Tiểu chủng viện
thừa sai Kontum, vẻ hài hòa của lối kiến trúc Pháp và nhà Rông cao nguyên, hiện
là nơi du khách đến thăm nhiều nhất. Khởi công năm 1935. Hoàn thành năm 1938.
Tòa nhà được dựng lên bằng gỗ Chít, cộng với đất và rơm. Mối mọt không ăn được.
Phần 2
Bốn người chúng
tôi ở lại Kontum và Pleiku một thời gian khá dài, không khí miền cao nguyên dầu
sao cũng trong lành và mát mẻ hơn ở Sài Gòn. Chúng tôi đi thăm lại những nơi
trong thời niên thiếu đã đi qua, viếng đền Đức Mẹ Măng Đen phía Bắc Kontum với
bức tượng Mẹ bị cụt cả hai bàn tay do chiến tranh. Chúng tôi trở về mái trường
xưa, chủng viện thừa sai Kontum và ở lại nơi này 4 ngày, nhìn lại ngôi nhà
nguyện nhỏ bé, từng lớp học thân thương, căn phòng ngủ ngày xưa chúng tôi trùm
mền, lén thày giám thị, lấy đậu phộng và khoai lang deo ra ăn. Nhìn lại chốn
xưa mà lòng dâng lên biết bao cảm xúc buồn vui thời học trò.
Pleiku bây giờ
không còn là thành phố sương mù, không thể nào hình dung ra một thành phố “đi
dăm phút trở về chốn cũ”. Em Pleiku giờ đã hết “má đỏ môi hồng” vì xe cộ chật
kín, phun khói đầy trời; nữ sinh không còn e ấp tà áo dài trắng ngày xưa bước
chân sáo tung tăng đến trường. Ngôi nhà thờ “Quân Đội” to lớn trang nghiêm ngày
xưa, giờ tràn ngập những thiếu niên khăn quàng đỏ, cứ mỗi chiều tối, họp nhau
hô to khẩu hiệu vang trời. Chính quyền chiếm lấy nơi thờ phượng làm cung văn
hóa thiếu nhi tỉnh Gia Lai.
Người ở đâu về
đông quá. Phố xá chen chúc, xe cộ tấp nập. Người ngoài Bắc di cư vào Nam ào ạt
với lượng người còn đông hơn dân Bắc đi tàu há mồm vào Nam năm 1954; lạ một
điều là không có di dân theo chiều ngược lại từ Nam ra Bắc, nơi khai sinh ra
chủ nghĩa cộng sản được rêu rao là cái nôi giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ
thực dân và cũng là nơi đem lại tự do hạnh phúc đầu tiên cho miền Bắc.
Một buổi tối,
chúng tôi dạo phố thăm Chợ Mới, ngôi chợ lớn nhất của Pleiku. Tôi muốn nhìn lại
nơi chốn mà năm 1988 tôi đã từng ăn, ngủ hằng đêm, chờ xe cá ở Quy Nhơn lên để
khuân vác và cân cá thuê cho chủ vựa. Cố tìm kiếm mà cũng không thể nào nhận ra
đâu là cái sạp cá ngày xưa mình từng ở. Đứng thẫn thờ, ngó quanh. Những thước
phim dĩ vãng quay về.
Ngày đó, vợ
chồng ông bà chủ vựa cá nhận cho tôi giúp việc và cho tôi ngủ lại trong một cái
sạp bằng gỗ khoảng 10 mét vuông, cửa và vách là những miếng ván dài được ghép
vào với nhau trượt trong những cái khe, dựng đứng lên. Ông bà chủ đã gởi gắm
tôi cho ông nhân viên an ninh đi tuần chợ ban đêm nên tôi không lo bị công an
hốt về đồn. Đêm về, những cơn gió lạnh miền cao nguyên xuyên qua khe hở, thổi
se sắt qua vách ván, tôi nằm co ro bên trong, điếu thuốc cháy đỏ trên môi, ngẫm
nghĩ sự đời dâu biển mà thương cho số phận hẩm hiu của mình.
Đêm nào cũng
vậy, khoảng 2 hay 3 giờ sáng, bạn hàng từ Quy Nhơn lên, đập rầm rầm vào vách
ván kêu tôi thức dậy cân cá. Trời rét căm căm, tôi miễn cưỡng chui ra khỏi tấm
mền ấm áp. Chiếc áo len lúc nào cũng trên người, kể cả lúc đi ngủ, tôi chỉ cần
xỏ chân vào đôi dày bốt cao cổ, găng tay cao su màu vàng, và cái áo mưa khoác
lên người, vội vàng lao ra chiếc xe ba-lua (poids-lourd) để vác những cần xé cá
trên vai chạy thật nhanh về sạp cá, trong khi nước đá tan chảy, nhỏ ròng ròng
trên cổ, trên vai, ướt hết bên ngoài áo mưa.
Cần xé cá ướp
đá càng làm tăng cái lạnh nửa đêm về sáng của Pleiku, tôi cố tập quen dần tuy
răng vẫn đánh bò cạp, hai hàm răng lập cập va vào nhau nghe lách cách. Cái khổ
nhất của nghề cân cá không phải là dậy sớm, lạnh run, khuân vác cực khổ mà là
những cái gai ngạnh cá đâm vào đầu ngón tay. Những ngón tay tê cóng khi bới đá
bào ra để bốc cá chuyển qua cần xé của mình, dù cẩn thận đến thế nào, những gai
ngạnh của cá cũng xóc vào đầu ngón tay nhức tới óc. Không lúc nào tôi thấm thía
hai chữ “tê tái” như lúc đó. Ngón tay đau buốt “tê” cóng, mặt “tái” nhợt đi vì
lạnh.
Dưới ánh đèn lù
mù của bóng đèn điện, tôi và anh phu khuân vác bên bà chủ xe cá, xỏ cái đòn vào
cái móc cân, cả hai nhấc cần xé cá lên cân để bà chủ kéo trái cân. Bà chủ cá và
tôi cùng ghi chép vô cuốn sổ riêng của mình số lượng và trọng lượng của mỗi cần
xé, để khi xong sẽ so sánh với nhau. Chúng tôi phải làm thật nhanh, không được
nghỉ ngơi vì bà chủ xe cá còn phải giao cho các vựa cá khác.
Tiếng kêu của
bạn kéo tôi trở về thực tại. Chúng tôi đi ra khỏi Chợ Mới đến ngã tư khu phố
lớn Hoàng Diệu và Võ Tánh, ngày nay họ đặt tên mới là Hùng Vương và Hoàng Văn
Thụ. Nhà tôi nằm gần ngã tư này, đối diện kho gạo Trần Tỷ là kho gạo lớn nhất
miền cao nguyên ngày đó. Tôi cố hình dung ra ngôi nhà ngày xưa của mình ở đâu,
phải mất nhiều lần đi qua lại, tôi mới nhận ra vì người chủ mới đã xây nó lên
thành nhà lầu ba tầng. Một nỗi buồn sâu đậm len vào hồn khiến tôi thẫn thờ mất
một lúc.
Chúng tôi ở lại
Pleiku thêm hai ngày rồi thuê một tài xế và một chiếc xe Toyota Innova 7 chỗ,
tiếp tục hành trình trên quốc lộ 19, sẵn ghé thăm hai người bạn học ngày xưa.
N. K. An làm nghề xay lúa gạo và Bok N. Đ.Trường, hiện là linh mục quản nhiệm
giáo xứ Ayunpa ở Phú Bổn.
Thị trấn Phú
Bổn ngày xưa được nhiều người biết đến trong cuộc di tản ngày 14 tháng 3 năm
1975 từ quân đoàn II. Đoàn người di tản từ Pleiku trên quốc lộ 19 hướng về Nha
Trang, đến đoạn Phú Bổn thì không đi được nữa vì quân lính cộng sản miền Bắc
chặn ngang. Cả đoàn mấy chục ngàn người dân vô tội, đói ăn, mệt mỏi, lê thê
lếch thếch, phải dừng lại giữa đường, cuối cùng phải cắt rừng mà đi qua con tử
lộ 7B oan nghiệt, xác chết chồng lên nhau do quân lính phía Bắc bắn giết bừa
bãi thường dân và cũng do chết đói, chết khát. Khi ấy, tôi chỉ là một thiếu
niên di tản trong đoàn người Exodus khốn khổ đó. Những điều tôi đã trải qua và
trông thấy trên đoạn đường này 47 năm trước, vẫn còn hằn lại trong tâm khảm tôi
nỗi ám ảnh cho đến hết cuộc đời mình.
Con đường đi
Phú Bổn vẫn còn xấu, nhiều đoạn đầy ổ gà, ổ voi, có đoạn đang sửa chữa nhưng
không hề có bảng cảnh báo nguy hiểm. Anh tài xế cho hay nhiều người dân chạy xe
máy ban đêm đã lọt hố chết trên đoạn đường này mà chẳng ai chịu trách nhiệm.
Mấy nhà thầu thích đào đường lên rồi bỏ đó như một kiểu ăn vạ, mặc cho dân than
phiền cho đến khi chính quyền địa phương chịu không nổi vì dân chửi, phải kêu
nhà thầu tới sửa chữa thì họ mới có tiền.
Bây giờ trong
nước lạ lắm, món ăn gì cũng đều được tôn lên hàng “đặc sản”, nghe rất kêu nhưng
thật ra chẳng có gì là đặc biệt. Bok Trường hỏi chúng tôi có muốn thử món “bò
một nắng” chấm với “muối kiến vàng” mà dân ở đây gọi là đặc sản của Phú Bổn.
Nghe nói thịt bò, thịt heo sống mà phơi một nắng, nướng lên chấm
với muối kiến vàng; chúng tôi không ai dám ăn, nhưng chúng tôi vẫn
liều nếm thử đặc sản muối kiến vàng vì tự biết bụng dạ mình không quen, lỡ giữa
chiến trường “thọ tiễn” của Tào Tháo, bị ngài rượt sát đít thì biết chạy đi
đâu.
Việt Nam bây
giờ tràn lan hàng giả, son phấn dầu thơm giả, que thử covid-test giả, thậm chí
cơm chúng ta đang ăn cũng giả; một hôm chúng tôi đưa mắt dõi theo một bóng hồng
nhún nhẩy đi qua với những đường cong tuyệt mỹ đong đưa lên xuống, tôi chợt
khám phá ra một “bộ phận” không ít phụ nữ trong nước bây giờ cũng xài đồ giả …
nói theo văn chương trong nước, đây chỉ là có tính cách “cục bộ”, nghĩa là chỉ
có “một bộ phận” ngườì đàn bà vẫn thích xài hàng giả thôi. May mắn thay, tôi
cũng được an ủi khi biết rằng đồ giả vẫn có thể là “đồ tốt” và rất có ích cho
con người khi nhìn bác tài xế tháo hàm răng giả ra cọ rửa sau bữa ăn, vừa đánh
răng vừa huýt sáo véo von, thế mới tài!
Muối
kiến vàng. Góc trái phía trên, thấy rõ đầu con kiến Vống trên cây Xoài. Loại
muối này dùng để chấm với thịt bò/heo phơi một nắng. Đặc sản của Phú Bổn.
Khi bàn về kinh
tế của một đất nước, người ta thường trích dẫn cuộc sống người dân, công ăn,
việc làm, nhà cửa, và phương tiện công cộng người dân có thể sử dụng hằng ngày.
Cái đập vào mắt chúng tôi nhiều nhất là nhà cửa, phố xá mà trong nước gọi là
bất động sản. Trong nước hiện nay có hai thế lực bất động sản mạnh nhất được
bảo kê bởi nhà nước là Sun Group của ông Lê Viết Lam và Vin Group của ông Phạm
Nhật Vượng. Cả hai ông nhà giàu mới nổi này đều người ngoài Bắc từng đi lao
động hợp tác, sống và làm ăn ở Ukraine trở về. Họ ngầm đồng ý chia nhau mỗi
người hùng cứ một phương, không dẵm chân lên nhau.
Ai đã từng về
Việt Nam mà không biết hay không từng đi chơi khu công viên (theme park) Bà Nà
Hills ở thành phố Đà Nẵng của tập đoàn Sun Group, hệ thống cáp treo, các địa
điểm vui chơi ở đây, tất cả đều do họ xây dựng lên nhái theo phong cách Châu
Âu. Đa số khách đến thăm Bà nà Hills là người châu Á từ các nước láng giềng của
Việt Nam và người Việt trong nước, họ thích thú ngắm nhìn những tòa lâu đài
“made-in-Vietnam” rẻ tiền, vì du lịch tại chỗ tốn ít tiền hơn nhiều so với đi
ra nước ngoài.
Từ Phú Quốc cho
đến Quảng Ninh, ngoài Bắc và nhiều tỉnh thành khác trên cả nước, nhiều dãy nhà
trải dài cả 2,3 cây số, được xây cất rất đẹp, theo phong cách Châu Âu, 3, 4
tầng lầu ngay trên những đường phố chính được trải nhựa mới tinh, mà chẳng thấy
có người ở hay chứng tỏ đã có người mua. Mỗi căn được rao bán từ 20 tỷ cho đến
40 tỷ đồng Việt Nam ($800,000 - $1,6 millions). Khu The Grand World ở Phú Quốc
thuộc tập đoàn Vin Group, rộng 85 mẫu đất, toàn những căn nhà nguy nga với giá
40 tỷ đồng một căn. Nếu chụp hình đưa lên mạng, nói đây là một thành phố châu
Âu, ai cũng phải tin.
Ngoại trừ con
đường chính trong The Grand World là có người ở và tấp nập người qua lại, phía
trong, dân cư rất thưa thớt, lèo tèo vài nhà có người đang sống thì có đèn
điện, các nhà khác tối om, không ai ở. Họ chỉ cho phép xe điện là phương tiện
di chuyển duy nhất trong đây. Một cái hồ nhân tạo khá lớn ở khu trung tâm, điện
sáng trưng, bao quanh là nhà dân và cũng là tiệm buôn bán và nhà hàng, vài đêm
một tuần, có màn trình diễn một “show” 45 phút gọi là The Color of Venice để
phô trương cái phồn hoa giả tạo.
Đây là màn múa
của các vũ công Việt Nam, được sự hỗ trợ của ánh sáng, âm thanh, và các vòi
phun nước giống như ở sòng bài Las Vegas. Tôi thất vọng vì họ nhảy múa quá dở,
vũ công ăn mặc theo kiểu phương Tây, nhưng trình diễn rất vụng về. Ánh sáng
không nhịp nhàng với vũ điệu, âm thanh quá ồn ào. Tôi chỉ cầu mong cho nó kết
thúc sớm để tôi khỏi bị tra tấn cái lỗ tai. Tôi tự hỏi ai là người dám bỏ ra 1
triệu 6 đô la ($1.6 millions) chỉ để sống trong khu “sang trọng” không có 1
chút gì Việt Nam, và để mỗi đêm bị tra tấn bởi âm thanh nhức óc như thế này.
Tôi cho rằng
những cán bộ điều hành nhà nước và các kỹ sư xây dựng đô thị người Việt Nam
hiện nay đều tốt nghiệp từ những trường đại học “KINH-THẾ” ở trong
nước mới có thể nghĩ ra kiểu làm kinh tế như vậy. Tôi chắc họ đi theo mô hình
của công ty địa ốc vừa sập tiêm Evergrande bên nước Tàu. Quan chức bắt tay
với tài phiệt thân hữu, xoay đất ruộng rẻ mạt, thành đất vàng
đô thị, để các tập đoàn “mafia”này xây nhà bán theo phương châm “có làm mới
có ăn”. Quan chức có thực hiện công trình thì mới có lại quả, được
chia phần trăm.
Cách điều hành
đất nước và làm kinh tế của Việt Nam hiện nay đều bắt chước theo cách quản lý
của nước đàn anh Tàu. Trung ương ra nghị quyết, chỉ thị, địa phương phải thi
hành sao cho đạt chỉ tiêu là tệ nhất, còn thường là vượt chỉ tiêu theo phép
thần thông biến hóa của từng viên bí thư địa phương. Hiện nay, Tàu là nước có
hệ thống xe lửa tốc hành (Bullet- trains) lớn và dài nhất, các khu đô thị,
thương xá cũng to lớn và đẹp nhất thế giới mà không ai biết là số nợ xấu mượn
nhà bank đã vượt quá mức cho phép nên Trung Cộng chịu không nổi, phải dừng lại
chương trình con đường Tơ Lụa từ Á sang Âu. Ai từng đi du lịch Trung cộng đều
biết có những khu đô thị ma không có người ở.
Một ví dụ điển
hình là đoạn đường sắt Metro Hà Nội, tuyến đường Cát Linh – Hà Đông, được xây
dựng bởi nhà thầu Trung cộng, dài 13.1 Km, gồm 12 trạm, tốc độ tối đa 80
Km/giờ. Chi phí hoàn thành cao gấp 3,4 lần dự tính, có thể nói mắc nhất trên
thế giới, theo Báo Điện Tử đảng cộng sản Việt Nam đưa tin. Họ dự đoán khoảng
4.9 triệu khách trong một tháng, nhưng chỉ chưa đến 800.000 khách xử dụng tàu
điện vì tò mò. Dân Việt Nam chỉ thích đi xe gắn máy riêng chứ không thích metro
vì bất tiện.
Chúng tôi đến
tận nơi và leo lên đi thử. Con tàu rất tầm thường không có gì đặc biệt, hành
khách thưa thớt nhưng vẫn phải hoạt động dù bị lỗ nặng nề (1), lại một kiểu
cách có làm mới có ăn, cha ông mình vẫn dạy như thế. Tôi hỏi một
cặp vợ chồng trẻ đi với đứa con trai, lý do gì anh thích đi tàu điện này. Anh
cho biết đứa con trai mê đi tàu điện có máy lạnh mát mẻ mà lại vui được gặp bạn
bè, thay vì ở nhà chật chội và nóng nực, giá tàu lại rẻ mạt.
Sau đó, cậu
hướng dẫn viên du lịch đưa chúng tôi đến Phở Thìn nổi tiếng ở phố Cổ Hà Nội.
Cậu khoe đây là một trong hai tiệm phở nổi tiếng nhất ở đây, tiệm kia là Phở Lý
Quốc Sư. Đây là 1 tiệm phở tồi tàn nằm ngay trong con hẻm chật chội, họ dẫn
chúng tôi ngồi vào một cái bàn có mấy cái ghế gỗ nhỏ xíu. Sau khi gọi món phở,
tôi đứng dậy kiếm nhà vệ sinh. Họ chỉ sâu vô phía trong hẻm cách đó chừng 10
thước. Vừa bước vào một cái vách ngăn không có cửa là một cảnh tượng tôi không
thể nào quên. Phải diễn tả là một bàn cầu ngập ngụa phân và mùi xú uế xông lên
ngạt thở. Tôi quay ngoắt ra ngay lập tức, ráng nhịn, trở lại nhìn tô phở, tôi
không thể nào ăn nổi vì hình ảnh vừa nhìn thấy. Ôi thủ đô ngàn năm văn vật của Việt
Nam.
Dọc đường đi
miền Trung, chúng tôi đáp tàu lửa toa giường nằm vì nó chạy dọc theo bờ biển ra
tới Hội an, Đà Nẵng. Tuy chậm nhưng chúng tôi có thể ngắm phong cảnh và quan
sát đời sống người dân rõ ràng hơn. Đa số những làng mạc và thị trấn đi qua,
nhà cửa bình thường, chỉ lác đác vài căn nhà lầu vươn lên cao coi rất lạc điệu,
nhưng mấy cái cổng chào thì được xây to lớn không cần thiết, người trong nước
gọi là “hoành tráng”. Trên cổng chào lúc nào cũng có hàng chữ đỏ to tướng “độc
lập-tự do-hạnh phúc” mà tính tôi lại thật thà như đếm nên diễn dịch ra
là độc lập trừ (-) tự do và trừ (-) hạnh phúc vì trước
các chữ tự do và hạnh phúc có hai cái dấu trừ (-) lừng lững trước mắt.
Tàu lửa đi ngang qua sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, tỉnh Quảng Trị. Cây cầu lịch sử chia đôi Nam Bắc vẫn còn đó, không còn xử dụng, coi như là một chứng tích của cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Trước năm 1975, tôi còn nhỏ, chưa đi lính, nên không hình dung được sự căng thẳng ở đây ra sao. Bây giờ bên phía Bắc cây cầu, họ dựng lên một cổng chào và một bảo tàng viện, một cái đài cao lớn nhiều bậc cấp với hàng chữ “cột cờ giới tuyến” và lá cờ đỏ búa liềm bay phất phới, còn phía Nam, đìu hiu, không có gì.
Chúng tôi về
Việt Nam vào lúc dịch bệnh đang hoành hành bên Trung cộng nên các địa điểm du
lịch không bị tràn ngập du khách Tàu, nghe nói họ không được lịch sự cho lắm,
mà lại xả rác bừa bãi. Trung cộng vừa mở cửa từ ngày 8 tháng 1-2023, cho dân
Tàu đi tự do vì chính sách Zero-civid của họ thất bại não nề. Người dân như
những con chim bị nhốt trong lồng, giờ bung ra đi khắp nơi trên đất nước Việt
Nam và thế giới. Không biết họ sẽ còn gieo rắc con covid này đến nơi nào trên
quả địa cầu này.
Nguyễn Văn Tới
REFERENCES:
Tàu metro Cát Linh- Hà Đông vắng khách.
Hồ nước nhân tạo với màn trình diễn nhạt
nhẽo The color of Venice, Phú Quốc.
Khu phố chính The Grand World, Phú Quốc. Một căn nhà trị giá 40 tỷ đồng VN.
Mời đọc lại phần 1
CS VN chỉ có cái vỏ hào nhoáng bề ngoài chớ trong ruột thì rỗng tuếch. Cái gì cũng muốn chạy theo cho bằng thế giới nhưng khi làm thì lếu láo qua loa, ăn chận ăn giựt thì làm sao vững bền.
ReplyDeleteVN quê hương ta đã mất rồi từ ngày cuối tháng tư năm 75. Dưới con mắt người con xa xứ trở về chỉ là một đất nước xa lạ, chỉ để du lịch như bao quốc gia khác trên thế giới mà thôi, chẳng còn gì để quyến luyến mà chỉ có một nỗi ngậm ngùi.
Bài viết rất hay, rất gợi hình, diễn tả cặn kẽ từng nơi tác giả đã đi qua khiến người đọc có cảm tưởng như mình được theo chân tác giả.
Cám ơn Brandon.
TK
Cám ơn tác giả Nguyễn Văn Tới cho đoc tiếp một câu chuyện thật ngậm ngùi của Nơi Tôi Về. Biết nói sao đây thực trạng này!!
ReplyDeleteHồng Thúy
Cám ơn chị TK và chị Hồng Thúy. Trăm nghe không bằng mắt thấy. Về lần đầu mà thấy sự thực mà ngán ngẫm. Người Việt ở trong nước, đa số họ vẫn sống vô tư, họ còn chê mình quá lo xa.
ReplyDelete