Wednesday, December 24, 2025

Những Bông Hoa Cuối Mùa - Nguyên Nhung


Xếp lá thư của Chuyên vào túi áo, Ngọc mỉm cười xa vắng. Lá thư từ miền hỏa tuyến gửi về Thành phố đến tay Ngọc vào những ngày đầu tháng Mười hai, báo tin Chuyên sắp về phép trong mùa Giáng Sinh khiến Ngọc nôn nao chờ đợi. Nhớ lại Noel năm ngoái Chuyên không về được vì phải ở lại đơn vị, chỉ có mình Ngọc đi lễ nửa đêm với cô em gái, nghe hồi chuông ngân lan lan trên nóc nhà thờ giăng giăng những ánh đèn chớp tắt, Ngọc lại nhớ Chuyên da diết...

    Đứng dưới giàn mướp ở góc sân sau, những bóng nắng in xuống nhảy múa đậu trên chiếc áo trắng của Ngọc, tưởng như cũng biết cười với nỗi vui thầm kín của người con gái. Những bông hoa cuối mùa trên giàn vẫn tươi thắm, dù đợt gió cuối năm hơi lành lạnh đã làm những chiếc lá trên giàn ngả màu vàng úa, đang xào xạc theo từng cơn gió mùa thổi tới.

    Bầu trời cao và trong, xanh biếc, nắng vẫn óng ả trên những cây cỏ trong vườn. Chuyên về. Ngọc nghe những tiếng reo vui ấy cứ ấm áp ngân mãi trong lòng, như tiếng chuông đêm giáng sinh năm nào. Rồi Ngọc chợt buồn cười nhớ lại những kỷ niệm vui vui lần đầu gặp Chuyên mùa Giáng Sinh hai năm về trước, để từ đấy hai đứa đi vào đời nhau như một giấc mơ huyền nhiệm.

    Chuyên nhập ngũ khi tròn hai mươi tuổi, tâm hồn người thanh niên thời ly loạn đã sớm nhìn ra chiến tranh đang giăng bủa trên quê hương, với những trăn trở mơ ước đất nước được an bình, bạn bè chàng lớp lớp lên đường tòng quân nhập ngũ. Mới đó mà chín tháng Quân trường trôi nhanh, đời chinh chiến đưa đẩy Chuyên làm người lính xa nhà, dù chưa có một mối tình nồng đậm ở hậu phương, nhưng vài khuôn mặt dễ thương tuổi học trò vẫn ẩn hiện trong tim người lính

    Ra đơn vị một thời gian, nhiều lần hành quân thử lửa nơi chiến trường lửa khói, viên đạn địch ghim vào chân bên phải và phá vỡ xương đùi, chàng phải nằm bệnh viện dưỡng thương một thời gian. Vết thương sau khi lành lặn đã để lại cho người lính một kỷ niệm khó quên, thời gian ấy lại rơi đúng vào mùa Giáng Sinh nên Chuyên có được những ngày nghỉ hiếm hoi trong đời lính với mái ấm gia đình. Bây giờ chàng Sĩ quan mặt búng ra sữa ấy trông đã có vẻ lì lợm, chững chạc hơn so với ngày mới bước chân vào đời lính, không biết sao lại ngoan ngoãn theo bố mẹ đến nhà Ngọc dự bữa tiệc đêm Giáng Sinh năm ấy. Ngọc và lũ em không làm sao nín cười được, khi Chuyên mặt đỏ bừng vì ngượng, vâng lời cha mẹ khoe chiến thương cho mọi người xem. Mấy đứa con gái kéo nhau vào phòng trong rúc rích cười, con em út đã nghịch ngợm bảo Ngọc :

    " May quá chị Ngọc nhỉ ? Nếu anh Chuyên bị thương ở trên bụng thì em không biết..."

    Ngọc vội vàng bịt miệng em kịp lúc, rồi mấy chị em lại rúc rích cười với nhau, tha hồ bàn tán về anh chàng Sĩ quan trẻ ngượng nghịu ngoài phòng khách. Sau này, khi hai đứa yêu nhau, Ngọc có kể lại chuyện này cho Chuyên nghe, hai đứa cứ rũ ra cười, khi đang yêu họ ríu rít như đôi chim non, mỗi lần về phép là những ngày vui dài bất tận. Đó cũng là những kỷ niệm đẹp ghi đậm trong tâm khảm hai người, và mùa Giáng Sinh năm ấy bỗng lại là mùa Giáng Sinh đẹp nhất trong đời Ngọc. Để rồi sau mỗi lần về phép, Chuyên trở ra đơn vị, Ngọc lại hồi hộp chờ đợi và mong mỏi chàng trở về với một xác thân lành lặn.

    Ngọc tuy không đẹp nhưng rất có duyên, còn Chuyên thì khỏe mạnh, đầy nam tính. Chàng có cái lì lợm toát ra từ vẻ mặt, từ đôi mắt, bởi vậy lần đầu tiên gặp Chuyên, Ngọc đã nhìn thấy đôi mắt ấy hình như có lửa, đã đốt cháy trái tim Ngọc ngay khoảnh khắc đầu tiên. Người ta gọi đó là "Tiếng sét ái tình", dù hai bên gia đình hình như đã có sự sắp xếp để hai đứa gặp nhau. Riêng Ngọc, nàng lại cho là có sự sắp xếp của định mệnh, để hai người vĩnh viễn bước vào đời nhau đúng vào đêm Chúa sinh ra đời.
    ***
    Ngọc đang sửa soạn những món ăn cho đêm Noel thì Chuyên về. Suốt ngày hôm đó Ngọc nôn nao mong đợi, nào ai biết được những gì xảy ra cho người lính. Mãi tới khi thấy Chuyên đứng bên ngưỡng cửa, bộ đồ nhà binh còn bám bụi đường xa, nụ cười rạng rỡ của chàng khi cô em út đã nhảy ra mừng trước chị, Ngọc mới yên chí là chàng về thật. Một kỳ nghỉ phép vào mùa Giáng Sinh thật hiếm hoi cho đời lính, những cuộc đụng độ bất ngờ trong giờ hưu chiến vẫn có thể giữ Chuyên ở lại đơn vị là chuyện thường. Đánh đổi những ngày phép hiếm hoi này không phải dễ cho một người lính ở đơn vị tác chiến như Chuyên, ròng rã nhiều tháng ngày Ngọc làm tượng đá chờ đợi, nàng mới cảm thông được nỗi buồn của những người vợ lính...

    Việc đầu tiên trong kỳ nghỉ phép rất hiếm hoi này, Chuyên chạy vội đến một cửa hàng bách hóa để mua quà Giáng Sinh cho Ngọc. Đứng trước bao nhiêu món quà trưng bày trong tủ kính, cuối cùng chàng đã tìm được món quà cho người yêu, con búp bê thật xinh với dáng đứng và khuôn mặt của cô bé tuổi mười lăm, duyên dáng và ngây thơ như Ngọc. Ngoài ra Chuyên còn mua thêm vài món quà nữa, những món quà này Chuyên dấu kín trong một túi giấy, với một bí ẩn mà chắc rằng chỉ có chàng mới hiểu được ý nghĩa cao đẹp của nó.

    Sau khi tiếp mẹ nấu nướng những món ăn cho bữa tiệc đêm Giáng Sinh, Ngọc vội vã vào phòng riêng trang điểm chờ Chuyên tới đưa nàng đi chơi đêm Noel. Thành phố vẫn tưng bừng trong không khí rộn rã của đêm Noel, trong khi ấy chắc hẳn có những người lính ở miền xa đang căng mắt chờ đợi những bất an xảy đến cho họ. Đã có một " Party " thật vui nhộn do cô bạn thân mời, Ngọc có thể xin phép mẹ để được đi chơi với Chuyên mà không bị nhắc nhở, dặn dò, lo lắng như những lần được bạn bè mời đi ăn sinh nhật trước kia. Hay là bây giờ Ngọc đã lớn, bố mẹ đã hoàn toàn tin tưởng nàng chọn lựa đúng người để gửi gấm yêu thương. Bố vẫn nói đùa với mọi người, có lũ con gái ở trong nhà như bom nổ chậm, lòng ngay ngáy không yên. Mỗi lần thấy con gái đi theo để thưa với bố điều gì, ông lại hồi hộp không biết có phải tin báo giờ bom sắp nổ. Bố vui tính hay đùa, chứ ba đứa con gái của ông là ba bông hoa tươi thắm, đã khiến ngôi nhà vang lên những tiếng cười trong trẻo, óng ánh như tia nắng đầu ngày trải trên giàn mướp hương hoa vàng ở mảnh vườn sau.

    Khi Chuyên trở lại để xin phép mẹ đưa Ngọc đi chơi, chàng thật bảnh bao trong bộ quần áo "Civil" thẳng nếp, tóc tai chải gọn gàng, mày râu nhẵn nhụi, khác hẳn khuôn mặt phong trần, xạm nắng trong bộ Quân phục chàng mặc lúc ban chiều. Trên tay chàng là gói quà nhỏ tặng Ngọc, ngoài ra còn một gói to hơn, bọc kín mít trong một túi giấy, bỏ vào chiếc túi ny lông, hơi cồm cộm, Ngọc đoán là giầy dép, hay quần áo. Món quà ấy Chuyên nhờ Ngọc cầm hộ, khi hai người chở nhau trên chiếc xe Honda, Ngọc chỉ mơ hồ đoán đó là món quà Chuyên dành cho ai đó nhưng không tiện hỏi.

    Cả tuần nay, Ngọc băn khoăn chọn chiếc áo dài có màu sắc thích hợp cho đêm Giáng Sinh. Dưới ánh đèn mờ thì màu đỏ huyết dụ sẽ làm khuôn mặt Ngọc nổi lên những đường nét quyến rũ, dù rằng Ngọc rất thích chiếc áo màu thiên thanh, đi trong nắng sẽ làm vẻ tươi thắm của khuôn mặt trở nên dịu dàng hơn, nhưng dưới ánh đèn qua sự phản chiếu ánh sáng, nó sẽ bị lợt lạt đi. Băn khoăn mãi, không biết sao Ngọc lại chọn màu áo trắng học trò, có thêu những chiếc hoa xinh màu xanh nhạt dưới hai tà áo. Ngọc thấy sự giản dị của màu áo lại khiến mình có nét ngây thơ của một cô em gái hậu phương, có lẽ vì Chuyên là một người lính ? Ý nghĩ ấy khiến Ngọc mỉm cười hoài một mình, chỉ màu áo mà cũng làm những kẻ đang yêu nghĩ ngợi mãi, có phải vì Ngọc vẫn nghĩ tới Chuyên với một tâm tình trong sáng của tuổi trẻ còn nguyên vẹn.

    Trên đường phố đã nhộn nhịp người qua lại, xe cộ dập dìu như mắc cửi, nhưng sao trong đôi mắt Chuyên, Ngọc thấy niềm vui như vẫn phảng phất một nỗi buồn. Ngọc không dám hỏi Chuyên về những điều thầm kín đó, và khi thấy Chuyên chở mình đi về hướng ngoại ô của thành phố, qua những con đường đầy ổ gà chỉ có ánh đèn đường vàng vọt, chen chúc những căn nhà ván lợp lá nghèo nàn khuất dưới tàng cây tối thẫm, Ngọc lại bâng quơ nghĩ tới những chuyện không vui, mà vẫn không đủ can đảm hỏi Chuyên tại sao lại tới đó. Trong lòng Ngọc nhen nhúm chút buồn bã, vì Ngọc tưởng một đêm Noel trọn vẹn của hai đứa, phải là những tiếng cười rộn rã với bạn bè, màu rượu đỏ óng ánh trong chiếc ly thủy tinh, phải là những bước chân quấn quýt dìu nhau trong thế giới cuả âm nhạc, những bài ca Giáng Sinh vang vang trên đường phố. Và cuối cùng, trong không khí ấm áp của ngôi giáo đường rền rền tiếng chuông ngân, hai đứa sẽ thì thầm với nhau những lời ước nguyện đẹp đẽ.

    Đêm Noel là đêm an bình mà ở một góc trời xa vẫn bừng lên ánh hỏa châu trên vùng trời đen thẫm, có điều gì khắc khoải trong tâm hồn Ngọc khi nghĩ sau những ngày nghỉ phép thần tiên, Chuyên lại trở ra đơn vị. Lại những chiến trường xa gian khổ, lại những bất trắc rình rập quanh đời sống của chàng, Ngọc cố xua đuổi những nỗi buồn vô cớ để hưởng trọn tình yêu đêm Giáng sinh với người yêu. Mãi tới khi chiếc xe Honda quẹo vào một con ngõ tráng xi măng ngoằn nghoèo, con hẻm sâu và tối, thỉnh thoảng có một nhà treo đèn ngôi sao trước cửa, như dấu hiệu của một mùa Giáng Sinh buồn bã nơi những gia đình nghèo khổ và cô đơn.

    Nỗi thất vọng và buồn bã lại nhen nhúm trong lòng cô gái trẻ, Ngọc cứ bâng khuâng tự hỏi, Chuyên định làm gì mà hoang phí những giờ phút quý hiếm của lần về phép, với đêm Giáng Sinh tuyệt vời như vậy ? Ý tưởng ấy cứ miên man trong lòng Ngọc, cho đến khi Chuyên ngừng xe trước thềm một căn nhà đơn sơ, cửa vẫn mở để Ngọc nhìn thấy tất cả sự nghèo nàn của nó.

    Duy nhất một ngọn đèn trần vàng úa tỏa xuống những đồ đạc rẻ tiền. Trên chiếc giường con kê ở góc nhà, hai đứa trẻ con đang nằm chơi với nhau, bi bô nói chuyện. Và ở chiếc võng phía bên kia, theo tiếng võng kẽo kẹt đưa có tiếng người mẹ ru con buồn não nuột. Chắc người mẹ còn trẻ, vì Ngọc nghe tiếng ru tuy rất buồn nhưng âm thanh còn trong trẻo, không khí phảng phất chút hiu quạnh với bức ảnh của người đàn ông mặc Quân phục còn khá trẻ, đặt trên bàn thờ ở giữa nhà dưới ngọn đèn dầu leo lét.

    Mãi tới khi Chuyên cất tiếng gọi, thiếu phụ ngồi nhỏm dậy quấn vội mái tóc mây, đứa bé bồng trên tay mở to đôi mắt trong veo nhìn hai người xa lạ chực khóc, và hai đứa bé đang chơi trên chiếc giường nhỏ chạy ùa tới nhìn khách chăm chăm. Ngọc đã gần đoán hiểu ra được sự thăm viếng đột ngột của Chuyên dành cho gia đình một người lính cùng đơn vị, khi anh ta đã nằm xuống mấy tháng trước đây trong một cuộc đụng độ giữa hai bên.

    Người phụ nữ còn trẻ, chắc dưới tuổi ba mươi, ngạc nhiên vì sự thăm viếng khá bất ngờ của người Sĩ quan chỉ huy cùng đơn vị với chồng mình và cô bạn trẻ, trong chiếc áo dài trắng đơn sơ. Có lẽ hình ảnh ấy khiến chị nhớ đến hình ảnh một thời của mình, và cái chết quá mới mẻ của chồng khiến chị vừa cảm động, vừa tủi thân. Trong tiếng nói của chị, Ngọc nghe như có chút nghẹn ngào khiến nàng cảm động :

    "Chào Thiếu Uý, chào cô..."

    Rồi chị nín bặt như sợ nói thêm sẽ có thể bật lên khóc. Để tránh sự xúc động, Chuyên nắm tay hai đứa bé lôi vào lòng xoa đầu chúng một cách trìu mến, rồi chàng giơ tay bồng đứa bé độ bảy, tám tháng trên tay chị. Mấy đứa nhỏ quấn ngay lấy chàng, như đã lâu lắm rồi chúng chưa được nắm lấy bàn tay yêu thương của một người nào giống như cha chúng. Chuyên vội giới thiệu với Ngọc :

    "Đây là chị Luân, trước kia anh Luân cùng đơn vị với anh. Còn đây là Ngọc, em gái hậu phương của tôi đấy."

    Chàng cố pha trò cho không khí bớt phần buồn bã, vì nhìn những đứa bé còn nhỏ như vậy, Ngọc hiểu anh Luân chỉ ra đi ít lâu nay, và cái buồn hình như còn y nguyên trong lòng người vợ. Chị Luân định chạy đi tìm nước mời khách, nhưng Chuyên đã ngăn lại, rồi hướng về mấy đứa bé, đang nhìn chàng bằng những đôi mắt đen lay láy. Chuyên nói :

    "Chú có quà cho các cháu đây. Nguyên năm tuổi, học Mẫu giáo rồi phải không, chú cho con hộp viết chì màu để tô hình nhé. Bé Tiên thì lại làm cô tiên, cái áo đầm này đẹp chưa ? Nào em bé ra đây, bé thế này thì chỉ có sờ tí mẹ thôi, chú cho bé con thỏ biết nhảy để ba anh em chơi chung với nhau nè !"

    Hai đứa lớn mừng rỡ xà vào lòng Chuyên, bây giờ mới ríu rít kể chuyện. Những chuyện của trẻ con thật dễ thương, điều thương cảm hơn cả là chúng chưa hiểu gì về sự vắng mặt của người cha. Ngọc đã phải bậm môi để đừng chảy nước mắt khi nghe thằng Nguyên nhắc về cha nó, với nỗi mong đợi của đứa bé ao ước được gặp bố, sau nhiều tháng chưa thấy bố về phép như mọi khi. Nó thỏ thẻ hỏi Chuyên :

    "Chừng nào bố con về hở chú ?"

    Chuyên vội quay đi để tránh cái nhìn tha thiết trong đôi mắt trẻ thơ của thằng bé :

    "Bố còn bận lắm chưa về được, nhưng bố nhắn chú về mua quà cho con và mấy em rồi. Con phải ngoan, nhớ trông em cho mẹ, kỳ tới chú về bố con sẽ gửi quà nhiều hơn."

    Những câu nói dối để xoa dịu nỗi mong đợi nơi thằng bé năm tuổi, khiến người lớn nghe thắt cả lòng. Đằng sau những vinh quang của vòng hoa tươi thắm quàng lên cổ áo người lính trở về từ mặt trận, những khuôn mặt rắn rỏi và kiêu hùng trong tiếng nhạc rộn ràng kia, có bao giờ lại thiếu những hồi kèn truy điệu thiết tha, ngân lên rồi đọng lại trong lòng người ở lại sự vắng mặt của người đã nằm xuống, không bao giờ trở về.

    Chuyên trở lại câu chuyện với chị Luân, người góa phụ còn xuân sắc với ba đứa con thơ trên tay, Ngọc không hiểu chị có đủ nghị lực và can đảm để vượt qua cái chênh vênh của cuộc sống chật vật và cô đơn ấy được bao lâu. Cho dù thời gian qua đi, một mai đất nước có thanh bình, nhưng chiến tranh đã để lại những dấu tích bi thảm trên thân phận người vợ lính, những đứa bé không cha dẫy đầy trên mảnh đất quê hương. Nghĩ tới đây, rồi nhìn thấy đôi mắt ướt của người góa phụ còn trẻ, Ngọc bỗng rùng mình, và mắt nàng cũng rưng rưng một màn lệ mỏng...

    Tuy nhiên, mùa Giáng Sinh năm ấy lại là mùa Giáng Sinh ý nghĩa nhất trong đời Ngọc, nó đã trở thành một kỷ niệm đẹp của hai người, để Ngọc có dịp đánh giá tâm hồn Chuyên sâu sắc hơn. "Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè", có phải đấy là giá trị duy nhất mà một người Lính sau bao nhiêu lần thử thách với cái chết còn giữ được, ngay cả mạng sống của họ. Bây giờ Ngọc mới thực sự nhìn ra tâm hồn của người yêu, rồi nhận ra những cảnh đời cô đơn, cùng khổ đang nhan nhản xảy ra xung quanh nàng, tự nhiên Ngọc không còn thiết tha gì với những cảnh xa hoa, hào nhoáng ở ngoài kia, nó như những mảnh vải màu sắc rực rỡ, vá lên một chiếc áo rách tả tơi...
    ***
    Năm nay, mùa Giáng Sinh lại tới, Chuyên và Ngọc đã về với nhau được hơn ba mươi năm, đôi bạn tình đã trải qua nhiều đau khổ với cảnh tan nát của nước non. Chuyên may mắn thoát chết trong những ngày chinh chiến gian khổ, nhưng sau đó chàng nếm thêm nhiều năm tù tội khi đất nước hòa bình. Hoàn cảnh lại xô đẩy Ngọc giống như chị Luân, vợ một người lính đã nằm xuống, nhưng có điều là nàng vẫn còn niềm hy vọng, vì cuối cùng Chuyên cũng trở về với Ngọc và các con. Chẳng hiểu sao định mệnh cứ đưa đẩy đất nước vào những nghịch lý triền miên như vậy, và điều ấy khiến con người càng ngày càng xa cách nhau hơn.

    Rồi dài theo những bước chân và sự xoay vần của lịch sử, hai vợ chồng và mấy đứa con lại trôi nổi nơi xứ lạ quê người. Trong mảnh sân vuông vức, Ngọc vẫn trồng một giàn mướp đằng sau vườn để nhớ tới mảnh vườn ở quê nhà năm xưa. Nhìn tia nắng ban mai chiếu ánh sáng qua giàn lá xanh như ngọc, Ngọc lại không quên được những kỷ niệm êm đềm của những mùa Giáng Sinh xưa. Những đợt gió cuối mùa ở quê người, là cái dữ dội của con dao cắt vào ruột kẻ tha hương, chứ không phải cái hiu hắt dịu êm của chút gió cuối năm ở quê nhà những mùa Noel cũ.
                                   
    Trời khi nóng khi lạnh, khiến giàn mướp đã xơ xác vẫn còn những chiếc lá thưa thớt xào xạc thoảng qua tai Ngọc, như tiếng ngân của một cung đàn đềm êm trong quá khứ. Những bông hoa cuối mùa, dường như vẫn giữ lại trong lòng Ngọc biết bao kỷ niệm một thời tuổi trẻ dễ thương nhất của cuộc đời, mà những kỷ niệm ấy như những tiếng chuông mùa Giáng Sinh, vẫn ngân nga trong lòng nàng mỗi khi mùa Giáng Sinh trở lại.

    Ở góc vườn bên kia, bóng Chuyên lom khom xới đất để sửa soạn trồng những cây hoa Pensée mùa Đông. Một thời tuổi trẻ đã qua rồi, nhưng sao lòng Ngọc vẫn ấm áp khi nhớ lại đêm Giáng Sinh năm ấy, chính vì thế trong mắt nàng Chuyên vẫn là Chuyên của những năm tháng cũ. Nắng đã lên rực rỡ, chỉ còn Ngọc đứng dưới giàn mướp đã thưa thớt lá. Nhìn bóng nắng nhảy múa trên vai áo mình, Ngọc tự nhiên nhớ lại mùa Giáng Sinh năm xưa, và mỉm cười vu vơ như thuở nàng còn là người yêu của lính./.

Nguyên Nhung
Mùa Giáng Sinh

Rồi Mình Sẽ Già - Đỗ Công Luận

Tuesday, December 23, 2025

Máng Cỏ Ấu Thời - Trần C. Trí


Tôi vừa gặp một người có ít nhiều liên quan đến quãng đời xưa cũ, xa lăng lắc của mình. Đang đứng tần ngần nhìn các cây thông Giáng Sinh bằng nhựa đủ kiểu, đủ cỡ bày trong một cửa tiệm, chưa biết lựa cây nào thì tôi nghe có tiếng người hỏi từ phía sau:
– Xin lỗi, cậu là cậu Việt, phải không?
Tôi hơi giật mình, quay lại, thấy một người đàn ông đứng tuổi mà trước đây tôi chưa bao giờ gặp.
– Dạ phải. 

Tôi e dè đáp.
– Tôi hơi đường đột, cậu bỏ qua cho. 

Người đàn ông nói tiếp:

– Tôi là Nhơn, em của ông Quới, trung sĩ Quới ngày trước làm chung chỗ với ông thân của cậu.

– Chú Quới... 

Tôi nhớ ra ngay:

– À, chú Quới làm quân tiếp vụ ở trường Đồng Đế Nha Trang, cháu nhớ chứ. Nhưng... chú thì hồi đó cháu không được biết.
– Cậu không biết tôi là phải. 

Người đàn ông mỉm cười: 

– Tôi vô Sài Gòn làm ăn từ lâu, thỉnh thoảng mới về Nha Trang thăm nhà một lần. Khi cộng sản chiếm miền Nam, từ Sài Gòn tôi chạy thẳng luôn qua Mỹ.
Tôi chợt thắc mắc:
– À, mà làm sao chú nhận ra cháu được vậy?
– Cũng tình cờ thôi. 

Ông Nhơn đáp.

– Mấy tuần trước tôi đọc trên báo thấy cậu có viết một bài về ba cậu, có cả hình hai cha con nữa. Tôi mừng quá, tưởng đâu là sẽ bắt được liên lạc với ông cụ. Dè đâu dọc tới cuối bài, thấy cậu ghi là để tưởng niệm ba cậu, tôi mới biết là ông cụ đã mất rồi.
Ông Nhơn ngó tôi một hồi lâu:
– Cậu giống ba cậu lắm. Không cần cái hình trên báo, tôi cũng có thể nhận ra cậu được.
– Vậy là chú cũng có gặp ba cháu rồi sao? 

Tôi hỏi.
– Có chớ, lần nào về Nha Trang, ghé thăm anh Quới ở trường Đồng Đế, tôi cũng gặp ba cậu hết.
Tôi sực nhớ ra:
– Gia đình chú Quới bây giờ ra sao, chú?
– Chị Quới mất hơn 15 năm rồi, còn anh Quới mất sau đó 3 năm. Thằng con của 2 người... tôi mất liên lạc với nó cũng mấy năm nay. Lần chót tôi còn thơ từ qua lại với nó, nó vẫn còn ở Nha Trang...
– Thằng On, phải không chú?
– Cậu nhớ tên nó hay đó, mấy chục năm rồi... Ông Nhơn gật gù nói:

– À, tôi muốn nói chuyện thêm với cậu nhưng bây giờ chưa tiện, vậy cậu cho tôi xin địa chỉ email để tôi với cậu liên lạc, hẹn một bữa khác, đi uống cà-phê cà-pháo...
– Dạ, để cháu cho chú số điện thoại, mình text qua text lại cho nhanh.
– Số điện thoại thì được, nhưng tôi không quen text, cậu à. 

Ông Nhơn thú nhận:

– Tôi biết dùng email cũng là tân tiến lắm rồi.

Tôi mỉm cười thông cảm, nhờ ông đọc số điện thoại của ông để tôi gọi ngay lúc đó. Khi điện thoại của ông Nhơn reo lên, tôi nói:
– Chú cho cháu mượn cái phone của chú đi. Cháu sẽ giúp chú save lại số của cháu mới gọi chú đó... Rồi bây giờ chú đọc địa chỉ email của chú, cháu sẽ ghi lại vào phone của cháu.
Trao đổi chi tiết liên lạc với nhau xong xuôi, chúng tôi chào tạm biệt nhau. Tôi đứng yên chỗ cũ, định thần một lát rồi mới nhớ lại hồi nãy mình đang làm gì. Tôi tiếp tục ngó qua các cây thông, cuối cùng chọn một cây cỡ trung bình, chắc là vừa với family room của nhà tôi. Tôi hí hoáy ghi mã số của cây thông, tiến lại quầy tính tiền để thanh toán. Khi người thu ngân gọi nhân viên mang ra cây thông chưa ráp, còn nguyên trong hộp, tôi đỡ lấy cái hộp dài một cách máy móc. Từ đó đến khi ra bãi đậu xe, tôi vừa vác cái hộp, vừa bâng khuâng nghĩ tới một quãng đời cũ mà ông Nhơn vừa khiến tôi nhớ lại...


*****
Năm đó tôi đâu khoảng 9, 10 tuổi. Lúc ấy cũng là vào lúc mùa Giáng Sinh sắp tới. Từ trường tiểu học của tôi đi bộ về nhà, tôi phải đi qua 3 block đường. Mấy đứa bạn cùng xóm, học cùng trường với tôi ngày nào cũng đi qua một ngôi nhà thờ tin lành trên đường về nhà. Ngôi nhà thờ này hằng năm là nơi báo hiệu mùa Giáng Sinh sắp về, qua những món trang trí, đèn hoa giăng mắc ở mặt tiền, đặc biệt là cái máng cỏ to tướng nằm bên cạnh lối ra vào nhà thờ. Mấy đứa bạn hàng xóm nhà có đạo tha hồ khoe nhau nhà đứa nào sẽ có cây thông Giáng Sinh và máng cỏ to nhất, đẹp nhất. Gia đình tôi theo Phật, nhưng tôi rất mê nét hào nhoáng của cây thông Noël, đèn đóm lung linh bên những món trang trí đủ màu sắc, hay không khí huyền diệu tỏa ra từ những cái máng cỏ, bên trong có những bức tượng nho nhỏ, xinh xinh. Những món đồ Giáng Sinh trang trí cho máng cỏ đó, chỗ nhà thờ đã bày bán trong khoảng sân rộng từ cả tháng trước Noël. Tôi khoái nhất là những cây thông bé xíu, chỉ bằng mấy ngón tay chụm lại, mà người ta còn tỉ mỉ xịt sơn trắng lốm đốm lên để giả làm tuyết. Năm nào cũng như năm nào, tôi đều kiên nhẫn thuyết phục má tôi cho mua cây thông và máng cỏ như nhiều nhà khác trong xóm, nhưng không lần nào làm má xiêu lòng được.
– Nhà mình không có đạo. 

Má ca đi ca lại một điệp khúc mỗi lần tôi vòi xin mua đồ Giáng Sinh.
– Phật có phải là một đạo không má? 

Một lần, tôi “gài” má với câu hỏi này.
– Phật cũng là đạo chớ sao! 

Má cao giọng đáp.

– Con hỏi gì mà kỳ vậy?
– À há! 

Tôi đắc thắng nói: 

– Vậy thì nhà mình cũng “có đạo” như ai, phải không má?
– Nhà mình theo đạo Phật. 

Má sửa lại: 

– Nhà theo Phật mà chưng cây Noël với hang đá thì không nên.

Má tôi hay dùng hai chữ “không nên” để chỉ những việc gì phạm đến tính thiêng liêng, huyền bí có dính dáng đến tôn giáo hay ông bà tổ tiên. Má là cả một kho ngữ vựng tiếng Việt phong phú, linh hoạt, hết sức đậm đà tính địa phương. Cho tới bây giờ tôi vẫn còn dùng nhiều chữ trong kho ngữ vựng đó của má khi có dịp, dù đang sống ở Mỹ.

Cho đến một hôm... Ba tôi đi làm về, trông ông vui vẻ hơn thường ngày. Ông ngồi xuống cái divan ở gian phòng ngoài, vừa tháo đôi giày lính ra, vừa hỏi tôi:
– Việt, con muốn có một cái hang đá cho Noël năm nay không?
Tôi còn chưa tin vào tai mình, chưa kịp hiểu hết điều ba vừa nói thì má đã từ trong phòng khách bước ra bảo:
– Anh nói hang đá gì mới được? Nhà mình có đạo đâu... À không... nhà mình có theo công giáo đâu chớ!
– Hang đá này không phải tốn tiền mua! 

Ba điềm nhiên nói tiếp:

– Anh mới biết ra, trung sĩ Quới có tài làm hang đá bằng bao xi-măng hay lắm! Chú hứa sẽ làm cho thằng Việt một cái.
– Tốn tiền hay không tốn tiền đâu phải là vấn đề! 

Má cằn nhằn: 

– Anh thì chỉ ưa chiều thằng Việt, riết rồi nó hư hồi nào không biết.
Má quày quả trở vào trong, coi bộ rất bực mình. Lúc này, tôi mới dám lên tiếng:
– Thật vậy hở ba? Chừng nào con mới có cái hang đá?
– Chắc một hai bữa gì đó thôi. 

Ba đã tháo giày ra xong, đứng dậy vươn vai mấy cái:

– Ba sẽ chở con tới nhà chú Quới để lấy.
– Nhưng... còn mấy thứ ở bên trong... 

Tôi ngập ngừng:

–  Chắc má không cho con mua đâu ba.
– Để ba cho. 

Ba vỗ vai tôi rồi đi vào trong.

Tôi ngồi xuống cái divan, mơ màng mường tượng ra cái hang đá mình hằng mơ ước, bên trong sẽ là cái máng cỏ có đầy đủ những thứ mà tôi đã từng thấy. Mình sẽ đặt nó ở đâu há? Trong phòng khác hay ở gian phòng ngoài này? Chắc là nên để ở ngoài cho má khỏi thấy chướng mắt. Hy vọng thấy hang đá đẹp chắc má cũng không nỡ nào phản đối...

Vậy là từ đó trở đi tôi đếm từng ngày, thấy sao mà thời giờ trôi qua chậm quá. Tôi chỉ sợ chú Quới quên làm hang đá cho tôi thì chắc tôi thất vọng lắm lắm. Nói nào ngay, hồi giờ tôi vốn không thích chú Quới. Chẳng là vì chú rất nghiêm, chỉ nói chuyện với ba má tôi, chứ ít khi chú nói gì với tôi, chắc là vì chú nghĩ tôi còn con nít con nôi, miệng còn hôi sữa... Thoạt đầu, thỉnh thoảng chú mới đến nhà tôi chơi một lần. Về sau, tôi thấy ba tôi thường nhắc đến chú, đến vợ chú nhiều hơn trước, và cuối cùng, ba giới thiệu chú vào làm thư ký cho công ty xuất nhập cảng của ông ngoại tôi. Trong công ty này, ông ngoại cho má tôi giữ chức quản lý. Từ đó, mỗi lần ghé công ty của ông ngoại chơi, tôi gặp chú Quới thường xuyên hơn. Người chú gầy gò, trông lạnh lùng và khắc khổ. Lúc đó chắc chú chỉ ngoài 30 thôi mà tóc chú hói đã gần hết. Lúc làm việc, chú còn mang cặp kính viễn thị, khiến ngó chú già trước tuổi rất nhiều.

Có lần, tôi đang chạy chơi ở công ty, tình cờ đi vào căn phòng bên trong, thấy má tôi và chú Quới đang đứng nói chuyện. Hồi đó, tuy còn nhỏ, tôi cũng mang máng nhận thấy chú đang nói một chuyện gì quan trọng với má tôi mà hình như không phải là chuyện công việc. Thấy tôi bước vào, chú Quới nghiêm giọng bảo:
– Việt đi ra ngoài chơi, để chú đang nói chuyện với má!

Tôi tiu nghỉu quay ra, trong lòng thấy giận chú Quới quá. Tôi còn nhỏ thật, nhưng hồi giờ chưa có người lớn nào trong gia đình hay là người quen của ba má nói với tôi bằng cái giọng kẻ cả như thế. Đã vậy, sao không thấy má tôi đỡ lời cho chú Quới chút nào, làm như má cũng đồng ý với chú. Tôi để ý thấy má rất quý chú Quới. Đi làm về, má hay kể chuyện trong công ty cho ba nghe. Trong những mẩu chuyện đó, má thường nói “Chú Quới thế này, chú Quới thế nọ...” cùng những chi tiết mà má muốn kể. Chú Quới nhỏ hơn ba má tôi gần cả chục tuổi nên ba má tôi thường gọi chú là “chú” với ý nghĩa là “chú em”. Về phần chú Quới, chú cũng “chị chị, em em” với má tôi ngọt xớt; ai nghe thấy mà không biết rõ về gia đình tôi chắc phải nghĩ hai người là chị em ruột thịt.

Một đặc điểm khác của chú Quới làm tôi chú ý là cái tên của chú. Tôi chưa từng thấy ai trùng tên chú (cho đến tận bây giờ!). Tôi nhớ có hôm tôi hỏi ba:   
– Ba ơi, tại sao chú Quới có cái tên nghe kỳ cục vậy ba?
– Kỳ là tại vì hiếm ai có tên này... 

Ba cười, trả lời tôi.

– Đó là một cách đọc trại đi của chữ “Quý”, con à.
– Đọc trại là sao hở ba? 

Tôi vẫn chưa hết thắc mắc.

Ba từ tốn giảng giải:
– Đọc trại một chữ là đọc chữ đó cho khác đi một chút, nhưng vẫn còn nghe giống một phần nào. Trong tiếng Việt, có nhiều chữ người ta đọc trại đi để tránh tên của những người nổi tiếng như vua chúa trong lịch sử hay của ông bà trong gia đình. Thí dụ trong Nam người ta nói “cây kiểng” thay vì “cây cảnh”, để tránh tên của Hoàng tử Cảnh, tức là Nguyễn Phúc Cảnh, con của vua Gia Long. Đọc trại đi một chữ là để tránh việc “phạm húy”, “húy” có nghĩa là tên đó con. Ba nghĩ chắc nhà chú Quới đã có ai tên Quý rồi.
Lúc hai cha con đang nói chuyện với nhau, má tôi cũng nghe thấy. Bà đi vào trong lấy vật gì đó rồi trở ra đưa cho tôi xem và hỏi:
– Cái này con gọi là cái gì?
– Cây kim! 

Tôi đáp thật nhanh, không hiểu má muốn gì.
Má tôi cười bảo:
– Vậy mà ông ngoại con gọi nó là “cây châm” đó! 

Má giảng giải thêm:

– Ông ngoại cũng sợ phạm húy như ba con nói, vì má nghe ông ngoại nói ông tằng, ông tổ của má có tên là Kim. Nhưng thay vì đọc trại chữ “kim” ra cho khác, ông ngoại lại dùng chữ “châm” để thay thế.
(Sau này lớn lên, tôi dạy tiếng Việt và ngoại ngữ, có dịp học hỏi nhiều điều từ môn ngôn ngữ học, nhớ lại chuyện má kể, tôi mới thấy phục ông ngoại. Chữ “kim” là một danh từ, nếu cố đọc trại nó ra cho khác thì cũng không dễ tìm ra âm nào nghe cho được tai na ná như vậy. Chắc vì lý do đó mà ông ngoại chọn động từ “châm”, có liên quan đến danh từ “kim”, thật là tài!)...


Tôi phải đợi đến buổi chiều trước Giáng Sinh mới được ba cho biết là chú Quới đã làm xong cái hang đá cho tôi. Ba có nói trước là năm nay chú Quới bận lắm, vì thím Quới sắp sinh em bé. Biết vậy, nhưng lúc ba gần đi làm về, tôi đã chực khóc vì thấy buổi chiều sắp hết rồi mà cái hang đá chưa thấy tăm hơi đâu, trong khi nhà mấy đứa “có đạo” trong xóm đã tưng bừng khoe đèn đóm và đầy đủ những thứ trang hoàng mùa Giáng Sinh. Chưa bao giờ tôi thấp thỏm đợi ba về đến thế. Khi thấy chiếc xe Jeep của ba quẹo vào cổng xóm, tim tôi muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Lúc xe của ba từ từ ngừng trước nhà, tôi chạy ra đến cửa, hồi hộp chờ xem ba nói gì. Ba ngồi yên trên xe, nheo mắt nhìn tôi, nói vọng ra:
– Việt, lên xe đi con! Mình đi lấy hang đá về.

Không đợi ba nói thêm tiếng nào, tôi vội nhảy thót lên xe, ngồi chễm chệ cạnh ba. Trong lúc ba im lặng lái xe, tôi nghe người như bồng bềnh trong một giấc chiêm bao êm ái. Cảnh vật hai bên đường chợt nhuốm màu ngũ sắc, lấp lánh như những sợi kim tuyến trên cây thông Giáng Sinh (mà tôi cũng rất muốn có. Nhưng thôi, hãy cứ “từng bước từng bước thầm” cái đã. Má mà không la là may lắm rồi. Hy vọng năm sau tôi sẽ có...).

Lúc sắp đi ngang ngôi nhà thờ, ba cho xe rẽ vào, đậu đằng trước. Tôi lặng người đi vì sung sướng. Ba không quên những món cần có trong hang đá! Lúc hai cha con đi qua cổng nhà thờ, ba ngó tôi bảo:
– Hy vọng giờ này người ta còn đầy đủ các thứ.

Thật may, trên chiếc bàn bày bán các món trang trí Giáng Sinh, chỉ còn ba bộ tượng nữa là hết. Tôi run run lựa từng món, tượng bà Mary, tượng ông Joseph, tượng Chúa Hài Đồng, tượng Ba Vua, cả tượng anh mục đồng, một con bò và một con cừu nữa. Tôi tuy không “có đạo” nhưng đã thuộc những tượng nào có trong hang đá! Nhìn hai cây thông nhỏ còn lại trên bàn, tôi rụt rè hỏi ba:
– Ba cho con lấy một cây thông nhe ba?
Ba tôi gật đầu. Ông còn mua thêm cho tôi một nắm rơm để trải trong máng cỏ. Trả tiền xong xuôi, hai cha con quay ra xe. Tôi xách khư khư cái túi đựng các bức tượng, đi thật nhẹ, cứ sợ chúng va vào nhau thì vỡ hay nứt trước khi về đến nhà thì tiếc lắm.
Nhà chú Quới ở Phường Củi, nơi tiếp giáp với vùng ngoại ô Nha Trang. Khi chúng tôi đến, căn nhà nhỏ của chú cửa đóng im ỉm. Ba gõ cửa mấy lần mà không ai trả lời. Ông lẩm bẩm:
– Chắc chú Quới còn ở bệnh viện chưa về. Thím mới sinh em bé hồi trưa.
Ba và tôi đứng lóng ngóng đợi chừng 10 phút thì thấy chú Quới cỡi chiếc Honda cũ kỹ về nhà. Chú hấp tấp dựng xe, vừa thở vừa hỏi:
– Đại úy đợi em lâu chưa?
Ba tôi không trả lời mà hỏi lại chú:
– Sao? Mẹ tròn con vuông hết hả Quới? Con trai hay con gái?
– Con trai, anh à. 

Chú Quới vẫn còn thở dốc. Từ ngày vào công ty làm việc với má tôi, chú Quới trở nên thân mật với ba tôi hơn, lúc thì vẫn gọi ba là đại úy như trong quân ngũ, nhưng cũng có lúc anh anh em em với ba như vậy.
– Con trai hả? 

Mắt ba hình như sáng lên, có vẻ như muốn vui lây với chú Quới. Nhưng lúc đó tôi thấy gương mặt chú không vui mà lo âu nhiều hơn thì có.
– Quới đặt tên con là gì? 

Ba lại hỏi.
– Thằng nhỏ tên là On. 

Chú Quới đáp, giọng không có gì hào hứng.
– On hả? 

Ba lặp lại cái tên ít ai có. Tôi đoán ba đang ngẫm nghĩ coi nó là cách đọc trại chữ gì, như ba đã từng nói về tên chú Quới.
Chú không nói gì, lặng lẽ mở cửa mời ba và tôi vào. Gian phòng nhỏ vừa là chỗ tiếp khách, vừa làm phòng ăn, tối lờ mờ, mùi ẩm thấp xông lên khiến tôi thấy ngột ngạt. Chú Quới mời chúng tôi ngồi rồi tất tả đi ra phía sau. Một lát sau, chú trở lên, khệ nệ ôm cái hang đá còn bay mùi sơn mới. Chú đặt hang đá trên cái bàn nhỏ trước mặt chúng tôi rồi bước lại bật đèn lên. Dưới ánh sáng của cây đèn néon, tôi được chiêm ngưỡng cái hang đá lộng lẫy nhất trên đời từ trước tới giờ! Tôi như nghẹn lời, chỉ biết nhìn chú Quới bằng ánh mắt biết ơn. Chú biết tôi thích lắm, giọng chú chợt vui vẻ hẳn lên, trái với lúc chú nghiêm nghị la tôi ở công ty hôm nào:
– Việt thích không? Chú làm một cái khung bằng tre rồi phủ giấy bao xi-măng lên đó. Xong rồi chú xịt sơn đen lên, đợi cho khô rồi mới rắc sơn trắng, giả làm tuyết...

Tôi mê mẩn ngắm cái hang đá đầu tiên của mình, đến khi nghe ba nói cám ơn chú Quới và giục tôi ra về, tôi mới như quay lại với thực tại. Ba giúp tôi mang cái hang đá ra xe vì nó khá cồng kềnh. Từ đó đến khi về nhà, tôi lại bồng bềnh trong giấc mơ đẹp, muốn nó không bao giờ chấm dứt...

Về đến nhà, tôi vừa vui vì có cái hang đá, vừa ké né sợ má la. Cũng may lúc đó má đang bận nấu ăn trong bếp. Tôi vội vàng lấy cái bàn nhỏ hồi giờ vẫn để trong góc, chất đầy sách truyện con nít, cất hết sách vở đi rồi mang bàn ra để ở một góc trong gian phòng ngoài. Mùi sơn thơm tho tỏa ra từ cái hang đá vẫn làm tôi ngây ngất. Tôi cặm cụi trải lớp rơm xuống sàn bên trong hang đá rồi trịnh trọng bày từng bức tượng lên trên, xê tới xê lui cho vừa mắt. Cuối cùng, tôi đặt cây thông be bé, xinh xinh ngay trước cửa hang. Vậy là cái máng cỏ trong ước mơ của tôi đã thành sự thật!
– Con biết còn thiếu cái gì nữa không? 

Má đã đứng đằng sau tôi tự lúc nào, lên tiếng hỏi làm tôi giật nẩy mình.
– Thiếu cái gì, má? 

Tôi hồi hộp hỏi, thoáng mừng vì câu đầu tiên của má không phải để rầy la.
– Thiếu đèn bên trong cho sáng! 

Má trả lời. Giọng bà không có vẻ gì là bực bội vì chuyện “không nên” này cả.
Ba đã vào trong thay quần áo xong xuôi, trở ra đứng bên cạnh má, ngắm nghía công trình của tôi. Ông bảo:
– Ba có một cái bóng đèn nhỏ trong hộc tủ, có dây đàng hoàng. Để ba giúp con đục một lỗ từ trên nóc hang đá xuống, bỏ đèn vô trong và gắn dây điện vào ổ cho sáng.
Khi cái bóng đèn bật sáng bên trong hang đá, trời cũng vừa ngả tối bên ngoài. Máng cỏ xinh xắn bên trong nổi bật hẳn lên dưới ánh sáng lung linh, lung linh như niềm vui bất tận của tôi trong mùa Giáng Sinh đáng nhớ đó…


********
Má tôi mất vài năm trước khi ba tôi qua Mỹ. Trong những lần ôn lại chuyện cũ với tôi, thỉnh thoảng ba có nhắc đến chú Quới, nhưng chắc là để có cớ nhắc tới thằng On thì đúng hơn, tôi thấy vậy. Tôi đoán ba nhớ tới nó vì cái tên độc đáo, nếu không muốn nói là lập dị. Có điều lạ là tôi không thấy ba liên lạc gì với chú Quới, trong khi ba vẫn thư từ khá đều đặn với một số bạn bè khác trong quân đội ngày trước. Có lần tôi đã tò mò hỏi vì sao ba không biết nhiều về chú thím Quới thì ba chỉ im lặng nhún vai. Tôi cũng không hỏi tới nữa.

Tôi gởi cho ông Nhơn một cái email theo địa chỉ chú đã cho. 2 chú cháu hẹn gặp nhau ở 1 quán cà phê nằm khuất trong một khu thương xá lúc ấy khá vắng vẻ. Từ cái bàn chỗ 2 người ngồi, chúng tôi nhìn ra một khoảng sân cỏ xanh rờn, thoáng mát. Ông Nhơn gọi một ly cà phê sữa đá, còn tôi gọi một ly trà xanh vì trước đó đã uống 2 ly cà phê rồi.

Tôi hỏi thăm về gia đình ông Nhơn, và ông cũng ân cần hỏi về gia đình tôi. Trông ông không giống gì với chú Quới ngày xưa cả. Ông Nhơn to người, râu ria xồm xoàm, còn chú Quới, trong ký ức của tôi, rất thư sinh. 2 anh em mà như kẻ võ, người văn.
– Được biết chú, bây giờ cháu mới hiểu hết ý nghĩa của 2 cái tên cộng lại! 

Tôi nhận xét:

– Chú biết không? Cháu nhớ chú Quới hoài vì chính chú là người làm cái hang đá Giáng Sinh đầu tiên cho cháu.
– Tên anh Quới như vậy, mà đời ảnh không có gì là “quý” cả! 

Ông Nhơn thở dài.
– Sao chú lại nói như vậy, cháu không hiểu. 

Tôi ngạc nhiên hỏi.
– Anh Quới có một nỗi buồn sâu kín mà trong gia đình ai cũng biết nhưng không thấy rõ, cho đến khi thằng On ra đời...
Tôi ngồi yên lắng nghe, không muốn đặt câu hỏi nào nữa, vì cảm thấy có một điều gì đó, to tát, mà ông Nhơn sắp nói tới.
– Nghe thì trái khoáy thật, phải không cậu? Ông Nhơn tiếp tục:

– Lý do là anh Quới của tôi đã được bác sĩ cho biết là ảnh vô sinh từ lâu!
Tôi lặng người đi, nhưng vẫn không biết phải nói gì, chỉ ngồi chờ xem câu chuyện diễn tiến tới đâu.
Giọng ông Nhơn vẫn đều đều:
– Tôi không hiểu cậu có biết không, thằng On là con của ba cậu; nó là em của cậu đó!
– Dạ không, cháu không biết! Cháu... không hề... hay biết! 

Tôi lắp bắp.
Ông Nhơn thở ra, như đã trút hết một gánh nặng trong lòng, không nói thêm gì nữa. Phải một lát sau, tôi mới đủ bình tĩnh nói:
– Lúc còn sống, ba cháu đôi lúc có nhắc đến On, nhưng không bao giờ nói gì khác. 

Tôi nhìn ông Nhơn:

– Chú nói vậy thì cháu hay vậy, nhưng sự thật là ở đâu? Bây giờ ba cháu không còn để xác nhận hay phủ nhận được nữa.
Ông Nhơn cười gượng:
– Chị Quới, lúc hấp hối, đã thú nhận chuyện đó rồi, cậu à. 

Ông Nhơn ngưng lại một hồi lâu rồi nói tiếp:

– Lúc vừa thấy tấm hình của ba cậu và cậu trên báo, tôi đã nghĩ là mình sẽ có dịp gặp ba cậu để hỏi xem ông và thằng On có liên lạc với nhau trong mấy mươi năm qua không, nhưng không còn cơ hội đó nữa...

Ông Nhơn nhấc tách cà phê lên, nhấp một ngụm. Tôi cũng hớp một miếng trà. Chẳng biết ông có thấy cà phê đắng hơn mọi lần hay không mà vị trà thật chát trong miệng tôi. Bãi cỏ trước mặt chúng tôi bỗng dưng không còn thấy mượt mà nữa. Trời chợt tối sầm lại vì nhiều đám mây mù từ đâu kéo về. Tôi uể oải đứng lên gọi tính tiền và nói lời chia tay ông Nhơn.
– Cháu sẽ liên lạc với chú qua email. Cám ơn chú nhiều. 

Tôi nói, như vô hồn. Ông Nhơn khẽ gật đầu rồi quay đi.
Buổi tối hôm đó, tôi ăn uống qua loa rồi vào phòng làm việc, kiếm cái cặp của ba, hy vọng có tìm ra manh mối gì trong đó không. Từ ngày ba mất, tôi chưa bao giờ mở cái cặp đó ra, sợ phải thấy những vật dụng, giấy tờ của ba, chỉ làm buồn thêm chứ chẳng được gì. Tôi còn một thắc mắc nữa – Má có biết được chuyện này không? Tôi nhớ mấy hôm sau khi thím Quới từ bệnh viện về, ba má tôi có tới thăm 2 mẹ con. Má mang nhiều quà, áo quần em bé và mấy thùng sữa Ông Thọ. Hôm đó tôi cũng đi theo ba má. Chú Quới đứng lóng ngóng bên mọi người, rồi lại lăng xăng tới lui trong phòng. Chắc chú cưng thằng On lắm, cái đầu nó tròn quay, không một sợi tóc, hai con mắt đen lay láy, nổi bật trên làn da trắng nõn.
Về nhà, má nói với ba:
– Tên thằng nhỏ nghe ngộ quá há anh? Không biết chú Quới có dựa vào tiếng Tây mà đặt tên cho con là On, Đơ, Troa… không! Chắc chú thím định sinh mấy đứa nữa…
– Chuyện đó ai mà biết được! 

Ba nói xuôi xị. Bây giờ nghĩ lại, tôi chắc lúc đó ba tôi trả lời hết sức sượng sùng mà có lẽ má không để ý.

Đúng như tôi đã nghĩ, vừa nhìn những món đồ lặt vặt trong cặp của ba, tôi đã thấy lòng nao nao, thổn thức. Mỗi món đồ nho nhỏ của ông lúc sinh thời như cặp kính cận, cái bóp đựng giấy tờ, còn cả vài tờ đô la lẻ, cái đồng hồ Seiko ba thường đeo, những tấm huy chương ba được thưởng trong thời kỳ quân ngũ… nhất nhất từng thứ đều gợi lên những kỷ niệm ngày trước. Ba có cả một cái folder đựng đủ loại giấy tờ, từ cái bằng quốc tịch Mỹ, bằng cấp thời ông đi học, một số hình ảnh, đến giấy tờ trong quân đội mà ông còn giữ được. Nằm cuối cùng trong xấp giấy đó là một thếp giấy có kích thước chỉ bằng một nửa các loại khác, được ba cẩn thận gài một cái kẹp giấy để giữ chung lại. Tôi tháo cái kẹp, lấy một tờ ra coi thử. Đó là tấm biên lai gởi tiền về Việt Nam, đề tên người nhận là Nguyễn Văn On! Tim tôi như thắt lại thật mạnh. Tôi hấp tấp nhìn các tờ biên lai còn lại. Có tờ ghi tên vài người bạn của ba, nhiều tờ khác đề tên của On. Lần nào ông cũng gởi 100 đô cho… em tôi! Nằm sau cùng trong xấp biên lai đó là 1 tấm hình của 1 thanh niên... thằng On! Trông nó thật mạnh khỏe, cao ráo, nhưng không có gì giống tôi cả. Lần đầu tiên tôi gặp nó là lúc nó mới sinh, mấy chục năm sau tôi mới thấy lại nó qua bức hình này. Tôi lật tấm hình ra phía sau, không thấy có ghi gì cả.
Tôi run run gộp những tờ biên lai gởi tiền cho On chung với nhau, rồi xếp lại theo thứ tự ngày tháng. Xong xuôi nhìn lại, tôi mới thấy ra là ba tôi đã gởi tiền cho On chỉ 1 năm sau khi ông đến Mỹ, chắc là khi ông đã bắt đầu được lãnh “tiền già”. Ông gởi tiền rất đều đặn, cứ 2 tháng một lần, theo như ngày tháng ghi trên các biên lai. Tôi đọc kỹ lại từng tờ thì thấy có ghi địa chỉ thằng On ở Nha Trang, chỉ trừ 3 tờ sau cùng là có địa chỉ ở Tuy Hòa, thành phố cách đó hơn trăm cây số về phía Bắc…

Ngồi thừ người một lúc trước mớ giấy tờ, đầu óc tôi ngổn ngang trăm ngàn ý nghĩ. Đêm đã khuya nhưng tôi không thấy buồn ngủ chút nào. Lát sau, tôi bùi ngùi xếp lại mọi thứ, bỏ vào cặp, cất nó vào chỗ cũ. Gian phòng làm việc của tôi chợt như rộng hẳn ra. Đám sách nằm im lìm trên hàng kệ sát vách. Cái đèn màu vàng trên bàn tỏa một thứ ánh sáng nhợt nhạt, vàng vọt trong cănphòng im ắng đến lạ thường.


Tôi đi ra hàng hiên sau nhà, bật ngọn đèn lên và đến chiếc xích đu ngó ra bãi cỏ, lặng lẽ ngồi xuống. Trời đêm mát lạnh. Tiếng côn trùng kêu rả rích nghe buồn buồn. Tôi nghĩ đến những nhân vật trong câu chuyện vừa tình cờ biết được này, y như trong một cuốn phim: Ba, má, chú Quới, thím Quới, chú Nhơn, thằng On… Còn tôi thì sao? Tôi cũng là 1 nhân vật trong đó, hay chỉ là 1 khán giả vô tình? Ba đã sống và nghĩ gì trong suốt thời gian đó,cho đến ngày ông mất? Trong đầu tôi chợt lóe lên những đoạn phim ngắn về mối tình vụng trộm giữa ba và thím Quới, hình ảnh chú Quới đau khổ, nhẫn nhục nuôi đứa con không phải là của mình, thím Quới với mặc cảm tội lỗi, thằng On… còn thằng On, nó chắc cũng biết chuyện này, qua những món tiền của người ngày xưa là cấp chỉ huy của ba nó? Còn má, bây giờ tôi không thể hỏi má điều gì về câu chuyện này cả.

Và tôi? Tại sao tôi phải biết chuyện này, vào thời điểm này? Nếu như chú Nhơn không gặp tôi ở cửa tiệm hôm nào... Tôi, cậu bé hồn nhiên ngày xưa với niềm vui òa vỡ vào 1 buổi chiều trước lễ Giáng Sinh... Và chú Quới, người đàn ông, người chồng, người cha bất đắc dĩ, người thuộc cấp trung thành của ba… người phải vừa tất tả, đôn đáo đón một đứa bé ra đời, vừa phải hoàn thành cái hang đá cho một đứa bé khác kịp đón Noël…
Tôi thấy mình có bổn phận phải biết thêm về chú Quới, biết chú sống ra sau từ lúc thằng On bắt đầu khôn lớn cho đến những ngày cuối cùng của chú. Tôi cũng có bổn phận phải xác minh câu chuyện này với ông Nhơn, vì tôi đã tỏ ra không tin điều ông nói. Và... chắc tôi cũng phải tìm cho ra thằng On để liên lạc với nó, thằng em bất ngờ của tôi…

Đêm đã sâu và lạnh lắm rồi. Tôi vẫn chưa buồn ngủ nhưng thấy mình dù sao cũng phải vào trong, cố dỗ một giấc ngủ để ngày mai còn có sức đi làm. Tôi trở vào phòng làm việc, ngồi xuống trước cái computer, mở lên và bắt đầu viết một cái email cho ông Nhơn. Trong thư, tôi xin lỗi ông vì đã nghi ngờ sự thật của câu chuyện. Tôi cho ông biết là tôi đã tìm được chứng cớ của câu chuyện đó và ngỏ lời mời ông đến nhà dùng cơm tối để nói chuyện thêm, để ông biết địa chỉ mới của thằng On, và cũng để tôi có dịp tìm hiểu về quãng đời sau này của chú Quới…

Thư tôi gởi đi cả tuần lễ không thấy ông Nhơn trả lời. Bận bịu với công việc, có lúc tôi đã quên bẵng là mình đang đợi thư của ông. Một hôm, khi mở mailbox để xem thư từ mới, tôi nhận được hàng chữ từ địa chỉ của ông Nhơn gởi về lại như sau:
Sorry, we were unable to deliver your message to the following address:
<*******@yahoo.com >:
Unable to deliver message after multiple retries, giving up.
Lấy làm lạ, nhưng tôi vẫn thử gởi lại bức thư mình đã gởi cho ông Nhơn lần trước. Chỉ vài tiếng đồng hồ sau, tôi lại nhận cái message tự động, lạnh lùng như cũ. Chưa nản, tôi lại gởi thư đi lần thứ 3 - Quá tam 3 bận - tôi nhủ thầm. Rồi cũng những dòng chữ máy móc đó trở lại với tôi. Tôi lấy điện thoại, tìm số ông Nhơn đã cho tôi, gọi thử. Chưa kịp nghe chuông điện thoại ở đầu kia reo lên, tôi đã nghe tiếng bíp bíp và giọng nói thu sẵn trong máy: “We're sorry; you have reached a number that has been disconnected or is no longer in service.”

Đặt cái điện thoại xuống, tôi ngồi ngẫm nghĩ một lúc. Tại sao địa chỉ email và số điện thoại của ông Nhơn, mà trước đó tôi còn dùng được, đột nhiên cùng nhau ngưng hoạt động hẳn? A… tôi có thể đặt ra một vài giả thuyết, rằng đó là lý do chủ quan hay khách quan, cố ý hay tình cờ, rằng thế này… rằng thế nọ… để tìm 1 câu trả lời cho việc mất liên lạc với ông Nhơn. Nhưng thôi, chắc cũng chẳng đi tới đâu… Bỗng dưng tôi cảm thấy vô cùng mệt mỏi… Tôi cần thoát ra tình huống éo le này, những cảm xúc hỗn độn này, những câu hỏi không bao giờ dứt, những điều tưởng tượng… Tất cả… Tất cả…

Tôi sực nhớ rằng sự việc mấy ngày hôm nay đã làm tôi quên mất chuyện ráp cây thông Giáng Sinh mới mua về. Cùng lúc, tôi chợt nảy ra ý nghĩ phải đi mua mấy bức tượng bày thành một máng cỏ cho năm nay, một điều tôi chưa từng làm. Tôi không có cái hang đá nào, nhưng sẽ dùng cái tủ nhỏ có một khoảng trống phía dưới, trong đó tôi đang bày những món souvenir có hình dạng những kiến trúc nổi tiếng trên thế giới mua được qua những lần du lịch. Tôi sẽ lấy những thứ đó ra, biến cái tủ thành hang đá, và bày biện máng cỏ vào trong đó.

Tối mai, tôi sẽ ở nhà, ráp cây thông và trang hoàng thật rực rỡ. Tôi sẽ bật nhạc Giáng Sinh lên trong lúc làm việc này cho có không khí mùa đông, lúc Chúa Hài Đồng giáng thế. Rồi tôi sẽ làm máng cỏ trong cái hang đá “dã chiến” có sẵn của mình. Lúc trải rơm vào bên trong cho thành máng cỏ, rồi trịnh trọng đặt từng bức tượng nho nhỏ vào trong đó, tôi sẽ chìm theo tiếng nhạc du dương, đưa tôi trở lại những ngày tháng hồn nhiên cũ trong mùa Noël năm nào. Tôi sẽ nhớ đến hình ảnh 2 cha con hân hoan đi sắm tượng máng cỏ và lấy hang đá vào buổi chiều rộn rịp trước ngày Chúa ra đời. Và, cố nhiên, tôi sẽ ngậm ngùi, thương cảm nhớ đến chú Quới, người đã đem lại niềm vui bất ngờ cho tôi vào mùa đông năm ấy, trong lúc lòng ông chắc hẳn đang đau buồn khôn tả./.


Trần C. Trí

Giáng Sinh Nhiệm Mầu - Nguyễn Duy Phước

Ngày Xưa Hà Nội - Kim Thanh




1. Tôi sinh ra, và lớn lên, tại Nha Trang. Gia đình bên ngoại gốc “Nhe Treng” rặt, và bên nội, gốc Quảng Trị, cũng rặt. Bởi vậy, anh em tôi trong nhà nói một thứ tiếng lai căng, ở trường học không nói tiếng Việt, thành thử ra ngoài không có cái giọng, kiểu “chu che bữ nê mềnh lợi eng cuôm dí ké nữ” (dịch nghĩa: Chu cha bữa nay mình lại ăn cơm với cá nữa) cố hữu của dân địa phương thứ thiệt, như mấy đứa bạn cùng xóm. Rồi sau năm 1954, người Bắc di cư vô Nam nói, ôi thôi, đủ thứ tiếng Bắc kỳ, nghe rất mệt tai. Trong số, tôi chỉ chấm, và mê, tiếng hát mượt mà, đài các, phát âm chuẩn xác của những nữ ca sĩ chính gốc Hà Nội, như Kim Tước, Thái Thanh, Mộc Lan, Tâm Vấn, và những minh tinh, như Kiều Chinh, Mai Trâm. Tất cả những mỹ nhân một thời ấy đã mang theo vào Miền Nam dáng vẻ thanh lịch và giọng nói quý phái từ Hà Nội cổ kính, và cố đô Thăng Long ngàn năm văn vật.

    

      Hà Nội mà tôi chưa bao giờ được thấy, nhưng biết qua thơ văn nhờ hồi đi lính bắt đầu đọc những tiểu thuyết tiền chiến và những tạp chí của mấy ông nhà văn, nhà thơ Bắc kỳ di cư. Nhất là nghe những ca khúc đương thời thương về Hà Nội. Trong đó có một câu, trong một bài, mà ông cậu ruột mười sáu tuổi, em út của mẹ tôi, nghĩa là dân Nhe Treng đặc sệt, cứ âm ư mãi, riết rồi thành lố bịch: “Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu…” Lố bịch là phải, bởi lẽ không ai có thể gây xúc động mạnh lên trái tim thính giả trong những bài hát nhớ Hà Nội cho bằng những nhạc sĩ, ca sĩ di cư chánh hiệu Hà Nội của thời trước 1975.

      Quả vậy, Trịnh Công Sơn, gốc Huế, một thời là bạn học cùng lớp Philo tại J.J. Rousseau, một tên nằm vùng phản chiến, sau 1975, muốn lấy điểm với chế độ mới, cũng bắt chước viết hai ca khúc về Hà Nội, nhưng không hay bằng, vì cảm xúc, nguồn hứng rất giả tạo, và hình ảnh rất ước lệ, khuôn sáo, mặc dù cũng vẫn là Hồ Tây, cũng mùa thu mây bay, cũng mùi hoa sữa, cũng cây bàng lá đỏ… Chưa kể, câu kết, trong bài “Nhớ mùa thu Hà Nội”, “Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội / Nhớ đến một người để nhớ mọi người”, muốn nhắn gửi gì đây? Chưa vội chụp nón cối, người ta phải thắc mắc: Mùa thu nào? Tổng khởi nghĩa 1945 ư? Một người nào? Đồ tể Hồ Chí Minh, với khẩu hiệu “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, mà các tù binh cải tạo đã phải nghe lải nhải hoài, phát ớn đến tận cổ?

 

      2. Hà Nội, tôi đã thấy, đã nghe, đã gặp một lần, vào tháng 4 năm 1983. Cách đây ba mươi hai năm. Không như một du khách, hay một Việt Kiều yêu nước. Mà là một tù binh cải tạo. Đúng ra gặp hai lần.       

      Lần đầu, cuối năm 1975, một cách chớp nhoáng, bất đắc dĩ. Tại bến cảng Hải Phòng, tôi được bốc từ tàu Sông Hương ra và tống lên xe lửa, chực sẵn để chở, cùng với hàng trăm ngàn đồng đội, lần lượt, đến các trại giam vùng biên giới, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cổng Trời… Khi đoàn tàu đi ngang Hà Nội, chắc quá nửa đêm, tôi cố nhướng mắt nhìn ra bên ngoài, từ song cửa sổ hẹp. Tàu chạy nhanh, trời lại tối, và đèn đường leo lét, chỗ có chỗ không, nên tôi không thấy gì cả, ngoài một Hà Nội còn đang ngủ say, phố xá lặng thinh, sương rơi lả tả, và những hàng cờ đỏ sao vàng giăng mắc, ủ rũ, trên những góc phố. Làm nhớ đến hai câu thơ oan nghiệt –đã bóp chết đời tác gỉả, Trần Dần: Tôi bước đi, không thấy phố, thấy nhà / Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ… Rồi tàu rẽ lên cầu Long Biên, khá dài. Tôi thấy hai bên đường sắt vài người dân đi bộ hay đạp xe, không biết về đâu, co ro trong chiếc áo tơi thô sơ. Trên sông, vài chiếc thuyền câu đậu bến im lìm.

      Lần thứ hai, lần này, tám năm sau, được tiếp xúc với Hà Nội lâu hơn, đúng một ngày, nghĩa là mười hai tiếng đồng hồ. Quả thế, một buổi sáng đẹp trời, tại trại giam Vĩnh Phú, K1, đang chuẩn bị đi lao động, tôi nghe đọc tên mình được thả –áp chót trong danh sách một trăm mười người thuộc tất cả các trại Miền Bắc, mà Vĩnh Phú chiếm nhiều nhất: có bốn mươi tên trúng số độc đắc, trên toàn năm K, trong khi ở một số trại, nhỏ hơn, chỉ có vài mạng thôi. Tôi ngạc nhiên, không biết tại sao mình lại được thả, nhưng chắc chắn không phải vì công đức cải tạo tốt, trái lại. Thây kệ, tôi tự nhủ, thắc mắc làm chi. Vội vàng về “buồng” (phòng), vì chỉ được mười phút sửa soạn tư trang. Không có gì, ngoài bộ đồ tù đang mặc trên người, và mùng, mền, khăn mặt, bàn chải đánh răng, một bịch đường táng đen, một gói bánh mì khô, hai hộp sữa đặc, và một mớ thuốc cảm, đau đầu, đầu bụng, để dành từ những lần thăm nuôi trước. Tôi tặng hết đồ ăn và thuốc men cho những anh em, lúc ấy, khai bệnh nằm nhà.

      Rồi tất cả lội bộ xuống K5, tức K chỉ huy, cách khoảng 15 km, để làm thủ tục xuất trại. Tại đây, được trả lại quần áo “dân sự”, đồng hồ, và tiền bạc bị “đăng ký” để “Cách mạng giữ hộ” khi bước chân vào trại tù đầu tiên, ở Miền Nam. Không biết đủ, thiếu thế nào, vì sau tám năm, không nhớ và điều đó không quan trọng nữa. Tù binh được thả sinh hoạt tại một buồng riêng, không được “quan hệ linh tinh” với các cải tạo viên khác.

      Khoảng 10 giờ sáng hôm sau, chúng tôi trút bỏ bộ đồ tù, mặc lại quần áo cũ, có anh diện giày da thay cho dép râu. Ai nấy mặt mày tươi rói, đẹp trai hẳn ra, như dưới chiếc đũa thần của một bà tiên, không còn hốc hác, bèo nhèo như dạo nào, nhất là sau mấy ngày được vỗ béo, ăn no ngủ kỹ. Được xe trâu chở ra tận bến phà trên sông Hồng. Sau hơn nửa giờ, cập bờ Ấm Thượng. Ở đây, phải chờ đến 10 giờ đêm mới có chuyến xe lửa từ Lào Cai đến “rước” về Hà Nội. Đi theo có hai cán bộ. Hai tên này, bình thường thuộc loại hắc ám, bữa nay có vẻ dễ dãi, chắc vì được dịp đi chơi Hà Nội hoặc tin rằng không thằng tù binh nào được thả lại dại dột âm mưu làm điều “phản động”. Để giúp thời gian qua mau, chúng tôi tụm năm tụm ba nói chuyện, cười đùa rổn rảng, hoặc mua bún, bắp luộc, xôi vò và bánh gai của các bà và em bé bán hàng rong tại chỗ –đã quá quen thuộc với những đợt thả tù binh. Nghe nói Ấm Thượng có đền thờ Hùng Vương, tôi và một anh bạn xin phép đi viếng, nhưng cán bộ bảo xa lắm, không cho. Trời hơi nóng, tôi bèn cởi áo quần nhảy xuống sông tắm. Nước phù sa đỏ ngầu, nhuộm cả ra quần đùi mới, trắng tinh. Lội ra xa, thấy sóng lớn quá, sợ bị cuốn đi, chết uổng mạng, tôi bơi vào, lên bờ nằm nghỉ, phơi nắng, đợi xe lửa.


I

      a) Các cô, các bà mua bán chui thấy một số tù binh, trong đó có tôi, mặc quần jeans, mà họ gọi là “quần bò”, liền sà đến, gạ mua. Một cô, khá xinh, mồm dẻo kẹo, chỉ vào cái quần xanh, bạc màu, bụi đời (càng bụi càng có giá, cô nói) của tôi, và bắt đầu dụ, ngon lành:

      - Ông anh bán cái quần bò này cho em nhá!

      Tôi giật mình, khoát tay:  

      - Đâu được cô! Hiện giờ tôi chỉ có mỗi cái quần này trên người, bán cho cô, lấy gì mặc?

      Cô vẫn nài nỉ:

- Thì em đổi rẻ cho anh cái quần tây thường khác.        

      Tôi vẫn lắc đầu. Rồi cặp mắt thiện nghệ của cô bỗng rà lên khắp châu thân tôi, như radar, ngừng trên chiếc áo pulltrắng, cổ cao, tôi đang mặc, tuy còn mới, nhưng sau tám năm “biệt giam” trong nhà kho kín mít, đã ngả sang màu vàng nhạt, và thoang thoảng có mùi mốc, pha lẫn với hương nách cũ, chưa kịp giặt, bay ra… khá nồng. Cô lên tiếng tán, ngọt xớt:

- Hay là ông anh bán cái áo này cho em!

      Trong túi xách tôi còn một áo sơ mi xanh, nên đồng ý bán. Cô ta trả giá 3 đồng. Tôi ngồi im re. Từ hồi cha sanh mẹ đẻ đến nay, tôi có đem áo quần đi bán bao giờ đâu, làm sao biết giá cả? Một bà già, hàm răng đen láy, ngồi cạnh cô bỗng lớn tiếng nói: “Ối giời, chỉ có quân ăn cướp ngày mới giả cái giá đó. Tôi giả 5 đồng đấy, cậu bán, tôi lấy ngay!” Tôi lại càng phân vân, chưa biết xử trí thế nào thì cô nọ liếc xéo bà kia: “Tôi tăng lên 10, mụ già nhà quê Quảng Ninh có theo nổi không nào?” Nghe hai người sừng sộ với nhau, đám tù binh và cả tên cán bộ xúm lại, xem màn bán đấu giá “đột xuất”, càng lúc càng hấp dẫn. Một anh thiếu tá đồng tù đập đập tay xuống thềm xi măng, hỏi: “Mại dô, mại dô. Có ai trả thêm nữa không?” Bà già cười khẩy: “Tôi giả 12 đồng đấy, con nặc nô Hà Tĩnh có ý kiến gì không nhỉ?” Cô gái tức khí, đáp lễ: “Tôi trả thêm 3 đồng, tổng cộng 15, mụ già nhà quê Quảng Ninh thấy thế nào?” Cả đám vỗ tay rào rào, tên cán bộ cũng cười. “Mụ già nhà quê Quảng Ninh”, cuối cùng, chịu không thấu, bỏ cuộc. Anh thiếu tá chỉ vào “con nặc nô Hà Tĩnh”, phán: “Không ai trả thêm nữa, tôi khóa sổ nè và long trọng tuyên bố rằng cô em gái Hà Tĩnh này được trúng tuyển mua áo pull của anh trai đại úy tù binh ngụy Vĩnh Phú, với giá 15 đồng chẵn, không bớt xu nào”. Cả đám, tù cũng như dân, ôm bụng cười lăn. Tiền trao áo múc, tôi bèn cởi ra ngay tại chỗ, giao tận tay cho cô. Vào thời điểm đó, 15 đồng là món tiền phải chăng, vì giá một tô phở khoảng 7 đồng, một ly bia 3 đồng. Tổng kết, có hai mươi tù binh “bị” mua áo, mua quần trong buổi sáng đó. Đủ tiền bát phố Hà Nội trong một ngày.

 

      b) Bất ngờ có tiền phụ trội trên trời rớt xuống, cộng vào món tiền khiêm tốn được trại trả lại, tôi bỗng nổi hứng, đóng vai trưởng giả học làm sang: tắm nước nóng. Phòng tắm kế bên sân ga, thấp, nhỏ, mái tôn và vách lợp bằng tre đan. Trên cửa, viết nguệch ngoạc ba chữ bằng vôi trắng: Tắm lước lóng. Phòng chỉ có một lối ra vào. Giá vé là 2 đồng, trả trước cho một chị sồn sồn, hô răng, ngồi gác bên ngoài. Vừa lom khom chui vào, đóng cửa lại, chưa kịp làm gì, tôi nghe có tiếng nước xối ở gian trong, và dưới ánh nắng lùa qua khe hở, thấy vắt ngang trên tấm liếp ngăn hai gian một quần tây xanh đậm, và một áo lụa vàng, có thêu chim cò, kèm theo hai mảnh đồ lót, trên trắng, dưới hồng, rất “hiện đại”, rất khêu gợi mà, tôi đoán nhanh, chủ nhân chắc chắn không thể là một trong những “mụ già nhà quê Quảng Ninh” khi nãy. Tôi đang đứng lóng ngóng, chưa biết phải làm gì, thì từ phía trong vọng ra một giọng Bắc còn trẻ, nhưng không phải âm hưởng Hà Nội, của một cô chắc đã nhìn thấy tôi qua khe liếp, trong gian ngoài đầy ánh sáng: “Anh là tù cải tạo hả? Đừng ngại, cứ vô tư cởi quần áo ra, phòng tắm công cộng, ai cũng làm như thế cả!” Tôi im lặng, vì sợ gặp phải thứ dữ, chứ có gái nhà lành nào cả gan dám tắm truồng chung đụng như thế, chưa kể tắm xong, làm sao đi ra, nếu gian ngoài đang có người? Tôi đứng bất động như người trúng gió, căng mắt dòm vào, nhưng bị bóng tối ghen tuông che kín, không cho thấy chi hết. Sau tám năm thiếu đàn bà, trí tưởng tượng vụt bay lên, bay cao, bay xa, rạo rực, nhưng cố dằn xuống kịp thời.

      Tôi múc, bằng gáo, nước từ trong hai cái vò sành, bắt đầu súc miệng. Nước quá lạnh, buốt thấu răng, và óc, làm tê liệt giây thần kinh thèm muốn. Tôi mở hé cửa ngoài, thò đầu ra, khiếu nại với chị bán vé. Chị ta trả lời, đúng bài bản, như quá quen với “sự cố” này: “Bữa lay, nhiều khách tắm quá, bác ạ, đến nượt bác thì lước lóng hết đột xuất, em đun không kịp, bác cố gắng khắc phục tắm bằng lước nạnh hộ em!” Tôi đành rửa mặt, và nhúng khăn lau sơ phần trên, rồi mặc lại áo, đi ra. Xong một buổi tắm “lước lóng”. Tại thủ đô nước CHXHCNVN, năm 1983. Không biết bây giờ phòng tắm dã chiến bên hông ga Hàng Cỏ ngày ấy có còn không.

 

     c) Vì thời gian chờ xe lửa quá lâu, theo đề nghị của anh em, trưởng đoàn tù binh, trung úy người Huế –được bầu một cách “khẩn trương” do nhu cầu công vụ– xin cán bộ cho phép anh em đi “tham quan” Hà Nội mùa xuân. Hai cán bộ “hội ý” với nhau, và chấp thuận, với điều kiện không đi xa và phải trở lại ga trước 7 giờ tối, ai trễ sẽ bị bỏ lại, ráng chịu. Lúc đó mới 11 giờ trưa. Tất cả hồ hởi phấn khởi xuất quân. Một vài anh em già, yếu, bệnh, mệt, ở lại nhà ga, và tình nguyện giữ hộ các túi xách với lời bảo đảm sẽ được “đền ơn bội hậu” khi anh em đi chơi về.

      Tôi rủ ba người bạn khá thân cùng đội tù K1 đi chung, trong số có một ông Thiếu tá già Tiếp Liệu Bộ Tổng Tham Mưu, cởi mở, chính gốc Hà Nội, nói năng lúc nào cũng từ tốn, chậm rãi, rề rà, nghe sốt cả ruột. Vừa rời sân ga, ông Thiếu tá bỗng dừng lại, vẻ mặt đăm chiêu, mắt ngó ngang ngó dọc, chỉ chỏ cho ba chúng tôi, không phải dân Bắc kỳ, và nói:

      - Hồi năm 1954, nhà tớ ở gần ga Hàng Cỏ này, trong khu Hàng Bông -  Thợ Nhuộm, tức phía Cửa Nam. Không biết căn nhà có còn đấy không.

      Rồi ông dẫn cả bọn đi loanh quanh, và cuối cùng chui vào một dãy phố, đối diện ga. Những túp nhà chạy dọc theo con phố đều cũ mèm, mái đã rêu phong với những viên ngói lung lay, như răng bà lão, không biết bay theo gió lúc nào, tường vôi lâu ngày loang lổ thành màu trắng đục, có chỗ lòi ra một lớp gạch xám xịt. Phía trước là những hiệu buôn, được ông thiếu tá gọi là “hàng”, thấp lè tè, bước vào sơ ý là bị đụng vỡ đầu, nối liền với những “căn hộ” phía sau, cao hơn, lớn hơn. Sau một phút lưỡng lự, ông bước vô một gian “hàng”, không biết tên gọi là gì, có lẽ hàng Giày, vì bán toàn giày dép. Nghe ông kể, khi cả gia đình ông leo lên tàu há mồm vào Nam, thì, dĩ nhiên, cửa hiệu bán guốc và nhà ở của gia đình ông bị tịch thu, và đổi chủ. Chủ mới, không biết mấy đời rồi, là một anh trung niên, nói tiếng Quảng Bình giả giọng Bắc, lịch sự hỏi: “Các bác muốn gì ạ?” Ông thiếu tá già cười, mà như mếu, theo nghĩa hoàn toàn đen, vì tám năm dài đằng đẵng trong tù bạn bè đã bẻ giùm ông, bằng những sợi chỉ bện lại, mất hết năm răng cửa và hai răng hàm: “Trước năm 1954, tôi đã ở nhà này”, ông trả lời. Rồi xin ra phía sau để nhìn lại nó, và kể hết đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong thiên tình sử, anh chủ mới mủi lòng, ân cần mời ông chủ cũ lên cầu thang gỗ thăm lại căn nhà của chính ông.  

 

      d) Ba thằng chúng tôi, hai Nam kỳ, và một Trung kỳ, không có dây mơ rễ má gì với cố đô Hà Nội, hay tàu há mồm, xin rút lui, để mặc ông thiếu tá già thoải mái đi tìm thời gian đã mất, như văn sĩ Pháp Marcel Proust. Lúc ấy có hai đồng tù trẻ, khác K, xin nhập bọn. Tiếp tục dạo phố. Vừa đi tôi vừa quan sát, ngắm nhìn thiên hạ, vừa nghĩ đến những giai nhân Hà Thành trước kia, mà suốt bao năm tôi đã ấp ủ trong tim bóng hình thướt tha và giọng ca vàng đầy chất Hà Nội được phát thanh trực tiếp trên các làn sóng Sài Gòn. Hay lãng mạn, hư cấu hơn, những nữ nhân vật có học, duyên dáng trong tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng –mà khung cảnh đều là Hà Nội của những thập niên 30, 40. Và, trên hết, các công chúa Mỵ Châu, Lý Chiêu Hoàng, Trần Huyền Trân, Lê Ngọc Hân của Thăng Long nghìn tuổi, mang kiếp hồng nhan bạc phận trong thực tại lịch sử, đã làm ngây ngất trí tưởng nơi người hậu thế “khéo dư nước mắt khóc người đời xưa” (Kiều), như những giấc mơ huyền thoại quyến rũ, dị kỳ.

      Những cô gái, gọi là Hà Nội, dưới thời Việt Cộng, mà hôm nay tôi mới được diện kiến trực tiếp, thấy khác lạ quá đỗi. Đã thiếu nhan sắc, và thước tấc, mà lại kênh kiệu, nói năng cộc lốc, không bao giờ được học và nói hai chữ “cám ơn” và “xin lỗi”. Mặc áo sơ mi nhét trong quần tây, theo mốt hiện hành, bỏ chiếc áo dài cổ truyền, và chân đi “sa-bô” (sabot?), danh từ tôi mới nghe lần đầu, tức loại giày nhựa, bịt kín phía mũi, gót để trống, đế rất cao, như một thứ dép tân thời, thay cho“thanh bình tiếng guốc reo vui” ngày xưa của nhạc sĩ Hoàng Dương. Lại còn giọng nói nữa. Lạ lắm, trời ạ! Tiếng Hà Nội gì mà nghe như pha với giọng Nghệ An của “Bác”, hay Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Bình. Những dấu sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã phát ra lung tung, loạn xạ, tùy tiện. Nghe chua lè, còn hơn giấm. Bởi thế, khi giọng nói Hà Nội ấy bay vào Miền Nam, sau cuộc đổi đời, người dân Sài Gòn nhận ra ngay sự khác biệt rõ rệt giữa hai thứ tiếng Bắc kỳ, (19)54 = 9 nút, của Kim Tước, Thái Thanh… và Bắc kỳ, (19)75 = 2 nút, rất lơ lớ, chói tai, của những ca sĩ trẻ, từ Hà Nội, ồ ạt Nam tiến, rồi sau đó và bây giờ, thừa thắng xông lên, xâm nhập luôn những Cộng đồng Việt Nam tỵ nạn tại Mỹ, vô tình hay hữu ý thực hiện chủ trương “giao lưu văn hóa” của VC, tiếp tay bởi tên nhà văn MC thò lò hai mặt. Về dung nhan, các ca sĩ ấy vượt trội những cô gái mà tôi đã gặp tại Hà Nội năm 1983. Nhưng giọng nói “2 nút” chua lè thì vẫn y chang.

 

      e) Lang thang mãi, mỏi chân, và đói bụng, chúng tôi tắp vào một quán phở, không xa ga Hàng Cỏ là bao. Ba cô gái “phục vụ” (chạy bàn), mặc đồng phục, sơ mi và quần tây, đứng ở quầy hàng, thấy năm ông khách quý bước vào, trơ mắt ngó, không thèm chào mời. Và phớt lờ, tiếp tục trò chuyện với nhau. Quán lúc ấy không có ai ngoài năm đứa tôi.       

      Chờ lâu, một anh, cựu trung úy Biệt Động Quân, người Nam hiền khô, nhưng tướng rất ngầu, da ngăm ngăm đen, nói năng bạt mạng, lại ngọng nữa, sốt ruột, lớn tiếng hỏi:     

      - Nè, bộ mấy bà chê tụi tui không tiền hay sao mà không ai ga (ra) tiếp dzậy?

      Một cô trả lời, giọng Bắc the thé như lai tiếng Thanh Hóa, Nghệ An:

      - Ăn gì thì đến quầy mà gọi.     

      Anh BĐQ đứng lên, khệnh khạng tiến tới quầy, hai tay thọc trong hai túi quần. Tôi bước theo, sợ to chuyện, và nhắc nhở “tụi mình vẫn còn là tù binh, chưa được phát giấy ra trại”. Anh hiểu, và nói một hơi:    

      - Cho tụi này năm tô phở bò tàu bay Hiền Vương, tái, chín, nạm, gầu, gân, sách, nước béo, giá trụng, hành trần, chanh, ớt, tương đen, ngò gai, nhiều bánh, nghe kịp không?

       Ba cô, dĩ nhiên, nghe sao kịp, không hiểu, hay chỉ hiểu lõm bõm, trợn tròn mắt, tưởng anh nói tiếng Ấn Độ. Một cô, có lẽ tổ trưởng, xẵng giọng:

      - Đây là cửa hiệu quốc doanh. Chỉ có một loại phở mà thôi, không có thứ gì khác. Rõ chưa?

      Anh quay nhìn tôi, rồi ngó thấy cô “chằn” quá, liền xuống nước:

      - Gõ gồi (rõ rồi). Ờ, thì cô bán cho năm tô đi.  Và năm chai bia.

      - Không có bia chai, mà chỉ bia “bốc” thôi.

      Anh lại hỏi:

- Bia “bốc” là bia gì dzậy?        

- Là bia hơi rót từ cái bình thủy tinh lớn kia, ông cụ nội ạ, chứ còn là bia gì nữa?

Tôi cười cười, cố tình nói đùa cho tình hình bớt căng thẳng:

- Nghĩa là chưa uống nó đã “bốc hơi” bay đi hết, phải không cô?  

      Nhưng cô quốc doanh nguýt tôi, rồi lườm anh BĐQ, mắt tóe lửa, như muốn nhai tươi nuốt sống hai thằng. Và bảo “trả tiền trước đi đã”, tổng cộng cả bia lẫn phở cho năm tên “ngụy” là 50 đồng.

      Hai thằng trở lại bàn. Ngồi chờ mãi, gần nửa tiếng, mà phở, bia chưa thấy mang ra, anh lại bực bội, gõ chiếc muỗng vào cái ly nghe leng keng, rồi nói lớn:

       - Sao lâu quá gồi (rồi) mà không thấy ai bưng phở, đem bia ga dzậy cà?

      Cô “tổ trưởng” từ quầy cũng to tiếng, đáp lễ:

      - Đến đây mà bê ra, không ai hầu cho đâu!

      Cả đám bật đứng lên, bước đến phía quầy, thấy một lô tô phở, không nước, làm sẵn đồng loạt từ lâu, nằm chình ình trên một cái khay lớn. Nghĩa là khách địa phương, rành thủ tục, chỉ có việc đến quầy trả tiền, lúc đó các cô “phục vụ” mới đổ nước lèo nóng vào, rồi tự động ai nấy bưng tô phở ra bàn. Phở lơ thơ vài cọng rau, chỉ có một lát thịt bò thái mỏng như lưỡi lam cạo râu, sẵn sàng bay theo cơn gió vô tình lướt qua. Nước phở còn nhạt hơn nước ốc. Bia “bốc hơi” thì khỏi nói: không khác chi nước trà lên men.       

      Ăn uống tạm no, nhưng còn ấm ức, anh trung úy BĐQ rút điếu thuốc Điện Biên ra hút, mơ màng nhả khói, như triết gia Jean-Paul Sartre trên vỉa hè Paris, rồi than nhỏ với tôi: “ĐM. Cái gì cũng quốc doanh, không khá nổi. Phở, bia, hay cha, thầy, sư quốc doanh gì cũng đều cà chớn gáo (ráo) trọi”.         

      Ra đường, gặp một toán khác đi ngược chiều –khoe vừa mới nhậu thịt chó xong. Hỏi ngon không, thì một anh hậm hực trả lời: “Ngon gì mà ngon. Thịt chó quốc doanh chỉ có độc mỗi món luộc chấm với mắm tôm, không ớt, mùi tanh lắm. Nhưng lỡ trả tiền rồi, cũng phải ráng nuốt thôi. Thịt chó Hà Nội gì mà bết bát hết sức, thua xa thịt chó Hố Nai”.

 

      4. Rồi năm đứa chia tay nhau, đường ai nấy đi, hồn ai nấy giữ. Hẹn trở về ga Hàng Cỏ trước 7 giờ tối, hoặc sớm hơn. Còn nhiều thời gian để mà giết. Làm gì cho hết nửa ngày nữa?

      Tôi nẩy ý muốn đi xem phong cảnh Hà Nội. Bèn vẫy một chiếc xích lô. Phu xe là một thanh niên trên ba mươi, tên Tứ, dáng dấp khỏe mạnh, nói nhiều, giọng Bắc Khu Tư (Vinh). Tôi thương lượng:    

      - Anh chở tôi đi chơi vòng vòng xem cho biết Hà Nội, cứ đạp từ từ, đến chỗ nào cũng được, tùy ý anh, trong ba tiếng, rồi chở tôi trở lại ga Hàng Cỏ trước 7 giờ. Anh lấy bao nhiêu?

      Anh mau mắn đáp:

- Dạ, bèo lắm thì cũng 40 đồng đấy anh ạ…

      Tôi vừa ngồi lên nệm xe, anh đã đề nghị đi Hồ Hoàn Kiếm trước. Hà Nội đang còn mùa xuân, hai bên đường hoa nở rộ, thắm tươi. Những cành đào nặng trĩu hoa, rực rỡ một màu đỏ hồng, cong xuống, la đà theo gió. Thấy tôi mải mê ngắm nghía một cách thích thú, Tứ góp chuyện:

      - Còn một loài hoa nhỏ, chỉ nở từ tháng 3 đến cuối tháng 4, tức tháng này, trắng xóa ven đường, lại tỏa hương thơm nhè nhẹ. Tuyệt vời, anh ạ. Đó là hoa sưa... Đấy, anh ngắm đi, kia kìa, đúng là một cảnh tuyết, giống ở Sapa...

       Tôi hỏi lại:

      - Hoa sưa hay hoa sữa?

      - Dạ sưa. Du khách Sài Gòn ra, ai cũng lộn.

      Dọc đường, ít thấy xe hơi, xe gắn máy hay bộ hành qua lại. Du khách ngoại quốc, hay Việt kiều, cũng vắng. Một thủ đô đang hấp hối hay đang ngái ngủ, tôi có cảm tưởng, lạc hậu nhất trên hành tinh này. Lãnh đạo tự phong toàn là một lũ thất học, ngu đần, lúc bấy giờ còn say men chiến thắng, còn bận nhiều việc: trả nợ cho hai nước “anh em vĩ đại”, Liên Xô và Tàu Cộng, trả thù người chế độ cũ, lừa và lùa hàng trăm ngàn tù binh “ngụy” vào rọ “học tập cải tạo”, đày dân đi vùng kinh tế mới để cướp nhà của họ, vơ vét và chia chác của cải từ Miền Nam khuân ra Bắc, khoác lác khoe khoang với thế giới rằng “VN đã đánh thắng hai đế quốc đầu sỏ, Pháp và Mỹ”, và “VN chúng tôi có quá nhiều anh hùng, vừa ra ngõ là gặp anh hùng”... Nên chúng chưa có kế hoạch phát triển kinh tế, làm cho đất nước giàu mạnh.

      Xích lô chạy một hồi, đến hồ Hoàn Kiếm lúc nào không hay. Tôi bước xuống, đi bộ lên thảm cỏ xanh. Những nhánh liễu ven hồ, rũ xuống, tàn lá lưa thưa, không đủ “che nửa mặt hoa” (Bạch Cư Dị) của những cô gái trẻ ngồi tâm sự bên tình nhân, trên ghế đá. Tôi thấy họ có vẻ ngượng nghịu, lúng túng đến tội nghiệp khi nắm lấy tay nhau, nói chi ôm nhau, hôn nhau. Thương cho họ. Và ở một cảnh ngộ khác, thương cho chính tôi và những chiến hữu bất ngờ trở thành tù binh, không kịp hẹn trước với Định Mệnh, vừa đứng trước cổng trại giam là đã phải bỏ lại tất cả: quá khứ, vị lai, tình yêu, ước mơ, và thảm não hơn, hy vọng. Dường như những cặp tình nhân này mới dưới quê lên thành phố, hoặc vừa được Bác và Đảng “cởi trói” cho phép yêu nhau, sau tám năm “chiến thắng” Miền Nam, trong khi Bác và bè lũ, những con yêu râu xanh thời đại, tha hồ “đồi trụy”, vợ nọ con kia, mà mồm cứ phun ra những lời sặc mùi đạo đức giả.

      Những tia nắng lấp lánh đuổi nhau trên mặt hồ. Nhìn xa thấy màu nước đẹp lung linh, xanh như một tấm thảm rêu trải dài. Gần bờ, trái lại, nước hồ quá bẩn, có chỗ lềnh bềnh những rác rưởi, giấy báo, bao ni lông, lon, ca, cóng do ai vứt xuống bừa bãi, tắt nghẽn, không trôi đi được. Trước kia, tôi đã đọc trong một quyển tiểu thuyết và nghe các ông bạn lớn tuổi, chính gốc Hà Nội ba mươi sáu phố phường, kể rằng quanh bờ hồ Hoàn Kiếm thời trước 1954, sạch sẽ lắm, là nơi tụ họp vui chơi cuối ngày, và cuối tuần, của đông đảo dân Hà Thành, có những kiosques bán kem và lạc rang húng lìu nóng dòn, có giọng ca nhí nhảnh của Joséphine Baker phát ra từ đĩa nhạc xưa, “J’ai deux amours: mon pays et Paris...”, nhưng bây giờ, đứng đấy, tôi không nghe, không thấy gì hết. Cũng như, theo lời Tứ kể, ở Hồ Tây, mà anh ngại xa không muốn chở đến, không còn những chiếc périssoires (thuyền thoi) –mà dân Đà Lạt rất quen thuộc trước 1975, trên hồ Xuân Hương. Hay người Cộng sản không biết ăn kem Bờ Hồ, không biết nhai lạc rang, không biết nghe nhạc Pháp, không biết bơi thuyền thoi, cho đó là sản phẩm của Thực dân, Đế quốc? Vua Lê Lợi nếu sống lại chắc sẽ căm giận lắm về những hậu sinh khả ố, mất dạy, mê muội hiện tại, nhắm mắt theo đuôi chủ nghĩa Cộng sản khốn nạn. Tôi cầu xin, khi mùa đông về, mưa bay lất phất, rùa thần nổi lên mặt hồ, cho ngài mượn lại thanh kiếm báu để chém bay đầu bè lũ chúng nó, như trưóc kia đã chém bay đầu Liễu Thăng và giặc Minh...

      Rời hồ Hoàn Kiếm, Tứ chở tôi dạo một vòng Bưu điện gần đó, là một tòa nhà đồ sộ xây theo lối Tây, và xa hơn, những “phố” (thực ra là những con đường) Huế, Tràng Tiền, Hai Bà Trưng... mà tại mọi góc đều có Công An đứng gác, súng ống trang bị đến tận răng, mắt cú vọ nhìn gốc cây nào cũng thấy “phản động”, mặc dù đất nước đã thanh bình lâu rồi.

      Khi tôi ngỏ ý muốn đi thăm Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Tứ lẩm nhẩm tính:

      - Đến Văn Miếu thì phải vòng trở lại ga Hàng Cỏ, qua phố Hàng Lọng, theo phố Sinh Từ...

       Tôi cắt ngang:

      - Anh có nói, tôi cũng chẳng biết phố nào là phố nào. Thôi, tôi nhắm mắt để anh chở tôi đi đường nào cũng được.

       Như tên gọi, đó là một khu “miếu” lớn, với lối kiến trúc cổ xưa, từ thế kỷ XV, trang nghiêm, thanh nhã, gồm một gian thờ Khổng Tử và môn đệ, một lầu vuông tám mái gọi là Khuê Văn Các, nơi bình thơ của các sĩ tử, cạnh giếng Thiên Quang mà hai bên tả, hữu thấy dựng hai hàng bia đá khắc tên tám mươi hai vị đỗ tiến sĩ, qua các triều đại. Trên cổng ngoài cùng có vẽ hình hai con cá chép theo điển tích “cá vượt vũ môn”, ngụ ý người học trò đi thi được ví như cá chép phải vượt ba đợt sóng dữ, tại cửa sông, mới biến thành rồng, chỉ sự thành công tột bực. Chứ không phải, tôi nghe ai kể, các thí sinh thích ăn cá chép, theo cách hiểu của đa số học sinh XHCN bây giờ. Bước đi, tôi thấy người bỗng thoát trần, xa rời tục lụy và thực tế tối đen, xấu xí hiện nay, để lòng nhẹ tênh. Như bay bổng trong không gian và thời gian lồng lộng. Như nghe tiếng thiết tha gọi về từ đáy Hôn Dân Tộc thanh cao của bốn ngàn năm văn hiến và từ những trang Sử Việt oai hùng qua bao dòng đời hưng phế, với Trưng, Triệu, Ngô, Đinh, Lý, Trần, Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn... những triều đại bị bọn “đỉnh cao trí tuệ” Trường Sơn chê là phong kiến, lạc hậu, độc tài, mà người dân vẫn được tự do đi lại, vẫn được ăn no mặc ấm, vẫn được vua chúa thương yêu như con, vẫn được học hành đến nơi đến chốn theo truyền thống nhân bản, vẫn được gọi mời tham gia vào công cuộc trị nước và giữ nước. Mà những tiến sĩ, đang hiện diện trong Văn Miếu kia, được vinh danh và trọng vọng nhờ vào thực tài, đức hạnh, chứ không bởi văn bằng dỏm, văn bằng lậu, văn bằng tậu được do tiền bạc và mánh mung, như trong thời kỳ đồ đá, đồ khỉ, đồ đểu hiện nay...

 

      5. Từ giã Văn Miếu, thấy còn dư một tiếng, tôi đề nghị Tứ chở đi xem giếng ngọc của Trọng Thủy và Mỵ Châu –mà chuyện tình diễm ảo và bi thảm đã ám ảnh, mê hoặc hồn tôi, từ lúc còn trẻ cho mãi đến bây giờ, hơn bất cứ chuyện tình diễm ảo và bi thảm nào trong văn chương thế giới, kể cả Tristan et Iseut  hay Romeo and Juliet. Tứ đáp:

      - Xa lắm anh ạ, tận mãi Cổ Loa, quận Đông Anh, phía Bắc, cách Hà Nội 16km, không đi xích lô được, vả lại không kịp giờ lên xe lửa đâu.       

      Đành trở lại ga Hàng Cỏ, trước giờ qui định. Trao tặng những anh giữ-hộ-viên-túi-xách một bịch chuối ép khô mua tại cửa Bưu điện, và kể sơ về chuyến du hành bằng xích lô. Hai cán bộ đã có mặt. Rồi lục tục, các đồng tù trở về “trình diện” kịp, hay trước, giờ, vì không ai dại, làm lỡ chuyến tàu xuôi Nam. Đúng 8 giờ tối, tất cả lên tàu, ngồi trong một toa, do “trên” (nhà nước) dành riêng, sau khi cán bộ đọc tên và phát cho từng người giấy ra trại, kèm theo lời dặn dò, hay mệnh lệnh chót, “các anh nhớ thi hành tốt lệnh quản chế địa phương, và phấn đấu làm ăn tốt, xây dựng xã hội chủ nghĩa, đừng trốn chạy ra nước ngoài”. Hai tên cán bộ ở lại ga, và chúng tôi hoàn toàn tự do, từ đây, ít ra trong đêm đó.

 

      Tàu khởi hành trễ nửa giờ. Chạy khoảng một tiếng thì ngừng lại tại một ga nhỏ, đón khách “nhảy tàu” (buôn bán lậu trên xe lửa) ra Bắc và trở vào Nam. Đa số là phụ nữ Miền Nam, còn trẻ, biết có một toa tù cải tạo được thả, họ đem hàng đến gửi, nhét đại phía dưới ghế ngồi, vì qua kinh nghiệm, tin rằng công an không bao giờ vô lục khám. Chúng tôi thông cảm, để mặc, và ngược lại họ mua bánh trái đãi đằng để trả công ơn đồng lõa. Vài người, mà thân nhân còn trong tù cải tạo, đứng nán lại, hỏi han, tâm sự. Và bất ngờ, tôi được biết trong số có một chị là vợ của một trung úy, đồng đội K1, không được thăm nuôi, đói, nhưng rất có bản lĩnh, tư cách. Tôi nói nhỏ với chị:

      - Ảnh đói lắm. Chị ráng thu xếp ra thăm ảnh một chuyến.

      Chị bật khóc, nước mắt đầm đìa, trả lời:

       - Em biết. Và thương ảnh lắm. Nhưng nhà nghèo quá, phải nuôi đàn con nhỏ nữa. Khi nào dành dụm được chút ít, chắc chắn em sẽ ra thăm ảnh. 

      Cảm động, tôi móc từ túi quần được một nắm tiền, chừng hơn 100 đồng của trại trả lại, kín đáo đưa tặng chị, nói để “mua quà cho các cháu”. Chị không nhận, và vì tế nhị, tôi không nài ép. Cách đây hai năm, tình cờ tôi gặp lại anh chị –qua Mỹ theo diện HO, và làm ăn khá giả, con cái thành đạt– tại nhà một người bạn chung. Sau ba mươi năm, chị nhìn tôi, xa lạ, không nhận ra là ai, và tôi cũng không nhắc gì về chuyến tàu đêm năm cũ ấy.

 

      Tàu chạy thâu đêm, qua những địa danh lịch sử, tôi chỉ nghe nói đến mà chưa hề thấy tận mắt, như Hà Tĩnh, quê hương tuổi nhỏ của đại thi hào Nguyễn Du. Hay Quảng Bình, nơi sinh quán của Tổng thống Ngô Đình Diệm, với Đèo Ngang nổi tiếng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan và sông Gianh phân chia ranh giới Bắc Nam giữa quân Trịnh và quân Nguyễn, thế kỷ XVII. Khi đến Cửa Tùng, An Du Tây, Quảng Trị, quê nội tôi, trước khi tàu qua cầu Bến Hải, tôi nhìn chăm chú ra ngoài, như một phản xạ, nhưng không thấy gì cả ngoại trừ một vùng đồng ruộng tăm tối, bao la. Tự nhiên, một cảm giác xa lạ, trống vắng xâm chiếm tâm hồn. Và thấy đắng chát trong cổ họng... Bởi một nơi không đến bao giờ, và không có một chút kỷ niệm, dù là quê cha đất tổ, cũng chỉ là một chấm đen trên bản đồ. Tôi gục đầu xuống thành cửa sổ, muốn khóc. Bỗng nhớ ba tôi quay quắt, đã mất không lâu trước đó, mà tôi không được gặp mặt. 

   

      Ngược lại, tại sân ga Huế, sáng trưng ánh đèn, một cảnh sinh hoạt náo nhiệt diễn ra, dù đã quá nửa khuya. Khi những em bé bán bánh, nước trà bắt gặp chúng tôi ngồi la liệt trong toa đặc biệt, biết là tù “ngụy” trở về, liền báo động cho những đồng nghiệp lớn tuổi, và một đám các bà, các o chạy túa đến, reo vui: “Sĩ quan cải tạo về kia tề, anh mô cũng đẹp trai hết, không như mấy cha bộ đội. Thấy các anh cực khổ mà thương chi lạ!”. Vài anh thò đầu qua cửa sổ mua bánh, chuối, thịt gà chiên, nhưng họ không lấy tiền. Lại còn, khi tàu chuyển bánh, chạy theo, ném thêm qua cửa sổ...

 

      Sáng hôm sau, tàu ngừng tại ga Nha Trang, lúc 9 giờ. Tôi thuê xích lô trở về nhà. Xuất hiện tại cửa như một bóng ma hiện hình. Mẹ và Bội Trân đứng sững giây lâu, rồi cả hai ôm chầm lấy tôi, khóc nức nở. Tôi hôn lên má, lên tóc Mẹ, và qua vầng trán nhăn nheo và mái đầu bạc trắng, ngậm ngùi tưởng nhớ dung nhan của Mẹ ngày xưa và tình thương bao la suốt đời Mẹ dành cho từng đứa con. Tôi nhìn Bội Trân, người em tiếp viên Air Vietnam kiều diễm của tôi, sau ngày đất nước đổi chủ, đổi tên, đã bị trời xanh quen thói má hồng đánh ghen bắt chịu nhiều nỗi truân chuyên, như người chinh phụ trong Đoàn Thị Điểm. Ôm em trong tay mà tưởng như ôm một khối tình sầu hóa thân chất ngất, chưa tan, mà biết rằng em, qua dòng lệ mừng cho tôi, cũng đang khóc nhớ hôn phu –một phi công, vì em không đi, đã ở lại Sài Gòn sáng 30 tháng 4, để bây giờ vĩnh viễn gãy cánh, nằm xuống tại một nơi nào trong trại tù Thanh Phong. Bởi em buồn, tủi phận, tôi cũng thấy hồn mình nát tan, không muốn bộc lộ nỗi vui được thả, không muốn kể gì về những trại tù đã đi qua... Xem tất cả như một chương đời khổ nạn khép lại, một cơn ác mộng phải quên. Cho riêng tôi, và cho giùm em gái và những người vợ tù khác.

 

      6. Ba mươi hai năm qua, kể từ ngày ấy. Biết bao nhiêu chuyện đời xảy đến. Từ Mỹ, tôi đã đi thăm nhiều thủ đô lớn, nhỏ trên thế giới. Nhưng vẫn không sao quên được hình ảnh Hà Nội tuyệt đẹp, mà tôi đã gặp trong sử sách, cùng với hình ảnh cố đô Thăng Long cổ kính và huyễn mộng qua hàng chục thế kỷ chiến tranh giữ nước. Thăng Long, hay Hà Nội. Của một Phù Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân, rồi cưỡi thiết mã bay về trời. Của một Lý Thường Kiệt đứng trên sông Như Nguyệt, sang sảng ngâm bài thơ, được xem là bản tuyên ngôn đầu tiên về chủ quyền quốc gia Việt Nam, cách đây mười thế kỷ, độc đáo nhất, quyết liệt nhất: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư / Tiệt nhiên định phận tại thiên thư / Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm / Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư...”, trước khi xuất trận đánh tan quân xâm lược. Của một Trần Nhân Tông và các bô lão trong Hội Nghị Diên Hồng, đồng thanh quyết chiến đến cùng. Của một Trần Hưng Đạo với câu nói, có một không hai trong lịch sử nhân loại về sự hy sinh tột độ cho đất nước: “Bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng” –là danh tướng duy nhất trong quân sử thế giới đã đánh bại đế quốc Mông Cổ (tức nhà Nguyên), hùng mạnh nhất lúc bấy giờ, bách chiến bách thắng, mà vó ngựa đã giẫm nát toàn cõi Đông Âu, Nga, Trung Đông và Đông Nam Á. Của một Trần Bình Trọng, bị bắt, với thái độ hiên ngang, ngẩng cao đầu trước địch quân: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Của một Lê Lợi với hơn mười năm kháng chiến nằm gai nếm mật. Của một Nguyễn Trãi với chính sách thu phục nhân tâm diệu kỳ, “Lấy trí nhân thay cường bạo”. Của một Nguyễn Huệ với những chiến thắng mùa xuân thần tốc lẫy lừng. Của một Hoàng Diệu, tổng đốc trung liệt, đã tuẫn tiết cùng chết với thành Hà Nội. Của toàn dân, qua các triều đại, đã sát cánh với vua, quan, tướng lãnh đánh đuổi bọn Đại Hán xâm lược, mà dù là Ân, Ngô, Tống, Nguyên, Minh, Thanh xưa kia, hay Mao (Cộng) ngày nay  –tất cả đều là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.

 

      Cũng như tôi không sao quên được hình ảnh, ngược lại, điêu tàn của một Hà Nội mà tôi đã gặp vào một ngày mùa xuân 1983, cổ lỗ và rách nát trong tay giặc Việt Cộng. Dưới sự thống trị của bọn lãnh đạo ma đầu thay nhau tự phong, ngu dốt, tham tàn, phản bội dân tộc, rước voi về giày mả tổ, thấy kẻ thù là run như cầy sấy, nhưng đối với dân thì hung bạo, đánh đập, bắn giết, bỏ tù. Hà Nội trong mắt tôi, ngày xuân ấy và nhất là bây giờ, dưới xích xiềng giặc Việt Cộng, chỉ là thủ đô của hận thù, của hạ tiện, của xảo trá, của băng hoại về mọi giá trị đạo đức, xã hội, giáo dục, kinh tế, an sinh và lương tâm. Chỉ là biểu tượng của một đất nước mà dân nghèo phải đầu tắt mặt tối, bươn chải kiếm sống, mà học sinh phải đu dây qua sông để đến trường, mà dân giàu lo ăn chơi, trụy lạc, say xỉn, mà tướng tá và công an được mua bằng tiền, tự biến thành chó ngựa, cung cúc phục vụ chế độ phi nhân, mà tất cả, trong những hoàn cảnh sống khác nhau như thế, cũng đều quên đi nhiệm vụ cao cả do tiền nhân giao phó: đứng lên chiến đấu giữ nước, trước hiểm họa Bắc thuộc do Tàu Cộng đang mưu toan với chiến thuật mới, mềm dẻo hơn, tinh vi hơn, nghĩa là bằng chính tay những thằng lãnh đạo Việt Cộng.

      Hà Nội ấy, một lần đi qua, tôi sẽ không bao giờ trở lại, dù chỉ một giờ, một phút, nếu tổ quốc Việt Nam yêu dấu chưa sạch bóng nội thù Việt Cộng, nếu người dân chưa, hay chưa thể, đứng lên tiêu diệt bọn lãnh đạo bây giờ, và ném vào sọt rác lịch sử cái chủ nghĩa Cộng sản quái thai, quái dị, quái đản, đã ngự trị từ hơn ba phần tư thế kỷ trên đất nước tang thương, bất hạnh này –đã vô phúc sản sinh ra một tên Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh, còn bỉ ổi, ghê tởm hơn Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống.     

 

      7. Khát vọng và ước mơ tuyệt vời đó về một Việt Nam tương lai phi Cộng sản, tôi lo, khó thành hiện thực cho tôi và những ông bạn chiến binh già, trong cuộc đời này. Thời gian vô tình cứ trôi đi, và bóng đời cứ nghiêng đổ, mà giật mình ngoảnh lại, thấy chưa làm gì được cho đất nước thân yêu còn mãi quằn quại trong nanh vuốt Việt Cộng. Có thể không kịp nữa. Họa may, kiếp sau. Nếu Thần Chết không bắt chúng tôi bỏ lại tất cả mọi hy vọng,  khi bước qua bờ tử sinh. Và nếu trong Inferno, thi hào Dante cũng tha, cho những kẻ đứng trước cửa địa ngục, hình phạt nặng nề nhất, tức là phải mang theo mối tuyệt vọng đời đời. Lasciate ogni speranza voi ch’entrate (Hãy vứt bỏ tất cả hy vọng, hỡi các ngươi đang bước vào, iii,1).

 

Portland, 28 tháng 1, 2016

Kim Thanh