Nhà tù county, bên trong trại giam.
Tôi có một ông
anh bà con xa, đang làm việc cho Pima County Sheriff Department với công việc
là cảnh sát gác tù (Correctional Officer), mà tôi vẫn đùa gọi anh là Tù trưởng,
còn tù nhân kêu anh là Xi-Ô (C.O). Công việc, theo anh nói, so với việc làm trước
đây, thì không cực nhọc tuy đôi khi căng thẳng vì tù nhân hay làm reo, nhưng
lương lậu thì không tệ (bắt đầu khoảng $44,400/1 năm), hưu bổng, và quyền lợi
thì không chê vào đâu được. Thêm nữa, việc này không cần có bằng cấp hay kinh
nghiệm, họ sẽ huấn luyện mình. Làm việc cho chính phủ tiểu bang thì rất bền, nhưng
công việc gác tù này không phải ai cũng làm được vì cần đức tính kiên nhẫn và
chăm chỉ. Cái này thì anh có thừa trong nghề gõ đầu trẻ trước đây. Chỉ mình đuổi
việc chủ, chứ chủ chẳng bao giờ đuổi mình, anh tâm sự như thế.
Được
gia đình bên vợ bảo lãnh qua Mỹ lúc tuổi xuân vừa tròn 4 bó. Qua xứ lạ, anh không
còn được gọi là ông, mà thằng cũng chẳng ra thằng. Ngày còn trong nước, anh đi
dạy, giờ bị “mất dạy”, thêm phần “bất lương” (không có lương) nên chẳng làm được
trò trống gì. Sau mấy năm làm assembler trong một hãng kiếng ở địa phương, mỗi
ngày dập mấy trăm cái khung sắt, xương cốt rã rời, về nhà, vợ thương quá, tối
nào cũng cứ dầu nóng bóp cổ, bóp vai mãi mà “long thể” vẫn bất an, “long sàng”
vẫn cứ có rệp.
Đêm nào cũng đấm bóp và an ủi nhau nên thằng
út Ráng ra đời trong hoàn cảnh ấy. Anh kể: Ngày thằng cu chào đời, chẳng thấy vầng
hào quang chói lọi, chẳng có một ngôi sao sáng nào xẹt vào nhà (như Kim Jong
Un), chẳng hoa hồng ngát hương hay tiếng nhã nhạc du dương báo tin lành gì hết,
mà chỉ thấy hai vợ chồng nổ đom đóm mắt vì tuổi già việc nặng mà lại thêm con
nhỏ khóc đêm.
Thấy tương lai chắc sẽ tối như đêm 30 vì
công việc bầm dập mà sức khỏe ngày một yếu đi, anh quyết định “ôm cầm sang thuyền
khác” bằng cách ghi danh thi tuyển làm cảnh sát gác tù vì nghe nói nghề này
nhàn nhã mà phúc lợi (benefits) cao, bảo hiểm sức khỏe tốt, không sợ bị đuổi việc,
dù kinh tế lên hay xuống, cũng vẫn có đủ… tù để coi, thêm nữa, sẽ được vào ngạch
chính thức là viên chức chính phủ tiểu bang (State government) chứ không phải thứ
“dóp” loại cờ lờ mờ vờ ma dê in VN. Anh khoe trước ngày đi Mỹ, một ông thày bói
phán rằng hậu vận anh sẽ vô cùng sáng lạn vì anh sẽ cai quản cả mấy chục người
dưới quyền của mình. Ôi, lời thày phán ứng nghiệm như thần!
Tôi và anh thân
nhau, dù trẻ hơn tôi cả 10 tuổi và lớn lên trong thời “cắt mạng”, chúng tôi hay
kể nhau nghe vui buồn nghề nghiệp trong những buổi trà dư tửu hậu: anh uống rượu,
ít ăn mồi, còn tôi chuyên ăn mồi mà không uống rượu. Tuy khác nhau một trời một
vực, nhưng vẫn là cặp tri kỷ vì rượu anh, anh uống, mồi tôi, tôi cứ ăn, người
này không đụng chạm “quyền lợi” người kia nên tình anh em luôn bền vững như “môi
hở răng lạnh”. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy sẽ… từ từ thay
đổi. Bên đây sứt môi, họ vá được, mất hết hàng tiền đạo, họ vẫn làm cho một hàm
răng mới, mỗi lúc cười lên là sáng cả một bầu trời. Tôi vẫn thường đùa với anh
là ông nội anh với ông nội tôi là …hai ông nội, nên anh em mình họ hàng cũng còn
gần lắm.
Sau khi trải qua 6 tuần quân trường thụ huấn
về thể lực, bao gồm các lớp học về luật pháp cần thiết cho công việc, vài thế
võ nghệ căn bản như Jiujitsu để đối phó với các tình huống hiểm nguy khi tù
nhân nổi loạn, gian khổ gần như lính, anh tốt nghiệp được gắn huy hiệu ngôi sao
tiểu bang. Anh than thở rằng sợ nhất là ngày phải đấu võ đài, có qua khỏi mới đủ
điểm đậu làm cảnh sát gác tù. Họ bắt chúng tôi phải đánh nhau thật với huấn luyện
viên.
Chú nghĩ coi thân tôi nhỏ bé thế này mà phải
đối đầu với 1 thằng Mỹ to gấp đôi. Khỏi nói thì chú cũng biết kết quả ra sao rồi.
Tôi bị một trận bầm dập nhưng cũng rồi cũng qua. Sau đó chúng tôi phải bắn súng
điện lẫn nhau coi sức chịu đựng ra sao trong trường hợp giả định bị tù nhân nổi
loạn, lỡ bắn nhầm vào nhau. Mà đâu phải 1 lần. Họ bắt chúng tôi, 4 người quàng
vai nhau thành hàng ngang, một học viên khác bắn súng taser với 20,000 volts,
làm cả 4 chúng tôi hét lên, cứng đơ cả người, rồi tất cả ngã vật xuống, có sẵn
hai học viên khác đỡ trước khi chúng tôi té nằm ngay cán đơ cán cuốc trên sàn nệm.
Mất vài chục giây sau, chúng tôi mới có thể lồm cồm bò dậy, rồi nhăn răng ra cười
hềnh hệch, và đập tay (high-five) lẫn nhau.
Trận cuối cùng mới đáng sợ và không bao giờ
quên: Chúng tôi cứ 2 người bắt cặp, người kia cầm hộp xịt hơi cay chĩa thẳng
vào mặt tôi, trong khi tôi đứng thẳng, không nhúc nhích, mắt phải mở to, không
được chớp mắt, để đối thủ xịt chất lỏng cay vào mắt. Sau tiếng kêu “fight” (đánh),
cả hai phải lao vào nhau, dùng hết các thế võ đã học, để hạ địch thủ. Đây là cảnh
giả dụ nếu chúng tôi lỡ tay xịt hơi cay vào mặt nhau trong lúc đánh nhau, khống
chế tù nhân, thì chúng tôi phải chiến đấu tới cùng cho đến khi được cứu. Trong
lúc chúng tôi đánh thì họ quay phim. Sau này coi lại, tôi mắc cỡ quá chú ơi, vì
người bạn kia, lao vào quật tôi ngã xuống sàn. Tôi lồm cồm bò dậy, nắm một chân
anh ta, mà nước mũi, nước dãi của tôi chảy lòng thòng, nhiểu nhảo tùm lum, hơi
thở hào hễn, tôi vẫn không chịu buông, dù mắt cay xè không mở ra được. Họ phải tách
chúng tôi ra và hét “fight again”. Qua làn nước mắt cay xè, tôi lờ mờ thấy địch
thủ, tôi lại lao vào quần thảo với anh ta cho đến khi tiếng kêu “stop”, người
ta kéo chúng tôi ra và một người dẫn tôi ra vòi nước xả lên đầu tôi cho đỡ nóng
và đỡ cay. Sau bữa đó, về nhà, hai ngày weekend, mắt tôi sưng húp và cái nóng
cay vẫn còn đó cho đến hết ngày hôm sau. Tôi thề rằng thà bị taser còn hơn bị
pepper spray.
Chưa hết, đoạn đường “chiến binh” cuối cùng
mà học viên nào cũng phải vượt qua trước khi được gắn lon. Tất cả mặc đồng phục
cảnh sát, giầy, và mọi trang bị cần thiết, bắt đầu chạy bộ 15 dặm lên núi để được
làm lễ gắn ngôi sao trên đó. Trong khi chạy, có vài học viên ngã gục, ói mửa
tùm lum, họ cấp cứu, rồi bắt đứng dậy, đi tiếp, không cần chạy, cho tới khi
chinh phục được đỉnh núi. Riêng tôi, tuy không khỏe nhưng dẻo dai, tôi cũng lết
được lên đỉnh núi và tới đích. Bài học họ muốn chúng tôi nhớ nằm lòng là phải
kiên nhẫn, bền bỉ, không bỏ cuộc, thì sẽ thành công. Từ đây, tôi chính thức được
gọi là C.O., cảnh sát cải huấn, trực thuộc bộ cải huấn tiểu bang: DOC,
Department Of Corrections.
Anh hay tò mò hỏi tôi về những tháng năm tôi
nằm bắt rệp trong hô teo Chí Hòa ra sao để anh rút tỉa kinh nghiệm mà đối đãi với
tù Tây. Anh bắt đầu kể về công việc anh
làm hằng ngày nơi trại giam. Sau đây là lời kể của anh và của tôi, xen kẽ nhau,
để bạn đọc có thể hình dung ra được “sự ác độc, bất nhân” của chế độ tư bản đế
quốc Mỹ đối đãi với tù nhân của họ ra sao khi so sánh với “sự khoan hồng, nhân
đạo” của đảng và nhà nước với chính đồng bào của mình.
*****
Đi làm mỗi ngày,
tôi phải ăn mặc chỉnh tề như một cảnh sát thực thụ, chỉ khác là tất cả chúng
tôi không được mang súng. Áo quần khaki vàng được ủi thẳng nếp, không một vết
nhăn, áo bỏ trong quần với tên họ bên túi trái, giày bốt đen đánh xi-ra láng
cóng, đầu đội nón baseball-cap với huy hiệu cảnh sát. Dây lưng quần được trang
bị một cặp còng tay, một lọ Pepper-spray xịt chất lỏng cay, một súng điện Taser,
và một máy radio liên lạc được nối qua cầu vai trái lên tới hai lỗ tai bằng một
cặp tai nghe (ear-plugs) để khi liên lạc và hành động thì còn rảnh hai tay mà làm
việc. Tác phong nghiêm chỉnh như trong quân đội.
Mỗi sáng đến nơi làm việc, phải điểm danh,
chào cờ, và kiểm tra quân phục. Nếu ông xếp (captain) không hài lòng vì đường ủi
không thẳng nếp, hay áo trong quần lệch một bên, giây giày thắt không đều thì bị
bắt hít đất (Push-up). Xong xuôi, tan hàng, quẹt thẻ vào cửa trại, và một ngày
làm việc bắt đầu bằng cuộc họp ngắn ngủi (brief) về tình hình chung của trại
giam. Nếu không có gì mới cần chú ý thì ai về chỗ làm của người nấy.
Bắt tay người đồng nghiệp của ca làm việc
trước, anh cho tôi biết vắn tắt về tình hình trong phòng giam. Tôi bước vào
trong phòng làm việc của mình được bao quanh bằng kính dày để có thể quan sát tất
cả mọi phòng (pods) của tù nhân được thiết kế như hình rẽ quạt gồm hai tầng.
Sau khi đóng cánh cửa sắt sau lưng lại, tôi coi danh sách tù nhân có tổng cộng
bao nhiêu người, phòng nào ở đâu, tên gì, và phòng nào chỉ có 1 người.
Lại dùng thẻ của mình mở cửa phòng từ bên
trong, đi ra ngoài để tuần tra các phòng giam tù nhân để chính mắt mình điểm
danh, và quan sát được tình hình, thái độ, sinh hoạt của họ. Phòng giam rộng 3
mét, dài 5 mét, gồm 2 tầng, mỗi tầng 15 phòng, Tất cả được xây bằng gạch, trang
bị hệ thống điều hòa không khí, và cửa sắt có 2 tấm kiếng dầy theo chiều dọc để
cảnh sát có thể nhìn vào bên trong. Một giường đôi hai tầng (bunk-bed) bên tay trái,
gồm nệm, tấm trải giường, gối, và một cái mền và hai cái bàn nhỏ bằng sắt không
rỉ (stainless steel) dùng làm bàn viết. Cuối phòng là bàn cầu giật nước cũng bằng
sắt không rỉ, một kệ nhỏ rất sạnh sẽ, với đầy đủ dụng cụ vệ sinh cá nhân như
kem và bàn chải đánh răng, khăn mặt. Một cái bồn rửa mặt (lavatory) và phòng tắm
(shower) với vòi nước, tất cả đều sạch sẽ, cũng bằng sắt không rỉ. Tất cả tù
nhân (inmates) đều mặc đồng phục màu cam.
******
Khám Chí Hòa: Mỗi
buổi sáng tôi đều bị dựng dậy bởi tiếng loa phát thanh the thé của mụ xướng
ngôn viên đọc tin tức. Toàn tin tốt đẹp về xây dựng xã hội chủ nghĩa, về độc lập,
tự do, no ấm, và hạnh phúc. Tôi tin rằng ở đâu thiếu cái gì, người ta hay nói về
cái đó ra rả cả ngày. Một lúc sau, tiếng chìa khóa lẻng kẻng vang lên, một người
tù trật tự mở cánh cửa sắt nặng nề kêu ken két, theo sau là tên công an quân phục
màu xanh cứt ngựa, cuốn sổ trên tay, chân mang dép lốp xe lẹp xẹp đi đến từng
phòng điểm danh. Khi hắn đọc tên ai, người đó phải hô to “báo cáo cán bộ, có
tôi”.
Khám Chí Hòa là một trại giam rất lớn chia
làm 4 khu theo hình bát giác (8 dãy nhà). Được xây dựng từ thời Nhật chiếm Việt
Nam, đang dang dở thì người Pháp trở lại và tiếp tục hoàn thành. Trung tâm nối
liền 8 góc là một tháp nước (Château d’eau/water tower) hình dáng một thanh
gươm tròn cắm xuống đất. Muốn đi từ khu này qua khu kia, phải đi ngang qua dưới
tháp nước đó.
Khám Chí Hòa, Sài Gòn, chia làm 4 khu: AH,
BC, ED, và FG. Cảnh nhìn từ trên cao với thanh gươm (tháp nước) cắm ngay giữa.
Dãy A: tạm giam, dãy H: nhốt tù tử hình, tường bị bít gần kín.(chú thích tác giả).
Khu ED chính trị và kinh tế là khu tôi bị
nhốt, gồm 4 tầng lầu, mỗi tầng có 4 phòng. Mỗi phòng rộng khoảng 10 thước, dài
25 thước, nhốt 60-70 tù nhân mà chỉ có duy nhất một bàn cầu khô ở góc phòng, loại
ngồi chồm hổm, không có vách ngăn. Tù nhân cần “trút bầu tâm sự” đành phải phơi
bày mọi sự cho thế gian coi khơi khơi. Kế bên là một thùng phuy nước vừa để dội
cầu và phát tiêu chuẩn cho tù nhân xài. Mỗi ngày, người tù được lãnh 1 lít nước
để vừa uống, rửa mặt, đánh răng, vừa rửa cái “bàn tọa” sau khi nỗi buồn đã được
“giải phóng”. Vâng, đúng 1 lít nước không hơn không kém. Mỗi tuần được xuống
sân của khu, nơi có 1 bồn nước xi măng để tắm, giặt trong 5 phút. Có người mới
xát xà bông, chưa kịp xả nước thì hết giờ, phải trở lại phòng mà vẫn còn bong
bóng đầy đầu. Đây là cơ hội duy nhất cho ai có can đựng nước riêng nhà gởi vô,
lo lấy thêm nước mà xài.
Ngày được thăm nuôi thì đúng là ngày khổ nhất
và ngày dài nhất cho những người tù mới bị “nhập kho”. Là ma mới nên chỗ nằm ngủ
ưu tiên sẽ là kế bên “cầu biên giới”. Kinh tế cộng sản, xã hội chủ nghĩa, luôn
nói có đầu vô thì cần phải có đầu ra, quả không sai: Có ăn vô thời phải có đi
ra. Ở trong tù, ngày thăm nuôi là ngày cái bàn cầu trở nên bận rộn nhất, người
ra vô tấp nập, phải xếp hàng. Khổ nỗi, “sự cố” này luôn kèm theo âm thanh réo rắt
lẫn mùi hương lan tỏa rất xa, mà những người khốn khổ cũng lại là những tên ma
mới đang nằm kế bên, đành phải ca bài “lãnh trọn đêm mưa”.
Ai có nhu cầu “xả nước cứu thân” (không phải
xả thân cứu nước) thì không đến nỗi nào, còn thực hành cái đệ Tứ khoái, thì tất
cả mọi người trong phòng đều ngậm ngùi nín thở. Đã vậy, mỗi một trái “bom rơi”
đều kèm theo một tiếng động âm vang ngân dài trong phòng vì hơi dội ngược lên,
nghe cái đoong.
Giường là sàn xi măng. Khi quá đông tù
nhân, mỗi người chỉ có 30 -50 cm bề ngang để nằm. Hè nóng, Đông thì lạnh buốt
xương. Tôi vốn con bà phước nên vô sản chuyên chính: tối ngủ, xin được hai giỏ
bện bằng cói rách te tua, một cái trùm đầu, một cái trùm hai chân cho ấm và bớt
bị muỗi cắn, nằm co như con tôm trên nền xi măng lạnh tê tái. Còn rệp thì khỏi
nói, xin cứ “vô tư” (nói theo kiểu người trong nước), ngửi được hơi người,
chúng bò ra đông như quân Nguyên, chỉ nhìn thôi cũng đủ nổi da gà, rợn tóc gáy,
mùi hôi đến lợm giọng.
*****
Sau khi điểm
danh, tôi đi qua lại quan sát và đánh giá tình hình an ninh, sạch sẽ từng
phòng, và hỏi tù nhân có ai có hẹn với bác sỹ không. Một lúc sau, nhân viên nhà
bếp đẩy xe thực phẩm đến giao tôi ký nhận, xong anh/chị ta rời đi. Tôi thông
báo cho tù nhân chuẩn bị ra ăn sáng rồi măng găng cao su vào tay để phân phát đồ
ăn. Họ ra khỏi phòng ngồi vào những ghế, bàn ăn bằng sắt gắn dính xuống nền xi
măng và bước đến nhận phần ăn của họ. Mỗi phần gồm một sandwich kẹp thịt và phó
mát, một hộp sữa bằng giấy, và một trái chuối. Sau 30 phút, tôi mời họ vào
phòng và đóng cửa lại. Thực phẩm buổi trưa và chiều thì phong phú và nhiều hơn,
và thay đổi mỗi ngày. Nói chung, một người không cần thăm nuôi, vẫn có đầy đủ
dinh dưỡng hằng ngày.
Nhiệm vụ của tôi là phải quan sát tù nhân
không ngừng, đề phòng tù nhân vì buồn hoàn cảnh gia đình có thể tự tử hay dấu
diếm tuồn hàng hút hay chích vào trong phòng. Những người tù ở đây đa số là vừa
bị bắt vô và đang chờ đợi ra hầu tòa; số khác đã lãnh án và đang thi hành án
trong đây. Nhiều tù nhân tâm sự rất thành thật rằng họ đáng bị ở tù vì “do the
crime, do the time”, phạm tội thì phải trả. Mỗi lần gia đình gặp mặt, tôi phải mang gang
tay cao su để khám trên người họ để ngăn những vật cấm vào trong phòng. Họ có
thể coi phim hoặc tin tức thời sự trong phòng chung qua hệ thống Cable TV (còn
sang hơn nhà tôi không có Cable TV), với một màn ảnh thật lớn. Ai không thích
thì đọc sách. Ai muốn đi học, đi gặp bác sỹ, tôi dẫn đi và giao cho người chịu
trách nhiệm, rồi ký nhận lại
khi xong.
*****
Thực phẩm của
chúng tôi do gia đình thăm nuôi để dành ăn dần. Sang thì có thịt ba chỉ xào mắm
ruốc, vài cục đường tán; nghèo thì muối mè, muối xả, bịch cá khô, và vài củ
khoai luộc. Nếu không có gia đình thăm thì thuộc diện con bà phước, tức là treo
mỏ, không có gì ăn. Trong lúc mọi người ăn sáng, tôi cố giả bộ ngồi thiền, mắt
nhắm lại, tự nhủ lòng rằng trong thinh lặng tuyệt đối, ta mới có thể nghe thấy
tiếng Chúa/Phật thì thầm với ta; khổ một điều dù tập trung cách mấy, tôi chẳng
nghe gì ngoài tiếng nhai nhóp nhép của người kế bên. Trái cấm của tôi liên tục
chạy lên chạy xuống vì thèm. Nước miếng ứa tràn qua kẽ răng. Thật là một cực
hình dã man hơn thời Trung Cổ.
Bữa trưa và tối, “nhờ ơn đảng”, chúng tôi
được mỗi người 1 chén cơm nhỏ, không thịt, cá, chỉ một chút canh “đại dương” vì
nước nhiều hơn rau, một loại rau muống cả rễ, nước canh màu đục nhờ nhờ như nước
cống Bà Xếp. Giờ chia cơm thật là giờ hạnh phúc nhất của mấy tên “con bà sơ”.
Ông trật tự phòng chia thật hay và thật đều như máy mà không rơi ra ngoài một hột
trong khi mọi con mắt đều đổ dồn về hai cánh tay như đang làm ảo thuật của ông.
Mỗi năm người tù được ăn thịt heo một lần vào ngày Tết. Miếng thịt heo mỏng đến
độ tôi có thể thổi phù một cái bay mất tiêu.
Đợi khi công an đã về nhà, chúng tôi bắt đầu
giải trí bằng cách “chiếu phim” kiếm hiệp gồm nhiều tập như Cô gái Đồ Long, Anh
hùng xạ điêu…. do nhà văn Hoàng Hải Thủy kể. Ông có lối kể truyện rất hấp dẫn,
lôi cuốn còn hay hơn coi phim trong rạp. Giọng ông sang sảng vang to, các phòng
kế bên đều được nghe ké. Tôi ngồi kế bên “máy quay phim” vấn thuốc rê để ông có
thêm hơi mà kể. Nhạc thính phòng là cái chậu nhựa úp xuống nền xi măng, phủ lên
tấm mền làm trống, các ca sỹ được lựa chọn, thay nhau hát nhạc vàng ru ta vào mộng
dưới hoa, đôi khi thành “họa dưới mông” nếu tụi cán cuốc rình bắt được. Có 1 lần,
từ phòng 11, ca sỹ Khuất Duy Trác cao hứng với bài Cô láng giềng, mọi người ngừng
tay thưởng thức không dám ho. Vì không gian kín nên giọng ca của anh càng trầm ấm
và du dương. Tù xã hội chủ nghĩa như vậy, còn đòi gì hơn?
******
Mỗi ngày có nhân
viên đẩy những xe đầy những sách, tiểu thuyết, tạp chí đủ loại cho tù nhân mượn
đọc. Ai muốn đi học thì ghi danh, tôi sẽ chuyển giao tên tuổi cho người có
trách nhiệm lo về giáo dục. Tôi biết rất nhiều tù nhân lấy được bằng trung học,
vài người có bằng cử nhân trong khi đang thụ án tù. Ngoài nhiệm vụ trông coi an
ninh và giữ trật tự, tôi còn có nhiệm vụ đối thoại và giảng hòa khi họ có xích
mích với nhau. Đôi khi phải đổi phòng cho họ vì bất hòa không thể sống chung một
phòng với nhau. Tất cả tù nhân đều thưa gởi rất lễ phép, họ gọi tôi C.O. Ngai-Yen
(Nguyen), sir, và nói điều họ muốn nói. Tôi đáp trả lại cũng gọi họ là Mr. John
Doe. Nói chung, dù họ bị nhốt trong trại
giam, họ mất tự do chứ không mất nhân phẩm. Nếu nghi ngờ tù nhân có dấu dao hoặc
vật sắc nhọn hay vật cấm (contrabands) vi phạm nội quy trại, tôi phối hợp với
các C.O khác, bất ngờ khám phòng để tịch thu hầu tránh việc họ đâm chém lẫn
nhau.
******
Nhất nhật tại
tù, thiên thu tại ngoại. Một ngày trong tù bằng ngàn ngày bên ngoài. Câu này ai
cũng biết nhưng phải ở trong tù thì mới thấm thía thời gian trong tù dài lê thê
đến là dường nào. Để ngày tháng qua nhanh, chúng tôi bày ra việc tự học thêm.
Người thày giúp chúng tôi Anh ngữ là thày Thích Trí Siêu, tục danh Lê Mạnh
Thát. Trước đây thày dạy một đại học bên Mỹ, về nước, bị chính quyền cộng sản
tuyên án tử hình cùng vụ với thượng tọa Thích Trí Thủ, thày Tuệ Sỹ và Ni Sư Trí
Hải, trong vụ bắt bớ ở chùa Già Lam, sau giảm còn 20 năm. Sách vở học tiếng Anh
là cuốn nguyệt san Sputnik do Nga Sô ấn hành, bắt chước y chang hình dáng và
kích cỡ theo nguyệt san Reader’s Digest của Mỹ, cũng được viết bằng Anh ngữ bởi
người Nga nên văn chương lủng củng và kỳ cục. Nhưng có còn hơn không.
Luật trại giam cộng sản cấm không cho đọc
báo chí dù đó là của nước cộng sản anh em. Giấy, viết càng bị cấm ngặt nghèo vì
chúng sợ tù nhân thông cung với nhau. Kẻ cả giấy quấn thuốc rê cũng bị cấm. Chúng
tôi đút lót mấy anh trật tự, họ tuồn vô cho một cuốn Sputnik. Xé cuốn tạp chí
ra thành nhiều phần, mỗi người giữ một phần rồi đổi với nhau mà học. Khi bị
khám phòng thì máng nó lên giây phơi khăn mặt, rồi phủ khăn lên trên. Nhờ vậy
chúng tôi có thể giữ tài liệu một thời gian khá lâu để học hành với nhau mà
không bị phát giác. Nghĩ mà giận, dưới thời thực dân cách đây cả thế kỷ, ông Minh
Hồ bị tù, họ vẫn cho có giấy bút để ông viết Ngục trung nhật ký, làm thơ, dù
sau này biết thơ trong đó là thơ ăn cắp. Vậy mà chúng vẫn ra rả khoe là tự do gấp
vạn lần tư bản.
******
Một hôm, tù nhân
đang coi phim, và một vài người khác đi gọi phone về gia đình, tôi nhận được
tin qua máy liên lạc “Red code”, hệ thống báo động vang lên, tôi vội hét to
“lock down” và ra lệnh cho tất cả trở về phòng, khóa lại. Hai tù nhân đánh nhau
ở khu kế bên, một người dấu được một miếng nhựa cứng làm khí giới và và đả
thương người cùng phòng. Tôi vội vàng khóa cửa phòng trực và chạy qua khu kế
bên để tiếp ứng bạn mình.
Tất cả chúng tôi được trang bị khiên giáp,
pepper spray, và súng điện taser trên tay sẵn sàng xông vào phòng, kể cả xử dụng
vũ lực nếu cần, để còng tay và mang anh ta đi cách ly. Hai C.O. mang khiên đứng đầu, theo sau là hai
C.O. khác với hơi cay và súng điện. Cửa được mở khóa và sau vài lời thuyết phục,
anh ta thấy lực lượng hùng hậu quá nên đồng ý bỏ vũ khí xuống và chịu còng tay
đem đi biệt giam. Dù bị kỷ luật, người
tù vẫn được đối đãi tử tế, phần ăn vẫn đầy đủ, và các tiêu chuẩn khác vẫn như
thường.
******
Ngày còn bị tạm
giam ở phòng 5 khu AH, khám Chí Hòa, chờ chuyển hồ sơ lên sở công an thành phố,
tôi chứng kiến một vụ thanh toán nhau rất ghê rợn: Hôm đó, sau bữa cơm trưa, mọi
người đang nằm ngủ, riêng tôi khó ngủ, nên ngồi dậy nẹc lửa châm điếu thuốc rê.
Chưa đủ đô, tôi tính làm 1 điếu thuốc thuốc
lào thì Hùng Chùa bước đến xin lửa, nói hắn đang đổ khuôn hỏa tốc (1) làm cờ tướng.
Sau khi “bắn” 1 bi thuốc lào, phê quá, tôi dựa lưng vào tường, nhắm mắt lim dim
thả hồn theo nàng Phù Dung tiên nữ.
Tôi giật bắn người vì một tiếng hét đau đớn
kinh hoàng như xé ruột gan. Mở mắt ra, tôi thấy thằng Cu Đen đang ôm mặt chạy
quanh phòng la hét, chân nó dẵm đạp lên vài người khác khiến quang cảnh trong
phòng ồn ào, náo loạn. Vốn to lớn và đen trùi trũi nên dân giang hồ gọi nó là
Cu Đen, lúc này nó vừa khóc vừa la “nóng quá, má ơi, chắc con chết!”. Lúc này, Hùng
Chùa đã rút lui vào góc cánh cửa sắt của phòng quay lưng lại với hành lang bên
ngoài, hai cái dùi nhọn được bọc vải trên hai tay, sẵn sàng đâm bất cứ kẻ nào đụng
vào nó. Một người nào đó hét to qua song sắt “Báo cáo cán bộ, phòng 5 khu AH có
người bị tạt hỏa tốc”. Sau đó là tiếng loảng xoảng mở khóa và hàng chục tên
công an lẫn trật tự xuất hiện trước của phòng với súng ống chĩa qua song sắt mà
chưa dám vô. Thì ra, Hùng Chùa vì thù ghét cá nhân, đã đốt bao nylon chảy thành
chất nhựa lỏng, đổ vào một lon cá hộp, xong nó dùng miếng giẻ rách để cầm
nguyên cái lon chất lỏng đang sôi đó, ụp lên mặt Cu Đen khi nó đang ngủ say.
Vài người trong phòng dìu Cu Đen ngồi xuống,
tôi vội chạy đến với tuýp kem đánh răng và xoa lên mặt nó mong làm dịu phần nào
sự bỏng rát. Cả khuôn mặt nó bị lột da trắng lẫn đen nhìn rất kinh khiếp, một
bên cánh mũi bị lẹm đi. Nó nói không còn nhìn thấy gì hết. Trong khi đó, vài
người khác đang thuyết phục Hùng Chùa bỏ dùi xuống. Nó nhất định không. Công an
hứa hẹn sẽ không đánh đập chỉ đem đi biệt giam, nó cũng nhất định không. Gần 1
tiếng đồng hồ, vừa hứa hẹn vừa dọa dẫm, cuối cùng nó gật đầu và bỏ khí giới xuống.
Ngay lập tức cửa phòng bật mở, tất cả ùa
vào lôi sền sệt Hùng Chùa ra hành lang ngoài phòng. Một cơn mưa đòn trút lên
cái thân hình ốm đói của nó. Nó chỉ còn biết co người lại và nằm chịu đòn. Một
lúc sau, nhìn lại chỉ còn là một thân thể bê bết máu đang oằn oại trên nền xi
măng. Công an còng tay nó và dẫn đi, một nhóm khác dìu Cu Đen xuống bệnh xá trại.
Ba tuần sau, Cu Đen trở về phòng với khuôn
mặt dị dạng, lồi lõm, thẹo thành vệt chi chít, chỗ đen, chỗ trắng, chỗ hồng vì
đang ăn da non; lông mày, lông mi cháy rụi, cánh mũi trái không còn nữa, một
bên môi còn hơi sưng và mắt thấy mờ mờ. Nó xin một điếu thuốc lào, cầm miếng giấy
mồi lửa làm đóm hút thuốc, cứ đưa giấy lên tính châm vào nõ, lửa bị tắt. Nó làm
đi làm lại nhiều lần mà vẫn không thể nào hút được điếu thuốc lào. Nó khóc và than
não nề “Trời ơi, hút thuốc lào cũng không được!”. Cánh mũi trái bị mất nên làn
hơi không thể nào điều chỉnh được như ý giống một người bình thường. Còn Hùng
Chùa, sau khi ra khỏi biệt giam, bị đưa qua phòng khác. Nghe đồn, dân giang hồ
bên đó “xử đẹp” nó, nên lại bị chuyển phòng nhiều lần nữa.
Tù Việt Nam cộng sản, khi vi phạm nội quy, sẽ
bị biệt giam ăn cháo 7 hột, nghĩa là ăn cháo lỏng như nước. Biệt giam là một
phòng rất nhỏ hẹp, không cửa gió, với một lối đi khoảng 30 cm, một bục xi măng
vừa một người nằm. Phía chân là 1 giây xích gắn dính xuống sàn xi măng, dài khoảng
50 cm, một cái lon rỉ sét đựng phân và nước tiểu. Người tù biệt giam bị xiềng
chân chỉ đi lại trong bán kính nửa mét, mỗi lần di chuyển xiềng xích kêu leng
keng. Mùi hôi thối, ẩm mốc tràn ngập căn phòng. Phải mất một thời gian mới quen
dần. Chỉ cần 10 ngày, trở lại phòng giam chung, tù nhân chỉ còn là bộ xương biết
đi.
Một ngày giao thừa cuối năm, ai nấy đều buồn
và nhớ gia đình da diết, chúng tôi tổ chức đêm 30 Tết trong phòng. Bác Hai, một
ông già hom hem, móm mém, lớn tuổi nhất, khoảng trên 70, trong bầu không khí
trang nghiêm, bác chia xẻ với anh em một câu chuyện ngẫu hứng ôn lại những kỷ
niệm với gia đình, những ngày tháng năm xưa khi còn là một miền Nam tự do hạnh
phúc. Bác yêu cầu chúng tôi hát bài Ly rượu mừng, đến khúc “kìa nơi xa xa, có
bà mẹ già, ngày đêm mong con, mắt vương lệ nhòa…”. Tất cả chúng tôi nghẹn lời,
hát không nổi, đây đó vài tiếng sụt sùi. Bài hát chấm dứt ngang trong im lặng.
Ai nấy về chỗ mình ngồi, gục đầu, buồn hiu, cái kim rơi xuống nền nhà cũng có
thể nghe được.
Ngày hôm sau, mồng 1 Tết, vào giữa trưa, tên
công an trực khu đứng trước của phòng hét lớn:
-
Ai tổ chức hát hò, mít tinh đêm
qua?
Không có tiếng trả lời. Hắn lừ mắt nhìn từng
người, ngón tay chỉ vào bác Hai:
-
Thằng kia. Ai tổ chức? Nói mau.
Không tao cho mày đi biệt giam.
Bác Hai bình tĩnh tiến về phía song sắt cửa:
-
Xin cán bộ nói năng lịch sự
đàng hoàng. Cán bộ chỉ đáng tuổi cháu tôi thôi mà dám gọi tôi bằng “thằng” hả?
Hắn đỏ mặt, lầm bầm, lúng búng cái gì trong
cổ họng, rồi giận dữ bỏ đi. Từ đó về sau, không tên công an nào dám gọi người
tù chúng tôi một cách xách mé, mất dạy như vậy nữa. Buồn là vẫn có những tù
nhân cam tâm làm ăng ten, chỉ điểm, và báo cáo việc làm của bạn tù cho công an để
đổi lại một chút ân huệ. Bọn này ở đâu cũng có.
******
Làm việc trong
trại giam county, vui buồn lẫn lộn, có khi rất bực bội vì tù nhân đòi hỏi quá
đáng hay gây gỗ với nhau. Họ luôn đòi hỏi C.O. phải giải quyết mâu thuẫn với bạn
cùng phòng. Cũng có tù nhân tìm cách báo cho tôi hay về thái độ đáng ngờ của tù
nhân khác, mong được tôi đối xử đặc biệt hơn. Có ngày về nhà rồi mà lòng vẫn
còn vướng mắc, băn khoăn. Đôi khi tôi cũng bị căng thẳng vì cả ngày mình phải ở
trong một không gian khép kín, không thấy ai khác ngoài những tù nhân mà tính
khí họ thay đổi bất thường. Con người khi bị mất tự do, bị nhốt trong phòng kín
thời gian dài, ai cũng dễ nổi điên. Những ai bị căn bệnh “claustrophobia”(3), sẽ
không thích hợp với nghề coi tù này.
Theo một thông số mới nhất, mỗi tiểu bang phải
chi ra trung bình khoảng $31,000 cho một người tù một năm (4). Mỗi năm, tất cả
các nhà tù liên bang, tiểu bang, và địa phương toàn nước Mỹ tiêu tốn $80
billions (80 tỷ) để trả lương nhân viên, nuôi, chăm sóc sức khỏe, mọi nhu cầu cần
thiết của tù nhân, và bảo trì nhà tù. Tù nhân khi đi bác sỹ, không tốn tiền mà
vẫn được chăm sóc tận tình, còn hơn một công dân cần cù chăm chỉ đi cày ở bên
ngoài. Mỗi người dân Hoa Kỳ, khi đóng thuế, phải trả khoảng $260/1 năm cho việc
này. Trung cộng và Nga là hai nước có nhiều nhà tù nhất thế giới.
Thỉnh
thoảng ông anh coi tù Mỹ thường phàn nàn:
-Có những ngày
tôi cũng muốn nổi điên với bọn tù vì chúng nó được đằng chân thì lân lên đằng đầu.
Người mình vốn hiền lành, cả nể nên thường dễ dãi với tụi nó, tụi nó lờn mặt.
Nói xong, anh uống cạn ly, rồi khè một tiếng:
- Bực thì nói vậy, chứ đối
với người tỵ nạn Việt Nam mình, thì nghề này cũng là một nghề quá tốt và lương
thiện để nuôi gia đình. Hy sinh đời bố, củng cố đời con, phải không chú? Thôi
làm 1 ly đi, ý quên, nhẩm một ly trà đi. Tui làm hết chai này rồi đi ngủ đây.
Tôi đùa:
-Còn đấm bóp hông zậy, cha nội?
Anh cười hềnh hệch và dốc ngược đáy chai.
Nguyễn Văn Tới
REFERENCES:
1. Hỏa tốc : chất lỏng nhựa được đun chảy từ
bao nylon gói quà thăm nuôi. Người tù dùng nắp lọ dầu cù là làm khuôn và đổ chất
lỏng nhựa đang sôi vào, khi nguội, gõ lấy ra, khắc chữ Tàu làm quân cờ tướng.
Cũng dùng để hâm đồ ăn bị thiu bằng cách xé vải vụn trộn với hỏa tốc đang cháy
trong 1 cái lon để nấu.
Taser: Súng điện có thể bắn xa 20 feet, với
giòng điện mạnh từ 20,000 volts lên đến tối đa 50,000 volts, làm tê liệt nhất
thời người bị bắn.
Claustrophobia: Căn bệnh sợ những không
gian kín, nhỏ, ngột ngạt.
Thông số về chi tiêu của nước Mỹ về nhà tù.
Tù tây như thiên đường. Tù ta là địa ngục trần gian.
ReplyDeleteNhững bài viết của Tác giả Nguyễn Văn Tới không chỉ đơn thuần là một truyện ngắn bình thường mà còn là những thông tin thú vị, những khám phá mới mẻ cho người đọc.
Cám ơn tác giả.
NPN
Du quẹo cằm, chị T.Kim. Những ngày tháng nằm Hô teo Chí Hòa không bao giờ quên được.
ReplyDelete