☆ Lúc trẻ, tưởng đông bạn là hay,
Pages
- Trang Chủ
- About Me
- Truyện Ngắn
- Sưu Tầm
- Sưu Tầm from 2020
- Góp Nhặt Bên Đường
- Nhạc Chọn Lọc
- Sưu Tầm Sức Khỏe
- NPN's Recipes
- Trang Người Phương Nam
- Cười Ý Nhị
- PPS + YouTube Chọn Lọc
- Những Hình Ảnh Ý Nghĩa
- Thơ
- Thơ from 2020
- Bùi Phương Lưu Niệm
- Trang Anh Ngữ
- Truyện Dài : Về Phương Trời Cũ
- Truyện Dài : Ngày Tháng Buồn Hiu
Saturday, February 15, 2025
Lúc Còn Trẻ, Khi Về Già
USAID: Bài Phát Biểu Bảo Vệ Elon Musk Và DOGE Của Thượng Nghị Sĩ John Kennedy
USAID được thành lập theo đạo luật của quốc hội Mỹ vào năm 1961 và có ngân sách gần 43 tỷ USD, tập trung vào hoạt động cứu trợ nhân đạo và hỗ trợ phát triển trên toàn thế giới. USAID cung cấp viện trợ nhân đạo cho hơn 100 quốc gia như cứu trợ thiên tai, hỗ trợ y tế, sức khỏe và hỗ trợ thực phẩm khẩn cấp.
Chính quyền Tổng thống Trump nhắm vào USAID khi các đồng minh của ông, trong đó có tỷ phú Elon Musk, lãnh đạo Ban Hiệu suất Chính phủ Mỹ (DOGE), tìm cách tinh giản bộ máy chính phủ và cắt giảm những khoản viện trợ nước ngoài.
Năm 1961, Tổng thống John F. Kennedy đã thành lập USAID vào cao điểm của Chiến Tranh Lạnh. Mục đích của ông là chống lại ảnh hưởng của Liên Xô trên toàn cầu thông qua viện trợ nước ngoài.
Bài phát biểu bảo vệ Elon Musk và DOGE của Thượng nghị sĩ Kennedy khiến cả phòng im lặng.
Tôi muốn cố gắng đặt vào bối cảnh những gì mà nhiều người bạn Đảng Dân chủ của tôi đã nói hôm nay. Họ đang rất, rất, rất tức giận với Tổng thống Trump, và họ cũng đang rất, rất, rất tức giận với Elon Musk.
Tổng thống Trump đã tranh cử với nhiều vấn đề. Một trong những vấn đề mà ông ấy tranh cử, ông ấy đã nói gần như mỗi ngày. Ông ấy nói: “Nếu các bạn bầu tôi làm Tổng thống, tôi sẽ xem xét toàn bộ ngân sách và rà soát tất cả các khoản chi tiêu từng dòng một.”
Tôi đã nghe ông ấy nói điều đó không chỉ một lần, mà có lẽ đến cả ngàn lần. Và đó chính là những gì ông ấy đang làm. Ông ấy đã ký một sắc lệnh hành pháp và bổ nhiệm Elon Musk. Một số người thích Musk, một số người thì không, nhưng ông ấy không phải là một kẻ ngốc. Ông ấy là một doanh nhân rất thành công. Ông ấy có quyền truy cập vào các thông tin an ninh tối mật.
Bây giờ, tôi xin hỏi một câu: Làm sao mà ông có thể rà soát chi tiêu mà không thực sự xem xét các khoản chi tiêu? Làm sao mà ông có thể kiểm toán các khoản chi tiêu của một cơ quan mà không thực sự kiểm tra cơ quan đó?
Đó là lý do tôi nói rằng “lẽ thường đã trở thành bất hợp pháp ở Washington D.C.” Và đó chính là những gì ông Musk đang làm. Ông ấy đã tập hợp một đội ngũ xuất sắc, và họ đang xem xét từng khoản chi tiêu, từng mục ngân sách. Và những người bạn Đảng Dân chủ của tôi đang rất, rất, rất tức giận.
Và suốt thời gian đó, tôi đã nghe đủ thứ về quy trình, về tính hợp hiến, về việc liệu sắc lệnh hành pháp của Trump có hợp pháp hay không, về các vấn đề pháp lý… Nhưng các vị biết điều tôi chưa từng nghe ai nhắc đến không?
Họ đã phải chịu đựng 20% lạm phát dưới thời Tổng thống Biden. Họ hiểu rất rõ những gì Musk đang làm. Họ hiểu thế nào là sự lãng phí kinh khủng trong chi tiêu ngân sách.
Ông Musk bắt đầu rà soát từ USAID, cơ quan chịu trách nhiệm quản lý phần lớn các khoản viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ. Mỹ là một đất nước rất hào phóng. Ở đây, nếu bạn vô gia cư, chúng tôi sẽ giúp bạn có chỗ ở. Nếu bạn đói, chúng tôi sẽ giúp bạn có thức ăn. Nếu bạn quá nghèo để trả tiền chữa bệnh, chúng tôi sẽ giúp bạn chi trả viện phí. Và chúng tôi cũng gửi rất nhiều tiền ra nước ngoài để giúp đỡ các quốc gia khác. USAID chính là cơ quan phụ trách chính.
Duyên Số - Nguyễn Áo Trắng
Tôi vẫn nhớ mãi lần đầu đến thăm cậu Toàn hồi cậu mới sang Mỹ. Cậu
là em út của Mẹ tôi. Hôm đó là ngày Mùng Hai Tết Âm Lịch hơn 20 năm về trước.
Tôi hớn hở vui mừng lúc tìm ra địa chỉ căn chung cư của cậu út, nhưng tới nơi,
tôi hơi thất vọng vì người ra mở cửa không phải cậu, nhưng là một gã thanh niên
lạ hoắc!
Với bộ quần áo "lính" và mái tóc ngắn như con trai, nhìn lại mình trong gương trước khi ra khỏi nhà, tôi nhủ thầm: "cũng 'oai' ra phết đấy chứ!" Tôi còn thói quen thích đeo kiếng mát, mà phải là kiểu kiếng nào nhìn "đêu đểu một chút!" Lúc đó, tôi nhớ mình mang mắt kiếng bóng như gương soi. (Ở ngoài nhìn vô không thấy mắt mình, nhưng mình nhìn ra trông rất rõ... đối thủ!) Cũng nhờ đôi kiếng này mà tôi đỡ bối rối vì cái gã thanh niên đó cứ đăm đăm nhìn tôi chằm chặp. Hơi mất bình tĩnh một chút nên tôi ngập ngừng hỏi:
- Xin lỗi... Đây có phải nhà của Cậu Toàn" Cậu Toàn có nhà không"
Hắn nhìn tôi, vẫn cái nhìn làm tôi khó chịu! Không những không trả lời tôi, hắn còn nghênh nghênh như khiêu chiến, trông phát nực, rồi quay về phía sau gọi lớn:
- Toàn ơi. Có cô bé nào kiếm mày kìa!
Tôi thật sự an tâm khi thấy cậu tôi xuất hiện. Hai cậu cháu ngồi
nói chuyện một lúc, rồi cậu dắt tôi vào phòng ngủ của cậu, với tay lấy cuốn
album trên kệ sách đầu gường chỉ cho tôi xem hình gia đình bên ngoại, và những
lá thư bên nhà mới gởi qua... Tôi mở album, lật xem từng trang, nhưng không biết
từ lúc nào, cái thằng cha khó ưa kia đã đi vào phòng cậu tôi, lặng lẽ đứng
khoanh tay gần đấy, miệng nhai kẹo cao su... đang thưởng thức cậu cháu tôi nói
chuyện! Tôi nghĩ thầm: "Người chi mà vô duyên tệ!"
Vừa xem xong, tôi nhìn chung quanh phòng ngủ của cậu, và điều đầu
tiên đập vào mắt là tôi thấy trên gường cậu có tới những hai cái gối đầu! Bấy
giờ tôi mới nhìn kỹ hơn, đó là loại gường dành cho hai người nằm, phải cỡ
"King" hoặc "Queen size". Tôi đánh bạo hỏi:
- Cậu nằm chi cái gường lớn vậy"
Cậu hướng mắt về phía hắn ta, rồi tỉnh queo trả lời:
- Ồ Cậu với Bình ngủ chung.
Tôi nhắc lại như tưởng mình nghe lầm:
- Cậu... ngủ... chung... với... cái... ông kia"
Và để nhấn mạnh lại câu hỏi, không đợi cậu trả lời, tôi nói
luôn:
- Hai người đàn ông... ngủ chung một gường"
Cậu tôi, chắc lúc đó mới "nhìn" ra thắc mắc của tôi,
nên trả lời:
- Hôm dọn về đây, không có gường hay bàn ghế gì cả, gọi điện thoại lên Bộ Xã Hội, sau đó một tuần nhà thờ Tin Lành họ chở tới cho cái gường này & vì cậu với Bình "share" (ở chung) một phòng, nên có muốn nằm riêng cũng đâu có gường khác mà nằm. Mi lại nghĩ tầm bậy cái gì nữa đấy"
Tôi hơi quê quê khi có người đọc được tư tưởng của mình, nên vội
chữa:
- Đâu có! Cháu chỉ nghĩ... hai người đàn ông ngủ chung một gường
nó kỳ... kỳ làm sao ấy, nên hỏi vậy thôi.
Xong nhưng chưa hết thắc mắc, tôi tiếp lời:
- Mà chỉ ngủ thôi, chứ đâu có làm gì khác... phải không cậu"
Cậu Toàn như biết được ý đồ không ngay chính của tôi nên lừ mắt
bảo:
- Đừng có nghĩ bậy bạ!
Tôi giả bộ ngây thơ:
- Được rồi & Không nghĩ thì không nghĩ!
Từ nãy giờ tôi quên mất cái thằng cha dễ ghét kia, hắn "nhập cuộc" ngay từ đầu, nghe không sót một câu, lại còn tủm tỉm cười nữa chứ. Hắn làm tôi nóng mặt lên được. Người gì... bất lịch sự!
*
Ba biết tôi đã liên lạc được với cậu út, nên thỉnh thoảng tôi có
xin phép đến thăm cậu, ba cũng vui vẻ đồng ý. Tôi nhớ có lần ba tôi bảo:
- Ừ. Con tới xem cậu cần gì, có đi chợ đi búa thì chở cậu ấy đi.
Mới qua chắc chưa có xe cộ gì đâu, thỉnh thoảng con chạy qua chạy lại thăm chừng
kẻo mai kia mẹ sang, bà ấy lại trách không "chăm sóc" em của bà. Con
đi thay cho ba vậy.
Thế là tôi "anh dũng hiên ngang thi hành nghĩa vụ." Chứ
bình thường, thật tình mà nói, nếu như xin phép ba tôi để đi đâu một mình là phải
"nín thở qua sông" rồi. CHO, ông cũng chẳng "YES", mà KHÔNG
CHO, ông cũng chẳng "NO". Có cần đi đâu, xin phép mà không nghe thấy
ông trả lời, thì coi như là tôi cứ việc "a lê hấp" ở nhà!
Vào dịp Đại Hội Hoa Anh Đào năm đó, tôi đến rủ cậu đi xem Hoa
Anh Đào nở, nhưng Cậu tôi có vẻ dửng dưng, không thích cho lắm. Cậu bảo:
- Người thật thì cậu ngắm, chứ hoa với hoét, chán chết! Thôi,
cháu với thằng Bình có đi thì đi, cậu không đi đâu!
Trời đất! Tôi nghĩ thầm mà tức anh ách & Tôi rủ cậu, chứ có
"mời" cái thằng cha kia đâu, bây giờ cậu nói, làm hắn mừng ra mặt,
mau mắn trả lời ngay:
- Vậy & Mình đi Phượng nhé!"
Trời ơi là trời! Lúc đó tôi ở vào tình thế dở khóc dở cười & Nhớ lại trên đường đến nhà cậu, tôi tự tin là mình sẽ mời được ông cậu ra khỏi nhà, để đi chơi. Dù gì tôi cũng là dân ở Mỹ lâu hơn cậu, nào là hôm nay cháu sẽ làm "hướng dẫn viên" đưa Cậu đi một vòng bờ sông Potomac ngắm Hoa Anh Đào & Tôi diện thật kẻng để "bát phố" với ông cậu, thế mà bây giờ... đành "ngậm một mối căm hờn trong cũi sắt!"
Cũng vì cái mác "dân ở Mỹ lâu" nên tôi đành làm "hướng dẫn viên bất đắc dĩ" đưa hắn đi ngắm Hoa Anh Đào ở vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn (Washington, DC). Rõ khổ, tự dưng tôi phải làm tài xế cho hắn, vô lý hết sức! Tôi vừa lái xe vừa "rủa thầm trong bụng", còn hắn ngồi một bên như một ông chủ bự, lại còn phì phèo điếu thuốc lá trên môi, lâu lâu hắn thả khói bay cuộn thành vòng tròn bay ra cửa kiếng phía bên hắn ngồi & Rồi khi gặp gió thổi lùa vào, tôi lãnh đủ! Tôi lạnh lùng vừa chăm chú lái xe, vừa nghiến răng trèo trẹo!
Đầu óc tôi hoang mang quá nên lấy lộn "exit" làm con
bé phải chạy thêm một vòng. Tôi phải đi đổ một bình xăng đầy, và tiếp tục chạy
& Ai đã từng đi lạc đường, nhất là đường sá bên Mỹ này, mới hiểu cho tôi
trong tình huống ấy. Ngày đó tôi chỉ mới học xong trung học, vừa có
"driver license" được mấy tháng nên vẫn còn lạng quạng lắm, phải mất
gần một tiếng sau tôi mới tìm lại được I-395 để vào Thủ Đô!
Trời mới vào xuân và thỉnh thoảng mưa phùn bay lất phất, trên-trời-dưới-đất-chung-quanh
hắn và tôi như lạc vào giữa rừng hoa... Bước chân đưa chúng tôi vào Japanese
Garden (Vườn Hoa Nhật Bản), tôi còn nhớ, hắn và tôi cùng dừng lại ở một nơi thật
nhiều hoa pensée, đủ mọi màu sắc. Bỗng trước mắt chúng tôi xuất hiện một cặp lớn
tuổi, trông như người bản xứ. Họ đứng ôm nhau, hôn say đắm. Nhẹ như hơi thở, hắn
nói:
- Anh cũng muốn như vậy!
- !!!
Giả bộ như không nghe gì hết, tôi vội bước thật nhanh sang những luống hoa khác. Lúc đó tôi chỉ mong cho thời gian qua mau để đưa hắn "trở về nguyên quán!" Thật ra tôi không tệ lắm đâu, vì tôi cũng "làm phước" chụp cho "hắn" vài "pô" hình. Coi như kỷ niệm lần đầu "Ra Tỉnh!"
Sau đó, những lần đến thăm cậu, tôi thấy hắn cứ lân la như muốn nói chuyện "làm quen" với tôi. Nói thì nói, tôi nghĩ "có chết thằng tây nào đâu!"
Về cách xưng hô, lúc đầu tôi gọi hắn bằng CẬU, lý do rất đơn giản,
vì hắn là bạn của cậu tôi, hơn nữa hắn và cậu tôi cùng tuổi, có nghĩa là hơn
tôi đến bảy tuổi, nhưng rồi hắn gạt phăng đi, và nói:
- Anh đâu có phải là "cậu" thật như thằng Toàn!
Tôi tròn mắt hỏi lại:
- Chứ gọi bằng gì bây giờ, "Ông Nội""
- Gọi bằng gì cũng được, nhưng không gọi bằng cậu; không được gọi bằng "Ông Nội" luôn! (Nói xong, hắn liếc xéo tôi một cái!)
*
Hắn kể đủ thứ chuyện & Tôi thật sự "tội nghiệp" khi nghe hắn nói tới đoạn mỗi ngày hắn phải đi và về mỗi lần năm chuyến xe buýt mới đến chỗ làm, hoặc về nhà. Vậy mà hắn vẫn kiên trì... đi cày như thế; gặp tôi, chắc công việc đó chỉ "thọ" một tới hai bữa là nhiều. Sau này hơi quen quen, hắn đưa tôi xem Văn Bằng Đại Học mang qua từ Việt Nam, tôi buột miệng nói:
- Sao anh không ghi tên đi học lại, anh học tiếp đi, bỏ như vậy uổng lắm! (Nói thật, tôi chẳng quen gọi ai bằng anh, có lẽ tại tôi không có anh lớn trong nhà, nên mỗi lần tôi "sử dụng" chữ "anh", nó ngượng nghịu làm sao, phát âm muốn quẹo cả lưỡi!)
Rồi tôi cũng quên bẵng cái việc khuyên hắn đi học lại. Trong lúc
đó, ông cậu tôi lại "khó chịu" khi "chúng tôi" thân với
nhau. Một hôm Bình gọi điện thoại cho tôi:
- Thằng Toàn nó bảo nếu anh đi chơi với em, nó không chơi với
anh nữa!
- Rồi anh nói sao với ông ấy"
- Anh bảo: Tao đi chơi với Phượng vui hơn, đi chơi với mày có
cái mẹ gì đâu!
- Chết, anh nói vậy, ông ấy giận cho xem.
- Kệ nó chứ.
- Anh không được gọi cậu em bằng "thằng"!
- Nó là bạn anh mà.
- Em không cần biết... Ông ấy là em ruột của mẹ em!
- OK, thì không gọi... Nhưng cái "thằng" cậu của em
hâm lắm!
- Nữa!
- Gì"
- Lại gọi "thằng"!
- Xin lỗi. Anh quên!
- Anh nói ổng "hâm" mà "hâm" làm sao"
- Nhớ tuần trước mình đang nói chuyện điện thoại, "nó"
giựt sợi dây ra. Anh bực mình quá, quát nó một trận! Không biết ba em với ông cậu
có chuyện gì xích mích, mà lúc trước anh toàn nghe cậu em nói... làm anh không
có cảm tình với gia đình em!
- Trời đất!
- Đó cũng là lý do, trước tết mấy bữa "nó" nói với anh
là "cháu nó" đến chơi, anh đã định bụng sẽ xin nghỉ ở nhà xem mặt
cháu nó "khó ưa" ra sao! Lúc gặp, em lại đeo cái "kiếng râm",
nên anh chẳng nhìn thấy mắt em gì cả! Anh ghét em mang cái kiếng hôm đó ghê!
Còn kên kên với người ta nữa!
- Vậy em có "khó ưa" không"
- Còn hỏi nữa, anh "hôn" bây giờ!
- Dám!
- Sao không! Thách đi, anh "mi" cho xem!
Tôi sợ quá, phải "tỉnh táo" mới được, "ngu" gì "thách" cái kiểu chết người đó hở trời!
*
Một hôm, Bình báo tin cho tôi biết chàng phải kiếm chỗ ở khác, vì ông cậu của tôi trả nhà, không muốn chàng share "ở chung" nữa, vì chàng đã vi phạm luật: "Dám" quen với tôi, cũng đồng nghĩa là KHÔNG CHƠI với Ông Cậu tôi nữa!
Vài tuần sau, Bình cho tôi biết chàng dọn về mướn phòng bên ông
Bảo, cùng khu chung cư gia đình tôi mướn, chỉ cách hai con đường. Mấy lần gặp
chàng lang thang đi quanh quẩn ngoài đường, tôi lấy làm lạ, vì trên con đường
lái xe về nhà tôi phải đi ngang qua con đường trước mặt khu chung cư của Bình.
Có những cuối tuần tôi gặp Bình cứ hết ngồi lại đứng ở cầu thang chung cư hay
lang thang ngoài bãi đậu xe... Một hôm tôi ngừng xe lại hỏi:
- Sao anh không vô nhà mà cứ ở ngoài đường hoài vậy"
Bình trả lời tôi với giọng buồn hiu hắt:
- Đâu có vô nhà được!
Tôi ngạc nhiên quá, rồi bỗng nhớ ra một điều, tôi hỏi:
- Anh để quên chìa khoá ở trong nhà"
Bình lắc đầu buồn bã:
- Không phải. Người ta có khách, mình không vô nhà được!
Tôi vẫn không hiểu:
- Có khách thì kệ người ta, anh mướn nhà trả tiền mà & đã đi
làm năm ngày, được có hai ngày cuối tuần nghỉ ngơi, Phượng thấy anh cứ ở ngoài
đường hoài vậy làm sao mà nghỉ ngơi được"
Bình nhìn tôi thật buồn:
- Người ta tiếp khách, khoá chốt cửa bên trong. Anh có chìa bên
ngoài, có muốn mở cũng không được!
Tôi lại thắc mắc:
- Sao anh không gõ cửa để họ mở cho.
Bình nhỏ nhẹ giải thích:
- Vì họ không muốn có mình trong nhà, nên họ khoá bên trong luôn
mà!
Tôi càng không hiểu:
- Nhưng anh phải nói với ông Bảo chứ. Ông ấy tiếp khách gì thì kệ
ông ấy, ai đời lấy tiền phòng, rồi bỏ con người ta đứng khơi khơi ngoài đường,
trời mùa hè nóng phát điên lên, họ làm vậy sao được"
Bình nhìn tôi rồi nói:
- Mang tiếng là thuê phòng, nhưng đó chỉ là một góc ở phòng khách, họ kê cho anh một cái gường và một cái bàn học nhỏ thôi, không phải phòng riêng Phượng à . Nên chẳng lẽ khi họ tiếp khách, nói gì hoặc... làm gì, vả lại khách lại là phụ nữ... nếu anh ở trong nhà, có lẽ... không tiện lắm!
Lúc đó tôi chịu thua, vì Bình càng giải thích, tôi lại càng không hiểu gì cả.
Nhớ lần đầu tiên, tôi học làm một chiếc bánh bông lan có quả
blueberry trộn lẫn trong đó. Không biết tôi làm sai điều gì, khi chiếc bánh
chín tới thì mọi quả blueberry đều chìm xuống mặt dưới khuôn đổ bánh! Trên đường
đi làm, tôi ghé ngang đưa cho Bình và nói:
- Ăn đỡ nghe, không biết Phượng làm thế nào mà không giống hình ở
trong sách!
Bình đỡ lấy cái bánh từ tay tôi có vẻ cảm động lắm!
Sau này, tôi còn nhớ khi lần đầu đến nhà tôi chơi, Bình gọi ba
tôi bằng "anh" - tôi nghe giận tím cả ruột. Bình hỏi gì tôi cũng
không nói, mãi sau chàng đoán là tôi giận điều gì đó, hỏi dò mãi, tôi lên tiếng:
- Anh gọi ba em bằng "anh" thì em gọi anh bằng gì bây
giờ"
Và tôi ra thêm một "tối hậu thư": Nếu như anh còn xưng hô gọi Ba em bằng "anh" và xưng "em" với ba em thì "Mình Không Còn Gì Để Nói Nữa!"
Chàng như hiểu ra, và sau đó chàng đổi cách xưng hô, gọi Ba tôi là "Bác".
*
Sau này nhờ một gia đình quen cho thuê lại căn phòng trong nhà, gần bên trường Đại Học, bao luôn ăn chung với gia chủ, thế là Bình có cơ hội đi học toàn thời gian. (Nếu như người Ân Nhân của chúng con đọc những dòng này, con xin cảm ơn Ông Bà đã giúp đỡ nơi ăn chốn ở cho nhà con lúc mới chân ướt chân ráo mới sang đây... Và đã giúp đỡ bằng mọi cách khi chúng con mới lập gia đình còn rất là nghèo!)
Về sau chúng tôi thân với nhau hơn, những buổi đi chơi, phần nhiều hai đứa ghé chợ Việt Nam mua hai ổ bánh mì thịt và hai loong sữa đậu lành . Mọi người có biết chúng tôi đi chơi ở đâu không" Chín phần mười là chúng tôi vào nghĩa trang, kiếm chỗ nào có bóng mát trải tấm bạt ăn "picnic"! Bây giờ nghĩ lại mà lạnh xương sống vì tôi là chuyên viên "sợ ma"! Nhớ lại, thỉnh thoảng có hôm người ta đang hạ huyệt, bên này chúng tôi cứ "tỉnh như rưồi"... ngồi xơi bánh mì, uống nước, và nói chuyện trên trời dưới đất. Ngày xưa chúng tôi nói chuyện gì mà nhiều đến thế không biết!
Tôi phải công nhận là Bình học giỏi thật... và đặc biệt hơn nữa chàng ra trường hai ngành một lúc (double majors). Không những vậy, chàng còn là một trong những sinh viên ra trường với Hạng Danh Dự nữa: Khi ra trường, được đeo giây màu vàng ở mũ và khăn vàng choàng qua ngang vai, khác với sinh viên thường, họ chỉ mặc toàn màu đen.
Thỉnh thoảng tôi vào trường để đưa cho chàng ổ bánh mì và lon sữa đậu nành, chứ biết chàng đi học mà cứ xơi mì gói hoặc bánh mì sandwich với bơ đậu phụng tôi thấy thắt cả ruột! Có hôm lòng vòng chẳng thấy Bình đâu cả... Đi ngang qua "tutorial office" (kèm học), mọi lần Bình vẫn hay ngồi đấy, nhưng hôm nay lại không thấy đâu cả. Từ đàng xa, tôi nhìn vào phòng ăn của trường, đã thấy một đám đông, thôi thì vòng trong vòng ngoài kín mít, tôi nhìn quanh quất vẫn không kiếm được chàng. Cái đám đông kia không biết họ làm gì mà ồn ào náo nhiệt quá, tôi tò mò cố mãi mới chen vô được bên trong... Thì ra không biết một người nào đó với Bình đang cá độ cờ tướng. Có lẽ đang ở hồi gay cấn, nên dù biết tôi đứng bên cạnh, Bình cũng không nói gì. Tôi chỉ thấy tức cười, vì người kia và chàng cứ lầm lầm lì lì như bị ... táo bón ba ngày!
*
Sáu tháng sau khi Bình ra trường và có việc làm, chàng nhờ người
đến nói chuyện với ba tôi. Mùa thu năm đó chúng tôi làm Lễ Đính Hôn và hè năm
sau Đám Cưới. Mới đó mà đã 20 năm rồi, nhưng tôi vẫn thường nhớ lại câu mình
hay nói với chàng lúc xưa:
- Thôi, cho em xin hai chữ "bình an".
Bình đâu có chịu thua tôi, chàng nói:
- Lấy anh rồi em sẽ có "Bình An"!
Tôi cảm nhận được mình rất may mắn vì duyên số dẫn dắt cho tôi gặp
chàng. Tuy rằng trong cuộc sống gia đình đôi lúc cũng sóng gió, phong ba... và
mỗi khi tôi gặp khó khăn, bất kể đó là vấn đề gì, chàng luôn luôn đem lại
"bình an" cho tôi. Nghĩa vợ chồng, theo tôi, ngoài thương yêu và tin
tưởng lẫn nhau, chúng tôi hầu như luôn tôn trọng lẫn nhau, thì dầu gió bão cấp
mấy, cả hai chúng tôi cùng vững tay chèo chống rồi mọi sự cũng qua mau. Tôi viết
lại những lời này để bày tỏ lòng "yêu thương và tôn trọng anh mọi ngày suốt
đời tôi."
Nguyễn Áo Trắng
Friday, February 14, 2025
Xem Có Phải Bố Chúng Bây Không
Trong đám tang một vị quan to.Vị Trưởng ban tổ chức lễ tang đọc điếu văn:
“Người vừa lìa xa chúng ta là một con người mẫu mực. Cả đời ông sống liêm khiết, không tơ hào một li một lai nào của nhà nước, của nhân dân. Ở cơ quan, ông là vị lãnh đạo gương mẫu, thương yêu và hết lòng với cấp dưới. Thương cấp dưới, đồng nghiệp như anh em ruột thịt. Thấy ai gặp hoạn nạn, ốm đau, ông thấy mình còn đau hơn họ. Ở trong gia đình, ông là người chồng, người cha mẫu mực, hết lòng yêu vợ, thương con. Đối với làng xóm, láng giềng, ông được mọi người quí mến, kính trọng..”
Nghe đến đây bà vợ người quá cố nói với mấy đứa con mặt mũi ráo hoảnh đứng xung quanh:
“Hình như người ta đang đọc nhầm điếu văn của ai đó. Các con
ra nhìn vào áo quan xem có phải bố chúng bây nằm trong đó không...??? "
Lượm trên mạng
Hồi Ký Của Một Bác Sĩ - Phương Vũ Võ Tam Anh
Một bác-sĩ “cách-mạng” từ Bắc vào, hăm-hở
đến tiếp-thu bệnh-viện Vĩnh-long sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 đã thốt ra câu
nói đầu tiên với chúng tôi : "Các anh là kẽ thù của nhân-dân, đáng tội chết..."
Tuy mới mấy ngày sau khi "giải-phóng" nhưng tai chúng tôi cũng đã
quen với câu nói đó, chỉ có khác là lần này được phát ra từ miệng một bác-sĩ mà
chúng tôi chờ đợi để hy-vọng thấy được một nụ cười hay một chút thông-cảm trong
tình đồng-nghiệp. Chẳng khác gì những cán-bộ khác, bác-sĩ cũng tuông ra câu học
thuộc lòng: "Nhưng Đảng và Nhà-nước khoan-hồng tha tội chết cho các anh..."
May thay, chúng tôi được tha tội chết,
nhưng thay vào đó, phải lảnh cái án "dở sống dở chết " kéo dài năm
này qua năm nọ trong các nhà tù, nhường sự-nghiệp lại cho các đồng-nghiệp mới,
huênh-hoang trong cái độc-quyền nhân-đạo với các bảng hiệu « Lương Y như Từ-mẫu
» treo nhan nhản khắp xó xỉnh trong bệnh-viện.
Có lẽ Cụ Hippocrate ở dưới suối vàng
cũng không khỏi phẫn-nộ khi các môn-đệ ở Miền Bắc không chịu học lời thề Cụ dạy
trước khi ra trường:
"Tôi thề sẽ giúp đở các đồng- nghiệp
và gia-đình họ trong cơn ngặt nghèo, tôi sẽ mất hết danh-dự và bị khinh-bỉ nếu
tôi không giữ lời thề đó".
Trước mặt thì đồng-nghiệp gọi chúng tôi
bằng "anh", nhưng quay lưng lại là "thằng", là "chúng
nó" ngay, không hiểu là vì thói quen, vì văn-hóa, vì mặc-cảm hay vì
chính-sách.
Ngày đầu tiên mới đặt chân lên đất Bắc
trên con đường lưu đày, khi mà tầm mắt đang còn ngỡ-ngàng với rừng sâu núi thẳm,
khi mà thể xác và tinh-thần chưa lai tỉnh qua cuộc hành trình định-mệnh
kinh-hoàng, thì chúng tôi được đón tiếp vồn-vã bởi một đồng-nghiệp. Vồn-vã
không phải để thăm hỏi sức khỏe hoặc để an-ủi một lời nào, mà để tịch-thu thuốc
men và dung cụ y-khoa mà chúng tôi mang theo, nhất là để tò mò tìm hiểu những
điều mới lạ trong cuộc sống "phồn-vinh giã-tạo" ở trong Nam.
Câu nói đầu tiên và gần như là câu chào
hỏi ở cửa miệng mỗi khi gặp nhau: "Anh ăn mấy lạng ?" (gạo mỗi ngày),
làm chúng tôi bở ngở không biết đâu mà trả lời. Thì ra cái quan-tâm hàng đầu của
nền y-khoa miền Bắc là cái bao-tử, và xã-hội được chia ra làm nhiều loại bao-tử
khác nhau tùy theo đẳng-cấp và sự trung-thành với Đảng: 120 lạng ,150 lạng, 170
lạng.... cái hàn-thử-biểu để đo vị-trí mình trong xã-hội. Kế đó là thắc mắc về
những phần thịt đươc bồi-dưỡng trong những ngày lể, ngày Tết…
Thấy chúng tôi không ở cùng một tần-số
trong cái hội-chứng đường ruột đó, bác-sĩ bèn lên mặt chỉ-đạo: "Chớ có trốn
trại nghe, không thoát đâu ". Quả-nhiên lời khuyên có chấp-chứa ít nhiều
tình thật đó lại là không sai. Chỉ có vài ngày sau khi đặt chân đến cái nơi núi
rừng chằng chịt mang tên Sơn La đó, khi chưa xác định được vị-trí trong cái bản-đồ
mênh-mông của miền Thượng-du Bắc Việt, thì một số anh em đã lần lượt trốn trại
rồi lần lượt bị bắt lại để gánh chịu những hình phạt ghê gớm đang chờ sẵn.
Trong số đó phải kể đến hai đồng-nghiệp, một Thiếu-tá Y-sĩ- trưởng Trung-tâm Hồi-lực
ở Sài-gòn và một Y-sĩ Đại-úy Thủy-quân Lục-chiến, đã thoát khỏi lao tù vì đã trốn
qua "bên kia thế -giới" sau khi không thành-công trong cuộc tổ-chức
trốn qua "bên kia biên-giới".
Sau một thời gian xáo trộn, chúng tôi gồm
có 8 bác-sĩ, 1 nha-sĩ, 2 dược-sĩ được tập-trung lại để thành-lập một "trạm-xá
" có nhiệm-vu săn sóc sức khỏe cho anh em tù trong vùng. Bằng những
phương-tiện của thời-đại đồ...tre, với kỹ thuật từ thời Hoa-đà, chúng tôi cũng
được an-ủi bằng một số thành-công trong nhiệm-vụ chửa trị, và đã lưu lại cho
chúng tôi nhiều kỹ niệm khó quên. Anh T. bị bệnh phung cùi, bọn cai tù ghê sợ,
biệt giam trong một cái chòi giữa rừng, thường ngày chúng tôi đến thăm viếng,
theo dỏi bệnh tình, chia nhau từng củ sắn củ khoai, khích lệ cho nhau cho đến
ngày về. Anh H. bị mất trí vì trúng độc khi ăn phải trái cây rừng, suốt ngày la
hét, phải cách ly trong một túp lều ở giữa rừng, chúng tôi chia phiên nhau túc
trực ngày đêm bên cạnh để canh chừng, nhưng cuối cùng anh cũng qua đời.
Phải kể đến những trường hợp giải-phẩu
theo kiểu...rừng, với tất cả liều lỉnh rủi may. Trang-bị bằng một bộ trung-phẩu
dã-chiến của Trung quốc và một lò hấp ướt (autoclave), với mấy bình ê-te
(ether) và cái masque Ombredane là dụng cụ đánh thuốc mê hở (circuit ouvert) cổ
lổ sĩ dùng trước thế chiến 1914-1918. Trong những "bloc" được ngăn
cách bởi những tấm phên tre và tấm vải mùng, muổi mòng tha hồ bay lượn, dưới ngọn
đèn dầu và đèn pin, mà nhờ trời chúng tôi cũng thành-công được trong nhiều trường
hợp, những chấn-thương vì tai-nạn lao-động, hay trường hợp anh N. bị tắc nghẻn
ruột, phải giải-phẩu để tái tạo một hậu-môn tạm thời, phải theo dỏi và săn sóc
từ A đến Z trong nhiều tháng với sự tận-tình của mọi người nên kết quả rất khả-quan,
vân vân và vân vân.
Chúng tôi đã đóng tất cả các vai trò
trong việc điều trị, từ lao-công, y-tá, phụ mổ, gây mê, cầm dao, rồi hậu-phẩu,
vệ-sinh, giặt giủ v...v...bù lại khỏi phải đi lao-động đốn vầu, đốn nứa, đẩy xe
trong những lúc đó.
Một sự tình cờ khiến chúng tôi phải giải-phẩu
cấp cứu thành-công cho một tên cán bộ bị viêm ruột thừa cấp-tính mà không biết
chở đi đâu. Mấy tháng sau, nhân dịp Tết Nguyên-đán 1978, có mấy cán-bộ trong
ban chỉ-huy trại đến cám ơn chúng tôi, và tưởng-thưởng bằng một tấm hình chụp
chung mấy anh em chuyên-môn trong bệnh-xá, một kỹ-niệm độc nhất vô nhị của những
ngày tù ở Sơn La. Tiếng đồn lên tới Bộ chỉ huy Đoàn. Một số cán-bộ có thiện tâm
muốn mở tầm hoạt động của chúng tôi cho dân chúng trong vùng Mường Thải, huyện
Phù-yên, nơi mà xưa nay dân chúng chưa hề thấy đươc cục xà bông chớ đùng nói
chi đến viên thuốc tây. Thế rồi dân chúng đến xin chửa trị mỗi ngày một đông,
tuy thuốc men chẳng có gì nhiều nhưng cũng giúp ích được một số lớn trường hợp
và ít ra cũng giúp họ làm quen với y-khoa ngày nay thay vì phải uống lá rừng suốt
đời. Khi đặt ống nghe vào ngực, có người đã huênh-hoang khoe rằng là được... rọi
điện.
Đông nhất là phần chửa răng. Ngậm một
cái răng sâu năm này qua tháng nọ như một cái đinh đóng vào óc, nay được nha-sĩ
nhẹ nhàng xoi xỉa với một cái máy quay đạp bằng chân, hoặc nhổ đi mà không đau
đớn gì, thật là một điều mà dân Mường ở đó không bao giờ mơ tới.
Một đêm nọ, đang lúc giữa khuya, một cán
bộ VC cầm cây đèn bảo xăm xăm bước vào phòng giam chúng tôi, bảo rằng một người
đàn bà trong bảng Mường đang nguy kịch vì đẻ không ra đã hai ngày nay. Anh Thức,
chuyên môn về phụ-khoa được cử đi cấp-cứu. Trong môt gian nhà sàn rộng rải
không có vách ngăn, ở giữa là cái bếp lửa cháy suốt ngày đêm, dăm ba người đàn
ông ngồi quanh nói chuyện ồn ào tỏ vẻ lo lắng, ở trong góc một người đàn bà
đang quằn quại rên la một cách tuyệt-vọng. Trong khi mọi người bu quanh chăm
chú và nghiêm-nghị nhìn anh Thức khám bệnh như nhìn một phù thủy đang làm phép,
anh Thức bình tỉnh khám thấy rằng đó là một trường hợp song thai, hai đứa bé ôm
quàng lấy nhau mà lại nằm ngang, không đẻ ra bằng đường tự-nhiên được. Phải chở
đi bệnh-viện để mổ lấy con ra, nhưng anh Thức quên rằng chuyện đó không thể có
được ở đây. Không làm gì hơn được, anh bèn tạm thời dẹp sách vở qua một bên mà
cố gắng xoay một đứa cho cái đầu ở vị trí thuận-lợi để ra trước, rồi đến đứa
kia, cuối cùng được mẹ tròn con vuông, trong sự rối rít cám ơn của mọi người mà
trước đó đã được học tập để coi chúng tôi như những kẽ ác ôn, lúc nào cũng sẳn
sàng "cho một mũi tên độc".
Từ đó các cô gái Mường trong bản cũng tự
-nhiên hơn, cưới đùa mỗi khi tắm suối mà có chúng tôi đi lao động ngang qua, có
khi còn chọc ghẹo nửa. Có anh trong phút chốc bốc đồng đã quên mình là tù đang
đói rách, cũng gồng mình nhảy xuống tắm theo, chỉ tiếc là không có sẵn cục xà
bông để tặng mấy cô Mường, lúc đó hẳn là muôn phần quý giá hơn cả viên kim
cương đem tặng đào ở Sài–gòn nửa. Về sau mỗi cô gái Mường lại đươc đặt cho cái
tên của một ca sĩ nổi tiếng, nào là Mai-Lệ-Huyền, Phương-Dung, Giao-linh,
Phương-Hồng-Quế v…v…, để rồi lúc chiều về, trong khi ngậm-ngùi nhai từng hột bo
bo, thường kể cho nhau nghe rằng hôm nay đi rừng gặp được ca-sĩ nào, ai nghe tưởng
như mới đi phòng trà về mà tạm quên trong giây lát cái cảnh nước sông công tù
mình đang sống.
Một hôm, một cô giáo hớt ha hớt hãi tìm
tới chúng tôi, vì chồng cô, một bộ đội công-tác ở trong Nam được về nghỉ phép,
bổng nhiên thấy mình mẩy nổi mề-đay lên đỏ rần, ngứa khắp cả người. Chúng tôi
đoán là bị dị-ứng với trứng gà, vì thường ngày đi lao-động ngang qua trường học,
thấy cô giáo cứ o bế mấy con gà để chờ ngày chàng về mà bồi-dưởng. Chúng tôi
bèn lục lạo đươc mấy viên thuốc Phénergan đưa hết cho cô.
Mấy hôm sau đi lao-động gặp lại, chúng
tôi hỏi : "Sao ? Anh nhà đã đở chưa ?" Cô vui vẻ trả lời : "Thuốc
các anh cho hay quá, khỏi ngay". Chưa kịp hỏi thêm thì bổng thấy cô cúi mặt
e thẹn, ấp úng nói thêm như không muốn cho chúng tôi nghe: " Nhưng ngủ li
bì, về phép có năm ngày mà ngủ như chết suốt cả năm ngày" .Chúng tôi hối hận
vì đã cho thuốc ngủ mà không dặn trước, làm cho cô phải bỏ lở một cơ-hội bằng
vàng !
Thế rồi trạm-xá càng ngày càng đông
khách, dân chúng từ xa cũng nghe đồn kéo lại để cho trạm-xá được hoạt-động đúng
với danh-nghĩa y tế của nó. Thiện-cảm và uy -tín càng tăng thì, ngược đời thay,
cấp chỉ-huy Trại càng lo lắng. Cuối cùng, Uỷ-viên Chính-trị trên Đoàn lập tức
ra lệnh không được khám bệnh cho dân nửa, vì trái với chính-sách, và ný-nuận rằng
từ mấy ngàn năm nay họ đã chửa trị bằng lá rừng thì đã sao đâu!
Chúng tôi trở lại lao-động, cũng đốn vầu
đốn nứa như những anh khác.
Phải cái tội cao giò, tôi thường được chọn
đi công tác gánh hàng ở xa, để gánh luôn tất cả tủi nhục của kiếp làm… tôi mọi.
Buổi sáng ra đi thì còn dể chịu, trời mát, gánh nhẹ. Nhưng buổi trưa lúc trở về,
trời nắng gắt miền núi như đốt cháy da, lại phải leo đèo, mồ hôi chảy giọt, bụng
đói cồn cào, cái đầu nặng trỉu, chiếc đòn gánh đè nặng trên vai đang nghiền nát
da thịt như những con dao. Người cán-bộ đi theo cũng không quên máng thêm vào
chiếc nón cối, cái áo trấn-thủ mà hồi sáng mang trong người vì trời lạnh, nay
không cần nửa thì tội gì mà không để cho rảnh tay, vì tay đang bận cầm cây roi,
một thứ thời trang của cán-bộ quản-giáo khi đi bên cạnh tù. Đã thế mà khi gặp một
bạn đồng-hành, cán-bộ cũng không quên niềm-nỡ mời :"Đồng-chí có mang gì
không, đưa cho nó gánh luôn". Tôi nghe mà rụng-rời, mắt hoa lên mà không
dám nhắm lại vì sợ ngả sẽ không bao giờ dậy lại được, cũng không dám nhìn xa hơn
mấy đầu ngón chân vì sợ không đủ can-đảm để bước thêm...
Một hôm vì nhu-cầu cấp-cứu một bệnh-nhân
tù đang nguy kịch, tôi được cử theo một cán-bộ đến bệnh-viện Phù-yên để xin mấy
chai nước biển. Đã lâu bị giam hãm giữa bốn bức tường núi, nay được dịp thấy lại
làng mạc với cảnh sinh-hoạt của nhân-dân, lòng cũng không khỏi thích-thú vì tầm
mắt đươc hé rộng ra một chút và thỏa -mãn thêm tánh tò mò nghề-nghiệp muốn biết
tổ-chức y-tế miền Bắc ra sao mà các "đồng-nghiệp " đề cao như là đúng
hàng đầu trên thế-giới.
Huyện Phù-yên thuộc tỉnh Sơn La, nằm giữa
một thung-lũng nhỏ, bốn bề là núi nhưng rất nên thơ. Từ trại tới huyện phải đi
qua ngọn đèo Bang xinh xinh, có con đường mòn uốn quanh, có hoa rừng thơm ngát.
Từ trên nhìn xuống gần giống như một bức tranh Tàu, mờ mờ ảo ảo., rải rát nơi
nơi là nhũng túp lều lụp xụp bám theo sườn núi.. Bước vào huyện phải qua một
con suối lớn, mùa khô thì chỉ là một suối đá hiền-hòa thơ-mộng, nhưng khi mưa
xuống thì trở nên một thác lũ kinh-hoàng. Bắt ngang qua suối là một cây cầu
treo, gió thổỉ đu đưa, mà lại được anh em tù gán cho cái tên rất hấp-dẩn để cho
trí tưởng-tượng được nâng cao là cầu Golden Gate. Mỗi khi gánh hàng qua Golden
Gate, tôi có cảm-tưởng như mình đang là một nghệ-sĩ đu giây trong một đoàn xiệc
mà có thể hụt tay bất cứ lúc nào..
Bên kia cầu là một túp lều không vách,
gió lộng bốn phía, đó là trường học với dăm bảy em bé ốm tong teo, bụng ỏng thề
lề, mỗi đứa cầm một que củi đang cháy quơ qua quơ lại trước người cho đở lạnh
trong những bộ áo Mường mỏng manh. Trong khi các em nghêu ngao hát bài "Hôm
qua em mơ thấy Bác Hồ...." thì cô giáo đang chăm chú ngồi vá áo, mắt đăm
chiêu, hình như cũng đang mơ thấy những chuyện mà dĩ-nhiên khác hơn là thấy Bác
Hồ. Hình ảnh đó làm cho tôi có cảm tưởng rằng Cụ Cao-Bá-Quát đã đi ngang qua
đây để cảm-hứng mấy câu thơ:"Một thầy một cô một chó cái, Nửa người nửa ngợm
nửa đười ươi."
Bên cạnh trường là một cái "cối giả
gạo" có lẽ đã được sáng chế từ đời vua Thần Nông. Nước từ con suối nhỏ
đươc dẩn qua một máng xối đục từ một thân cây, chảy xuống một thân cây dài
khác, một đầu là cái chày, đầu kia đục thành một máng chứa nước. Hể máng đầy nước
thì cái chày tự -động ngóc lên, rồi nước bị đổ ra ngoài để cho chày giả xuống
cái cối ở đằng trước. Cứ thế mà tiếp-tục, cối cứ giả ngày giả đêm, tạo nên một
tiếng đập nhịp nhàng khô khan để đánh thức cô giáo và lủ học trò khỏi ngủ gật..
Năm thì mười họa, một năm vài lần cối mới có gạo để giả, vì dân phải đóng cho
nhà nước hết ba phần tư số thu hoạch, vốn đã nghèo nàn trên những mãnh ruộng bằng
bàn tay xếp thành từng tầng trên sườn núi.
Khi đến cổng bệnh-viện, tôi được chứng-kiến
một cảnh tấp-nập khác thường, nghỉ bụng rằng chương-trình y-tế ở đây đã
thành-công vì được dân-chúng hưởng-ứng đông đảo. Mọi người bu quanh một tấm bảng,
hình như để theo dỏi một thông-báo gì quan-trọng của bệnh-viện về một biện-pháp
y-tế nào đó chăng. Lại gần, tôi thấy rõ thông-báo như sau "Hôm nay bệnh-viện
có mổ lợn, bán theo giá chính-thức. Đồng-bào nào muốn mua xin ghi tên ở phòng
ngoại-chẩn". Tôi suýt té ngửa vì sau bao nhiêu năm hoạt động trong ngành
y- tế tôi vẫn chưa biết được rằng cung-cấp thực-phẩm cho dân chúng cũng là một
khía cạnh trong chương-trình y-tế.
Trái với cảnh xôn-xao ngoài cổng, trong
bệnh viện lại vắng tanh. Tìm cho ra người thủ-kho để xin thuốc thì được biết cô
gái Mường này bận đi hái bông lau về làm nệm để tặng một cô bạn gái sắp về nhà
chồng, một tục-lệ không thể bỏ được của người Mường. Lân la mãi mới gặp được
bác-sĩ trực, vị này không mấy niềm-nỡ vì đang bận cải-hoạt (có nghĩa là cải-tiến
sinh-hoạt để cho đời sống vui tươi hơn) bằng cách ngốn nghiến mấy củ khoai.
Bác-sĩ trực cho biết "Chỉ có bác-sĩ thủ-trưởng mới có quyền quyết-định,
nhưng bác-sĩ đang bận mổ."
Tôi thất-vọng chán chường, nghỉ đến bệnh-nhân
ở trại đang hấp-hối mong chờ mấy giọt nước hồi-sinh, nghỉ đến con đường về vừa
nắng gắt vừa phải leo giốc, nghỉ đến cái dạ-dày đang cồn-cào vì sáng nay không
may đọc được mấy chữ "thịt lợn" trên bảng thông-cáo mà nước bọt cứ chảy
dài (chẳng lẽ tôi lại biến thành con chó của Pavlov, hể nghe tiếng chuông là dịch
tiêu -hóa cứ tuôn chảy, rồi hay sao?) Tôi buồn rầu thất vọng, không biết bao giờ
bác-sĩ trưởng mới mổ xong, vã lại áo quần lem-luốc thế này làm sao gặp được
bác-sĩ ở khu giải -phẩu. Tôi đánh bạo tìm đến bác-sĩ trực hỏi : "Thế tôi
có thể gặp bác-sĩ thủ -trưởng được không ?"
Lần này vị y-sĩ trực vui vẻ trả lời (vì
đã ngốn xong mấy củ khoai): " Được chứ, có gì đâu, anh ấy đang bận mổ lợn
dưới ao đấy mà". Tôi như từ cung trăng rơi xuống !
Quả nhiên, cách đó không xa, cạnh bờ ao,
năm ba người đang bao quanh một con lợn đã cạo lông trắng nõn nằm trên một tấm
thớt lớn. Trong khi đó, bác-sĩ thủ-trưởng bệnh-viện, mình trần, quần xắn tới bẹn,
áo bờ-lu vắt ở hàng rào, đang nhanh nhẹn ra tay mổ bộ đồ lòng với tất cả sự
nhanh nhẹn và khéo léo của một...đại giải -phẩu gia. Lẽ tất nhiên tôi phải chờ
cho ông bạn đồng-nghiệp thanh toán xong con lợn để giải -quyết cho mấy chai nước
biển rồi mới hân-hoan ra về. Ra tới cổng, tôi gặp lại đám dân-chúng cũng đang
hân hoan thở phào nhẹ nhõm như tôi khi được tin bác-sĩ đã mổ xong.... lợn.
Trên đường về, lần này chiếc đòn gánh đè
nặng lên vai không còn cho tôi cảm-giác đau đớn như trước nửa, vì đầu óc tôi
đang bị ám-ảnh bởi một ý-tưởng muôn phần nặng-nề hơn, vì tôi đã nhìn thấy được
sự thật, đã chứng-kiến tận mắt một hiện-tượng sinh-hoạt phản-ảnh lối sống của
những "đồng-nghiêp" bên kia bức màn tư-tưởng.
Phương-Vũ Võ Tam-Anh
Học viện Quân Y VNCH