng đời còn lại của họ như gió thoảng, sống chỉ là sống nốt cho hết tuổi đời.

*

Tôi không có duyên để gặp cha con ông họa sĩ lần thứ hai. Chẳng biết bây giờ họ ra sao? Nếu gặp lại, có thể tôi vẫn nhận ra ông. Ông không thể già hơn được nữa. Còn cô gái, bây giờ cũng xấp xỉ năm mươi với nếp nhăn trên khóe mắt, và còn biết bao biến đổi khác… Chỉ một lần gặp, rồi ba mươi năm trôi qua, làm sao có thể nhớ được khuôn mặt.

Nhưng nếu gặp nhau ở quán rượu, chỉ cần bắt gặp ánh mắt của cô nhìn cha, có thể tôi sẽ nhận ra. Đó là ánh mắt xót xa thương cảm vô bờ, rõ ràng là ánh mắt của người mẹ, không phải của đứa con nhìn cha. Chắc chắn tôi sẽ nhận ra.


Vũ Thế Thành

Chúc Mừng An Lạc - Minh Lương

Bà Nội Tướng Của Tôi - Người Phương Nam

Từ ngàn xưa,  theo quan niệm Á đông trọng nam khinh nữ,  thân phận người phụ nữ  rất nhỏ nhoi tội nghiệp, luôn hứng chịu những bất công thiệt thòi và lắm khi còn bị xem thường như cỏ rác. Đối với xã hội, người phụ nữ  không có một giá trị quyền lợi gì còn trong gia đình thì chỉ là một osin, một Cinderella lọ lem đầu bù tóc rối suốt ngày phải cúc cung phục vụ chồng con và cả gia đình nhà chồng mà chẳng bao giờ nhận được  một tiếng cám ơn hay một lời khen thưởng khích lệ từ những người thân chung quanh. Nhưng thời bây giờ thì đã đảo ngược hòan tòan, totally up side down, nhứt là ở những xứ theo văn minh Âu Mỹ thì lady là first, là một đóa hồng rực rỡ sắc hương  phải được nâng niu chiêm ngưởng cho dù có gai góc đến đâu. Vì thế cho nên giờ đây, từ báo chí sách vở cho đến internet, bất cứ chuyện gì có dính dáng đến phụ nữ đều được đề cao, tôn vinh, ca ngợi, đặc biệt là khi đề cập đến người vợ,  thậm chí nếu có ai hỏi thương vợ để ở đâu thì trả lời là thương vợ để trên đầu. Nhứt vợ nhì trời, thứ ba là bồ nhí.  


Khi muốn nói về vợ  mình với ai, mỗi người có một danh từ riêng để ám chỉ bà vợ như là: nhà tôi (theo người bắc), vợ tôi, bà nhà tôi, bà xã tôi, bà boss  tôi vv… Riêng tôi thì nghĩ chỉ có danh từ “bà nội tướng” là thích hợp nhứt.  Không biết có ai đồng ý với tôi không chớ tôi thấy một người vợ đảm đang quán xuyến gia đình, tận tụy chăm sóc chồng con từ miếng ăn giấc ngủ, cho đến manh quần tấm áo, thuốc men lúc ốm đau bệnh tật thì cũng chẳng khác gì một vị tướng trong thành,  lo an ninh no ấm cho thần dân, có khác chăng là vị tướng này không cần nhung y cẩm bào, không cần lương bổng hay mề đay huân chương mà chỉ một lòng hy sinh miễn sao con dân của mình ăn no ngủ kỹ thì đã  thấy sung sướng mãn nguyện.  

Ai thì không biết sao chớ bà nôi tướng của tôi thì rất mảnh mai ốm yếu, “nhỏ xíu nhỏ xíu anh thương”. Vậy mà nàng làm tối ngày không hở tay, buông cái này bắt cái kia như chuyền bóng rổ nhiều khi thấy chóng mặt giùm nàng. Tánh tôi thì hay dị ứng với đồ ăn nấu sẵn bên ngòai cho nên một năm mười hai tháng là nàng phải nấu ăn đủ ba trăm sáu mươi lăm ngày. Nếu chỉ nấu cho hai vợ chông ăn thôi thì cũng không đáng nói gì, có thể nấu một lần ăn hai ba ngày. Đàng này nàng còn nấu giùm cho con cháu, cha mẹ già và cả em út nữa. Bởi vì ai trong gia đình đã từng ăn qua những món nàng nấu rồi thì cứ tấm tắc khen hòai và muốn ăn mãi. Do đó nàng không nỡ bớt phần ai cho được, cộng thêm cái tánh thảo ăn, nấu cái gì cũng chia tam chia tứ, nhà này vài hộp nhà kia vài hộp như nấu cơm tuần. Ngay cả thằng em dù đã có vợ ở riêng nhưng cũng không chịu ăn cơm nhà với vợ mà chiều nào cũng kéo vợ chạy qua nhà bà chị ăn ké, còn take away đi làm cho bữa sau nữa. Có lần nàng làm cơm chiên “dã chiến” để ăn với soup, chỉ có dầu tỏi, trứng và hành lá. Ấy thế mà khi thằng em đem vào hảng heat up ăn trưa, nghe  thơm phứt, mấy người đồng nghiệp xúm lại hỏi bữa nay ăn món gì hình như là cơm chiên mà sao không giống cơm chiên ngòai shop vậy. Cậu ta phịa ra đây là món cơm chiên “Dương quý phi” (chị em nàng họ Dương) đặc biệt ăn chung với soup măng tây làm cả đám tròm trèm đòi ăn thử. Thằng em “cá sấu” rất khôn khéo dụ khị bà chị. Cậu ta nói rằng cậu ta đi ăn giáp vòng ở ngòai rồi mà không có chỗ nào nấu hợp khẩu, vệ sinh và lành mạnh như nàng. Nàng cũng biết nó tán tụng dỗ ngọt mình nhưng vì nó là em, bỏ không đành nên mới rán chịu cực nấu cho nó ăn luôn.

Ngòai chuyện bếp núc việc nhà, nàng còn babysit hai thằng cháu từ lúc mới sinh. Khi hai thằng cháu tới giai đọan toddler bắt đầu quậy phá thì tôi cũng tới tuổi hưu trí cho nên tôi có thể ở nhà làm tùy viên cho bà tướng, giúp nàng bất cứ chuyện gì khi nàng cần đến. 

Nhưng nàng có cái tật độc lập tự… lo, bất cần ai, lại chê tôi chỉ biết có cầm cây viết thôi chớ đụng tới đâu là hư tới đó không vừa ý nàng khiến tôi nhiều lúc nổi dóa muốn bỏ mặc để  nàng tự xoay sở làm sao đó thì làm mà trong bụng thầm phục sao nàng hay quá, tay thì làm, miệng thì la chừng hết thằng này tới thằng nọ, đứng trong bếp chớ nàng vẫn để ý nghe ngóng coi bọn nhỏ đang làm gì, đòi cái gì là nàng chạy lại đáp ứng ngay. Cứ như vậy  rồi tới chiều khi ba má bọn nhỏ đi làm về thì nàng đã chuẩn bị xong cơm nước với ba món ăn ngon, còn nhà cửa thì sạch sẽ trắng bóng ngăn nắp gọn gàng. Lúc xưa đi làm, tôi nào đâu biết công việc nội trợ nhiều ngập đầu đến như vậy. Vô sở, boss giao việc gì thì chỉ làm việc đó thôi chớ có đâu mà đánh đông dẹp bắc, trăm dâu đổ đầu tằm như những bà nội trợ ở nhà. Tôi cứ tưởng đâu ngồi nhà là “hưởng phước”. Bây giờ gác bút về hưu mới biết việc nhà chẳng “ngon ăn” chút nào và nhứt là không có giờ giấc nghỉ ngơi hay giải lao gì cả.

Nghề nào cũng có ngày hưu
Chỉ nghề nội trợ không hưu làm hòai
Cũng không cả ho-li-day
Quanh năm suốt tháng ngày ngày như nhau
Nấu ăn giặt ủi chùi lau
Một ngày ngưng nghỉ biết bao là phiền
Ai người đứng bếp thay phiên
Ai lo cháu nhỏ ai kiêm việc nhà?!

Và cũng vì ngày tối cứ quanh quẩn trong nhà riết thành quen cho nên bà nội tướng của    tôi không thiết se sua đua đòi như đa số chị em phụ nữ khác. Cả đời nàng không hề bước chân vào mỹ viện, cũng không theo thời trang ăn mặc và cũng rất dửng dưng với đồ trang sức. Đó là một đặc tính rất hiếm hoi ở phụ nữ mà nàng đã  làm tôi mừng hết  già. Vòng vàng, chuỗi ngọc bông tai gì nàng cũng không tỏ ra ước muốn hay nhắc tới mỗi khi sinh nhựt nàng hay Valentine’s day. Hồi đám cưới,  tôi có tặng nàng một chiếc nhẩn hột xòan nho nhỏ nhưng khi vượt biên ở đảo chúng tôi đã bán đi để tiêu xài chờ định cư. Cho tới bây giờ đã ba chục năm sau, nàng cũng không đòi tôi sắm lại cho nàng chiếc nhẩn khác dù là để làm của hay để đeo cho có với mọi người. Nàng quan niệm sự đời là vô thường theo triết lý nhà Phật, có là không, không là có, có cũng vậy, không có cũng vậy, cũng vẫn là mình với thân xác và bản chất trời sinh. Đối với nàng, vật chất xa hoa phù phiếm  không quan trọng bằng đời sống tinh thần và tâm linh hướng thượng. Nàng cũng như tôi không có ai là bạn thân thiết để tâm tình mà  chỉ biết dâng mình phó thác ở đấng thiêng liêng. 

Tâm tính nàng do đó rất hiền hậu dễ thương, không bon chen, không ganh tị. Ai hơn thì nàng mừng cho, ai thua thì nàng tội nghiệp giùm. Đối với ai, nàng cũng nhiệt tình tốt bụng, thà mình chịu thiệt thòi một chút chớ không để người ta phiền lòng dù vẫn biết rằng ở rộng sẽ bị  người cười. Có một lần đi chợ trời, trông thấy một bức tượng thiếu nữ sống động gợi cảm được bày bán, nàng hỏi giá người chủ bán bao nhiêu. Ông này là một người Hoa, tướng người cần cù khắc khổ, tuổi khỏang sáu mươi, không rành tiếng Anh mấy trả lời là 65 đồng. Bà vợ không hiểu tưởng ông chồng ra giá rẻ hơn nên trừng mắt la ông chồng là “líu xử ù” (tiếng quan thọai là 65). Nàng mới phân trần với bà ta rằng ông xã bà nói giá như bà vậy, nhưng nàng muốn trả xuống 55 đồng, hỏi bà ta chịu  không. Rốt cuộc thì bà ta đồng ý bán với giá 60 và bảo ông chồng mang bức tượng ra xe cho chúng tôi.


Khi ra tới chỗ đậu, thấy ông này hì hục bê cái tượng đặt vào cốp xe rồi cẩn thận lót giẻ chêm carton  cho khỏi bể, nàng bỗng  chạnh lòng bèn mở bóp rút tờ 10 đồng đưa thêm cho ông ta và dặn ông ta nhớ nói lại với vợ. Lên xe, nàng hỏi tôi:
            - Biết tại sao em cho ông ta thêm 10 đồng không?
Tôi đang lái xe nên ơ hờ hỏi trỏng :
            - Sao?
Nàng cười cười đáp:
            - Tại vì nghĩ tới công sức của người ta,  muốn bán một cái tượng không phải dễ, từ nhà phải chở ra chợ, khiêng lên khiêng xuống nặng nề mấy bận rồi ngồi phơi nắng cả ngày chờ người tới mua. Mình mua đựơc món hàng ưng ý là mình đã mua được niềm vui, nhứt là đã trả được giá rẻ. Vậy thì mình cũng nên cho lại người ta một chút gì  coi như đền ơn, như thế thì cái vui của mình sẽ hơn gấp bội. Và biết đâu nhờ vậy mà bà vợ ông ta hôm nay sẽ vui vẻ bớt cằn nhằn chồng một ngày.
Bà nội tướng của tôi là vậy đó. Kèo nài bớt một thêm hai cho tới được, cho hả dạ mát lòng rồi cuối cùng lại biếu thêm.  Ai nói nàng dại nàng ngu thì chịu chớ không làm vậy thì nàng không thấy vui. Sẵn dịp nàng đang vui tôi xỏ xiên nàng:
            - Bộ em tưởng ai cũng có tật cằn nhằn chồng như em hết hả?
Nàng tỉnh bơ đáp:
            - Vậy chớ sao. Một trăm bà là hết chín mươi chín bà như vậy rồi. Chỉ còn người thứ một trăm không cằn nhằn chắc là vì… bất bình thường hoặc vì quá chán nãn muốn bỏ mặc xác ông chồng, không thèm đếm xỉa tới nữa. Bởi vậy ông nào còn được vợ cằn nhằn là phải  nên mừng chớ đừng có nổi xung thiên đổ quạu. Một mai bà vợ chết rồi muốn nghe lại điệp khúc trường thiên của nàng  cũng không còn đâu nữa mà nghe.

Tôi lắc đầu chịu thua lo lái xe chớ không dám đôi co gi thêm nữa để mặc nàng thích chí cười một mình. Chỉ cần làm được chút gì nho nhỏ cho người khác vui là nàng đã thấy lòng hân hoan phơi phới còn hơn được ai mời đi party tiệc tùng. Nàng không thích những nơi ồn ào náo nhiệt đông người vì ở những nơi đó nàng cảm thấy bỡ ngỡ lạc lõng làm sao. Bởi vậy, chỗ nào có “sơn đông mải võ”, chỗ nào có hội chợ, có họp hành hoặc chen lấn giành giựt  là chỗ đó không có nàng đúng theo quan niệm nhàn của trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, người khôn người đến chốn lao xao”. Ở những chỗ lao xao thì trước sau gì cũng sẽ có  xào xáo bởi vì cái miệng người đời khó tránh được những chuyện thị phi lời qua tiếng lại và những đố kỵ dèm pha. Thôi thà cứ núp trong vỏ sò vỏ ốc của mình sống với nội tâm và niềm vui riêng do mình tự tạo. Nàng với tôi hợp nhau ở  điểm đó. Có vài người quen thấy chúng tôi cứ quanh quẩn  trong nhà hòai  khuyên chúng tôi thỉnh thỏang nên đi nghe nhạc giải trí hoặc đi coi đại nhạc hội cho vui thì nàng nói vô đó ngồi rủi gặp tiết mục nào không thích thì làm sao fast forward được khiến người ta cũng á khẩu làm thinh luôn.

Về phương diện nhân nghĩa, tình người thì nàng nhân nhượng thua thiệt vậy đó nhưng đụng tới đời sống thực tế họặc những gì có liên quan tới  khoa học thì phải có chứng cớ, lý lẻ rành mạch hẳn hoi  thì mới mong thuyết phục được nàng. Nếu không nàng sẽ cãi lý tới cùng. Cũng rắc rối khó chịu lắm chớ chẳng vừa gì. Chẳng hạn như tôi nói với nàng là có người mách cho một bài thuốc rất đơn giản, chỉ cần gạo đem rang rồi nấu nước uống hằng ngày như uống trà thì có công hiệu rất tốt cho cơ thể như ngủ ngon, giảm huyết áp, giảm mỡ vv… thì nàng hỏi lại tôi bộ miracle hả? Gạo rang hay không rang cũng là gạo, tại sao nấu  cơm ăn hằng ngày thì chỉ chữa bệnh đói còn đem đi rang, cho qua lửa luyện tội lại trở thành “dược phẩm” là sao, vô lý quá vậy. Ấy vậy mà tôi cũng đòi nàng phải rang gạo nấu nước “thánh” cho tôi hết một thời gian hai ba tháng. Nàng bực mình lắm, tuy chìu ý tôi nhưng trong lòng không phục cho là what a silly vớ vẩn!

Có một thời gian, người ta đua nhau đi kiếm mua rau má đỏ con mắt, nói là rau này chữa được bệnh thấp khớp làm tôi cũng rán đi tìm cho được (vì là mùa đông nên khó kiếm chớ mùa hè thì lọai rau này mọc đầy dãy trong vườn nhổ không kịp) thì nàng bảo rau cỏ nào mà không có dược tính . Theo nàng biết thì rau má có tác dụng giải nhiệt, khi nào nóng trong người  uống vô sẽ hạ hỏa nhưng nếu lạm dụng nó thì sẽ sinh hàn. Mà thấp khớp thì kỵ hàn. Uống riết chắc đi không nổi phải bò luôn. Rồi còn nhiều phương thuốc khác nữa như Lô hội, trái Nhào, đậu nành,  canh dưỡng sinh gì đó lung tung, thứ nào cũng chữa bá bệnh như là thần dược. Tôi thì thứ nào cũng muốn thử coi có hiệu nghiệm không chớ nàng thì nhứt định giữ vững lập trường không là không. Nàng nói thời buổi y học tân tiến này, có biết bao là thuốc hay thầy giỏi, bệnh gì thuốc đó, chữa còn không được, ở đó mà nghe người ta bày. Muốn bào chế một viên thuốc,  người ta phải nghiên cứu dung hòa bao nhiêu chất trong đó chớ đâu phải đơn giản một thứ một mà được. Phàm cái gì cũng vậy, phải có chừng mức, cứ một thứ mà tống vào cho cố xác thì có hại chớ sao. Có thể nó chữa được bệnh này nhưng lại phản ứng sinh bệnh khác, hễ có hợp thì  có khắc, có lành tính thì cũng có ác tính. Vì vậy trung dung là thượng sách hơn cả, rủi ai phát giác ra là có hại thế nào đó thì mình cũng không đến đổi nào, còn trở tay kịp.



Cụ thể như một lọai cải có tên là Phi Long (English spinach) mà tất cả các giống dân Âu, Á, Trung đông gì cũng rất ưa chuộng (nhứt là Lebanese, mua một lần cả trolley) vì nó có rất nhiều chất sắt làm tăng cường sinh lực đến đổi có một phim  cartoon muốn khuyến khích trẻ con ăn vegies đã bịa ra  chuyện một nhân vật tên Popye. Anh Popye ngày nào cũng ăn thật nhiều spinach nên mới có đủ sức mạnh để đấu lại  mấy thằng baddies. Đó là nói về mặt lợi ích của lọai cải này, nhưng đồng thời nó cũng có tác hại gây bệnh gout (thống phong) nếu ăn nhiều (không biết nhiều là bao nhiêu) vì nó cũng chứa hàm lượng uric acid rất cao. Như vậy thì tốt nhứt là đừng nghe ai cả mà hãy nghe chính mình. Mỗi  tuần  nấu canh họặc xào ăn hai ba lần là đủ liều rồi, cứ coi đó là thức ăn thôi, còn muốn làm thuốc thì để cho pharmacist họ làm, đâu có tới phiên mình. Cũng như rượu, mỗi ngày một ly nhỏ cho máu lưu thông điều hòa thì có ích cho tim mạch nhưng nếu cứ uống cạn ly đầy, rót đầy ly cạn thì sơ gan đứng tim luôn là cái chắc.   

Trong suốt hơn ba mươi năm chung sống, có rất nhiều vấn đề khi bàn bạc với nhau, nàng phân tích, đưa ra những lý lẽ vững chắc hợp lý nhưng vì tự ái, tôi đã không nghe theo nàng (bụt nhà vốn không linh) đưa đến những hậu quả tai hại, nhẹ thì hư đường hư bột, cơm không lành canh không ngọt sơ sơ, còn nặng thì bếp tắt lò nguội, chiến tranh lạnh kéo dài triền miên bởi vì đã không cùng nhau nhìn về một hướng và không cùng quan điểm như nhau. Điển hình là chuyện nuôi chó. Không biết có phải vì chúng tôi có nợ dòng họ “tuất” hay sao.  Sau hai lần nuôi chó, chó cha và chó con lần lượt già chết  đi, cả nhà chúng tôi  khóc thương hai ba tuần lễ, nhớ nhung đau khổ y như mất người thân. Bà nội tướng của tôi tuyên bố hạ lệnh là từ rày về sau không được nuôi chó nữa. Vừa tốn công tốn của  lại còn hao tổn tinh thẩn, động mối thương tâm.

Lúc đó tôi và đứa con gái cũng đồng ý với nàng nhưng rồi sau một thời gian nguôi ngoai tôi lại lờn, quên hết kinh nghiệm đau thương vừa qua.  Nhà hàng xóm kế bên có một con chó to đầu như con bò con mà hiền khô, mỗi lần đứng bên này ngó qua thấy nó, tôi lên tiếng kêu tên nó DJ là nó dáo dác ngó qua ngó lại kiếm coi ai kêu mình, bộ điệu  thấy mà thương. Tôi nói dèm con chó của ông Paul dễ thương quá. Nghe vậy nàng chận đầu tôi nói thôi nghe, nuôi chó cũng như nuôi con vậy, cực biết bao nhiêu, nuôi hết hai con rồi chưa tởn hay sao. Bây giờ ông đã mấp mé sáu chục, cái thân già bệnh họan  tự lo còn chưa xong, lại đèo bồng thêm chó. Rồi đây ai tắm rửa, ai dẫn nó đi dạo, chở đi ty thú y khi nó bệnh họan. Chưa kể hằng ngày, ngày nào như ngày nấy nàng đều phải lo đồ ăn cho nó, rồi hốt dọn vệ sinh tẩy uế, sát trùng. Đâu phải chó không cần lo, bỏ liều bỏ lún được đâu. Thêm vào đó, kẹt với nó một đời  mười mấy năm, muốn đi đâu vài ngày cũng đi không được, bất tiện phiền phức vô cùng. Bây giờ đang thong thả tự do, tội gì  lại ràng buộc cho tàn đời.

Vậy mà một ngày đẹp trời, đi ngang  một nhà thấy để bảng free puppies, tôi lại ghé vào và lại bồng về một con. Nàng giận lắm, lầm lầm lì lì mấy ngày nhưng thấy hai cha con tôi yêu thích quá thì nàng cũng miễn cưởng xuôi theo, ngày ngày chăm sóc nó chu đáo như những con chó trước kia mặc dầu thỉnh thỏang vẫn than thở rằng chắc kiếp trước thiếu nợ chó. Một vài năm sau, quả nhiên những gì nàng tiên đóan đều trúng phóc. Có những lần nàng bệnh, đi nhà thương cả tuần lễ, không ai nấu ăn, tôi cho nó ăn dog food, nó không chịu ăn, hoặc chỉ nhơi nhơi ăn cầm hơi. Còn tôi mỗi ngày một già, mỗi lần phải tắm nó, tôi rất ngán ngẩm, đứng lên ngồi xuống xoay trở mệt mỏi làm sao. Lúc đầu mỗi tháng tôi tắm cho nó một lần. Lần hồi thì dồn hai ba tháng, riết rồi ỏai quá thành ra chỉ còn xuân thu nhị kỳ. Lúc đó tôi ước sao có ai xin nó thì cho phứt cho rồi. Có lần nó tự làm  bị thương khá nặng phải chở tới chở lui đi ty thú y mấy lần, tôi đã nảy ý định sẵn dịp này chích thuốc cho nó đi luôn nhưng bị nàng la quá trời nói rằng đã cản trước  mà không nghe, tự rước nợ vào thân. Lỡ nuôi rồi thì phải nuôi cho trót. Con chó cũng có số trời định như con người, mình đâu có quyền sinh sát nó theo ý mình bất nhân như vậy được. Dẫu sao nó cũng như con cái trong nhà  thì phải chạy chữa cho nó tới cùng. Chừng nào nó tới số hẳng hay. Thế là chúng tôi lại phải “phụng dưỡng” nó thêm bảy năm nữa.


Còn rất nhiều, nhiều chuyện lớn chuyện nhỏ mà nàng đã thấy trước là không ổn khuyên ngăn tôi hoặc đề nghị thế này thế nọ nhưng tôi đều gạt phăng  ra để làm theo ý mình, vì nghĩ mình là gia trưởng thì có quyền định đọat dù đôi khi tôi cũng tự biết mình độc đóan độc tài không đúng. Do đó chúng tôi thường hay bất hòa tranh cãi với nhau ngay cả những chuyện tào lao không đáng gì như chuyện dạy bảo con cháu, chuyện lợi hại trong đồ ăn thức uống  hay chuyện mua sắm này nọ vv.. . Hình như chúng tôi có số khắc khẩu đúng như thầy tử vi khi xưa đã phán nên nhứt nhứt chuyện nào cũng bất đồng ý kiến, hễ ông nói gà thì bà nói vịt, vừa nhập đề đã cãi lai rai.

Kẻ sinh năm thìn, người cầm tinh hổ
Khi đề huề như long hổ phong vân
Như gió mây luôn quấn  quít ân cần
Khi bất đồng thành long tranh hổ đấu

Chẳng ai nhường ai, long hổ quyết đấu
Là nước lã người dưng, nàng  với tôi
Công bằng lẽ phải quyết cãi tay đôi
Ai chịu nhịn khi đối phương vô lý

Tuy thường xuyên cắn đắng nhau  nhưng không vì thế mà nàng thờ ơ bổn phận của nàng. Nàng vẫn lo cho tôi chu tòan từ  chén cơm cái áo tới sức khỏe thậm chí cả chuyện giao tế bạn bè. Biết tôi không có nhiều bạn nên cứ vài tuần là nàng nhắc tôi gọi phone họặc gởi email thăm bạn bè để giữ liên lạc. Hôm nào đề huề vui vẻ, thấy tôi cứ mãi cắm đầu vào tờ báo, nàng còn trổi giọng  Điêu Thuyền ngọt lịm “Anh à, đi nằm nghỉ một chút đi để lát nữa còn đi rước hai thằng cháu” . Có lẽ đó là chữ “tùng” trong bổn phận người vợ còn sót lại ở thế hệ nàng.


Người xưa có nói vợ chồng là nợ là oan gia cũng có phần đúng. Nhìn đi nhìn lại chung quanh mình thì đâu có bao nhiêu gia đình được ấm êm hạnh phúc trọn vẹn một lèo. Vợ hay chồng nếu không tật xấu này thì cũng chứng nọ thói kia đưa đến tình trạng gây gổ chì chiết nhau bởi con người đâu có ai hòan mỹ vẹn tòan. Không đổ vỡ là đã may mắn. Phần tôi, nếu nói hạnh phúc là dối lòng, nhưng nói không hạnh phúc thì cũng không hẳn. Thôi thì cứ cộng trừ nhơn chia rồi lấy điểm trung bình để tự an ủi. Bản thân mình đâu có hòan hảo mà muốn người khác thập tòan. Nếu biết châm chước, chấp nhận những gì xảy đến với mình trong cuộc sống hằng ngày thì sẽ thấy mình tu chín kiếp mới gặp được nàng. Rồi một đời cũng sẽ qua. Một trong hai sẽ có người đi trước để người còn lại phải ngậm ngùi tiếc thương…

Dẫu sao phu thê một ngày cũng nghĩa
Trẻ mặn nồng, già làm bạn đỡ nâng
Biết bao người khao khát một tình thân
Để chia sẻ những tháng ngày sau cuối…
                                                                                                


Người Phương Nam

Tuesday, September 10, 2024

Đà Nẵng - Nguyễn Duy Phước

Vẫy Tay Ngậm Ngùi - Hương Thủy


(Cho Những Mối Tình Tan Vỡ Vì Thời Cuộc Của K28/VB/ĐL) 


Nữ tiếp viên hàng không thông báo 10 phút nữa máy bay sẽ đáp xuống phi trường Phú Bài. Cô mở túi xách lấy cái gương nhỏ soi lại mặt mình. Mái tóc nâu nhạt vừa được uốn. Màu son Elizabeth Arden cánh sen duyên dáng. Nốt mụn nhỏ sau bao đêm trằn trọc đã được khéo léo phủ một lớp phấn mỏng. Cô bồn chồn cho cuộc gặp gỡ sau 30 năm.

30 năm. Gấp đôi cuộc tái hồi giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Cô cũng không nghĩ mình còn có thể gặp lại anh sau bao nhiêu biến thiên của cuộc đời. Ngày nhấc máy điện thoại, cô hững hờ cất tiếng “A lô” mà không ngờ đầu dây bên kia là anh, người đã ghi những kỷ niệm không quên trong cuộc đời cô.

Cô nhớ mình đã run rẩy khi cái giọng trầm ấm của anh cất lên. Làm sao cô quên được anh. Ngàn lần cô không thể quên.


Xóm Ba cây dừa. Không biết ai đã trồng từ lúc nào để biến nó thành một địa danh quen thuộc của thị xã. Ba cây dừa già lão, nằm nghiêng nghiêng duyên dáng mà vững chải. Nhà cô ở đấy, căn nhà đầy hoa bởi thú vui cây cảnh của người cha. Giữa đám thược dược, mồng gà, cúc đại đóa màu sắc rực rỡ là một cây trắc bá diệp xanh ngắt vươn lên bầu trời. Thi thoảng lại có người vào xin một nắm cho bài thuốc nào đấy. Cái hồ nhỏ bên dưới đầy bèo và cá thia đỏ. Nơi đó cô đã lớn lên, đã sống những ngày thiếu nữ hồn nhiên, mơ mộng.

Cô không biết anh chú ý mình khi nào. Chỉ nhớ buổi trưa ấy “như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao” ở thơ Huy Cận. Cô vắt vẻo trên cây ổi bên bờ giếng, miệng nhai rau ráu miếng ổi xanh thì bạn cô xuất hiện. Sâm cười tủm tỉm, đặt cuốn sách trên thành bể cho cô rồi vội vã đi. Đó là tập truyện ngắn của nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn có cái tựa đề thật dễ thương “Ở Một Nơi Ai Cũng Quen Nhau”. Giữa cuốn sách là bức thư của anh.

Bao nhiêu năm đã trôi qua nhưng cô vẫn nhớ rõ những dòng chữ. Nét chữ đẹp, thanh thoát, cái đuôi sau hơi hất lên. Lá thư không có từ nào là “yêu” nhưng cô hiểu đó là một bức thư tình. Bức thư tình cô nhận được đầu tiên năm 15 tuổi.

15 tuổi. Ngực cô mới nhú như chũm cau và vẫn là mái tóc bum bê. Cô khó chịu với cái corset bà chị hai bắt mặc. Cô hồn nhiên và chăm học. Mộng ước của cô là sẽ trở thành một giáo sư như những giáo sư thần tượng của cô thời ấy. Ngày hai buổi, cô tung tăng đến trường trong chiếc áo đầm trắng. Năm cuối của bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp. Cô mong thời gian trôi nhanh để cô lên lớp Đệ Tam, được đổi bảng tên từ thêu đỏ qua thêu xanh, được mặc áo dài thay áo đầm và được coi là... người lớn.

Anh học ban B, cái ban mà cô hằng ngưỡng mộ. Dân ban B bao giờ cũng giỏi và có một chút nghệ sĩ tài hoa. Cô chưa học Đệ Nhị Cấp nhưng cô đã có những bài viết trong các tập san của nhà trường. Và cô biết anh qua những tập san ấy.

Cô nhớ cô đã không trả lời thư anh. Cô xấu hổ và không biết viết gì. Nhưng sau đó, mỗi lần gặp nhau, má cô hồng lên. Không có những buổi hẹn hò, không có những bức thư nối tiếp nhưng cô biết mình đã thương anh...

Máy bay ngừng lại trên đường băng. Cô cất chiếc gương vào xách và theo dòng hành khách ra cửa. Cô nghe lòng rộn rã.

Anh đón cô ngay chỗ lấy hành lý. Từ xa cô đã nhận ra dù người anh có hơi đẫy. Gần 30 năm rồi còn gì. Nhưng vẫn là anh với những đường nét thân quen. Anh ôm choàng lấy cô, hôn trơ trất lên mặt lên cổ. Cô bíu lấy vai anh lòng nghẹn ngào. Mùi nước hoa CK for men tỏa ra dịu dàng từ chiếc áo Pull xám.

Anh và cô ngồi quán cà phê ven bờ sông Hương nhìn ra bến đò Thừa Phủ xưa. Mùa Xuân. Huế không mưa nhưng thời tiết se se lạnh. Cô hơi rùng mình. Anh khoác lên vai cô chiếc áo choàng mỏng. Cô như ngửi thấy mùi da thịt của anh. Cuối cùng hai người cũng đã gặp nhau.

Quán vắng khách. Phía góc bên kia cũng chỉ có một đôi nam nữ. Có lẽ họ đang yêu nhau như cô và anh của 30 năm trước. Cô gái măc chiếc áo màu xanh, sau lưng có dòng chữ bằng tiếng Anh “Let kiss me!”. Cô nhớ mình và anh chưa hề có với nhau một cái hôn đúng nghĩa.

Anh học giỏi, nhất là Anh văn. Anh đã hai lần làm chemise với Cô trong kỳ thi lục cá nguyệt. Cô thương anh, thương sự cần cù của chàng trai nghèo đang cố gắng vượt qua hoàn cảnh khó khăn. Khi cô chọn ban C, chính anh là người đã hướng dẫn cô làm bài luận Anh văn đầu tiên.

Anh đậu Toàn phần và vào học Văn Khoa. Cô cũng đậu Tú Tài Bán. Hai người như so kè nhau dù không nói. Rồi đột nhiên, anh quyết định vào trường VBQGVN cùng anh trai cô. Có lẽ do hoàn cảnh khó khăn hay do lực hấp dẫn từ bộ Jasper đẹp của những chàng Sinh viên Võ Bị khi đi tuyển quân ở các trường Đại Học.

Trước khi đi, anh trao hết cho cô sách vở thời Trung Học với lời nhắn nhủ “Hãy học giùm cho anh!”. Cô nhìn theo ngơ ngẩn.

Từ đây cô có hai người để thương để nhớ ở KBC 4027.

Những bức thư từ cao nguyên. Anh gởi cho cô tập ảnh “tang thương” của 8 tuần huấn nhục; nụ cười kiêu hãnh khi chinh phục đỉnh Lâm Viên của Đại Đội F; sự oai hùng và tráng lệ của đêm gắn Alfa trên Vũ Đình Trường Lê Lợi. Cô tự hào mình là “người yêu của lính”.

Cô vào Đại Học Sư Phạm như ý nguyện của mình. Sự thương nhớ cũng làm cô mạnh dạn hơn. Cô viết cho anh những dòng thơ của Nguyên Sa: “Không có anh lấy ai đưa em đi học về. Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học. Ai lau nước mắt khi em ngồi khóc. Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa...” Cô còn gởi cho anh tấm hình cô mặc áo dài trắng, ngồi xõa tóc ở bậc thềm lăng Tự Đức. Cô đã lớn và không còn mái tóc bum bê.

Thư của anh cũng bắt đầu nói về tương lai. Cô sẽ chọn một ngôi trường Trung Học gần nơi đơn vị anh trú đóng. Anh sẽ về thăm người yêu sau những cuộc hành quân. Và sẽ kết thúc bằng một cái đám cưới thời chiến.

Từ lúc nào cô bỗng trở nên mê tin chiến sự. Cô theo dõi những cuộc hành quân lớn như Lam Sơn 719. Cô cảm thấy xót xa khi đọc những dòng Cáo Phó mà người hy sinh là những chàng trai Võ Bị kiêu hùng. Cô bắt chước anh gọi là trường Mẹ. Cô viết các truyện ngắn ca ngợi những mối tình tiền tuyến hậu phương. Cô như thấy mình trong đó..

*******

Anh và cô đã đan tay nhau đi trên con đường Lê Lợi- con đường đẹp nhất của thành phố- ước mơ 30 năm qua bây giờ mới thực hiện được. Cô thấy mình như trẻ lại dưới tán lá long não xanh và ngọn đèn vàng. Hai người ngồi hàng giờ ở công viên Tứ Tượng để ngắm cây ngô đồng cuối cùng của Huế. Họ nhìn qua Đại Học Văn Khoa đã trở thành Hotel Sofitel Morin sang trọng. Anh đưa cô đến thăm cô giáo dạy Anh văn xưa. Anh giới thiệu cô là vợ anh. Mắt cô bừng sáng long lanh. Ôi! Đó là những lời nói dối không có tội. Cô cũng đã có buổi họp mặt với các đồng đội cũ của anh ở một tiệm ăn trong Thành Nội. Một đôi ánh mắt tò mò nhưng lịch sự. Cả anh và cô đều không giải thích. Không cần phải giải thích. Nhưng cô đã cho một số tiền tip thật hào phóng khi người phục vụ trân trọng gọi anh và cô là “Ông bà”.

Vâng! Đáng lẽ ra anh và cô đã là “Ông Bà” mấy chục năm trước…

Cô không quên được mùa hè năm ấy. Con đường Thái Phiên đi vào trường Mẹ vi vu tiếng thông reo. Mặt hồ Than Thở một màu xanh phẳng lặng. Hội quán Huỳnh Kim Quang với tiếng hát đón chào thân nhân, bạn bè chiều thứ bảy. Cô ngồi đối diện anh trai và anh. Vẻ mặt thư sinh ngày nào đã trở nên cương nghị sau gần 2 năm lăn lộn thao trường. Anh đen và chững chạc hơn trong bộ quân phục vàng và Alfa đỏ. Anh đưa cô đến cửa hàng của chị Chúc, chị Mai trên đường Duy Tân, gần khu Hòa Bình - Cửa hàng quen thuộc có thể ghi sổ của SVSQVB- Anh mua tặng cô một cây Pilot màu tím, khắc tên anh và cô cùng KBC 4027. Cô hiểu màu tím - màu của sự thủy chung. Lúc này anh chỉ mới ăn lương Trung Sĩ.

Gần 7 năm yêu nhau, cô và anh cũng có những giận hờn nho nhỏ. Cô nhói lòng khi nghe có một cô gái Đà Lạt vào thăm anh chiều thứ Bảy. Anh cũng bóng gió khi cô gặp các anh hùng chiến trận để viết phóng sự chiến trường. Nhưng cả hai chưa hề nói nặng nhau một tiếng, chưa bao giờ đề cập sự chia tay.

Đêm Đà Lạt mù sương và lạnh. Không biết bằng cách nào anh đã ra được với cô lúc 9 giờ tối. Anh cầm tay cô, bàn tay lạnh buốt dần ấm lại trong tay cô nóng sực. Anh kể chuyện vì lá thư của cô mà anh bị phạt tác chiến số 4, mang đủ bộ lệ hành quân, đặt thư cô trên đầu vừa chạy vừa la “Người Yêu Tôi Đi Lấy Chồng Rồi”. Cô nghe kể mà ứa nước mắt. Cô nép đầu vào ngực anh. Anh đặt nhẹ môi mình trên mái tóc cô. Tiếng gió xào xạc trên rặng thông. Và cô biết thế nào là hạnh phúc!


Tháng 10 năm 1974, đáng lẽ cô về Đà Lạt để dự lễ trao nhẫn cho anh như dự định. Nhưng cô phải đi thực tập tại trường Đồng Khánh Thành Nội. Năm thứ 3 rồi. Đề tài là “Văn Chương Pháp Cuối XIX- Đầu XX”. Tại sao trong nhóm thực tập 3 người chỉ mình cô bốc trúng bài thơ L’Adieu của Apollinaire?Bạn Tường Vy với truyện ngắn Les étoiles dễ thương của A. Daudet; Kim Chi với Les grands coeurs nhân hậu của De Amicis. Còn cô là “Vĩnh Biệt” với những câu thơ sầu thảm: “J’ai cueilli ce brin de bruyère. L’automme est morte souviens-t’en. Nous ne nous verrons plus sur terre…” Soeur Madeleine đã thở dài nhìn cô “Con chọn nhằm một bài thơ quá hay nhưng quá buồn”...

Mọi người trong gia đình cô đều thương anh. Thôi thì cô nhờ anh rể vậy. Niên trưởng khóa 16 trao nhẫn cho niên đệ khóa 28 cũng đẹp chứ sao. Sang năm anh sẽ ra đơn vị và cô cũng sẽ tốt nghiệp. Mộng ước sắp thành: “Một gian nhà nhỏ đi về có nhau”.

Vậy mà mọi chuyện như một cơn ác mộng. Cô kẹt lại ở Đà Nẵng và xa anh biền biệt. Tháng Tư đen của đất nước. Tháng Tư đen của cuộc đời cô và với nhiều người khác.

Anh kể lại Khóa 28 của anh ra trường ngày 21 tháng Tư năm 1975 tại trường Bộ Binh Long Thành chứ không phải ở Vũ Đình Trường Lê Lợi trên ngọn đồi 1515, một lễ ra trường độc đáo nhưng buồn nhất trong lịch sử của trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Khóa mang tên vị Đại Tá tử thủ Charlie Nguyễn Đình Bảo. Các tân Thiếu Úy không được mặc đồ Đại Lễ mà trang phục nón sắt, quân phục Treillis. Thủ Khoa Hồ Thanh Sơn cũng không có cơ hội giương cung biểu tượng chí tang bồng hồ thỉ... Xe GMC đợi sẵn trước cổng trường sẵn sàng đưa các tân Sĩ Quan ra trận. Không một giờ phép, không một tiễn đưa, không một lời nhắn với người đã từng ước nguyện trăm năm.

Anh chọn binh chủng Biệt Động Quân. Anh được đưa về Bộ Chỉ Huy BĐQ ở trại Đào Bá Phước đường Tô Hiến Thành. Đích thân người anh Cả, Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai, Tư Lệnh binh chủng trân trọng bắt tay các tân Sĩ Quan và ngày mai anh nhận lãnh đơn vị: Liên Đoàn 24 BĐQ.

Khi nghe tin Dương Văn Minh đầu hàng, cả quan và lính đều khóc. Anh và Trung Đội định chạy về Vùng IV theo chân Tướng Nguyễn Khoa Nam nhưng mới ngang Long An thì nghe tin vị Tướng này đã tuẫn tiết. Một người lính đã đưa anh về quê và theo một chiếc tàu ra khơi. Cuộc đời binh nghiệp của anh vỏn vẹn có 9 ngày. Sau này, anh đã tìm nhiều cách để liên lạc với cô nhưng bặt vô âm tín. Anh không biết rằng gia đình cô phải bán vội bán vàng cơ ngơi để đi kinh tế mới vì cái lý lịch “ngụy quyền, ngụy quân” của cha và anh cô. Ngày xưa, cô thích nghe bản nhạc “Nghìn Trùng Xa Cách“ của Phạm Duy và bây giờ cô đã hiểu thế nào là xa cách nghìn trùng.

Cô cúi xuống hôn lên trán anh. Anh của em. Anh mở mắt và ôm choàng lấy cô. Có phải cô đang ở trên thiên đường...


*******

Từ khung cửa sổ khách sạn, cô nhìn ra sông Hương. Muôn đời dòng sông vẫn lặng lẽ trôi nhưng lòng cô thì chao nghiêng. Cô đã mơ một lần về Huế cùng anh vài ngày, trong thâm tâm như để bù đắp những mất mát của mối tình đầu, như để kéo dài chút thời gian có thể là lần cuối cùng được gần nhau.

Đêm qua, hai người đã đi lang thang trên những con đường thành phố... Huế thay đổi nhiều quá, mất dần hết những nét u mặc xưa. Ký túc xá cô ở bây giờ trở thành Doanh trại quân đội nhân dân. Các Ma soeur dòng Saint Paul không biết đã về đâu. Cô nhớ nét mặt nghiêm trang của Soeur Chantal trong giờ nguyện ngắm, nụ cười hóm hỉnh của Soeur Madeleine khi đưa cho cô những bức thư màu xanh có hình người sinh viên Sĩ Quan giương cung, cái insigne rồng ngậm kiếm trên góc trái đặc trưng riêng của trường Võ Bị.

Anh còn muốn đưa cô về Đà Lạt. Họ sẽ đi Vallée d’amour nơi anh lần đầu cầm tay cô. Họ sẽ ngồi ở hồ Than Thở hoài niệm về một ngôi trường quân sự nổi tiếng và đẹp nhất Đông Nam Á trên ngọn đồi 1515… Nhưng cô đã từ chối.

Anh đã kể cho cô nghe về người vợ có tấm lòng nhân hậu, người vợ đồng ý chồng lấy tên người tình xưa đặt cho con gái, người vợ khuyên anh nên về Việt Nam một lần để tìm cô và cũng để tang cho mối tình đầu.

Anh về với cô nhưng anh không còn là của cô. Rõ ràng anh và cô hôm nay không phải là anh và cô của 30 năm trước. Những gì cô ấp yêu gìn giữ cũng chỉ là “có còn lại chăng dư âm thôi” như lời một bài hát. Cả hai người đều là nạn nhân của thời cuộc. Có biết bao nhiêu mối tình đã tan đàn xẻ nghé như anh và cô sau Tháng Tư đen?

Căn nhà xưa không còn. Ngôi trường cũ cũng thay tên và cuộc đời anh đã sang trang. Thôi thì “Duyên trăm năm đứt đoạn. Tình muôn thuở còn hương”...

Cô thẫn thờ xếp những chiếc áo vào valise. Cô đã có những ngày đẹp nhất dù chỉ ba ngày ngắn ngủi. 3 ngày cho 30 năm chờ đợi. Thế là đủ.


*******

Xe qua cầu Trường Tiền. Nước mắt cô trào ra nhưng lòng cô thanh thản. Cô khẽ hát “Nghìn trùng xa cách, người cuối chân trời. Đường dài hạnh phúc, cầu chúc cho người.”

 

Hương Thủy

Trăng Thu - Đỗ Công Luận

Monday, September 9, 2024

Người Việt Trốn Cộng Rồi Nuôi Cộng - Đại Dương

 
Hình minh họa 

Việt Nam lọt vào tay Đảng Cộng sản Việt Nam đã 48 năm (1975-2023).

Tính đến nay số người Việt Nam định cư tại 40 quốc gia vào khoảng hơn 5 triệu người mà đa số với lý do thoát khỏi quyền cai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hầu hết người ra đi vào những thời điểm và phương tiện khác nhau, nhưng, ai cũng vui vẻ và hãnh diện vì đã thoát khỏi sự thống trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từng giọt mồ hôi trên những khuôn mặt còn tái ngắt ghi dấu con đường tìm tự do chín chết một sống càng nung đúc khát vọng xây dựng một gia đình không còn bị “quản lý khắc nghiệt” của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày qua ngày, miền đất mới đã trả lại nụ cười và niềm tin vào quyền tự do mưu sinh không bị giám sát như ma xó tại Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Dòng đời lặng lờ trôi cũng cuốn theo nhiệt tình chống Cộng trong Cộng đồng người Việt Hải ngoại khi đối diện với nếp sống lưỡng đảng tại Hoa Kỳ và đa đảng tại Châu Âu.

Xu hướng chính trị trong Cộng đồng người Việt không còn đồng nhất như thời “chiếc cột đèn biết đi cũng đi”. Sinh hoạt tự do tư tưởng tại hải ngoại và công việc xây dựng gia đình bằng đôi bàn tay trắng cũng làm nhạt phai phần nào nhiệt tình chống Cộng tại hải ngoại.

Ai cũng biết hoặc nghe nói đến một số điệp viên Cộng sản đã nhập vào đoàn người di tản hoặc vượt biên, vượt biển tìm tự do để thi hành công tác gián điệp và chi phối cộng đồng. Nhưng, chứng cứ mơ hồ tại những xã hội tự do ngôn luận và có bang giao với Hà Nội nên khó bị kết tội gián điệp, ngoại trừ vài trường hợp quá lộ liễu thì chính quyền sở tại mới hành động.

Nhiều hoạt động của các nhóm cựu quân nhân, chính trị gia làm dấy lên làn sóng chống cộng tại các quốc gia tạm cư. Thực tế, đã làm đau đầu các Toà lãnh sự cũng như các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam mỗi khi công du nước ngoài. Dân chúng sở tại dần dần thông cảm lý do buộc người Việt Nam phải cắn răng rời bỏ nơi chôn nhau, cắt rốn vì muốn xa lánh Chủ nghĩa Cộng sản. Chẳng phải tất cả dân bản xứ đều thấu hiểu nỗi đau xé lòng, nước mắt lưng tròng của người Việt Nam khi phải cất bước trên con đường chưa biết có tới đích hay không!!!

Nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ từng nhuộm máu của một dân tộc yêu chuộng hoà bình, thích bạn bè, hàng xóm phấp phới trên xứ người bỗng lòng chùng lại với bao nhiêu kỷ niệm nơi quê cha đất tổ. Họ trân quý lá cờ vàng ba sọc đỏ như ngọn đuốc dẫn đường về với tổ quốc thân thương, nơi ấp ủ những chiến công oanh liệt của tiền nhân để duy trì sự sống còn của dân tộc.

Tuy nhiên, cuộc sống đầy cạnh tranh tại các quốc gia văn minh và phát triển nhất thế giới và một thế giới quan mới lạ khiến cho tân-công-dân gốc Việt phải tìm cách quân bình trong cuộc sống.

Kể từ khi Tổng thống Bill Clinton (1993-2001) và Thủ tướng Võ Văn Kiệt bình-thường-hóa quan hệ ngoại giao thì Hà Nội đẩy mạnh cuộc vận động để Cộng đồng Người Việt Hải Ngoại chấp nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản vì cùng chung huyết thống.

Khi người Việt Hải ngoại đã ổn định cuộc sống và leo dần trong nấc thang thịnh vượng quốc gia thì Đảng Cộng sản Việt Nam tăng cường hoạt động gián điệp, vận động chính trị qua mạng lưới tình báo đã cài từ các đợt vượt biên, vượt biển, bảo lãnh, di dân.

Mồi câu gồm có: (1) Thành hôn dễ dàng, mau chóng; bảo lãnh thân nhân thật lẫn giả. (2) Đầu tư vào Việt Nam dễ mà lợi nhuận cao, không trả thuế nặng như Tây Phương. (3) Bảo lãnh và nuôi du học sinh. (4) Du lịch rẻ tiền và thuận tiện do nói tiếng mẹ đẻ, nhìn lại quê cha đất tổ trước khi từ giả cuộc đời.

Kiều hối của Việt Nam Cộng sản gia tăng hàng năm lên đến 19 tỉ USD vào cuối năm 2022, chiếm 50% ngân sách Nhà nước, tương đương với số tiền Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI).

Chẳng phải người Việt Chống Cộng ở Hải ngoại đã vô tình nuôi dưỡng và chống đỡ cho Chế độ Cộng sản hay sao? Chúng ta có quá mâu thuẩn hay không khi miệng hô đả đảo Chế độ Cộng sản mà có đồng nào lại tuồn về cho Tập Đoàn Ác để chúng mua sắm những dụng cụ giết người, tra tấn, hành hạ dân tộc Việt Nam? Không góp sức thì cũng xin đừng nuôi sống bọn giết người nữa!!!

Tổng thống Ronald Reagan (1981-1989) đã xua quân lật đổ vài ba chế độ cộng sản hoặc cực tả ở Nam Mỹ trong “chiến lược cuốn chiếu chế độ cộng sản”. Nhưng, không viện trợ cho Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc mà chỉ công khai cảnh cáo Tổng thống Nga, Mikhail Gorbachev không được sử dụng Tổ chức Hiệp ước Warsaw, có Quân đội đóng ở đó, can thiệp vào tình hình Đông Âu. Cuối cùng ba dân tộc anh hùng này đã tay không lật đổ chế độ cộng sản được Mạc Tư Khoa chống lưng.

Người Việt Hải Ngoại có số may mắn thoát khỏi Việt Nam trước khi 
“Đôi dép râu dẫm nát đời son trẻ.
Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai” nên chưa chứng kiến 
“Nhà ai giàu bằng nhà cán bộ? 
Hộ nào sang bằng hộ đảng viên? 
Dân tình thất đảo bát điên 
Đảng viên mặc sức vung tiền vui chơi”.
Tại sao người Việt Hải ngoại phải lo vỗ béo cho cán bộ Cộng sản?

Những kẻ kém may mắn phải chịu cảnh: 
“Nhân dân thì chẳng cần lo. 
Nhà nước lo sẵn bo bo mỗi ngày.
Hãy chăm tay cấy tay cầy. 
Nhịn ăn nhịn mặc chờ ngày vinh quang”
Ngày đi, đảng gọi “Việt gian” 
Ngày về thì đảng chuyển sang “Việt kiều”. 
Chưa đi: phản động trăm chiều. 
Đi rồi: thành khúc ruột yêu ngàn trùng".

Phải trăm đắng, ngàn cay mới thoát khỏi địa ngục trần gian mà sao lại đưa đầu cho Cộng sản cạo. Một vài trường hợp “Việt Kiều” ca tụng việc làm ăn tại Việt Nam bỗng dưng viết thư cầu cứu Chính phủ Mỹ và Cộng đồng Người Việt Hải ngoại vận động cho họ được thả về Hoa Kỳ. Những ai coi thường kinh nghiệm của kẻ khác có thể lập lại cho bản thân liên quan với chính quyền man trá tại Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

Học vấn thường được coi như nấc thang đánh giá trong xã hội. Nhưng, với xã hội rộng mở như Hoa Kỳ thì không chính xác. Hai trong danh sách tỉ phú hàng đầu trên thế giới có hai công dân Mỹ mới học hết năm thứ nhất Đại học. Ngành săn sóc móng tay tại Hoa Kỳ đã có không ít người trở thành triệu phú.

Một số người Việt giúp đỡ du học sinh ở ngoại quốc hoặc trong nước những mong họ thu thập những kiến thức, kỹ năng và nền chính trị đa đảng, nhân bản hầu làm thay đổi “con đường Việt Nam”. Nhưng, họ đã quá ngây thơ để đào tạo cán bộ có trình độ cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp Đại học họ đã được nhồi sọ Học thuyết Mác-Lê-Mao mới có thể thăng tiến. Họ sẽ trung thành với Đảng Cộng sản để được quyền cao chức trọng nếu không muốn bể nồi cơm nếp, xe hơi, nhà lầu, bồ nhí. Sinh viên từ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phải nhận và tuân theo chỉ thị của đảng uỷ tại các Lãnh sự quán, Toà Đại sứ Cộng sản Việt Nam ở ngoại quốc.

Đảng viên Cộng sản khắp thế giới đều mang vỏ bọc cấp tiến trước tiên rồi tiến tới thiên Cộng trước khi tự nhận là Cộng sản tôn thờ Mác, Lê, Mao.

Bao nhiêu năm sống dưới chế độ Cộng sản chẳng lẽ chúng ta chẳng biết gì về cách vận hành của guồng máy và vai trò của đảng viên Cộng sản nằm vùng hay sao?

Sự tồn tại của Chế độ Cộng sản tuỳ thuộc vào ý thức và hành động của toàn dân.

Các dân tộc Đại Hàn, Indonesia, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi cùng nhiều nước Trung Âu đã thênh thang trên con đường nhân bản (chủ nghĩa duy con người). Tại sao người Việt Nam chưa hành động???

 

Đại-Dương

June 7, 2023