1. “Phúc cho con, cầu phúc cho con.”
Đó là câu cuối cùng của bài thơ, là điệp khúc của lưu đày và tan nát.
Phúc cho con nhưng ẩn tàng trong đó là khúc quanh khốn khổ bi thiết nhất của
người cha, của giai đoạn lịch sử đất nước tang thương. Đó là điệp ngữ của từng
đoạn thơ xé ruột, khởi đi từ tiếng nấc bi thảm của cuộc sống. Phúc cho con, hay
vô phúc cho cha bởi thân xác và tinh thần cha bị xé nát, bị chà đạp xuống tận
cùng. Sự thù hận của người cộng sản đã tước lột và muốn đẩy những người thuộc
chế độ miền Nam xuống đời cầm thú. Nhưng họ đã không thể!
Phúc cho con! Mới đầy ba tuổi,
Giặc tuôn tràn bôi xám ngày thơ.
Bố ra đi lừa khi con ngủ,
Bảy năm dài pha loãng hình cha.
Bố lừa con để ra đi, vì không thể nhìn mặt con, bởi quá xót xa. Hình như
người cha có một linh cảm gì đó. Chia ly! Bố lừa con để khỏi đau lòng. Và người
cộng sản lừa bố, lừa những người chế độ miền Nam, bằng nụ cười thân thiện, lời
nói ngọt ngào với tờ giấy mời đi học tập với lời hứa hẹn mười ngày sẽ trở về
sum họp với gia đình. Nhưng người đi, không trở lại vì đã chết bởi đói khổ và
bị hành hạ trong rừng sâu núi thẳm. Người về, như nhà thơ thì thân tàn ma dại.
Một chính quyền nói là cách mạng mà bày ra những cuộc lừa dối vĩ đại. Từ lừa
dối này đến lừa dối khác thì niềm tin dân chúng coi như đã bị đánh mất!
“Phúc cho con” được sáng tác sau những năm anh Nguyễn Vũ Văn trở về từ
trại tù cộng sản. Bản thân người sáng tác bài thơ này là một cựu Thiếu tá Thẩm
phán Tòa án Quân sựvới gần mười năm phục vụ dưới chế độ VNCH. Hiện giờ anh
đang sống ở Oregon.
Buổi cha về lá hoa xơ xác,
Nhà toang, bếp lạnh, gió lùa tung.
Mẹ già đã khuất muôn trùng cỏ,
Bài vị chẳng buồn để ngó trông.
Xã hội xơ xác! Đời sống xác xơ, nhà hoang bếp lạnh tiêu điều! Mẹ chết mà
biết bao người đã không được thấy mặt. Thảm trạng đó đâu phải chỉ riêng của tác
giả bài thơ. Đó là nỗi tan nát của hàng ngàn, hàng triệu người, của toàn bộ xã
hội miền Nam. Trần trụi và cay đắng từ hai chữ đổi đời. Hai chữ đổi đời đã bày
ra trăm vạn điều cười ra nước mắt, kể làm sao cho xiết.
Người chồng, người cha bị đày ải trong những trại cải tạo. Một năm, ba
năm, sáu năm, mười năm, mười tám năm, hai mươi năm... Không biết ngày về! Ở
nhà, những đứa con thơ và người vợ trẻ bị bức bách, hăm dọa, bị dụ dỗ bằng trăm
phương ngàn kế, bởi những tay cán bộ rình rập ngày đêm. Cùng đường, ngôi nhà
phải hiến dâng, có khi đến người mẹ trẻ, rồi con thơ. Sống trong hoàn cảnh,
chồng thì mù mịt trong trại tù. Nhà thì bị tước đoạt. Bản thân mẹ con lấy đâu
chỗ ở. Ngày đêm uất nghẹn giữa lũ người lang sói, người mẹtrẻ ôm con vào vùng
núi xa với giải đất khô cằn. Không trường học, không bệnh xá, sống trơ trọi với
ít người. Đó là vùng kinh tế mới. Oan nghiệt đâu chỉ một gia đình. Mà nghiệt
oan ngút trời của cả miền Nam.
Cha về đâu có hơn ngày trước
Bữa cơm bữa cháo bữa khoai lang
Ngày Tết đến buồn bàn thờ tổ,
Đón Xuân về một đĩa xôi vàng.
Ngày Tết về trên bàn thờ tổ một đĩa xôi vàng là quá ư mãn nguyện. Đằng
sau “phúc cho con” là ẩn giấu tất cả những gì bi thiết, thảm sầu nhất trong một
xã hội đảo điên. Giặc xé tình cha con. Mà xót xa ở đây, giặc là anh em cùng
quốc tổ. Giặctràn vào, đời sống con thơ đều bị bôi xám. Cha lưu đày, gia đình
tan nát. Cái đói và nỗi ám ảnh tù đày, phá nát gia can. Những cái gì súc vật
đòi hỏi thì lại trở thành nhu cầu bức thiết đối với con người. Có thể nói, đó
là những năm mà dân tộc Việt bị khốn cùng nhất trong lịch sử. Đời sống bị đọa
đày còn hơn trong những giai đoạn dân tộc bị đô hộ bởi giặc ngoại xâm. Toàn bộ
đất nước, nhất là miền Nam bị dày xéo xuống địa ngục có thật bởi chủ nghĩa
giết, thắt bao tử và bỏ tù.
“Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong” (Thơ Tố Hữu).
Thật khủng khiếp! Nền chính sự hà khắc còn hơn cọp dữ. Trại tù mọc lên
như nấm. Hằng triệu người cùng đường đã phải tuôn ra biển, vượt biên tị nạn.
Hàng ngàn người chết chìm trong lòng đại dương, hay bị hải tặc hãm hiếp vất
thây xuống biển. Không thể thoát bằng đường biển thì xẻ đường vào rừng sâu, tìm
đường vượt thoát khỏi quê cha đất tổ. Phần đông chết trong rừng. Người ở lại
đói khổ, ăn thức ăn của súc vật, củ mì, bo bo, da xanh hơn tàu lá. Nhớ lại câu
thơ mấy chục năm về trước, một thi sĩ miền Bắc đã ghi, đến bây giờ vẫn còn hiện
thực:
“Tôi bước đi không thấy cửa thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ”, hoặc
“phân người đầy vỏ khoai tím đỏ” (Thơ Trần Dần).
Ôi! Thảm sầu và oan nghiệt chất chồng như núi. Ai oán, đau khổ nào cao
hơn nữa của đất mẹ Việt Nam. Sau bảy năm, ra khỏi trại tù nhỏ, anh Nguyễn Vũ
Văn lại phải tiếp tục quằn quại giữa trại tù lớn; tiếp tục bơ vơ giữa đời dâu
bể:
Phúc cho con! Tình người bèo bọt,
Bể dâu này đoàn tụ như mây
Cơn nắng quái lùa cha bước nữa,
Nào cơm hàng nào cháo chợ vay,
Cha về nhà rồi. Nhưng những oan trái của gia đình lại tiếp diễn, một lần
nữa đánh bật cha ra khỏi ngôi nhà của mình,lùa cha vào cơn nắng quái. Bi thiết
nhất là:
“Con chim có tổ, con chồn có hang, con người thì
không nơi gối đầu”.
Sống giữa quê hương mà tối biết đâu là chỗ ngủ! Bởi chế độ kiểm tra khắc
nghiệtvề cư trú. Không hộ khẩu, không tạm trú, tạm vắng là phải bơ vơ, bản thân
nhà thơ trở lại kiếp lưu đày.
Ngày rong ruổi chiếc xe èo ọt,
Bánh xe lăn từng khúc ruột sa.
Tối phân vân biết đâu chỗ ngủ.
Đất mênh mông sao sót mình ta.
Trong cuộc bể dâu đoàn tụ với người thân mà như mây trôi bèo nổi. Như
một người mẹ, Nguyễn Vũ Văn thai nghén đứa con tinh thần của mình từ nỗi đau
cùng cực. Qua bài thơ “Phúc cho con” người đọc càng thấm thía với tâm tư của
tác giả. Người đọc cần tri âm đối với thi sĩ. Không có tri âm, thơ đến với ai?
Cuộc sống biến đổi giữa nhịp sống vô thường. Người đọc xin ngược dòng
thời gian để chia sẻ một ít về đời sống riêng tư của tác giả bài thơ “Phúc cho
con”, để cảm thông, bởi sự đổi đời đã băm nát cuộc đời tác giả. Anh Nguyễn Vũ
Văn là một người có tên tuổi của thủ đô Sài Gòn trước 1975. Tốt nghiệp một lúc
hai văn bằng đại học Luật khoa và Văn khoa. Anh là vị Thẩm phán Quân sự trẻ của
chính quyền VNCH. Một thời oanh liệt, là người có tên tuổi danh phận trong xã
hội thời bấy giờ. Anh đã có những bài viết nhận định về văn học và thời cuộc
rất sắc bén.Anh đã một lần đi suốt khắp miền Nam tự do để vận động cho liên
danh ứng cử Thượng Viện của mình. Liên danh Bông Lúa, với nhiều vị tên tuổi
trong đó có anh Nguyễn Vũ Văn và nhạc sĩ Nguyễn Hiền. Cuộc chiến tranh tương
tàn do miền Bắc cộng sản gây ra đã mang đến bao nhiêu là bất hạnh! Cuộc đời sau
1975 là sự tan nát lớn nhất trong lịch sử dân Việt. Đằng sau bài thơ là nỗi bi
thảm lớn, bởi sự trả thù quá ư bất nhân của những con người cộng sản. Một trong
những sai lầm lớn của người Mác xít Việt Nam là quyết giết những tài năng và
phá nát gia đình của quân cán chính miền Nam. Tất cả bi thương ai oán, anh
Nguyễn Vũ Văn đã ôm hết vào lòng.
2. Anh giải thoát ra khỏi cuộc đời bằng thi hứng tuôn tràn từ
nỗi khổ đau: Lưu đày, tai ương, đói khổ, chia cắt, tan nát, hận thù. Nghiệt oan
này nối kết nghiệt oan kia. Rồi anh lại nhận thêm một bất hạnh lớn lao: Con
chết!
Con nằm đó cứng đờ hận tủi
Rượu sao mềm lòng đã hóa vôi
Lệ cha nhỏ xuống hồn phiêu bạt
Con khóc òa một bụng máu tươi.
Ôi trời ôi! Oan trái này lịch sử có hay! Cái chết tức tưởi của con là
nỗi ám ảnh khôn nguôi của cha mẹ.
“Con nằm đó cứng đờ hận tủi”.
Vì cha không thể chở con đi nhà thương. Bởi không có thuốc cho con “sĩ
quan ngụy”. Cứng đờ cho nên phải bóp rượu, nhưng không hiệu quả. Gan ruột cha
xé ra thành giọt lệ, nhỏ xuống người con. Trong hiển linh tiếng khóc con nấc
lên, òa ra bụng máu. Máu con là máu cha. Con nhắm mắt qua đời, mới mười sáu tuổi.
Tiếc chi thân xác bụi trần đó
Đốt cho con một đám củi vàng
“Phúc cho con” là tên bài thơ và cũng là nhóm điệp ngữ lập đi, lập lại suốt bài thơ. Phúc là điều
hay, điều tốt, nhưng sao nghe quá xót xa. Bài thơ đã cảm xúc tôi thật mạnh. U
uất, cay đắng!Trong suốt thời gian dài, tôi đọc đi, đọc lại. Hình như nó giải
tỏa cái gì đó trong tâm thức tôi. Trong tận cùng cõi lòng
tôi,
không ngưng niềm xúc động. Tôi thích vẽ
và thơ. Thói quen của tôi khi đọc bài thơ nào hay là tôi cất giữ, gối đầu
giường.
Lâu lâu đọc lại. Cũng như họa phẩm. Với tôi, bài thơ hoặc
tấm tranh nào lâu lâu xem lại, qua trắc nghiệm với thời gianmà nó vẫn
rung động và vẫn còn thích thú là tôi thấy có giá trị. “Phúc cho con” nằm trong
trường hợp đó. Tôi nhớ lại, một lần vào nửa đêm, tôi thức giấc và đã đọc lại
nhiều lần:
Tiếc chi thân xác bụi trần đó
Đốt cho con một đám củi vàng
Lòng ta phực cháy trong giông lửa
Khóc gọi tên con khắp địa tầng
Này đây một nắm tro xương ấm,
Sao xót xa nghẹn máu trong tim
Bao tục lụy vun đầy một hũ
Cũng đành thôi một kiếp tử sinh
Tôi cảm nhận người thơ quá não nề, cay đắng. Tất cả xúc động mạnh từ
“Phúc cho con” truyền qua tôi. Tôi không chịu nổi. Tôi cần được chia sẻ, nên
sáng hôm sau tôi đã gửi e-mail đến anh Nguyễn Vũ Văn. Tôi thưa với anh đôi
dòng. Và tôi muốn viết để chia sẻ về bài thơ. Anh trả lời ngắn gọn: “Anh thích,
xin cứ tự nhiên”. Và mời tôi rảnh rỗi thì đến nhà anh tâm sự.
Đọc thơ là đi vào thế giới riêng tư, lạ lẫm trong tâm can của tác giả.
Với tôi thế giới của thơ làm giải tỏa cho mình những bế tắc sâu kín trong tâm
hồn. Thật hạnh phúc cho ai đã trải lòng đến với thơ. Cõi lòng kiêu mạn, cũng
như những con người vô cảm thì khó mà gần gũi được với thơ. Không chân thành mở
lòng, mở cái thi tâm để đọc thì khó chia sẻ nỗi cảm xúc thâm sâu với thơ và nội
tâm tác giả. Tôi thật sự sung sướng, bởi “Phúc cho con” đã xâm chiếm tâm hồn
tôi. Thi tâm của anh Nguyễn Vũ Văn chân thành. Tài năng và thi pháp của anh
vững mạnh. “Phúc cho con” là một bài thơ khá dài. Dòng thơ bảy chữ. Khổ thơ bốn
câu. Ba khổ một đoạn. Bài thơ sáu đoạn. Đoạn sáu là kết, chỉ có một câu:
“Phúc cho con, cầu phúc cho con”.
Chữ “phúc” là trung tâm để cảm thụ và khắc họa tâm trạng của nhân vật cha và con:
Bố nhớ con một niềm u uất
Chẳng về thăm hai bàn tay không
Khác chi năm trước cha đày đọa
Tựa cửa nhìn ra, con có mong.
Anh đã tốt nghiệp đại học
Luật khoa và Văn khoa Sài
Gòn. Là người thích nghiên cứu và viết tiểu luận về nghệ thuật thơ. Những năm tháng trong trại tù cải tạo,
anh có duyên sống và trao đổi nhiều về thơ với những nhà thơ hiện đại tên tuổi
như Tô Thùy Yên và Hà Thượng Nhân. Anh đã nhiều lần bút chiến về thơ trên những
diễn đàn văn học ở Hoa Kỳ, nên kỹ thuật thơ anh thâm sâu, vững chắc. Anh có
nhiều mặt mạnh: Một cuộc sống dạn dày bất hạnh đã tạo nguồn thơ; tầm hiểu biết
về kỹ thuật thi ca và một tấm lòng cảm xúc sáng tạo. Từ ngữ của anh dùng bình
thường, nhưng cấu kết thành ngôn ngữ mới lạ. Anh làm mới ngôn ngữ. Tôi thích
những chữ anh làm mới ý nghĩa như: bôi xám ngày thơ/ pha loãng hình cha/ khuất
muôn trùng cỏ/ đoàn tụ như mây/ Bánh xe lăn từng khúc ruột sa… Sự làm mới ngôn
ngữ là sức sống mãnh liệt trong thơ của anh. Tất cả tạo ấn tượng mạnh nhờ hình
tượng thẩm mỹ mới mẻ rung động. “Phúc cho con”đã vượt qua thơ mới bởi cách tân
ngôn ngữ. Ý thơ mới lạ.
Anh thay đổi cảm nghĩ. Đau khổ nhưng không sướt mướt. Cảm xúc dằn vặt
khắc khoải, nhưng hòa trong hơi thơ và âm điệu rời rạc, trầm buồn, đều đều như
nhịp kinh, tiếng mõ cho nên người đọc có cảm giác rung động hồi sinh.
Phúc cho con! Hư vô một cõi
Cảnh chùa đây con hãy làm
quen
Ngày vui câu tụng tâm thanh tịnh
Đêm gối đầu trên những cánh sen.
Phúc cho con kết hợp giữa tâm cảnh bế tắc với hiện thực của người cha
cùng quẫn, khốn khó và lưu đày; lại nhận thêm hung tín một sớm: Con chết. Nguồn
đau thương cao ngất, dàn ý xuống “Phúc cho con” bằng sáu mươi mốt câu thơ, bảy
chữ. Ngôn ngữ xem qua như lặng lẽ, nhưng ý không thường, bởi nhà thơ dày dạn
trong nghệ thuật sáng tạo. Nó có năng lực rung cảm rất lạ. Đó là giá trị của
nghệ thuật thơ của anh Nguyễn Vũ Văn.
3. Vào một buổi sáng, tôi đã đến thăm anh. Có thể nói thơ đã
dẫn tôi đến với anh. Năm nay anh Văn trên thất thập, nhưng dáng người còn trẻ.
Anh chuyện trò vui vẻ, bình thường như không có một chuyện gì đi qua đời anh.
Anh có thêm niềm vui từ hai cô con gái xinh xắn hiền dịu, đang học Nha khoa và
Dược khoa. Anh nói, anh đã bỏ viết rồi. Nhưng tôi thúc, anh sẽ cố gắng viết lại.
Nghe anh nói, lòng tôi thật sự xúc động và hạnh phúc. Anh thích nông dân, tâm
hồn nông dân chất phác như thơ. Anh tâm tình: Anh là tác giả, đã soạn thảo luật
“Người Cày Có Ruộng”, sau đó đệ nạp lên Thượng Nghịviện dưới tên của ba Thượng
Nghị sĩ Nguyễn Văn Ngải, Phạm Nam Sách và Nguyễn Văn Mân. Sau đó được PhủTổng
thống soạn lại, Quốc hội thông qua và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ban hành ngày
26 tháng 3, năm1970. Đạo luật được ban hành chỉ sửa khoảng chừng 10% so với bản
dựluật ban đầu của anh Nguyễn Vũ Văn soạn thảo. Và trong niềm chia sẻ những
chuyện đời thường, anh đã đưa tôi xem rất nhiều sách giáo khoa Anh ngữ. Trong
đó có khoảng mười sáu đầu sách, anh đã soạn để các trường ở Saigon giảng dạy
vào khoảng giữa năm 1992-1993, khi anh ở tù về. Đó là niềm vui và nguồn sống
của anh.
Thơ và con người Nguyễn Vũ Văn quyện chặt với nhau. Anh sống với chất
thơ. Nguyễn Vũ Văn đã làm thơ từ năm 1957, nhưng chỉ làm rất ít. Anh đã đăng
tải thơ của mình trên các Tạp chí Thế kỷ 21 (Westminter, CA), Phố Văn (Garland,
TX), Văn (San Jose, CA). Bây giờ anh vẫn còn làm thơ. Với tuổi đời trên bảy
mươi. Tôi nghĩ anh yêu thơ thật sự.Thơ anh cô đọng, hàm súc, và bàng bạc tính
nhân đạo nên đã nâng cao tâm thức của người đọc. Bài thơ “Phúc cho con”anh viết
cách đây gần 25 năm, mỗi khi đọc lại, người đọc vẫn có cảm xúc như mới đọc lần
đầu. Điều đó khẳng định bài thơ tồn tại và sống mãi. Người thích thơ không thể
nào lãng quên nó. Tài năng và lương tâm của anh thể hiện chân thành trong sáng
tạo. Mà chân thành khi sáng tạo là cốt tủy của thi tâm.
Thơ là ngôn ngữ lạ, là ngôn ngữ của cảm xúc, cho nên khi người đọc
nghiền ngẫm thơ với khả năng cảm thụ cao. Tôi nghĩ người yêu thơ sẽ nhận ra ở
“Phúc cho con” đầy cảm xúc chân thành bởi chất liệu bi tráng của cuộc đời. Cả
bài thơ rờn rợn, uất nghẹn. Chữ “phúc” ám ảnh lạ lùng. Con chết mà phúc. “Phúc cho con! Tin hung một sớm”. Có nỗi xót xa, đau đớn nào hơn nữa hay không? Chết là tai họa là nỗi bi thảm tột cùng. Nhưng ở giai đọan khúc quanh
này của đất nước, chết lại là điều phúc. Thế thì còn gì đau khổ hơn, nghẹn ngào
hơn nữa cho một dân tộc. Thi pháp của Nguyễn Vũ Văn đầy hình tượng, ngôn ngữ
mới, nhạc điệu và đầycảm xúc v.v… Người yêu thơ vui vì đã phát hiện được hạt
minh châu “Phúc cho con” lấp lánh, tỏa sáng để người đọc nhớ mãi khúc quanh bi
thảm của một cuộc đời mà ở đó ẩn tàng những gì tang thương của dân tộc. “Phúc
cho con” sẽ sống mãi trong dòng văn học Việt Nam, mà chắc chắn nhất là trong
dòng văn học VNCH.
“Phúc cho con! cầu phúc cho con.”
Mong ước người đọc lắng
lòng, và tiếp tục cầu:
Phúc cho Dân tộc Việt Nam.
Họa sĩ Nguyễn văn Nhớ
Portland Oregon.
----------------------------------------
Nguyên tác bài thơ
Phúc cho con
Cho Anh Vũ
1.
Phúc cho con! Mới đầy ba tuổi,
Giặc tuôn tràn bôi xám
ngày thơ.
Bố ra đi lừa con
khi ngủ,
Bảy năm dài pha loãng hình cha
Buổi cha về lá hoa xơ xác,
Nhà toang, bếp lạnh, gió lùa tung.
Mẹ già đã khuất muôn trùng cỏ,
Bài vị chẳng buồn để ngó trông.
Cha về đâu có hơn ngày trước,
Bữa cơm bữa cháo bữa khoai lang
Ngày Tết đến buồn bàn thờ tổ,
Đón Xuân về một đĩa xôi vàng.
2.
Phúc cho con! Tình người bèo bọt,
Bể dâu này đoàn tụ như mây...
Cơn nắng quái lùa cha bước nữa,
Nào cơm hàng nào cháo chợ vay.
Ngày rong ruổi chiếc xe èo ọt,
Bánh xe lăn từng khúc ruột sa.
Tối phân vân biết đâu chỗ ngủ,
Đất mênh mông sao sót mình ta.
Bố nhớ con một niềm
u uất,
Chẳng về thăm hai bàn tay không.
Khác chi năm trước cha đày đọa,
Tựa cửa nhìn ra, con có
mong?
3.
Phúc cho con! Tin
hung một sớm,
Con giã đời từ lúc ngủ say.
Mười sáu tuổi mà cho cũng đủ,
Đơn côi này con đã phủi tay.
Những tưởng rồi ra con hùng vĩ,
Ngờ đâu suối lại chẳng thành song
Trách chi con phụ công sinh dưỡng,
Trời sao đành sập núi nên đồng.
Con nằm đó cứng đờ hận tủi,
Rượu sao mềm lòng đã hóa vôi.
Lệ cha nhỏ xuống hồn phiêu bạt,
Con khóc oà một bụng máu tươi.
4.
Phúc cho con! Bao người đưa tiễn,
Này thầy này bạn này người thân.
Này đồng huyết mạch đầu khăn trắng,
Này cha này mẹ lệ muôn dòng.
Nằm chi con nấm mồ lạnh lẽo,
Rồi ra thịt rữa dế kêu than.
Sớm khuya hoang vắng ai nhang khói,
Lời kinh ai tụng con lên đàng.
Tiếc chi thân xác bụi trần đó,
Đốt cho con một đám củi vàng.
Lòng ta phực cháy trong giông
lửa,
Khóc gọi tên con khắp địa tầng.
Này đây một nắm tro xương ấm,
Sao xót xa nghẹn máu trong tim.
Bao tục lụy vun đầy một hũ,
Cũng đành thôi một kiếp tử sinh.
5.
Phúc cho con! Hư vô
một cõi,
Cảnh chùa đây con hãy làm quen.
Ngày vui câu tụng tâm thanh tịnh,
Đêm gối đầu trên những cánh sen.
Nơi quán lú quên đi mộng mị,
Hồn sơ sinh mãi mãi ngu ngơ.
Như chưa lặn lội nơi trần thế,
Cũng chẳng thăm ai trong giấc mơ.
Duyên kiếp này vốn không tự chọn,
Thì đứng ngoài tìm cõi vui chơi.
Tiên cảnh bồng lai mây đưa lối,
Thời gian ngưng đọng dấu chân đời.
6.
Phúc cho con, cầu phúc cho con!
Nguyễn Vũ Văn
No comments:
Post a Comment