Hôm nay nhân ngày rằm, cô Loan cùng chồng đi viếng Quan Âm miếu, luôn tiện mua môt ít đồ chay của nhà chùa để lát nữa mang qua nhà ba má cô ở gần đó cho ông bà ăn trưa. Gọi là ‘’miếu’’ chớ thật ra đây là một ngôi chùa tàu khang trang bề thế được nhiều khách thập phương vãng lai cúng bái, nhứt là vào ngày rằm và mùng một âm lịch. Đó là hai ngày chánh mà đa số người theo Phật giáo có thông lệ đi chùa lạy Phật, tụng kinh sám hối và ăn chay tránh sát sanh diệt dục để mong giảm bớt nghiệp chướng tội lỗi mà họ đã vô tình hay cố ý tạo ra trong đời. Từ xa ngòai cổng, cô đã thấy xe cộ nườm nượp, chiếc ra chiếc vào lượn tới lượn lui tìm chỗ đậu, Phật đài trước chánh điện nghi ngút khói nhang, mùi trầm hương tỏa lan thơm nứt cả một khỏang không gian, quang cảnh nhộn nhịp náo nức như một ngày lễ hội.
Sau khi thắp nhang bái tượng Phật Bà Quan Âm, cô đi vòng ra hậu viện mua đồ chay ủng hộ gây quỹ nhà chùa. Lúc đó chưa đến giờ ngọ, chỉ mới khỏang 11 giờ trưa nhưng hậu viện đã đông đảo rộn ràng, lớp thì đứng sắp hàng chờ lãnh phần ăn do nhà chùa bố thí, lớp thì mua đem về. Nào là chả giò, đậu kho, cơm trắng, rau luộc, nào là bún xào, mì xào, cơm chiên. Tòan là rau củ thực vật, không có miếng thịt miếng cá con tôm con tép nào hết nhưng trông cũng đậm đà ngon mắt, lại có thể an tâm ăn không sợ mập phì. Đó cũng là một lý do xứng đáng khiến thiên hạ thời nay chạy theo phong trào ăn chay trường để giảm bớt bệnh tật vào thân. Nhưng thiết nghĩ, một khi đã tự nguyện ăn chay thì tất nhiên phải chấp nhận hãm mình từ trong tâm ra tới cái miệng, cớ sao cái miệng nói ăn chay mà cái đầu cứ tơ tưởng đến đồ mặn, bày đặt giả vịt quay, heo sữa, gà tiềm, bò bảy món hay hải sâm bào ngư vi cá tự gạt mình để ăn cho ngon miệng thì còn chi là lòng thành, Phật trời nào chứng giám.
Sau khi mua xong một mớ chả giò và hai hộp đậu kho, cô Loan rủ ông xã dạo chơi vòng quanh ngắm cảnh chùa. Từ hậu viên ra tới sân trước, dọc theo hông chùa, dưới những tàng cây râm mát, thực khách đã ngồi đầy bên những chiếc bàn dài, vừa ăn vừa chuyện trò vui vẻ, người nào cũng có vẻ thư thái an nhiên. Dường như một khi đã bước vào cửa Phật thì mọi ân óan buồn phiền đều tiêu tan bay bổng hoặc vả được tạm thời gác lại, chỉ còn lại nơi đây cái tâm an lạc nhẹ nhàng và cảm giác được cứu độ bao dung. Càng khoan khóai hơn nữa khi nghĩ rằng mình được ăn…chùa (free), chẳng những khỏi tốn tiền mà còn được thêm bonus phước đức của nhà chùa.
Quan Âm miếu tọa lạc trên một cuộc đất khá cao xa khuất lộ cái, bốn bề yên tịnh, mặt tiền nhìn ra một tiểu lộ nên thơ với hai hàng dương liễu rủ mình thướt tha trên thảm cỏ xanh mượt an bình dài mút mắt. Cô đi lần xuống mấy bực tam cấp, đạp lên đám cỏ cao nương theo lối mòn tiến về phía con lộ nhỏ bên dưới. Trong đám cỏ dại, cô chợt phát hiện ra vài lọai rau ăn được mọc hoang chen lẩn nhau như cải trời, rau sam và một ít rau dền. Rau dền là một lọai rau dân giả được nhiều người ưa chuộng thường dùng làm món canh hoặc xào hay luộc chấm nước tương trong bữa cơm đạm bạc qua ngày mà cô đã cũng đã nhiều lần ăn qua.
Cô ngắt một đọt rau đưa lên mũi hít một hơi dài, mùi nhựa rau quen thuộc kích thích thần kinh khứu giác xông lên đầu, khơi ký ức sống dậy một niềm thân ái xa xưa của một thuở hàn vi xa lơ xa lắc khiến cô bất giác bồi hồi. Cái thuở xa lơ xa lắc đó là ba mươi lăm năm về trước, cái thuở mới nhập cư tới xứ người, mọi sự đều bắt đầu chập chững, cái gì cũng lạ lẫm bỡ ngỡ hoang mang. Thuở đó ai cũng trắng tay, ai cũng nghèo, nghèo rớt mồng tơi. Một căn nhà hai phòng đáng lẽ là tiêu chuẩn cho một cặp vợ chồng và hai đứa con nhỏ nhưng gặp dân tị nạn tới mướn thì bất kể luật lệ quy tắc, cứ bừa ‘’tưới hột sen’’, cứ xúm nhau ở xả láng cả chục mạng để tiết kiệm tiền thuê nhà. Ai cũng nghĩ, ăn mới nhiều chớ ở mà bao nhiêu, chịu khó lúc đầu chật chội một chút thì mới có dư, mới có ngày thỏai mái huy hòang nhà cao cửa rộng.
Thuở đó, có lẽ không có ai là không trải qua giai đọan làm đệ tử Cái bang bao bị gậy đi ‘’ăn xin’’, xin đồ giáo hội và xin tiền trợ cấp thất nghiệp của chính phủ. Phần lớn các vật dụng trong nhà từ cái giường cái tủ, cái bàn cái ghế tới nồi niêu chén bát dao nĩa đều phát xuất từ các hội từ thiện Vincent de Paul hay Smith family. Vì vậy, thuở đó mục đích đi shop là chỉ mua đồ ăn và những gì tối cần thôi chớ tuyệt đối không mấy ai dám rớ tới một thứ gì xa xí khác nữa, có chăng là window shopping ngắm nghía để đó rồi về nhà mơ ước hẹn một ngày mai đẹp trời.
Cô còn nhớ có lần đi ngang qua một gian hàng bày bán kim chỉ, cô muốn dừng lại mua để về sửa mấy bộ đồ của giáo hội cho nhưng ông xã còn không cho bởi vì tiền dằn túi quá ít ỏi phải để phòng hờ. Mà phải mắc mỏ gì cho cam, chỉ có vài ba đồng thôi cũng không được mua. Cô ấm ức tức mình cự nự với ông xã, nói thấy trước mắt mà không cho mua, mai mốt làm sao nhớ chỗ này để trở lại. Phải chi xài hoang xài phí, không cho thì phải, đàng này là mua kim chỉ may vá cho cả nhà, thiết thực biết bao nhiêu, tiết kiệm gì không đúng chỗ, vô lý gì đâu. Bực tức nhứt thời thì nói vậy chớ sau này nghĩ lại cũng nhờ tính cần kiệm của ông xã mà về sau khi mua nhà, hai vợ chồng cô đã nhanh chóng trả dứt nợ ngân hàng chớ không để cù cưa kéo dài lãi mẹ đẻ lãi con thêm đau đầu mệt óc.
Thuở đó người Việt tị nạn còn rất thưa thớt, ra đường gặp được một người đồng hương mừng còn hơn bắt được vàng, bởi vậy một khi đã quen ai thì tình cảm đối với nhau rất thắm thiết chân thành. Lúc đó chưa mấy người có việc làm vững chắc, chỉ làm tàm tạm nay chỗ này mai chỗ kia được ngày nào hay ngày nấy, hầu như ai cũng phải đi học vài khóa ESL (English as second language) để có một số vốn tiếng Anh trước khi đi xin việc.
Tuy là thầy dạy Anh văn ở xứ mình, nhưng ông xã cô Loan cũng không ngọai lệ, cũng phải dợt lại một khóa intensive English for migrants and refugees ở đại học NSW cho vững bụng trước khi "ra quân". Tại đây ông đã gặp và học chung với một ông bác sĩ ra trường trước ngày mất nước đổi đời. Ông bác sĩ không cam lòng xuống cấp, mai một chức nghiệp của mình nên cố gắng học lại để lấy bằng hành nghề ở xứ người, còn ông thầy giáo cũng quyết không rời cây viết, hy vọng tìm được một công việc bàn giấy thay vì lao động tay chân. Chí lớn gặp nhau thành bạn khiến hai bà vợ cũng tương đắc chơi thân với nhau như đã từng là bạn lâu đời.
Nhà ông Vĩnh (tên ông bác sĩ) ở vùng Newtown gần city, còn gia đình cô Loan thì ở tuốt ngòai Bondi beach, vậy mà mùa hè, cuối tuần nào ông Vĩnh cũng chở vợ và hai đứa con ra biển chơi, ghé vô nhà cô Loan ăn trưa và có khi ăn chiều luôn rồi mới về. Chị Trang, vợ ông Vĩnh là dân bắc kỳ, lúc mới gặp, cô Loan tưởng là người bắc khách sáo khó thân thiện lắm, ai dè nói chuyện vài lần thấy chị cũng rất dễ thương, cởi mở và chân tình không giống như lời đồn đãi của một số người mang thành kiến kỳ thị nào là bắc kỳ giữ kẽ, keo kiệt, xảo trá điêu ngoa, màu mè, tới nhà họ gặp bữa ăn thì chớ nên nghe mời tưởng thiệt nhào vô ăn là sẽ bị chưởi tơi bời sau lưng. Thật ra dân nào cũng có người vầy người khác, kẻ dữ người hiền, có quy luật nào đề ra khẳng định ai xấu ai tốt cho mình quơ đũa cả nắm đâu. Nam kỳ nhiều tên cũng ma le quỹ quyệt bán trời hổng mời thiên lôi chớ có tử tế vừa gì.
Chị là sinh viên y khoa sắp ra trường thì Việt cộng vô, bố chị di cư hồi 54, đã quá rõ bộ mặt gian hùng của cộng sản nên bảo vợ chồng chị phải chạy thật xa, xa hẳn cái đám bắc kỳ 75 vô nhân vô luật vừa mới ùa vào xâm chiếm cướp của miền nam thì mới có hy vọng học nốt cái bằng bác sĩ dang dở nửa chừng. Do đó như bao nhiêu người tị nạn khác, chị đã chạy tới đây, một nơi đất lành chim đậu có nhiều cơ hội để vươn lên và tương lai tươi sáng đang đón chờ, không những cho đời chị thôi mà còn cho thế hệ con cái về sau, sau nữa. Đặt chân lên nước Úc không bao lâu, chị đã lập kế họach tương lai cho chị, vừa ghi tên đi học, vừa đi làm bất cứ việc gì, từ làm thông dịch viên part time cho tới phụ bán chợ trời cuối tuần, chưa kể chị còn có bổn phận làm mẹ phải chăm sóc dạy dỗ hai đứa con mới lên bốn lên năm. Thấy chị xông xáo tháo vát mà cô thầm thán phục trong lòng, nghĩ lại mình thấy vô dụng bất tài làm sao. Quen với chị, cô đã học hỏi được nhiều điều hữu ích để có thể bớt thụ động và sáng mắt tỉnh dậy khôn ra, ra khỏi cái lớp chăn êm ấm đã mải mê ngủ vùi, thói quen được cha mẹ nuông chìu bảo bọc từ nhỏ để từ đây biết có trách nhiệm với bản thân mình và người thân.
Thì ra là rau dền, người miền nam gọi là rau dền hoang để phân biệt với rau dền rẩy được gieo hột trồng bán ở chợ hằng ngày. Cô vừa hái vừa nhớ lại hồi còn ở trại tị nạn Pulau Bidong, sau hai tháng ăn đồ hộp supply khô khan quá, cô phải bán chiếc nhẩn cưới để mua rau muống ăn kèm trong mỗi bữa ăn. Quen cái thói hồi còn ở nhà, chưa một ngày bị đói, khi lặt rau cô chỉ lấy đọt non ở phần ngọn, còn đọan già thì bỏ đi. Lặt xong tom góp lại định vứt thì một chị hàng xóm người bắc kế bên bước qua hỏi xin về ăn. Cô ái ngại nói chỗ rau này già dai lắm, ăn không được đâu chị à. Chị hàng xóm bảo không sao, tôi đem về làm dưa cho dòn lên là nhai rau ráu tất tật thôi.
Lúc đó cô đã nghe mủi lòng và thấy mình còn may mắn hơn rất nhiều người, chưa đến nỗi phải xin mót miếng ăn. Ai ngờ bây giờ hòan cảnh mình cũng gần giống chị hàng xóm khi xưa vậy. Cô nghĩ thầm trong bụng thì ra khi người khi ta, không ngờ mình cũng có ngày lâm cảnh tha phương cầu thực, phải đi mót từng cọng rau và xài thì xài đồ ‘’cũ người mới ta’’. Lúc xưa khi còn ở nhà, tuy ba má cô không thuộc lọai giàu có sang cả gì nhưng từ nhỏ tới lớn, cô chưa một ngày ăn uống kham khổ chắt mót, chưa từng biết mua hàng ‘’lặc son’’ (đồ sold nửa sạt). Sông có khúc, người có lúc là vậy sao. Cũng là một bài học hay, bài học biết thích nghi với thời vận thăng trầm.
Sau khi hái được một rổ rau đầy, hai đứa mang vào nhà rửa sạch. Chị bắc soong nước khỏang lít rưởi nấu sôi, bỏ tôm khô vào nấu chừng 5 phút. Cho rau dền vô, nêm tí bột ngọt, một thìa mắm ruốc, nửa muỗng đường rồi tắt lò trong lúc rau còn xanh tươi ngon mắt thấy bắt thèm.
Lá trôi muôn nẻo, bèo hợp rồi tan, cái duyên bằng hữu đến một lúc nào đó cũng nhạt phai dần rồi chấm dứt. Vả chăng, thói đời một khi đã công thành danh tọai, giàu sang phú quý thì không mấy ai muốn hồi tưởng đến quá khứ nghèo khổ ban sơ của mình. ‘’Giàu đổi bạn sang đổi vợ’’ là vậy. Giờ đây với địa vị và công việc bận rộn hằng ngày, người bạn thuở hàn vi của cô dù có muốn ‘’ngỏanh lại trông’’ chắc cũng không có giờ nấu lại tô canh ngày cũ và cũng không hơi sức đâu mà vớ va vớ vẩn ngắt đọt rau hoang ngày nào để rồi bồi hồi nhớ lại một thuở hàn vi với những người bạn thân ái buổi ban đầu.
Tuy không còn cơ hội gặp gỡ nhau nhưng trong lòng cô, chị Trang mãi mãi là một hình tượng đẹp, một người bạn đáng mến đã cùng chia sẻ với cô bao nỗi khó khăn bỡ ngỡ trong những ngày đầu tiên mới tới mà suốt kiếp sẽ không quên cũng như chuyện cây kim sợi chỉ vẫn còn nhớ mãi bởi vì ấn tượng đầu tiên là ấn tượng muôn đời, ngọai trừ không may mắc bệnh Alzheimer làm mất đi ký ức.
Bài viết hay! Bỏ nước ra đi buổi đầu đến miền đất lạ ai cũng khổ, phải quyết tâm phấn đấu ! Nhất là mùa đông giá rét phải lái xe đi thật xa tới sở thật khổ!
ReplyDeleteBây giờ hưu trí mùa đông ở nhà nhìn tuyết rơi , nhớ lại thật sợ
Cây dền hoang ở xứ tôi Đức Hòa ( Long an ) gọi là dền cơm, luộc chấm chao hay nước cá kho tiêu ngon lắm ! Cám ơn tác giả ^^ nhân vật trong bài là Tốkim phải không ?
Cám ơn anh Hàn Thiên Lương. Vạn sự khởi đầu nan, ai cũng vất vả khổ cực lúc ban đầu nơi xứ lạ. Nhưng với tính cần cù chịu khó của người Việt mình thì rồi ai cũng có nhà có cửa thênh thang.
DeleteBên Úc chưa lạnh đủ để có tuyết, em sợ nhứt là mùa hè nắng gắt, nóng chảy mỡ, đi làm thật mệt.
TK
Chị viết hay và rất thật. Chúc gia đình chị luôn vui khỏe.
ReplyDeletePhạm Doanh Môn
Anh chị qua Úc theo diện bảo lãnh chắc không lâm cảnh hàn vi như chúng tôi lúc ban đầu.
DeleteCám ơn anh Môn.
TK
Tố Kim ơi, nhiều khi nhớ lại thuở hàn vi mới nhận ra rằng, thà là tình đơn sơ mộc mạc mà vui. Bây giờ tụi mình đang ở dốc đồi đi xuống thì cứ buông thả là hạnh phúc và Về Đây Nghe Em: "Rồi kể chuyện tình bằng lời ca dao, bằng hạt lúa mới, bằng nồi ngô khoai...".
ReplyDeleteH Yến (TMG)
Đồng ý với Hoàng Yến. Tới tuổi này, mặc kệ tình đời ấm lạnh. Ai rồi cũng chỉ còn lại một nắm tro tàn. Một nắm tro tàn ai thấp cao!?
DeleteCám ơn Hoàng Yến luôn cheer up mình.
TK
Rất đồng cảm với chị Tố Kim một thời hàn vi lúc còn tay trắng lập nghiệp thuở đầu với biết bao hỷ nộ ái ố. Hình gia đình chị đẹp và quá. Kính chúc anh chị luôn mãi hạnh phúc trong từng sát na trong cõi vô thường này ạ
ReplyDeleteHồng Thúy
Hồng Thúy ơi, thuở hàn vi, ăn được bát phở gà già xuềnh xoàng không giá không quế cũng thấy quý thấy ngon, nhưng giờ đây ăn tô phở tái nạm gầu, bò viên, rau giá đầy đủ mà vẫn không cảm được cái ngon như lúc đói nghèo. Có phải tại bây giờ mình quá thừa mứa nên coi thường dửng dưng.
DeleteCám ơn Hồng Thúy.
TK
Thuở hàn vi thật nhớ đời chị nhỉ! Hầu hết người tị nạn nào cũng trải qua giai đoạn đầy gian khổ và bờ ngở nầy, nhưng dù nghèo mà được tự do thoải mái là sung sướng quá rồi! Chúng mình là những người may mắn được định cư ở một nước thứ ba, được tự do hạnh phúc là nhất rồi, nếu kẹt lại với bọn cs máu lạnh thì ko biết cuộc đời sẽ ra sao?!
ReplyDeleteGood Night & Sweet Dreams chi!🌹❤️
Đúng đó Ngàn Thu. Chúng mình may mắn được định cư ở một đất nước tự do, dù nghèo khổ lúc ban đầu nhưng vẫn có cơ hội vươn lên thực hiện những ước mơ của mình, chớ nếu như còn kẹt lại bên nhà, dưới chế độ cộng sản khắc nghiệt, không biết chúng mình sẽ ra sao, có trở mình được không hay mãi mãi ngóc đầu lên không nổi.
DeleteCám ơn Ngàn Thu.
TK