Tôi là người Việt Nam. Chào đời năm 1930 tại làng Đại Ngãi, quận Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Phục vụ quân lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 12/5/1954 đến Giờ Thứ 25 ngày 30/4/1975. Sau ngày tang thương này, nhóm cầm quyền Việt Cộng đẩy tôi -và đồng đội của tôi- vào trại tập trung Long Giao tỉnh Long Khánh ngày 14/6/1975, chuyển đến trại tập trung Suối Máu tỉnh Biên Hòa tháng 10/1975 trên đất Nam, chuyển đến trại tập trung Yên Bái tỉnh Hoàng Liên Sơn trên đất Bắc ngày 16/6/1976, chuyển xuống trại tập trung Nam Hà tỉnh Hà Nam Ninh tháng 4/1978, ra khỏi trại tập trung ngày 9/9/1987 về đến nhà ở Sài Gòn chiều ngày 12/9/1987. Rời khỏi Việt Nam ngày 29/3/1991 trong đợt HO5 sang Thái Lan làm thủ tục, và chiều ngày 5/4/1991 đặt chân đến Hoa Kỳ tị nạn Việt Cộng. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam khi Việt Cộng độc tài còn cai trị quê hương tôi.
Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi, và tôi không bao giờ quên chuỗi tội ác mà các nhóm cầm quyền Việt Cộng gây ra cho Dân Tộc và Tổ Quốc Việt Nam từ ngày 2/9/1945 đến nay.
Ước mơ của tôi là được trở về Việt Nam sống trên quê hương cội nguồn của mình
dưới chế độ dân chủ tự do. Vì vậy mà ước mơ đó luôn thúc đẩy tôi chọn lọc các
tin tức và đưa vào nội dung này, giúp Các Anh và những thành phần yêu chuộng
dân chủ tự do có nét nhìn rộng hơn và rõ hơn, về chế độ độc tài + gian trá + tự
cao + tham nhũng, về những sự kiện trên thế giới liên quan trực tiếp lẫn gián
tiếp đến mục tiêu ngăn chận tham vọng thống trị thế giới của Trung Cộng, mà Hoa
Kỳ và một số quốc gia phát triển đang thực hiện.
Khi nhóm cầm quyền Việt Cộng suy yếu đến hỗn loạn, hoặc Trung Cộng suy yếu đến
mức mà nhóm cầm quyền Việt Cộng không thể dựa được nữa, đó là cơ hội cho Các
Anh và toàn dân đứng lên giành lại Quyền Làm Người của mình, nối tiếp dòng lịch
sử oai hùng của dân tộc từ ngàn năm trước.
Hãy nhớ, Các Anh là Người Lính trong quân đội gắn liền với hai chữ “Nhân Dân”,
phải hiểu là Các Anh có trách nhiệm bảo vệ Nhân Dân, bảo vệ Tổ Quốc, vì
Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ
đảng nào độc tài mà cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử. Ngay cả Cộng
Sản Quốc Tế là Liên Xô như đang chờ nắm quyền thống trị thế giới vô sản, đã
phải sụp đổ từ đầu năm 1991 vì bản chất độc tài độc ác của cộng sản. Cộng sản
Liên Xô sụp đổ, kéo theo nhóm quốc gia cộng sản vùng Đông Châu Âu cùng sụp đổ.
Cuối năm 2024 vừa qua, quốc gia Syria độc tài đã bị người dân nổi dậy lật đổ,
Tổng Thống độc tài xứ này cùng gia đình bay sang Nga tị nạn. Các quốc
gia độc tài -nhất là cộng sản- còn sót lại nói chung, và cộng sản Việt Nam nói
riêng, cũng trong quy luật đó.
Chưa hết, Các Anh hãy nhớ lại vào nửa thế kỷ trước đó, phát xít Đức bắt đầu
chiến tranh xâm lăng Ba Lan từ tháng 10/1939 và chiếm gần hết Châu Âu, trong
khi phát xít Nhật bắt đầu chiến tranh với Hoa Kỳ từ tháng 12/1941 và chiếm gần
hết các quốc gia vùng Đông Nam Châu Á, nhưng đến nữa cuối năm 1945 thì cả Đức
lẫn Nhật phải gục ngã -vì họ là chế độ độc tài với tham vọng thống trị thế
giới, không thể tồn tại dài lâu- trước thế giới tự do do Hoa Kỳ dẫn đầu. Và nội
dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
Xin nói thêm cho rõ. Với những bài văn bài thơ của các tác giả ở trong nước,
tôi xin sử dụng chữ viết truyền thống thay thế chữ viết thời Việt Cộng, ngoại
trừ những nhóm chữ thời Việt Cộng mà tôi không hiểu nghĩa.
Với lá thư này, tôi tóm lược những bài viết liên quan đến tội ác của Việt Cộng:
1. Đày đọa khoảng 800.000 người trong hơn 200 trại tập trung.
2. “Biệt giam” hơn 16.000 tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi dưới mộ”.
3. Phi cơ chở 16 tấn vàng từ Sài Gòn về Hà Nội rồi biến mất.
4. Thiêu hủy văn hoá truyền thống Việt Nam.
***
1. Đày đọa khoảng 800.000 người
trong hơn 200 trại tập trung.(source:
Wikipedia).
Chế độ đày đọa “bên thua cuôc” rập theo khuôn mẫu của Trung Cộng đã áp
dụng tại Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ năm 1954 với tội phạm, tù binh, và tù
nhân, bị kết án chống đối nhà cầm quyền.
Sau ngày 30/4/1975, nhóm chữ
“học tập cải tạo" nói đến chương trình tập trung của nhà cầm quyền Việt
Cộng đối với những người phục vụ trong quân đội và trong ngành hành chánh Việt
Nam Cộng Hòa cũ. Hệ thống trại tập trung này theo tên gọi là “trại cải tạo lao
động” mà Liên Xô đã sử dụng.
Tháng 6/1975, nhóm cầm quyền Việt Cộng ra
thông cáo bắt buộc Tướng Lãnh và Sĩ Quan quân đội và viên chức thuộc chế độ
Việt Nam Cộng Hòa đi học tập cải tạo. Khoảng 800.000 người thuộc diện phải
trình diện trong các ngày 13, 14, và 15/6/1975. Riêng Sài
Gòn có 443.360 người trong số đó, và trong số này có những cấp
bậc như sau:
28 Tướng Lãnh.
362 Đại Tá. (tôi là một trong số này)
1.806 Trung Tá.
3.978 Thiếu Tá.
39.304 Sĩ Quan cấp uý.
35.564 Cảnh Sát.
1.932 nhân viên tình báo.
1.469 viên chức cao cấp.
Và 9.306 người trong các đảng phái chính trị.
Giữa đêm 15 rạng ngày 16/6/1975, Việt Cộng đưa cấp Tướng và cấp Tá lên trại
Long Giao tỉnh Long Khánh. Đến tháng 10/1975 chuyển xuống trại
Suối Máu tỉnh Biên Hòa.
Sau 1 năm giam giữ trong các trại tập trung trên phần lãnh thổ Việt Nam Cộng
Hòa cũ, nhóm cầm quyền Việt Cộng chuyển phần lớn ra các trại mới lập tại các
khu rừng già vùng Tây Bắc và phía Bắc Hà Nội, do Bộ Quốc Phòng Việt Cộng giam
giữ. Tôi, trong số 362 cấp Đại Tá bị giam trong trại AH 2 và AH 3 tại xã Việt
Cường huyện Trấn Yên tỉnh Hoàng Liên Sơn, do Đoàn 776 của quân đội Việt Cộng
cai quản. Từ đó, danh từ “tù chính trị” được sử dụng để chỉ quân đội +
nhân dân + cán bộ + viên chức hành chánh Việt Nam Cộng Hòa cũ trong các trại
tập trung tù chính trị mà Việt Cộng gọi là trại cải tạo.
Riêng Đoàn 776 trú đóng tại Yên Bái, cai quản 82 trại tù chính trị đánh số từ
AH1 đến AH82 rải rác tại Yên Bái và các tỉnh chung quanh. Trên toàn quốc -theo
lời kể của những bạn đồng tù- ít nhất cũng hơn 200 trại tập trung tù
chính trị từ Mũi Cà Mau cực Nam, đến trại Cổng Trời cực Bắc Việt Nam.
Trước khi quân Trung Cộng tấn
công 6 tỉnh dọc biên giới phía Bắc hồi tháng 2/1979, nhóm cầm quyền Việt Cộng
chuyển “tù chính trị chúng tôi” xuống các trại tập trung vùng đồng bằng Sông
Hồng do Công An giam giữ. Tôi trong số tù chính trị chuyển xuống trại tập trung
Nam Hà thuộc tỉnh Hà Nam Ninh hồi tháng 4/1978.
Năm 1980,Thủ Tướng Việt Cộng Phạm Văn Đồng nói rằng: ”Hiện còn 26.000 người trong các trại cải tạo”. Tuy nhiên, một số báo chí ngoại quốc ước tính khoảng 100.000 đến 300.000 vẫn đang bị giam giữ trong các trại tập trung. Trong khi Hoa Kỳ ước tính khoảng 165.000 người đã chết trong các trại tập trung trong 5 năm qua.
Trong những năm đầu của thập niên 1980, Việt Cộng lần lượt chuyển
tù chính trị từ các trại tập trung vùng Tây Bắc và phía Bắc Hà Nội về trại Nam
Hà. Sau khi họ chọn lọc mà họ gọi là “thành phần tội nhẹ”, và chuyển trở lại
các trại tập trung trong Nam. Đến năm 1985,chỉ còn lại trại
tù chính trị duy nhất là Trại Nam Hà với khoảng 500 tù chính trị, -tôi
trong số này- bị Việt Cộng xếp vào thành phần tội nặng nhất. Thỉnh thoảng có
những đợt ra trại, nhưng mỗi lần ra trại chỉ vài chục bạn tù.
Cứ mỗi 3 năm, nhóm cầm quyền Việt Cộng ký lệnh gia hạn giam giữ thêm 3 năm
nữa.
Và cứ liên tục như vậy tại tất cả các trại
giam dù trong Nam hay ngoài Bắc. Riêng với tôi là sau 3 năm đầu -giữa
1975-1978- là gia hạn 4 lần.
Và trường hợp nào mà quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ được ra khỏi trại
tập trung, và cùng gia đình sang Hoa Kỳ định cư?
Trong lúc tôi bị giam trong buồng giam số 1, Trại Nam Hà A, tỉnh Hà Nam Ninh,
vào buổi tối ngày 5/8/1987 sau khi cửa buồng giam số 1 do tên
Công An đóng lại nghe cái rầm, thanh sắt kéo ngang nghe réc-réc, và tiếng crắc
của ống khóa bóp lại, là tôi đọc báo. Tôi đọc ngay bản tin ngắn trên tờ Nhân
Dân của Việt Cộng mà hằng tuần họ cho chúng tôi 2 lần. Đọc xong, tôi phải ngưng
lại, vì anh em chúng tôi bàn luận rất ồn ào.
Bản tin nói gì mà ồn ào
vậy? Bản tin như sau:
“Ngày 2 và 3 tháng 8 năm 1987, Tướng hồi hưu John W. Vessey, với
tư cách Đặc Sứ của Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan sang Việt Nam, gặp Bộ Trưởng
Ngoại Giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch. Hai bên thỏa thuận điểm đầu tiên về hợp
tác đẩy mạnh công cuộc tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam,
và điểm 2 là vấn đề trả tự do cho những người học tập cải tạo để cùng
gia đình được xuất ngoại sang Hoa Kỳ theo nguyện vọng”.
Từ ngày 12/8/1987, 3 toán Công An từ Hà Nội
đến trại này -đây là trại tập trung duy nhất còn lại trên đất Bắc- để phỏng vấn
khoảng 200 trong số hơn 400 anh em chúng tôi đang bị giam tại đây. Họ làm việc
trong 2 tuần lễ. Đến ngày 5/9/1987, toán Công An khác cũng từ Hà
Nội xuống đọc lệnh ra trại, và đây là đợt ra trại đầu tiên. Tôi trong số này.
Ngày 9/9/1987, 91 tù chính trị chúng tôi
được đưa xuống Nam Định, lên xe lửa và rời nhà ga này lúc 5 giờ chiều cùng
ngày. Sau 3 ngày 3 đêm về đến Sài Gòn lúc 6 giờ chiều ngày 12/9/1987.
Những ngày sau đó, anh em chúng tôi gặp nhau tại các cơ quan Công An khi đến đó
làm giấy tờ tùy thân, mới biết là cùng về với anh em chúng tôi ngoài Bắc, có
rất nhiều anh em bị giam trong các trại tập trung trong Nam cũng được
về.
Ngày 5/4//1991, vợ chồng tôi đến Hoa Kỳ, đoàn
tụ với các con chúng tôi đã vượt biển trong năm 1980 và 1981.
Năm 1997, tôi được đọc lá thư ngày
10/6/1997 bằng Anh ngữ của cựu Đại Tướng John W. Vessey,
gởi anh Hội Trưởng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Minnesota khi ông được mời tham dự
đại hội H.O. tại địa phương ông cư ngụ. Sở dĩ có lá thư vì ông không đến được,
nên ông viết thư và muốn anh Hội Trưởng đọc trong buổi họp mặt để mọi người
tham dự vừa nghe tâm sự của ông, và vừa hiểu được hai chữ H.O..
Người dịch sang Việt ngữ là Ông hay Bà Nguyễn T. Ngọc Châu. Xin trích 3 đoạn:
“..... Năm 1987, khi đang hồi hưu, tôi được Tổng Thống Ronald Reagan cử
tôi làm Đặc Phái Viên đi Hà Nội thương thuyết. Một trong những nhiệm vụ ưu tiên
hàng đầu mà tôi được Tổng Thống giao phó là phải tìm cách giải thoát những cựu
chiến hữu Việt Nam đang bị giam giữ trong những cái gọi là “trại cải tạo”. Tôi
cũng được quyền bảo đảm với chánh phủ Hà Nội rằng, Hoa Kỳ sẳn sàng chấp
nhận và đón tiếp những người tù cải tạo cùng gia đình họ sang Hoa Kỳ”.
“Trong những cuộc thương thuyết sơ khởi, chúng tôi không hy vọng hai bên sẽ có
ngay những giải pháp chính trị, cho nên tất cả những hành động mở đường cho
những thỏa ước tương lai đều mang danh “chiến dịch nhân đạo” -Humanitarian
Operations- gọi tắt Anh ngữ là H.O. Do vậy mà danh từ H.O. được Cộng
Đồng Việt - Mỹ sử dụng, để nói về những cựu tù nhân chính trị Việt Nam đang
sống trên đất Hoa Kỳ.
“Riêng với tôi, H.O. là biểu tượng của lòng dũng cảm, tinh thần phục
vụ, và lòng hy sinh.Tất cả những ai được gọi là H.O. đều là những anh hùng thật
sự trong thời đại chúng ta”. (hết
trích)
Tôi đưa lá thư của cựu Đại Tướng John W. Vessey vào đây, để Các Anh thấy rõ sự
dối trá của nhóm cầm quyền Việt Cộng khi họ huênh hoang rằng: “Với
chính sách khoan hồng nhân đạo, lãnh đạo đảng vànhà nước trả tự do cho ngụy
quân ngụy quyền về với gia đình, sau khi họ học tập cải tạo tốt” (đoạn này
trích trong Wikipedia).
Trong khi chính xác là nhóm cầm quyền Việt Cộng, sử dụng tù chính trị chúng tôi
trao đổi với chánh phủ Hoa Kỳ để mong được thiết lập bang giao, và hy vọng được
Hoa Kỳ giúp đỡ nền kinh tế Việt Nam đang trên đà suy
sụp.
Tóm tắt.Vì rập khuôn hệ thống trại tập
trung của Liên Xô -cộng sản quốc tế- nên giam giữ mà không cần tòa tuyên án
hằng 800.000ngàn tù chính trị, như thể thế giới này không có ngành tư pháp
trong hệ thống công quyền. Đến tháng 4/1992, hơn trăm người tù cuối cùng mới ra
khỏi trại tập trung. Đúng là bản chất hận thù và dối trácủa cộng sản Việt Nam
mà tôi gọi làViệt Cộng.
2. “Biệt giam hơn 16.000 anh
hùng tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa dưới mộ”.
Năm 1965,Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa được
xây dựng theo mô hình Con Ong, trên diện tích 125 mẫu tây. Các công
trình xây dựng trên mô hình Con Ong, như sau:
(1) Trên lưng Con Ong là Nghĩa Dũng Đài, cao 43 thước. Phần dưới là Vành
Khăn Tang. Từ Vành Khăn Tang nhìn xuống triền đồi thoai thoải, sẽ là những ngôi
mộ ngay hàng thẳng lối, và tất cả đều giống nhau.
(2) Chung quanh thân mà phần
đuôi dài ra trông như hình quả trứng, chia làm 8 Khu theo hình nan quạt, đủ chỗ
cho khoảng 30.000 ngôi mộ, là nơi an nghỉ những anh hùng tử sĩ của dân tộc.
(3) Giữa đầu Con Ong là Đền Tử Sĩ,
với ngôi mộ Chiến Sĩ Vô Danh.
(4) Trước đầu Con Ong là Cổng
Tam Quan. Trước Cổng Tam Quan là con đường, biểu tượng cho Cây Kim của Con Ong
thẳng ra xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa.
(5) Ngay đầu cây kim tại xa
lộ, là Tượng Đài Thương Tiếc cao 5 thước, biểu tượng Người Lính Việt Nam Cộng
Hòa, trong tư thế ngồi nghỉ trên bệ đá cao 3 thước, vẫn túi hành quân trên
lưng, hai tay trên cây súng gác ngang bắp chân, với đôi mắt u buồn, nhìn xa xa
phía trước ... Tượng đài do điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu phác thảo và thực
hiện, sau khi được Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu -Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc
Gia- chấp thuận.
Năm 1975,sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa
chúng tôi, nhóm cầm quyền Việt Cộng tàn phá Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, họ
đập phá Tượng Thương Tiếc, cắt 1/3 phần trên Nghĩa Dũng Đài mà họ nói là làm
trạm gác. Họ lấn chiếm những khoảng đất trống của nghĩa trang, bằng cách xây
dựng những cơ sở trên đó. Khoảng 50% trong số 16.000 ngôi mộ bị họ đập phá mộ
bia, nhất là tên và ảnh người nằm dưới mộ.
(hình bên phải là quân Việt Cộng phá
sập)
Ngày 1/5/1975,nhà cầm quyền Việt Cộng ra lệnh
“quẵng ra đường” hằng chục ngàn Thương Phế Binh Quân Lực VIệt Nam Cộng
Hòa từ trong hệ thống Quân Y Viện -nhất là tại Tổng Y Viện Cộng Hòa- và Họ phải
lê lết về quê nhà với sự giúp đỡ của người dân!
Hơn 16.000 đồng đội chúng tôi đã an nghĩ trong Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa,
bị nhóm cầm quyền Việt Cộng "biệt giam" một cách nghiêm
ngặt, không nén nhang hương khói! Một hàng rào kẻm gai bao bọc, với tấm bảng
"khu quân sự, cấm lai vãng, cấm chụp hình".
Những người thân của người nằm dưới mộ muốn vào thăm mộ, phải làm thủ tục giống
hệt như những người thân đến thăm tù chính trị chúng tôi bị đày đọa tại các
trại tập trung vậy.
Ngày 27/11/2006, Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết
định 1568/QĐ bàn giao khu đất Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, với tên gọi là
Nghĩa Địa Bình An cho tỉnh Bình Dương. Lúc ấy diện tích chỉ còn 58 mẫu
tây, vì Việt Cộng cướp đất của người dưới mộ để xây cất nhiều cơ sở lấn vào
nghĩa trang, thậm chí vào sát chân Nghĩa Dũng Đài.
Việt Cộng rất tàn nhẫn khi ra lệnh trồng rất nhiều Cây Sao, Cây Hắc Hương, Cây
Muồng, chen lẫn giữa các ngôi mộ, để khi lớn lên thì rễ của nó sẽ vào bên trong
các ngôi mộ để giết người trong mộ thêm lần nữa!
Các Anh có biết tại sao nhóm cầm quyền của Các Anh độc ác như vậy không? Tại vìhọ là người cộng sản. Mà người cộng sản chỉ biết có đảng cộng sản, còn dân tộc với tổ quốc không có nghĩa gì với họ cả. Mở miệng ra là họ nói đến đạo đức, nhưng đạo đức của họ là thứ đạo đức cộng sản, chỉ biết có đảng cộng sản. Trong khi đao đức của người tự do là đạo đức truyền thống của dân tộc với tình người, với lòng nhân ái trong giao tiếp giữa người với người.
Năm 2010, Hội Việt - Mỹ (Vietnamese
American Foundation) về Việt Nam cố gắng vận động nhà cầm quyền Việt Cộng trong
công tác tu bổ nghĩa trang, nhưng thất bại.
Năm 2013, theo lời mời của ông
Lê Thành Ân-Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn- mời Hội Việt - Mỹ về Việt Nam,
rồi cùng lên Bình Dương, yêu cầu địa phương xây những bậc thang lên Nghĩa Dũng
Đài, tráng xi măng lối đi, và xây bàn thờ tại Nghĩa Dũng Đài, để những thân
nhân người dưới mộ muốn cầu nguyện thì có chỗ để lễ vật, và có lư hương cắm
nhang.
Trong khi thực hiện lời yêu cầu, thì Việt Cộng lại tung tin là nghĩa địa này sẽ
bị giải tỏa. Điều đáng quan tâm, là ngôi mộ nào đã bốc hài cốt đi thì nhà cầm
quyền tách khu đất đó ra khỏi nghĩa trang, vì vậy mà khi có khoảng 3.000 ngôi
mộ do thân nhân đưa về quê cải táng, thì diện tích nghĩa trang đến cuối năm
2015 chỉ còn lại khoảng 29 mẫu tây!(khởi thủy là 125 mẫu tây)
Liệu, bao nhiêu năm nữa thì họ sẽ công bố giải tán khu "Nghĩa Địa Nhân Dân Bình An" với lý do không còn ngôi mộ nào cả để triệt tiêu chứng tích tội ác của họ xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa, nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế?
3. Phi cơ Việt Cộng chở 16 tấn
vàng từ Sài Gòn về Hà Nội.(source:
Tác giả Huỳnh Bửu Sơn).
Ngay sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi ngày 30/4/1975, nhóm cầm quyền
Việt Cộng tịch thu toàn bộ tài sản quốc gia, lúc ấy trong ngân hàng quốc gia
còn khối tiền mặt trị giá hơn 1.000 tỷ đồng, và 16 tấn vàng thoi.
Bài viết nhan đề “Câu chuyện 16 tấn vàng trong ngân hàng quốc gia Việt Nam Cộng
Hòa sau ngày 30/4/1975”, do người giữ chìa khóa kho vàng của ngân hàng quốc gia
là ông Huỳnh Bửu Sơn kể lại:
“...Những ngày đầu tháng 5/1975, tôi vào trình diện tại Ngân hàng Quốc gia ở số
17 Bến Chương Dương, thủ đô Sài Gòn, cùng các đồng nghiệp khác, chỉ thiếu vắng
một vài người. Chúng tôi được lệnh của Ban Quân Quản Ngân Hàng Quốc Gia là chờ
phân công tác. Trong khi chờ đợi, mỗi ngày mọi người đều phải có mặt tại Ngân
Hàng. Tôi được giao công tác tại Vụ Phát Hành và Kho Quỹ. Những ngày tiếp theo,
Ban Quân quản tổ chức học tập tại chỗ ba ngày cho các viên chức ở lại, và cấp
giấy chứng nhận học tập cải tạo. Lúc đó, giấy chứng nhận này chính là một lá
bùa hộ mệnh....
Đầu tháng 6/1975, tôi được lệnh của Ban Quân quản Ngân Hàng Quốc Gia kiểm kê
kho tiền và vàng của chế độ cũ, các kho tiền và vàng thuộc quyền quản trị của
Nha Phát Hành, nơi tôi làm việc trong ban lãnh đạo từ năm 1970 với tư cách là
kiểm soát viên. Anh Giám Đốc Nha Phát Hành đã đi cải tạo tập trung, trong số
người còn lại chỉ có tôi là người giữ chìa khóa, và anh Lê Minh Kiêm -chánh sự
vụ- là người giữ mã số của các hầm bạc.
Việc kiểm kê kho tiền và vàng là việc chúng tôi làm thường xuyên hằng tháng,
hằng năm nên không có gì đặc biệt. Chỉ có một điều là tôi biết lần kiểm kê này
chắc chắn là lần kiểm kê cuối cùng đối với tôi, kho tiền và vàng sẽ được bàn
giao cho nhà cầm quyền mới.
Trong những ngày hỗn loạn, các hầm bạc của Ngân hàng Quốc gia vẫn được chúng
tôi quản trị một cách an toàn. Cần nói thêm là các hầm bạc được xây rất kiên cố
với hai lớp tường dày, mỗi lớp gần nửa thước, các cửa hầm bằng thép có hai ổ
khóa và mật mã riêng, được thay đổi định kỳ, mỗi cánh cửa nặng trên 1.000 kí
lô.
Đại diện Ban Quân Quản là một người khoảng 50 tuổi, kiểm kê là một anh bộ đội
còn rất trẻ và khá thân thiện. Anh hay nắm tay tôi trò chuyện, sau này tôi mới
biết tên anh là Hoàng Minh Duyệt, chỉ huy phó đơn vị tiếp quản Ngân Hàng Quốc
Gia.
Số vàng đúc lưu giữ tại
kho của Ngân Hàng Quốc Gia vào lúc ấy gồm vàng thoi, và các loại tiền vàng
nguyên chất. Có ba loại vàng thoi:
(1) Vàng thoi mua của Cục Dự Trữ
Liên Bang Mỹ (FED).
(2) Vàng thoi mua của một công
ty đúc vàng ở Nam Phi là Công ty Montagu.
(3) Vàng thoi được đúc tại Việt Nam, do tiệm vàng Kim Thành đúc từ số vàng do quan thuế tịch thu từ những người buôn lậu qua biên giới, phần lớn từ Lào.
Tất cả 1.234 thoi vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12 đến 14 kí lô = 16.000
kí lô = 16 tấn. Trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng
(thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai lớp
khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi
vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép
cũng bị vênh đi ít nhiều.
Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những
đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19, từ
nhiều quốc gia khác nhau... Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền
này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của
nó. Tất cả thoi vàng và tiền vàng cổ đều được ghi chi tiết từng đơn vị, số
hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán
(computer) của ngân hàng theo dõi định kỳ hằng tháng, hằng năm, hoặc bất cứ khi
nào có thay đổi xuất nhập.
Công tác kiểm kê trong hai ngày liền. Số giấy bạc dự trữ trong các thùng bằng
gỗ thông được niền bằng đai sắt và niêm chì, mỗi thùng ghi rõ mệnh giá, loại
giấy bạc, số lượng. Do đó chỉ cần kiểm kê số lượng thùng bạc, các chi tiết
tương ứng và đối chiếu với sổ sách được điện toán hóa. Lúc đó, loại giấy bạc
mệnh giá cao nhất chỉ có 1.000 đồng, thuộc loại mới phát hành, có in hình các
con thú hoang trong rừng rậm Việt Nam. Ngoài ra vẫn còn tồn kho và tiếp tục
phát hành loại giấy bạc nổi tiếng có in hình danh tướng Trần Hưng Đạo với mệnh
giá 500 đồng. Tổng giá trị giấy bạc dự trữ trong kho lúc đó -nếu tôi nhớ không
lầm- là hơn 1.000 tỷ đồng, gần gấp đôi số lượng tiền lưu hành tại
Việt Nam Cộng Hòa đến ngày 30/4/1975.
Chỉ trong một buổi sáng, chúng tôi đã kiểm kê xong số lượng giấy bạc dự trữ.
Việc kiểm kê số vàng chiếm nhiều thời gian hơn vì phải kiểm kê từng thoi vàng
một để xem trọng lượng, tuổi vàng và số hiệu có đúng với sổ sách hay không.
Cuộc kiểm kê kết thúc, ai nấy đều vui vẻ thấy số lượng tiền và vàng kiểm kê đều
đúng với sổ sách điện toán từng chi tiết nhỏ. Tôi ký vào biên bản kiểm kê, lòng
cảm thấy nhẹ nhõm. Việc bàn giao tài sản quốc gia cho nhà cầm quyền mới đã hoàn
tất. Sau chiến tranh, ít nhất đất nước cũng còn lại một chút gì, dù khiêm tốn,
để bắt đầu xây dựng lại. Về phía chúng tôi, điều này cũng chứng minh một cung
cách quản trị đúng đắn minh bạch của những người đã từng làm việc tại Ngân Hàng
Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.”(hết
bài của Huỳnh Bửu Sơn)
Năm 2010, cựu Đại Tá Việt Cộng
Bùi Tín, tổng biên tập báo Nhân Dân của Việt Cộng, có bài viết liên
quan đến 16 tấn vàng nói trên. Trích một đoạn: “... Năm
1987, tôi gặp ông Trường Chinh trong hội nghị tại Đà Lạt, tôi
kể lại chuyện 16 tấn vàng thì Tổng Bí ThưTrường Chinh cho
biết: Trong mấy năm khó khăn, cấu véo hết tấn này đến tấn khác để mua
lương thực, nguyên liệu, nay còn gì nữa đâu”.
Trích một đọan khác của ông Bùi Tín: “Đây là câu duy
nhất mà tôi nghe được về số phận của 16 tấn vàng năm 1975, từ miệng của một nhà
lãnh đạo”.
Ông Bùi Tín cho
biết thêm: “Trong các phiên họp của chính phủ cũng như của Quốc Hội sau ngày 30/4/1975, và đặc biệt là tháng 4/2012 Bộ Quốc Phòng họp để
viết về ngày 30/4/1975, nhưng không một chi tiết nào, cũng không một vị nào
hỏi, hay nói đến vụ 16 tấn vàng lấy trong ngân hàng của chế độ cũ tại Sài Gòn
hồi tháng 6/1975, mà đảng đã sử dụng phi cơ chở tất cả ra Hà Nội”.
Tóm tắt. Chở 16 tấn vàng thoi về Hà Nội, khi được hỏi thì nhà cầm quyền Việt Cộng là Trường Chinh trả lời, làm cho người nghe tưởng như ông vừa đi chợ về vậy. Đã lấy số vàng đó mà những người trong nhóm cầm quyền trung ương, cũng như những đại biểu nào trong Quốc Hội không ai biết đến, nhưng nhóm cầm quyền Việt Cộng vu khống cho Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa chở ra ngoại quốc trước ngày 30/4/1975. Đúng là bản chất vừa cướp đoạt vừa nói láo của nhóm cầm quyền Việt Cộng.
4. Thiêu hủy văn hóa phẩm truyền
thống(source: Wikipedia).
Việt Nam vốn tự hào là quốc gia có hơn 4.000 năm văn hiến, nhưng sách vở
của người xưa để lại thì rất ít. Nguyên nhân chính làhồi thế kỷ 18, khi
quân nhà Minh bên Tàu chiếm được Việt Nam là ra lệnh thiêu hủy toàn bộ sách vở
ngay trong những ngày đầu đô hộ nước ta.
Vào thế kỷ 20.
Năm 1954, ngay sau Hiệp Định Geneve,
ông hồ chí minh ra lệnh đóng cửa các nhà in, các tiệm sách, các tòa báo, tịch
thu và thiêu hủy toàn bộ sách báo trên lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Năm 1975, sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa
chúng tôi, nhà cầm quyền Việt Cộng ra lệnh đóng cửa mọi hoạt động văn hóa, gồm:
“Rạp hát, rạp chiếu phim, nhà xuất bản, nhà in, các nhà sách Khai Trí, Sống
Mới, Độc Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng, ... tất cả báo chí phải ngưng hoạt
động và chờ lệnh. Thêm nữa, tất cả tác phẩm của 800 tác giả trong đội ngũ những
người cầm bút Việt Nam Cộng Hòa, gồm nhiều lãnh vực sinh hoạt đều bị tịch thu
và thiêu hủy. Dưới đây là các tác giả:
Về triết học phương Tây,
có: Lê Tôn Nghiêm. Trần Văn Toàn. Trần Thái Đỉnh. Nguyễn Văn Trung. Trần Bích
Lan.
Triết học phương Đông, có:
Nguyễn Đăng Thục. Nghiêm Xuân Hồng. Nguyễn Duy Cần. Nguyễn Khắc Kham. Nghiêm
Toản. Kim Định. Nhất Hạnh…
Vê biên khảo, có: Nguyễn Hiến Lê. Giản
Chi. Lê Ngọc Trụ. Lê Văn Đức. Lê Văn Lý. Trương Văn Chinh. Đào Văn Tập. Phạm
Thế Ngũ. Vương Hồng Sển. Thanh Lãng. Nguyễn Ngu Í. Nguyễn Văn Xuân. Lê Tuyên.
Đoàn Thêm. Hoàng Văn Chí. Nguyễn Bạt Tụy. Phan Khoang. Phạm Văn Sơn. Nguyễn Thế
Anh. Nguyễn Khắc Ngữ. Nguyễn Văn Sâm…
Về thi ca có Nguyên Sa. Quách Thoại. Thanh Tâm Tuyền.
Cung Trầm Tưởng. Tô Thùy Yên. Đinh Hùng. Bùi Giáng. Viên Linh. Hoàng Trúc Ly.
Nhã Ca. Trần Dạ Từ. Phạm Thiên Thư. Nguyễn Đức Sơn. Du Tử Lê….
Phê bình văn học, có: Tam Ích. Cao Huy
Khanh. Lê Huy Oanh. Đỗ Long Vân. Đặng Tiến. Uyên Thao. Huỳnh Phan Anh…
Về văn chương là đông nhất, với:
Võ Phiến. Mai Thảo. Vũ Khắc Khoan. Doãn Quốc Sỹ. Thanh Tâm Tuyền. Dương Nghiễm
Mậu. Bình Nguyên Lộc. Mặc Thu. Mặc Đỗ. Thanh Nam. Nhật Tiến. Nguyễn Thị Vinh.
Phan Du. Đỗ Tấn. Nguyễn Mạnh Côn. Sơn Nam. Võ Hồng. Túy Hồng. Nhã Ca. Nguyễn
Thị Hoàng. Nguyễn Thị Thụy Vũ. Minh Đức Hoài Trinh. Nguyễn Đình Toàn. Chu Tử.
Viên Linh. Duyên Anh. Phan Nhật Nam. Nguyên Vũ. Vũ Hạnh. Y Uyên. Cung Tích
Biền. Duy Lam. Thế Uyên. Lê Tất Điều. Hoàng Hải Thủy. Văn Quang. Nguyễn Thụy
Long. Phan Lạc Tiếp. Thế Nguyên. Thế Phong. Diễm Châu. Thảo Trường. Nguyễn Xuân
Hoàng. Nguyễn Mộng Giác. Ngô Thế Vinh...
Nhóm cầm quyền Việt Cộng công bố chính sách: “Tất cả phương tiện truyền
thông ở Việt Nam đều là tiếng nói của đảng cộng sản Việt Nam, với
nhiệm vụ chánh là tuyên truyền quảng đường lối và chính sách của đảng, truyền
đạt tin tức là phụ”.
Ngày 20/8/1975, Bộ Thông Tin Văn Hóa ra
thông tri 218/CT75, ra lệnh cấm lưu hành các loại sách phản động.
Tháng 9/1975, họ qui định danh mục sách bị cấm lưu hành, buộc các nhà bán sách báo và các nhà xuất bản thời chế độ cũ phải đem đốt tất cả.
Tháng 5/1977, Việt Cộng Sài Gòn ra thông tri 1230/STTVH/XB,
bắt dân chúng phải thiêu hủy hoặc mang nộp toàn bộ các ấn phẩm văn hóa thời
Việt Nam Cộng Hòa, trong khi Công An mở chiến dịch càn quét truy lùng sách báo
cũ, chặn bắt người mua bán, thậm chí họ còn được lệnh vào nhà dân lục soát tịch
thu bất cứ lúc nào họ muốn.
Tháng 6/1981, trong cuộc truy lùng càn quét
của Công An, đã tịch thu khoảng 3.000.000 (3 triệu) ấn phẩm sách và báo. Riêng
tại Sài Gòn, tịch thu được 60 tấn sách các loại theo tường trình của tạp chí
cộng sản.
Tất cả có năm chiến dịch ở Miền Nam vào cuối 1975, đầu 1976, giữa 1977, giữa
1981, và giữa 1985. Ai lưu trữ ấn phẩm thời Việt Nam Cộng Hòa đều bị truy tố
theo điều luật 82, trong đó ghi rằng: “Việc làm ra, tàng trữ, lưu hành các
tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống chế chế độ xã hội chủ nghĩa là
"trọng tội", có thể bị tù từ 10 năm đến 20 năm”.
Ngoài ra, còn có những trường hợp thiêu hủy sách một cách vô cớ như vụ đốt sách
ở Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Chăm ở Phan Rang năm 1978, do Giám Đốc Thư
Viện tỉnh ra lệnh. Hàng trăm tấn sách biến thành đống tro. Một số học giả cố
vớt vát nhưng chẳng được bao nhiêu.
Các văn nghệ sĩ Miền Nam cũng bị bắt. Tính đến năm 1980, đã có 200
nhà văn, nhà thơ, nhà soạn nhạc, trước năm 1975 đã bị đẩy vào các trại tập
trung cải tạo.
Lệnh của Bộ Văn Hoá Thông
Tin Việt Cộng buộc mọi người phải thiêu hủy toàn bộ văn hoá phẩm thời Việt Nam
Cộng Hòa mà họ gọi là văn hóa phẩm đồi trụy và phản động. Họ mở chiến dịch truy
lùng bắt giữ những ai tàng trữ, buôn bán, bắt giữ, và truy tố ra “tòa án nhân
dân”. Chính sách này giống chính sách của vua Tần Thỉ Hoàng thời Trung Hoa
phong kiến, và thời Mao Trạch Đông cộng sản trong Cách Mạng Văn Hóa vậy.
Từ cuối thập niên 1980,
sau cuộc "cởi trói" văn nghệ sĩ có nhiều tác phẩm được phép xuất bản
nhưng ngay sau đó bị thu hồi. Trước tiên là cuốn tiểu thuyết Ly Thân của
Trần Mạnh Hảo. Sách vừa in ra thì có lệnh cấm ngay. Tiếp theo là sách của
Dương Thu Hương với tác phẩm Những Thiên Đường Mù, tác
phẩm Bên Kia Bờ Ảo Vọng, và Tiểu
Thuyết Vô Đề. Bà Dương Thu Hương mạnh mẽ phản đối chính sách kiểm
duyệt tại Đại Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1982. Kết quả là lãnh đạo Việt
Cộng ra lệnh cấm mọi tác phẩm của bà không được in hay bán trong nước. Năm
1989 bà bị đuổi khỏi đảng, và bị bắt giam năm 1991. Năm 2006, nhà
văn Dương Thu Hương lưu vong tại Pháp.
Năm 2001, có lệnh tịch thu và tiêu hủy
tác phẩm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn
Năm 2002 Bộ Thông tin Văn hóa Việt Nam ra
lệnh tịch thu và thiêu hủy những tác phẩm:
1. “Suy tư và ước vọng” của
Nguyễn Thanh Giang.
2. “Đối thoại năm 2000 và Đối thoại năm 2001” của
Trần Khuê và Nguyễn Thị Thanh Xuân
3. “Gửi lại trước khi về cõi” của
Vũ Cao Quận.
4. “Nhật ký rồng rắn: của
Trung Tướng Trần Độ.
Năm 2006 cuốn “Tranh
luận để đồng thuận” của nhà xuất bản Tri thức, có in
lại bài bình luận của Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, và Nguyễn Đức Bình, nhưng vì có
nội dung chỉ trích chánh phủ nên có lệnh cấm phát hành.
Ngay cả sách giáo khoa càng siết chặt hơn. Trong chiến tranh chống Trung Cộng dọc biên giới Việt – Trung hồi tháng 2/1979, theo Giáo Sư sử học Vũ Dương Ninh, phụ trách biên soạn sách giáo khoa sử học lớp 12, đã thu gọn trong 4 trang, cũng bị cắt bỏ chỉ còn vỏn vẹn 11 dòng. Năm 2016, tình trạng mất một số Đảo và Đá Ngầm trên Biển Đông cũng không có một trang nào, thậm chí không có một dòng nào trong sách giáo khoa môn sử cả. Theo blogger Phạm Viết Đào, giới sử học chỉ được viết môn sử trong bản thảo sách giáo khoa, còn xuất bản như thế nào là quyền của Ban Tuyên Giáo trung ương và nhà xuất bản.
Kết luận.
Các Anh đọc xong rồi, Các Anh suy nghĩ gì? Nội dung trong thư này tôi chỉ tóm
lược những bài viết rất thật từ trong nước, dù mới chỉ là những góc cạnh của sự
thật trong cuộc sống. Nếu Các Anh chưa chấp nhận sự thật này, tôi nghĩ là Các
Anh hãy đọc lại lần nữa, và đọc bằng cả tâm hồn của Các Anh, chớ không phải đọc
theo lời dạy của đảng, của đoàn.
Và khi Các Anh chấp nhận những sự thật đó, Các Anh hãy luôn luôn sẳn sàng, khi
cơ hội chợt đến là lập tức đứng lên, toàn dân sẽ đứng cạnh Các Anh, cùng
Các Anh làm nên lịch sử bằng cách triệt hạ chế độ cộng sản độc đảng, độc quyền,
độc tài, độc đoán, và độc ác nhất suốt dòng lịch sử Việt Nam oai hùng từ khi
lập quốc hơn 4.000 năm trước. Và hãy nhớ, không quốc gia nào hành động
thay cho Việt Nam mình đâu Các Anh à, mà họ chỉ sẳn sàng trợ giúp Việt Nam mình
thực hiện trách nhiệm cao cả đó.
Từ đó, người Việt Nam trong nước và người Việt Nam chúng tôi tị nạn cộng sản
tại hải ngoại, cùng nhau vá lại mảnh giang sơn đã "rách loang lỗ" bởi
những Hiệp Ước của Việt Cộng giao đất giao biển cho Trung Cộng, xóa tan những
“vệt da beo trên da thịt quê hương” mà hiện nay là những làng mạc có công nhân
hay quân lính Trung Cộng sinh sống mà người Việt bị cấm vào. Cùng nhau khôi
phục lại nền văn hoá “NHân Bản – Dân Tộc – Khai Phóng”, dù phải trải qua hai ba
thế hệ mới thành công, và cùng nhau phát triển một xã hội dân chủ pháp trị mà
mọi người được hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình.
Tôi là Người Lính Già, nói cho đúng là “Người Lính Già Quá”, không hề có tham
vọng gì về chính trị khi tìm tài liệu để viết những lá Thư này, chỉ vì tôi tự
thấy trách nhiệm của Người Lính chưa tròn, nên cố gắng tiếp tục trách nhiệm
thích hợp với hoàn cảnh và quan điểm sống của “Người Lính Quá Già” này, đang
sống xa quê hương đến nửa vòng trái đất. Chỉ có vậy thôi Các Anh à.
Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Muốn được sống trong Tự Do Dân Chủ, chính chúng ta phải tranh đấu, vì Tự Do Dân Chủ không phải là quà tặng./
Texas, ngày 1 tháng 5 năm 2025
Phạm Bá Hoa
*****
Các Anh hãy đọc bài thơ “Cảm
Tạ Miền Nam”, của tác giả Đại Tá Phan Huy trong Quân
Đội Nhân Dân Việt Nam cùng Các Anh. Đọc để thấu hiểu một sĩ quan cao cấp trong
quân đội xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, và khi được sống với người dân
gốc Việt Nam Cộng Hòa, tác giả mới nhận ra tâm hồn của ông được trong sáng, từ
đó tác giả thấu hiểu sự khác biệt giữa đen với trắng, giữa sai với đúng, giữa
xấu với tốt, giữa dối trá với sự thật, giữa độc tài với tự do.
Và xin vào bài
Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói
Với Miền Nam, miền đất mới thân quen
Lời cảm ơn, rất tha thiết chân tình
Của Miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật.
Tôi còn nhớ, sau cái ngày "thống
nhất"
Tôi đã vào, một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Tôi đã ngạc nhiên, với lòng thán phục
Mở mắt to, nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo, đã bị lũ nguỵ quyền
Áp bức, đọa đày, đói ăn, khát uống.
Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động
Đất nước con người, dân
chủ tự do
Tôi đã khóc ròng, khi đứng giữa thủ đô
Giận đảng giận đoàn, bao năm phỉnh gạt.
Sinh ra lớn lên, sau bức màn sắt
Tôi chẳng biết gì, ngoài bác đảng "kính
yêu"
Xã hội sơ khai, tẩy não một chiều
Con người nói năng, như là chim vẹt.
Mở miệng ra là "nhờ ơn bác đảng
Chế độ ta, ưu việt nhất hành
tinh
Đuốc soi đường, chủ nghĩa Mac Lenin
Tiến nhanh tiến mạnh, lên thiên đường vô
sản."
Hai mươi mốt năm, trên đường cách mạng
Xã hội thụt lùi, người kéo (cày)
thay trâu
Cuộc sống xuống thang, tính bằng tem phiếu
Nhân phẩm con người, chẳng khác bèo dâu.
Cảm tạ Miền Nam, phá màn u tối
Để tôi được nhìn, ánh sáng văn minh
Biết được nhân quyền, tự do dân chủ
Mà đảng đã từ lâu, bưng bít dân mình.
Cảm tạ Miền Nam, khai đường
chỉ lối
Đưa tôi trở về, với tổ quốc thiêng
liêng
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên
Chớ không là, Cac Mac và Lê nin ngoại
tộc.
Cảm tạ Miền Nam, mở lòng khai
sáng
Đưa tôi hội nhập, cùng thế giới năm châu
Mà trước đây, tôi có biết gì đâu
Ngoài Trung quốc, và Liên xô vĩđại
Cảm tạ Miền Nam, đã một thời làm chiến sĩ
Chống lại Cộng nô, cuồng vọng xâm lăng
Hầu giúp cả nước, thoát bầy ác quỷ
Dù không thành công, cũng đã thành
nhân./..
Phan Huy