Lời vào truyện:
Mỗi con người đều có một số mạng.
Mỗi người sinh ra đời mang theo nghiệp của mình từ kiếp trước.
Khi ra đi cũng chỉ mang theo nghiệp quả mà mình đã tạo ra ở kiếp
này.
Chuyện quả báo và nghiệp chướng không có gì làm bằng chứng.
Nhưng tin vào điều đó để sống cho tốt và biết làm điều thiện.
Bài viết về một nhân vật có thật, với tất cả xót xa.
*****
- Rồi nè
con! Đem về cho má.
-Doạ,
coann coám ơn dì ...dì Tu
- Ờ! đi
cẩn thận.
Con bé
bước từng bước chậm chạp ra cửa. Dì Tư còn đứng đó ngó theo.
Bé Nhè là
con của cô Hai Thân trong xóm. Cô Hai có chút ít chữ nghĩa nên làm thư ký cho
cái đội sản xuất nhỏ của cơ quan. Cái lương thư ký trong thời buổi ăn bo bo thì
cũng không có là bao nhiêu tiền. Cô Hai xuất thân là con gái của một gia đình
khá có tiếng tăm. Từ nhỏ cô được nuông chìu lắm vì cô là con gái đầu của họ.
Gia đình
cô có tiếng mà không có miếng bao nhiêu. Ba cô làm thư ký cho hãng của Tây nên
được người ta tôn trong gọi là Thầy. Nhà Thầy Bắc đông đúc lắm bởi lẽ ông có
tới ba giòng con với ba bà vợ.
Lương
công chức không biết có nhiều không nhưng ông lại ghiền á phiện. Cứ tới cữ là
ông ngáp dài ngáp ngắn. Thiếu thuốc ông như con sư tử thiếu mồi la mắng vợ con
vang trời. Ba bà với hơn một chục đứa con nhưng đứa nào cũng sợ ông.
Thấy bóng ông là tụi con tìm cách lẫn ra xa. Khi mà được ông gọi tới là dù con
bà cả hay con bà nhỏ cũng rụt rè khép nép.
Dì Tư
không hiểu họ thương ông ở chỗ nào. Ông gầy nhom, lép xẹp da mặt bủng beo vì
thiếu thuốc. Ông cũng chẳng tỏ ra người phong độ, lịch lãm của một người trí
thức. Ông nói năng cộc lốc ra dáng một người có uy quyền mà uy quyền đó chỉ áp
dụng với cái gia đình nhỏ của ông thôi.
Mà cũng
thật lạ, cả ba bà vợ đều ở chung một nhà rất hòa thuận. Bà vợ lớn được ở nhà lo
cho chồng và tất cả các con, còn bà hai và bà ba phải đi làm mới đủ sống. Tiền
lương về thì đưa hết cho bà cả. Mấy đứa con được sinh ra ngay từ lúc còn bé đã
được bà cả chăm nom, săn sóc. Chúng đều gọi bà cả bằng Má Lớn và
chúng thương yêu gần gũi má lớn hơn mẹ ruột.
Trong xã
hội phong kiến Việt Nam có rất nhiều bi kịch cho phụ nữ và cũng có rất nhiều
người đàn bà rất đáng khâm phục vì sự rộng lượng, chịu đựng vì
thương chồng.
Trong nhà
được xây dựng từ thời Pháp và cấp cho mấy thầy ( Thầy là tiếng gọi chung cho
những người làm việc trong văn phòng hay người có chữ nghĩa, có chức vụ) nên
thường có ba hay bốn phòng. Mỗi bà ở một phòng và lẽ dĩ nhiên con cái ngủ chung
với họ. Thế mà một ông ba bà ít khi nào có tiếng gây lộn lớn lao về chuyện
chồng chung. Thường là ỏm tỏi chỉ là chuyện con cái gây gỗ hay đánh lộn với
nhau. Bà lớn nắm quyền hành trong nhà. Mọi việc đều do bà quyết định
và phân xử. Được cái bà là người tốt bụng, biết phải quấy nên mấy em rất kính
phục chị cả.
Khi con
cái tương đối lớn, nhà cửa chật chội bất tiện, bà Hai òn ĩ xin chị
cả ra ở riêng. Ông Bắc thì không chịu, nhưng bà cả thấy cũng hợp lý nên
bà tán thành. Có lẽ vì thấy ông Bắc già hay sinh tật, con cái đã có hiểu biết
nên để mấy bà vợ nhỏ có một giang san riêng. Bà tâm tình với má dì Tư:
-Bác Sáu
xem, tôi già rồi cũng cần nghỉ ngơi. Thôi cứ để mấy dì nó ra riêng để ông ấy tự
nhiên lui tới mà con cái cũng bớt bị bố nó la mắng.
Má dì Tư
cười cười:
-Rồi bà
thầy không ghen sao?
- Ối
giời! Ghen chi mà ghen bác Sáu ơi!. Xưa chả làm gì được với ông ấy. Bây giờ có
còn chi mà ghen với chả ghen.
Thế là bà
Hai che một cái chái bằng lá dừa sát cạnh nhà bà lớn cho ông Bắc dễ qua
lại. Một thời gian sau bà Ba cũng xin chị Cả sang một cái nhà nhỏ
gần đó để ra riêng. Nhà chỉ còn gia đình bà lớn và ông Bắc. Để kiếm thêm tiền
chợ, bà mướn thợ làm một quán nhỏ trước nhà bán cà phê và điểm tâm buổi sáng.
Mấy cô con gái bà đã lớn , ngoài giờ học có thể phụ mẹ buôn bán. Khi
cần bà kêu con bà hai và bà ba đến phụ. Cuộc sống của ba gia đình cũng tạm ổn.
Tuy nhiên
người không ổn có lẽ là ông Bắc. Kể từ khi hai bà vợ nhỏ ra riêng, ông thấy
mình bị mất mát nhiều. Bà vợ lớn mãi lo buôn bán không còn chăm sóc ông tận
tình như trước. Căn nhà rộng rãi ông cảm thấy trống vắng nhớ nhung. Bà Hai ở
sát nhà nhưng muốn qua phải gỏ cửa thật là phiền, còn bà ba ông mới điên đầu.
Bà còn trẻ, đẹp, liệu ra khỏi tay ông bà có giữ đạo vợ chồng với ông không? Bà
lại đi làm quen biết nhiều người làm sao ông kiểm soát được. Con cái xa khỏi
tầm mắt, tầm tay ông, chúng có còn coi ông là cha chúng không? Ông đã phát hiện
trong đôi mắt chúng một cái nhìn bất mãn mỗi khi ông la mắng hay đánh chửi mẹ
chúng.
Đêm
ông nằm trăn trở không yên bên cạnh bà vợ đã hết tuổi ái ân, bà đã bị ông xao
lãng từ khi ông có thêm hai người đàn bà trẻ trung bên cạnh. Bà đã quen rồi
những đêm ngủ thẳng giấc và tỏ ra rất lạnh nhạt trong việc chăn gối. Còn ông dù
thân hình gầy gò sức khỏe suy nhược, nhưng sự đòi hỏi vẫn luôn thôi thúc thèm
muốn thân xác đàn bà.
Ông cũng
biết bà hai đang ở tuổi hồi xuân , bà ba thì còn xuân sắc, mà ông như con ngựa
đã già yếu, mõi gối chồn chân không thể chạy đường trường sung sức như xưa. Ông
đã bắt gặp những tiếng thở dài của bà hai mỗi khi ông ngã ngựa nửa chừng. Bà Ba
thì ngồi dậy mặc đồ lăn qua một bên ấm ức khi ông vật ra thả dốc tức giận chính
mình. Nhưng họ là vợ ông, những người thuộc về ông, không một ai có thể xen vào
chiếm hữu.
Bà Ba là
một cô gái Bắc có nhan sắc. Không ai biết lỡ lầm gì mà bà lại làm vợ lẽ thứ ba
của ông Bắc. Trong đôi mắt lá răm rất đẹp đó chứa một nỗi buồn sâu lắng. Bà ít
nói và chịu đựng một cách nhẩn nhục. Mỗi khi ông Bắc tới nhà, bà không đon đã
hay ra vẽ chìu chuộng như những người vợ nhỏ muốn lôi kéo chồng riêng về mình.
Có điều gì cần giải quyết, bà đều đến nhờ bà Cả giúp và can thiệp. Bà hay dạy
con cái phải kính yêu và vâng lời má lớn. Trong cái nhìn của dì Tư bà Ba dường
như kính nể bà lớn hơn là thương yêu, giành giật ông chồng.
Từ khi bà
ba ra ở riêng, ông Bắc hay nổi cơn ghen. Ông chì chiết, mắng mỏ đôi khi đánh bà
Ba chạy vòng vòng trong xóm khiến bà Cả phải ra tay can thiệp. Bà Hai thì hiền
hơn, hết giờ làm là về nhà với con. Ông Bắc nhìn qua là thấy nên ông không
thể ghen bóng ghen gió. Còn Bà Ba trẻ hơn, lại cách nhà nên khi mà
ông tới nhà mà không có bà ba là ông nghĩ bà đi hẹn hò với trai nên về muộn.
Ông chửi bà những câu thô tục lắm.
Những cơn
thèm thuốc đày ông vật vã, tức tối và xấu tánh hẳn ra. Nhìn ông cái tướng ốm
nhom, khô đét như con mắm qua lại giữa ba nhà trông thật tức cười và mai mỉa.
Ông Bắc
giờ ho sù sụ cả ngày, người ta nói dường như ông ho lao, nhìn ông là đủ chán.
Ông biết mình vừa già, vừa bệnh mà bà Ba cũng còn nhan sắc nên ông hay tưởng
tượng về những điều phản trắc của bà Ba và kể cho bà Cả nghe. Lần nào nghe xong
bà Cả cũng gạt phắt và mắng ông ghen bậy. Có nhiều khi cả xóm đang yên giấc,
chó sủa vang lên hướng nhà bà Ba. Rọi đèn pin mới hay ông Bắc lò mò đi rình xem
bà Ba có rước trai về ngủ trong nhà không? Bà Ba cứ khóc hoài mới má dì Tư vì
bị ông Bắc nghi ngờ đánh đập. Con cái cũng xấu hổ với chúng bạn vì có một người
cha vũ phu. Nhưng khi người đàn ông ghen tương thì dường như đôi mắt và lương
tâm bị mờ nên không có gì cản lại được. Ông xoay qua mắng mỏ chì chiết bà Cả đã
mở đường cho bà Ba ra khỏi tầm tay ông. Ông đổ thừa là bà cả trả thù ông có vợ
lẽ nên tìm cách chia rẽ tình cảm vợ chồng ông. Cuộc sống của gia đình của ông
Bắc trở nên xáo trộn và làm ảnh hưởng cả cái xóm lắm chuyện này.
Bà
Lớn vừa tức vừa xấu hổ với xóm giềng nên đuổi ông Bắc qua nhà bà Ba ở. Ông ôm
quần áo di tản qua nhà bà ba, nhưng được vài bửa là ông lại lò mò ôm gối đi về.
Bởi bà Ba sáng sớm đi làm, chiều mới về không lo lắng chăm sóc ông miếng ăn
giấc ngủ bằng bà cả- Người đàn bà đã bỏ cả cuộc đời phục vụ, chiều chuộng cho
ông mấy chục năm nay-.
Bà Cả
than thở với má dì Tư:
-Hồi còn
trẻ ông ấy vợ lẻ vợ mọn nhưng không xấu tật ghen tương. Thế mà về già đổi tính
hư đốn.. Tôi xấu hổ quá bà Sáu ơi!
Dì Tư
cũng rất mến bà cả vì con lớn bà cả cùng trang lứa với dì Tư. Bà cả mặc dù mang
tiếng vợ mấy thầy nhưng không ra mặt hống hách. Bà có 3 cô con gái . Cô con lớn
là cô Hai má con Nhè. Có lẽ vì chỉ sanh toàn con gái nên bà Cả phải
để chồng kiếm thêm vợ bé để sinh con trai nối dõi tông đường. Thế mà chỉ bà hai
sinh được một thằng, còn lại cũng toàn là con gái. Đứa con trai của bà hai bà
cả coi như ngọc như ngà. Bà chăm chút lo lắng hơn cả con ruột nên nó quyến
luyến và yêu thương má lớn lắm. Chỉ một mình nó thuộc giòng nhỏ là kêu bà Cả
bằng Má mà không có chữ lớn kèm theo.
Trong
thời kỳ Mỹ đổ bộ vào Việt Nam, nhà bà Cả mở một tiệm bán thức ăn và nước uống.
Ba cô con gái bà có nhan sắc nên được lính đồng minh đến ủng hộ tấp nập. Gia
đình giàu hẳn ra, ông Sáu hút phủ phê và ba cô con gái bà Cả là cây đinh của
bao nhiêu cặp mắt thèm muốn.
Ở đời ,
không có gì là tuyệt đối, nhất là đồng tiền. Nó là thứ dùng để đổi chác. Tiền
bạc được đổi chác bằng hiện vật và nhan sắc. Hiện vật là những món đồ lính Mỹ
hay đồng minh đem ra từ PX, gia đình ông Bắc bán ra ngoài kiếm lời. Nhan sắc là
nụ cười mời gọi, là những lời nói đãi bôi mua bán và có cả những đêm đi không
về nhà.
Từng đợt
lính Mỹ đến đóng quân rồi đi, từng đợt lính Thái Lan đổi đến rồi thay nhau về
nước, mấy cô con gái bà Cả cũng thay đổi rất nhiều. Từ những cô gái hiền lành
ngây thơ mộc mạc, trở nên lịch lãm, sõi đời. Cô Hai Thân thường vắng nhà với
những bộ đồ hợp thời trang và về nhà với những cơn say lúy túy. Cô Ba vẫn còn
đến trường nhưng cũng là một bông hoa thu hút những con bướm lạc loài vờn
quanh. Những món quà tặng đáng giá làm cô quên hẳn người yêu cùng xóm đã lên
đường nhập ngũ theo tiếng gọi núi sông. Người trong xóm đồn thổi cô
Hai đã mấy lần phá thai mà gia đình cố che dấu.
Khi lính
Mỹ và đồng minh lần lượt rút về nước, làng quê có những đại đội lính địa phương
quân đến đồn trú, cái quán của bà Cả lại tiếp đón những người lính tới lui.
Trong số những người lính đó, cô Hai đã chọn được một người, họ ăn ở với nhau
như vợ chồng và không hề sinh ra và nuôi được đứa con nào.
Mỗi lần
cô có mang gần tới ngày sinh thì sinh non. Có khi sinh ra thì chết. Cô nghe lời
người ta làm dấu trên người đứa bé rồi chôn. Sinh đứa khác thì cái dấu đó lại
xuất hiện nơi đứa bé mới sinh. Cô sợ quá vì người ta bảo là con lộn. Là hồn oan
của những đứa con cô từng phá thai về trước hiện lên báo oán.
Cô đã đi
rất nhiều thầy để chửa chạy, uống nhiều bùa, ngãi, đi nhà thờ, đi chùa để trục
cái hồn oan cứ theo bám lấy cô. Nhưng rồi vẫn không được.
Thật may,
lần mang thai cuối cùng cô gặp một người thầy pháp từ Đà Nẵng vô Nam thăm gia
đình. Gặp cô tình cờ trên một chuyến xe lam. Ông thầy nhìn cô và nói:
-Xin lỗi
! Cô có thể cho tôi coi tay cô một chút không?
Cô xòe
tay ra, ông thầy nắm thật chặt tay cô và nhìn vào mắt cô như thôi miên. Cô thấy
một luồng khí lạnh xuyên sau gáy chạy dài dọc xương sống. Ông thầy bảo cô:
- Nếu
muốn nuôi được con thì tìm gặp tôi gấp. Tôi chỉ ở lại đây chỉ một tuần nữa là
tôi về quê.
Về nhà cô
kể chuyện cho ông bà Bắc và chồng nghe. Cuối cùng họ quyết định tìm
đến nhà mời ông thầy này về trị bệnh.
Ông Thầy
về lập đàn tràng, cúng bái làm phép và bắt cô tắm ngâm mình trong nước bùa ba
lần. Sau đó làm phép trục vong ra khỏi người cô. Lúc đầu cô rất khó chịu, nóng
nảy và bực bội ghê lắm, cô gầm gừ muốn đuổi ông thầy pháp ra khỏi nhà. Nhưng
gia đình đã được ông thầy nói trước là hồn vong chống cự nên mặc cô muốn gì họ
cũng giúp ông thầy giải vong ra khỏi người cô Hai.
Ông thầy
pháp về lại miền Trung, cô Hai không bị hư thai mà sinh ra được bé gái đúng
ngày, đúng tháng. Tuy nhiên cô đến khổ với con bé. Vì từ lúc mới sinh ra con bé
èo uột cứ khóc hoài. Tiếng khóc của nó vang cả xóm khiến mọi người mất ngủ. Cô
Hai dùng đủ biện pháp, đi khắp các thầy thuốc mà con bé vẫn bủng beo teo tóp.
Nó bệnh rề rề, hết đau bệnh này đến bệnh khác. Cô Hai đem nó quăng ra sau nhà
má dì Tư để dì Tư bồng vào nuôi cho đổi tay. Cô đem gửi bé vào nhà thờ cho cha
làm phép, Đem vào Chùa cho quy y và trên cổ con bé lúc nào cũng mang cái bùa
của ông thầy người Trung để lại. Vì vậy con bé được gia đình và xung quanh đặt
tên là Bé Nhè, còn trong khai sinh tên gì hàng xóm chẳng ai biết.
Một hôm
khoảng gần Tết nhà bà Bắc bán cháo huyết buổi sáng. Ông Bắc quạt một
mẻ than để nướng bánh tráng đa cho bà cả bán cho khách ăn chung với cháo. Bé
Nhè lết từ nhà trên xuống nhà dưới rồi không biết như thế nào nó té vào chậu
lửa. Hai bàn tay và nửa mặt nằm gọn trong đám than hồng.
Tội
nghiệp con bé đã 11tháng tuổi rồi rồi mà chưa biết bò chỉ lết đi một bên. Tiếng
thét của nó như xé ruột xé gan người mẹ như cô Hai. Ông bà Bắc từ trên nhà chạy
xuống thấy vậy bồng con bé ra . Bà Bắc chụp vội chai nước mắm đổ lên người con
bé bảo để trị phỏng cấp thời. Khi đem đi cấp cứu, con bé tưởng rằng không sống
được vì cháu đã bất tỉnh. Cả hai bàn tay và nửa người da bị phỏng chín đỏ lòm.
Bệnh viện tỉnh phải chuyển lên bệnh viện Chợ Rẫy.
Cũng may
đó là thời kỳ chiến tranh khốc liệt và y khoa tiên tiến. Bé Nhè được các bác sĩ
tận tình chữa trị. Cháu được đặt vào trong phòng cách ly để tránh nhiễm trùng.
Cô Hai lên nuôi con nhưng chỉ được bên ngoài nhìn vào qua cửa kiếng. Mỗi ngày
chỉ được tiếp xúc với con theo quy định và phải được sát trùng cẩn thận. Nhìn
con trần truồng nằm khóc đòi mẹ, cô Hai thắt từng đoạn ruột.
Đến khi
da cháu bắt đầu ra da non, bác sĩ dùng băng đặc biết quấn từng ngón tay của
cháu và quấn cả thân mình. Đó là phương pháp để da non ra đúng theo kích cở của
bàn tay. Bác sĩ cho biết kết quả điều trị rất tốt. Chỉ cần một thời gian da ra
đạt yêu cầu thì sẽ cho bé Nhè xuất viện. Sau đó sẽ có kế hoạch điều trị cắt bỏ
những da thừa hay vết phỏng trên mặt cháu.
Lúc này
bé Nhè đã tỉnh táo và hai bàn tay ngứa ngáy khó chịu nên cháu cứ khóc đòi mẹ.
Một buổi chiều, vì quá thương con, lợi dụng lúc không có y tá, cô Hai lén bồng
bé Nhè trốn về nhà. Cô không biết rằng thời kỳ này là thời kỳ quan trọng nhất
để giúp cháu có hai bàn tay lành lặn như mọi người. Cô chị biết BS nói con cô
đã hết nguy hiểm và chờ thời gian về nhà. Trái tim yếu đuối của người mẹ khiến
cô hại cả đời con cô phải chịu cảnh tàn tật suốt đời.
Bé Nhè về
nhà và những khi da non mọc ra kéo ghì những ngón tay trở thành dị dạng, một
bên cổ của cháu da non mọc ra kéo ghì cái cổ quẹn dính một bên vai. Miệng cháu
cũng bị kéo méo xẹo và xấu xí tội tình.
Cô Hai
bây giờ mới hối hận thì đã muộn màng. Cô muốn bồng con trở lại bệnh viện để nhờ
cứu chửa thì cơn lốc tháng tư tràn về. Cả nước như lên sốt, mọi người tan tác
lo chạy bảo vệ lấy mạng sống. Người chồng của cô lo bỏ vũ khí chạy về nhà cha
mẹ ruột và cô trở thành một người mẹ đơn thân với đứa con tật nguyền.
Có một
điều hết sức khó hiểu là sau khi bị tai nạn, bé Nhè như qua khỏi cái đốt bịnh
đau . Cháu ăn ngon, ngủ được và không còn bệnh hoạn èo uột như trước. Nhìn cháu
với hai bàn tay rút lại chằng chịt những gân dì Tư thương lắm. Dì hay nắm bàn
tay bé Nhè và áp nó vào lòng. Biết làm sao giúp nó bây giờ, làm sao giúp con bé
có lại gương mặt bình thường. Một bên mắt không bị kéo của nó nhìn dì trong
sáng, tươi đẹp một cách lạ kỳ. Nếu nó không bị tai nạn nó sẽ là một cô bé xinh
đẹp lắm.
Thiên hạ
xung quanh bàn tán xầm xì là hồn oan bị trục ra khỏi cô Hai Thân còn uất ức
không chịu đầu thai nên phá bé Nhè. Bây giờ Bé Nhè đã là người tàn tật nên đó
mới thỏa lòng và bỏ đi. Chuyện ma quỷ và vong hồn dì Tư không biết và cũng
không tin mấy. Nhưng bé Nhè có tội gì mà phải chịu tàn tật như vậy. Dì Tư vô
cùng bất nhẩn.
Sau 1975,
ông Bắc vì thiếu thuốc và ăn uống cực khổ nên đã qua đời. Bà Cả buồn bã vì gia
cảnh thiếu trước hụt sau, con cái không ra gì nên sau một lần ngã quỵ bà cũng
trút hơi thở cuối cùng. Ba bé Nhè biệt vô âm tín. Bé Nhè sống với mẹ và nhờ
tình thương của các dì. Bà Ba một thời gian sau dẫn con về sống với cha mẹ ruột
ở tận miền Tây. Bà Hai nhờ thằng con thức thời làm việc với chính quyền mới nên
mua nhà và đem bà về ở chung.
Bé Nhè
càng lớn càng tội nghiệp, nó bị nhóm trang lứa chê cười không muốn kết bạn. Nó
cô đơn và tủi thân nhiều lắm. Người có lẽ quan tâm nó nhiều nhất là dì Tư. Dì
đã chú ý tới nó từ ngày mẹ nó cấn thai cho đến lúc sinh ra. Trong nhà bảo sanh,
dì Tư đã bồng con bé và xem xét từng chút trên người nó xem có dấu gì lạ hay
không? Dì an lòng thấy con bé lành lặn, xinh đẹp. Thế mà như một
định mệnh cay nghiệt, con bé dễ thương đó bây giờ tật nguyền, xấu xí đến thế
này.
Cô Hai
lại lầm lỡ lại có mang với một người đàn ông có vợ dù tuổi cô không còn trẻ.
Một lần cô vợ lớn kéo tới nhà và chì chiết cô Hai không tiếc lời. Những lời mạt
sát xấu xa đó làm náo loạn cả xóm. Cô Hai chỉ biết xấu hổ ôm mặt khóc và người
tình mãi mãi không dám léo hánh tới nhà cô Hai.
Cô bụng
mang dạ chửa nuôi đứa con tật nguyền trong sự nghèo khó cơ cực. Dì Tư là người
gần gũi và giúp đở mỗi khi cô thiếu thốn. Từng muỗng nước mắm, muối ăn, bột
ngọt hay chút mỡ để chiên thức ăn trong thời buổi cả nước ăn bo bo, có giá tri
tinh thần rất cao. Đêm cô trở dạ sinh em bé, bé Nhè ngủ với dì Tư.
Nó rút người ép vào lòng dì Tư , hai bàn tay tật nguyền mân mê bàn tay dì tư
ngọng ngịu:
-Con
shương... shương...dì Tu léem. Dì Tư cũng xoa đầu đó :
- Ngủ đi
con, dì Tư cũng thương con lắm. Ngày mai dì Tư dẫn con đi thăm em bé.
- Má
má...cóa em bé móa cóa coàn..shương coan hong ...hong dì ..dì Tu.
- Thương
chứ sao không. Con sẽ làm chị Hai. Mà chị Hai thì phải thương và săn sóc em.
- Nhưng
toay..toay coan vầy soao. soao loa.. choa em... em coan đuộc
- Thì con
ngó chừng em con, làm gì được thì con làm giúp mẹ.
- Em..em
coan cóa... gióng coan... khong dì... dì Tu
- Dì
không biết, nhưng chắc là giống. Con là chị Hai mờ. Thôi ngủ đi con.
Bé Nhè
nhắm mắt ngủ, miệng vẫn cười, nụ cười méo mó thảm thương làm sao.
Cô Hai
sinh được một đứa con trai và bé Nhè trở thành một cô chị rất tốt và thương em.
Nó ôm em trong vòng tay tật nguyền, nó cúi xuống hôn em âu yếm trong cái nhìn
thương cảm của mọi người. Định mệnh đã làm nó tật nguyền, đã chiếm đi nét đẹp
của nó nhưng đã cho nó một trái tim nhân ái, một tấm lòng hiếu thảo hiếm có. Nó
cố gắng làm tất cả mọi việc để giúp mẹ và nhiều lúc nhìn nó cô Hai bật khóc. Sự
hối hận dâng lên tràn ngập trong cô.
Dì Tư có
giấy tờ xuất ngoại theo diện HO. Cái gì có thể cho được cô Hai dì Tư đã cho.
Ngày cuối cùng tiển dì lên đường, bé Nhè ôm lấy dì mà khóc. Nó nói với cái
giọng ngọng ngịutội nghiệp. Nó dặn dò Dì Tư nhớ viết thư cho nó. Dì Tư qua Mỹ
làm có tiền nhớ đem nó qua giải phẩu lại bàn tay và gương mặt của nó. Nó nói dì
Tư đừng lo cho nó. Nó lớn lên sẽ giúp mẹ lo cho em. Nó nói nhiều lắm, dặn dò
nhiều lắm và mơ ước nhiều lắm khiến dì Tư không biết trả lời làm sao.
Nước Mỹ
là nơi nào dì Tư cũng chưa hề đặt chân tới. Với một gia đình như thế này qua Mỹ
làm sao để sống, làm sao kiếm được nhiều tiền để đem nó qua chữa
bệnh. Làm sao để xuống sân bay khỏi lạc, làm sao có thể cho các con đi học tới
nơi tới chốn? Bao nhiêu câu hỏi về gia đình, cuộc sống như bánh xe cứ lăn hoài,
lăn hoài trong đầu dì Tư. Chuyện nhà chưa xong làm sao dám hứa lo cho bé Nhè
tới nơi tới chốn. Cố tránh cái nhìn đầy hy vọng của bé Nhè, dì Tư ậm ừ cho qua
để không cảm thấy mình có lỗi đã làm mất niềm hy vọng với một tâm hồn thơ ngây
như nó.
Thưa các
bạn,
Ngòi bút
, mà không bàn tay tôi đánh trên bàn phiếm mà tôi không biết phải sắp đặt cho
bé Nhè như thế nào.
Tôi muốn
làm như mọi nhà văn, nghĩa là tưởng tượng vẽ ra một cuộc đời mới cho bé Nhè.
Tôi sẽ cho cháu gặp một cơ quan thiện nguyện đầy lòng nhân ái đưa cháu sang Mỹ
giải phẩu đôi tay, tái tạo gương mặt. Cho cháu trở về hình hài một cô con gái
xinh xắn. Tôi sẽ cho dì Tư bảo lãnh cháu sang đây đi học, cho cháu
gặp một người con trai hiền hậu và lập gia đình. Cháu với tính tình thuần
lương, chăm chỉ sẽ có một cuộc sống sung túc. Cháu sẽ bảo lãnh mẹ và em sang
đây. Cuộc sống hạnh phúc, viên mãn cuối đời. Và dì Tư, nhân vật trong chuyện sẽ
là người đở đầu cho cháu tại nơi xứ sở tạm dung này. Dì Tư sẽ làm người chứng
hôn cho cháu. Và thơ mộng hơn, dì Tư sẽ là người bế đứa con của bé Nhè lúc Baby
vừa chào đời tại một bệnh viện tối tân của Mỹ. Dì Tư sẽ ôm cháu bé vào lòng và
nhớ tới ngày cũng ôm bé Nhè trong vòng tay mấy chục năm về trước.
Câu
chuyện sẽ kết thúc có hậu như vậy, sẽ Happy ending để bé Nhè làm một cô bé lọ
lem, tàn tật xấu xí được phép lạ của nàng tiên may mắn. Được khoa học tân tiến
Hoa Kỳ đổi đời, thoát xác làm một người bình yên, hạnh phúc.
Nhưng tôi
làm không được dù tôi rất muốn cuộc đời cháu tươi đẹp hơn. Tôi không thể vì bé
Nhè của tôi là một nhân vật có thật và sự việc ngoài đời không phải đẹp như
huyền thoại. Bé Nhè của tôi là một sinh mạng mang nhiều tội lỗi tiền kiếp để
xuống cuộc đời này gánh chịu biết bao nhục nhằn, đau khổ.
Tôi qua Mỹ
một thời gian thì ba tôi tại VN bệnh nặng. Tôi phải cùng em tôi về gặp cha lần
cuối. Vì thương cha tôi cứ không nỡ rời để đi đâu hết. Suốt thời gian lưu lại
ba tuần tôi chỉ một lần về lại xóm cũ để thăm mọi người. Bé Nhè của tôi
đã trổ mã để trở thành một thiếu nữ. Nhưng là một cô thiếu nữ tật
nguyền. Hai bàn tay vẫn những đường gân chằng chịt kéo rút những ngón lại với
nhau thảm hại. Một nửa gương mặt sáng ngời trắng trẻo với đôi mắt thật đẹp. Một
nửa kia mắt, má miệng bị kéo xuống vai bằng những đường gân tồi tệ khiến nửa
bên mặt cứ nghiêng nghiêng.
Bé Nhè
cũng được đến trường như các bạn cùng trang lứa, nhưng với bàn tay
thương tật, chữ viết của cháu thảm hại. Cuối cùng chưa hết tiểu học cháu ở nhà
phụ mẹ lo cho em. Thằng em trai lúc đó là một cậu bé kháu khỉnh, đẹp trai. Mẹ
cháu nay đau, mai yếu . Cũng may bên gia đình người cha của thằng bé không có
con trai nên thỉnh thoảng bên đó cũng giúp đở chút ít cho cô Hai nuôi con. Họ
muốn đổi họ để thằng bé nhận tổ quy tông, nhưng cô Hai không chịu.
Cuộc sống
của bé Nhè là một chuỗi những bi ai và nghèo đói. Tôi gửi lại một ít quà cho
hai mẹ con và trở lại Mỹ. Chúng tôi cũng phải đối diện với bao nhiêu khó khăn
của một gia đình HO hội nhập vào đời sống Hoa Kỳ.
Tôi để ý
và theo dõi có cơ quan thiện nguyện chỉnh hình nào đến VN không để giới thiệu
cháu. Nhưng tôi thất vọng vì tầm với mình hạn hẹn, vì khả năng ngoại giao không
có và nhất là tài chính nghèo nàn. Tôi không đủ khả năng đài thọ cho Bé Nhè
giải phẩu lại đôi bàn tay. Tôi hay mang vào giấc ngủ nụ cười và tiếng nói của
bé Nhè. Tôi nhớ hai bàn tay tật nguyền giữ lại chén nước mắm tôi gửi cho mẹ
cháu. Tôi bị ám ảnh với một lời ậm ừ hứa hẹn với ước mơ của Bé Nhè ngày cuối
cùng rời khỏi VN.
Cuộc đời
của những mảnh đời khốn khổ VN luôn là những vết hằn sau cuộc chiến. Nếu không
có ngày 30 tháng Tư thì mẹ cháu đã đem cháu trở lại bệnh viện. Dù có buông
ra bao nhiêu lần trách móc người mẹ nông cạn, nhưng những người Bác
Sĩ VNCH từ tâm sẽ nhận cháu lại và điều trị. Cháu tôi sẽ không bị thảm cảnh như
bây giờ. Bao nhiêu phái đoàn từ thiện về VN giúp đở những người tàn tật. Bao
nhiêu Bác Sĩ giàu lòng nhân ái bỏ tiền của, công sức về VN để giúp
những bệnh nhân nghèo. Nhưng cũng là muối bỏ biển giữa một xã hội có quá nhiều
hiên tượng bi thương. Một cô bé tàn tật ở một vùng quê làm sao biết được kịp
thời những ân nhân đã đến. Làm sao có đủ tài chính để đài thọ một chuyến rượt
bắt đúng lúc phái đoàn đến nơi nào. Và hơn thế nữa làm sao đủ khả năng để được
ghi tên vào một cái list điều trị mang tính cách nhân đạo như vậy. Đồng tiền và
thân thế luôn đè bẹp và nhận chìm những mãnh đời khốn khó như bé Nhè cháu tôi.
Cô Hai má
bé Nhè đã mất vì bệnh ung thư gan sau một thời gian vật lộn đau đớn với cơn
bệnh. Thằng em trai được cha bán đất đài thọ một cuộc sống đầy đủ nhưng thiếu giáo
huấn, nên bê tha chè rượu chẳng chịu học hành. Nó trở nên mất dạy, du đảng
trong những ngày cuối đời tội nghiệp của cô Hai. Bé Nhè phải đi làm mướn kiếm
tiền nuôi mẹ. Trong cái bon chen, xão quyệt của xã hội VN không phân biệt tốt
xấu. Trong một thực tại chỉ lấy bạo lực và tham vọng làm mục tiêu, bé Nhè như
con chim bị gió bão vùi dập tả tơi.
Tôi không
dám kể tiếp những gì xảy đến cho bé Nhè sau khi mẹ mất. Cuộc đời của cháu hiện
nay vượt ngoài tầm tưởng tượng của mọi người. Thôi hãy để cháu yên như vậy. Hãy
để mọi người nghĩ đến một bé Nhè tội nghiệp nhưng đáng yêu. Hãy để con bé mãi
mãi là một thiên thần bị đọa, sống cho hết kiếp người trong thân xác
tật nguyền trả nợ thế gian từ tiền kiếp.
Dì Tư
lặng lẽ lau những giọt nước mắt lăn trên đôi má.
Bé Nhè
ơi! Dì xin lỗi con, dì đã không thể thực hiện ước mơ ngày nào của con.
Ước mơ
chỉ làm một người con gái bình thường nghèo nàn. Dùng hai bàn tay của mình lao
động để mưu sinh. Hai bàn tay! Ờ! chỉ là hai bàn tay lành lặn như tất cả mọi
người. Hai bàn tay dù chai sạm cũng được. Nhưng chỉ xin là hai bàn tay với 10
ngón hoạt động bình thường. Không có những sợi dây gân chằng chịt trì kéo
những ngón tay như trì kéo cả một cuộc đời.
Con chỉ
xin nhìn thẳng cuộc đời bằng hai con mắt chân thật. Chứ không
phải tật nguyền quẹo đầu nhìn xéo qua nửa con mắt bị kéo lệch thảm
thương.
Có phải
chăng cuộc đời này là bể trầm luân, là hư không là vô nghĩa nên con chỉ nghêng
người nhìn đời bằng nửa con mắt với hai bàn tay quờ quạng chơi vơi.
Bé Nhè
ơi! Dì Tư xin lỗi con.
Xin lỗi
con nhiều lắm vì đã không có một đôi đủa thần biến đổi đời con.
Nguyễn
thị Thêm.
18/9/2015.
No comments:
Post a Comment