Sunday, June 1, 2025

Khơi Sông - Trần Thùy Mai

Kinh Vĩnh Tế 

Chỉ vì quan Trấn thủ Thụy buột miệng thèm ăn một lát bánh tổ, mà Châu phu nhân lo nghĩ mấy hôm liền. Phu nhân sinh trưởng ở miền Nam, cả đời chưa thấy thứ bánh ấy. Hỏi, quan bảo: “Bánh tổ tròn, y như cái tổ chim. Cắt lát mà chiên, vừa béo vừa giòn, vừa ngọt vừa thơm. Hồi ta còn con nít, Tết nào cũng ăn. Mấy chục năm nay chinh chiến, rồi việc quan chồng chất, không mấy khi về quê nhà..”.

Phu nhân xưa nay vốn chiều chồng, cũng muốn sai gia nhân về Quảng Nam tìm mua bánh tổ. Nhưng quan dân cả trấn Vĩnh Thanh đang còn tất bật việc đào sông. Sức người, sức của đều dồn vào đấy. Lúc này mà sai quân ra đến tận miền Trung chỉ vì miếng bánh, không khéo quan biết được, ngài lại mắng cho. 

Vì vậy mà phu nhân phải cho người hỏi dò, tìm xem trong trấn có nhà nào quê quán Quảng Nam không. Hồi Thế Tổ Gia Long chạy vào Nam tránh nạn Tây Sơn, đem theo nhiều thủ hạ người miền Trung, bây giờ sau hơn ba mươi năm họ đã sinh sôi nẩy nở thành những họ tộc đông đảo. Nhưng người ra đi đều là đàn ông, vào đây họ lấy vợ nơi đây, nhiều năm đã quen ăn canh chua cá lóc, cá kho nước dừa, bánh lọt, xương xâm... Không, phải tìm một gia đình mới vào sau này, có đem theo đàn bà, đem theo thói quen ăn uống... 

Thị Nhi được vào ở trong phủ, bầu bạn với phu nhân từ đó.

Thị Nhi năm ấy mười tám tuổi, da ngăm ngăm, mắt một mí, miệng cười có đồng tiền, tính nhanh nhẹn, vui vẻ, phu nhân rất cảm tình. Ban đầu chỉ trao đổi chuyện nấu nướng bánh trái, sau dần dần hợp chuyện, tình thân như chị em. “Bẩm phu nhân, cả nhà con vào Vĩnh Thanh lập nghiệp hơn năm năm, nghe uy danh quan Trấn thủ đã lâu mà không biết là người cùng quê. Sao quan Trấn người xứ Quảng mà lại trấn nhậm xa vậy?” “Ừ, em không biết mới hỏi, chứ triều đình vẫn có luật Hồi Tỵ, các quan không được trấn nhậm ở quê, để tránh nạn bè phái với thân thuộc họ hàng. Mà cũng không được trấn nhậm ở đâu quá lâu, ở lâu trước sau gì cũng sinh ra vây cánh”. “Ôi chao, vậy chắc con không được gần phu nhân lâu nữa, vậy con phải bày hết bí quyết nấu ăn cho phu nhân”. Nghe Thị Nhi nói, phu nhân cười hài lòng. Bỗng bà thấy nghẹt thở, đặt tay lên cổ, vừa nói vừa thở gấp. “Cho ta đi nằm”. Thị Nhi hốt hoảng, bỏ mặc chảo bột nếp trên bếp...

******

“Năm Gia Long thứ 17, quan lớn ta bắt đầu chỉ huy binh dân khơi cảng Đông Xuyên, đào dòng chảy ngang qua núi Lạp. Thuyền bè từ đấy có lối ra vào, dân Vĩnh Thanh làm ăn dần dần khấm khá. Vua ngợi khen, xuống chiếu thăng ông lên làm thống chế, lại cho lấy tên Thụy đặt cho sông, tức là Thoại Hà, vì kiêng gọi thẳng tên quan nên dân đọc chệch ra như vậy. Núi Lạp bên cạnh cũng đổi tên là Thoại Sơn”.


Phu nhân vừa qua cơn mệt, nằm nghiêng đầu trên gối, mắt mơ màng, thủ thỉ nói về công nghiệp của chồng. Mười bảy tuổi, Nguyễn Văn Thụy theo phò vua Gia Long, đánh biết bao nhiêu trận, chưa có một trận nào thua. Khi Châu phu nhân còn son rỗi, vẫn theo chồng trong quân ngũ. Những lần giao chiến xong về đến bản doanh, việc đầu tiên phu nhân lo đến là chuẩn bị sẵn thau nước pha rượu để ông vừa nằm nghỉ vừa ngâm bàn tay cầm kiếm. Bàn tay ấy bao giờ cũng đặc quánh máu, tanh và dẻo quẹo, ngâm đến một canh giờ mới tan hết.


Giờ đây, bà nín lặng một phút, không nói gì về hình ảnh ấy. Phò vua thì không thể tiếc xương máu, trai thời loạn thì lấy việc đánh giết làm vinh quang. Nhưng cái nghiệp của người làm tướng là phơi thây trăm họ làm công một người. Phu nhân có được đọc sách Đạo Đức kinh, nhớ lời Lão Tử: “Được trận đấy, lấy lễ tang xử đấy”. Thắng trận thì đừng vội mừng khải hoàn, trước hết hãy chiêu niệm người đã chết. Hòa bình rồi, quay về Vĩnh Thanh, phu nhân nhiều lần khuyên chồng làm một điều gì đó thực sự là việc thiện lớn của đời người. Ý nguyện của bà đã gợi lên trong lòng Nguyễn Văn Thụy kế hoạch đào sông, lập con đường thủy nối liền Đông Xuyên với những miền khuất vắng.

Phu nhân ngồi dậy, đỡ bát cháo trên tay Thị Nhi. Bà bị chứng suyễn cơm khi còn nhỏ, sau này lớn lên đã hết hẳn. Nhưng hồi đào kênh Thoại Hà, việc gấp, người thiếu, phu nhân dốc hết sức lo việc hậu cần cơm gạo trên công trường. Dân phu đau ốm, thương vong, một tay bà lo chăm sóc, cứu tế. Một hôm người mệt, mắc cơn mưa đầu mùa, bà bị cảm nặng, mê man mấy hôm liền. Từ đó bệnh thời nhỏ trở lại, thỉnh thoảng lại lên cơn không thở được. 

“Được như quan lớn xưa nay thật hiếm có. Con chỉ nghe người ta được vua thưởng vàng lụa chức tước, chứ từ xưa đến giờ chắc chỉ có mình quan nhà ta là được vua lấy tên đặt cho sông, núi. Hèn chi kênh Thoại vừa đào xong, quan lớn lại lo khơi thêm kênh mới”. Mặt Châu Phu nhân đang xanh xao bỗng sáng lên, hân hoan. “Ừ, đào xong kênh Thoại, quan lớn bảo sông cũng như người, phải có đôi có đũa mới vui”. 


Bỗng nhiên nói đến đó mặt phu nhân thoáng buồn. Thị Nhi băn khoăn, cố đoán xem bà nghĩ gì. Quan Trấn thủ quả là người tài giỏi. Đánh giặc phò vua, mấy lần xuôi ngược thương thảo với Ai Lao, Chân Lạp, rồi lại còn lo kế làm ăn cho dân. Mà cũng lạ, đàn ông năm thê bảy thiếp, đến ông nhà giàu ở xã thôn cũng hai ba bà là ít. Vậy mà trong dinh Trấn thủ chỉ có mình Châu phu nhân. “Em thắc mắc cũng phải, đó là vì hồi còn trẻ ta đáo để quá, nhất định không cho ông ấy đèo bòng thêm ai cả. Ổng thương ta lắm nên ta nói gì cũng nghe, riết rồi càng ngày càng lắm công nhiều việc, có đâu rảnh rang mà tơ tưởng đến ai nữa”. Mắt lấp lánh vui, Châu phu nhân lại nhớ thêm chuyện để kể. Đó là chuyện Nguyễn Văn Thụy bị vua quở phạt. Cả đời làm tướng Nguyễn Văn Thụy chưa có trận nào thua, cả đời làm quan toàn được vua tin yêu, chỉ có duy nhất một lần ấy...


Lúc đó Thụy mới cưới Châu thị, được ba tháng thì lãnh mệnh vua kéo quân theo đường thượng đạo ra đánh Nghệ An. Đường thượng đạo tức là con đường mòn đi xuyên giữa các lớp núi Trường Sơn, mấy năm trời Thụy theo đó sang Xiêm, sang Lào vận động vua các nước ấy, quân Tây Sơn đóng dưới đồng bằng không biết gì. Đường thượng đạo gian nan, nhưng là con đường an toàn, ngày xưa thời Trịnh Nguyễn có lần chúa Đàng Ngoài là Trịnh Sâm muốn mở rộng thượng đạo cho tiện kéo quân vào nhưng các võ thần đều can ngăn: “Mình dễ kéo quân vào, thì một ngày kia địch cũng dễ kéo quân ra”. Nhờ vậy mà bây giờ Thụy mới có con đường bí mật để chuyển quân từ miền Nam đến Nghệ An, đánh úp một trận làm phò mã Tây Sơn là Nguyễn Văn Trị phải vỡ chạy. Công lớn vậy mà liền sau đó, Thụy bị vua quở trách, giáng từ Khâm sai đại tướng quân xuống chức Cai đội! Chẳng ai biết vì sao, chỉ có Châu thị biết... Sáng hôm đó, Châu thị còn ngồi trên khung dệt (thời ấy còn chiến tranh nên các phu nhân cũng ăn ở đạm bạc và làm việc nhà chẳng khác dân thường mấy tí), chợt nhìn ra, nàng sững sờ thấy chồng cùng mấy tên quân hầu đang phi ngựa vào sân. Ai ngờ được, cứ ngỡ giờ này chàng đang còn phi ngựa qua những vách núi cheo leo, hay đang kéo quân vào thành Nghệ An trong tiếng tù và báo tin chiến thắng...


Đêm hôm đó hai vợ chồng son vày vò âu yếm nhau trong tấm chăn sồi. “Ta nhớ nàng quá nên thắng trận xong là chạy biến về đây”. “Chàng về Nam mà không đợi lệnh Hoàng thượng, lỡ ngài quở phạt thì sao?” “Hoàng thượng quở phạt, cùng lắm bắt ta chết là cùng. Mà nhớ nàng quá ta cũng chết, đằng nào cũng thế”. Thấy chồng nói liều, Châu thị hốt hoảng đưa bàn tay nhỏ nhắn bịt miệng chồng. Nàng rúc đầu, úp mặt vào bộ ngực rộng của chàng như nhờ che chở...


Câu chuyện thắng trận mà không lên chức, lại còn bị giáng chức của Nguyễn Văn Thụy, sau này Châu phu nhân thỉnh thoảng đem ra nhắc để trêu ông. Biết mình được chồng thương, phu nhân sinh ra ghen tuông hơi nhiều. Thụy sau này đi làm quan nhiều nơi từ Bắc chí Nam, có lúc sang cả các nước láng giềng, cũng có những lúc không thể đưa Châu thị theo cùng. Thông thường quan tướng đi đến đâu, quan dân ở địa phương thường đem dâng gái non hầu hạ, cho nên ông nào đi công du về cũng đem theo lủng lẳng vợ lẽ, nàng hầu. Riêng quan Khâm sai Thống chế Nguyễn Văn Thụy thì đi không rồi lại về không. Chẳng ai biết ông có vui vẻ gì ở ngoài không, nhưng nơi dinh Trấn thủ này lúc nào cũng chỉ có một ông một bà.  Lúc nào đi xa về ông cũng thèm ăn món canh chua cá lóc, thịt kho nước dừa mà bà tự tay nấu cho ông... “Phu quân đi Nam Vang, có ăn hủ tiếu không?” “Ở Vạn Tượng nghe nói người ta nấu món lạp, phu quân có dùng được không?” Châu phu nhân cứ thăn thỉ hỏi dò... Để rồi cười mãn nguyện khi nghe chồng bảo: “Ta từ khi còn trẻ đi khắp trăm miền, món gì cũng được nếm cả nhưng chỉ có phu nhân nấu là ta ngon miệng thôi!”


“Phu nhân thật là người có phước”. Thị Nhi thốt lên, nghĩ tới người mẹ héo hon của mình, suốt đời sống nhẫn nhục. Phu nhân nằm sấp  trên nệm cho Thị Nhi đấm lưng, cảm thấy dễ chịu dưới đôi bàn tay khỏe và mềm mại. “Ừ, ta cũng tự nghĩ mình có phước, mặc dù có người trách móc ta nhiều lắm”. “Ai trách phu nhân?” Châu phu nhân cười: “Còn ai nữa, cả họ Nguyễn”. Ai cũng trách phu nhân cái tội ích kỷ, làm ảnh hưởng việc nối dõi tông đường. “Nhưng ta đã sinh thằng Lâm cho quan lớn rồi mà. Chỉ một đứa nhưng tài tuấn của nó thì đâu có kém ai”. Phu nhân nói như biện bạch.


Thị Nhi kéo tấm chăn mỏng đắp lên người bà chủ, rồi rón rén bưng khay ra khỏi buồng khuê. Còn lại một mình, Châu phu nhân liếc nhìn vào tấm gương trên vách. Tấm gương lớn có khung chạm trổ, vốn là phẩm vật do người Tây Dương đem đến bán, các nhà quan đều đua nhau mua dùng. Trong tấm gương lộng lẫy là khuôn mặt người đàn bà đã qua thời nhan sắc, với những đường nhăn mệt mỏi dưới mắt, dưới môi. Bệnh suyễn đã ép mỏng tanh tấm thân gầy trong lớp áo lụa Kim Long... Phu nhân ngậm ngùi: thuở ấy, mình còn xinh đẹp phổng phao thì chỉ có manh áo vải đơn sơ. Giờ đây thanh bình, có của ăn của để, được mặc gấm mặc lụa thì tuổi trẻ đã không còn nữa...

*******  

Quan Trấn thủ về dinh sau ba tháng xuất quân giúp vua Chân Lạp dẹp giặc Sư Kế. Như lệ thường, Châu phu nhân trang điểm đón chồng. Trên đường từ Nam Vang về, Nguyễn Văn Thụy không quên cho quân đi ngang chỗ công trường đào sông. “Nghe nói phu nhân thường đến thăm dân lính. Sức khỏe phu nhân chưa khá, không chịu nghỉ ngơi, làm sao dứt bệnh được?” Nghe chồng rầy rà, Châu phu nhân nhỏ nhẹ: 

- Thiếp ra công trường, nhìn về phía xa thấy Thoại Sơn, cũng như nhìn thấy phu quân. 

Tỳ nữ dâng cơm. Nguyễn Văn Thụy ngồi xuống, ngạc nhiên. Ôi, có cả bánh ướt cuốn thịt heo chấm mắm nêm, ớt cay quắn lưỡi. Có cả bánh tráng đập giập, rồi cả bánh tổ chiên dòn. Ôi ngon quá, ông bỏ cả cơm, cầm lát bánh lên ăn ngon lành. Bỗng nhiên ông nhớ lại cả thời tuổi thơ tắm sông nghịch nước trên sông Thu Bồn.

Bánh tổ 

Một lát sau ông mới sực nhớ ra: “Sao phu nhân biết làm những món này?” Phu nhân cười, run run nắm lấy tay chồng. “Không phải thiếp làm đâu, mà là…” 

Theo lệnh gọi, Thị Nhi đang lên thềm. Cái dáng tròn trĩnh của nàng đung đưa theo từng bước chân. Tuổi thanh xuân phơi phới...

******** 

“Đừng có nói lẩn thẩn nữa. Khi còn trai tráng ta còn chẳng cần đến tỳ thiếp, huống chi bây giờ tóc đã muối tiêu. Mà sao nàng bỗng nhiên đổi tính vậy? Nàng không biết ta thương yêu nàng đến mức nào đâu”.

Nguyễn Văn Thụy nhất quyết gạt đi, không nghe. “Phu nhân, nàng nghe cho rõ đây, ta đã dâng biểu xin đặt tên con kênh này là Vĩnh Tế. Hoàng thượng cũng nghe các quan địa phương tấu trình về công lao của nàng rồi, ngài đã chuẩn y. Nay mai khi Thánh chỉ về, nàng sẽ thấy”. 

Châu phu nhân sững sờ. Châu Thị Vĩnh Tế là tên nàng. Ba năm trước khi vua cho đặt tên sông Thoại, núi Thoại, đã là một điều không ai tưởng tượng được. Được sánh với núi, với sông, quả là vinh dự lớn nhất của đời người. Nhưng đó là chồng nàng, người đàn ông đánh Nam dẹp Bắc, kinh bang tế thế. Còn mình chỉ là một người đàn bà, chỉ biết yêu chồng mà thôi. Sao mà tưởng tượng được nhỉ?


Nguyễn Văn Thụy đưa tay tháo những chiếc trâm cài trên tóc vợ, để cho tóc nàng chảy xuống trên nền gối. “Thì ta đã nói với nàng, sông núi cũng phải có đôi có đũa, chúng nó mới trường tồn được mà”. 

“Ôi, phu quân, người nói vậy không sợ thần giang sơn quở cho à?” Châu phu nhân đưa tay lên bịt miệng chồng, nước mắt nàng chảy ướt đầm trên mặt. 

Đêm yên tĩnh đến nỗi nghe rõ cả tiếng tí tách trong veo của giọt nước đồng hồ nhỏ xuống. Châu phu nhân trở mình, khe khẽ rút bàn tay gầy khỏi bàn tay chồng đang nắm chặt. Quan trấn thủ đã ngủ say sau một ngày đường vất vả. Có những sợi bạc trên râu tóc ông... Một cơn đau bỗng âm ỉ nhói lên, Châu phu nhân đưa bàn tay tự xoa vỗ cho mình, rất nhẹ vì sợ chồng thức dậy. Ngày mai ông sẽ dậy sớm, đi đốc thúc việc đào kênh. Con kênh này rộng, ít nhất cũng ba năm nữa mới đào xong. Rất có thể khi ấy mình đã không còn nữa.


Mãi hết giờ Sửu, Châu phu nhân mới thiếp đi... Khi tỉnh dậy, quan Trấn thủ đã đi rồi. Phu nhân giật mình hốt hoảng. Ai lo trầu nước cho người buổi sáng? 

“Phu nhân cứ yên tâm, em đã sắp sửa đầy đủ cho quan lớn rồi”. Thị Nhi vén màn cúi xuống, nhanh nhẹn giúp phu nhân bới lại mớ tóc rối. 

Châu phu nhân ngồi dậy. Ngoài công trường, dòng sông đang lớn dần, lớn dần từng ngày. Dòng sông ấy sẽ còn mãi mãi. Nhìn Thị Nhi, bà mỉm cười lặng nghĩ: ở đây, ta đang khơi một dòng sông nữa. Một ngày nào đó mình không còn thì dòng sông này vẫn tiếp tục sinh sôi.


Trần Thùy Mai

Cộng Sản Là Như Thế ! Thái Bá Tân

Hình internet


 Năm Một Chín Bảy Mốt,

Chỉ vì thích nhạc vàng,

Một thanh niên Hà Nội

Nhận bản án ngỡ ngàng -


Phải ngồi tù nhà đá

Mười lăm năm, ngoài ra

Cộng năm năm sau đó

Phải ngồi tù tại gia.


Mãn hạn tù, người ấy

Nhà không, vợ con không.

Sống lang thang dường phố,

Tơi tả chiếc chăn bông


Nhạc vàng, nhạc ủy mị

Có thể hay, không hay

Sao chính quyền có thể

Độc ác đến thế này?


Đến mức nỡ giết chết

Một con người đáng thương.

Chỉ vì thích nghe nhạc.

Chết, còng queo trên đường.


Có thể chết vì đói.

Có thể vì người này

Đã phải nghe dân phố

Hát nhạc vàng suốt ngày.


Cộng sản là như thế.

Trong suốt mấy chục năm

Chuyên làm điều cấm đoán,

Quái dị và thương tâm.


Cấm đi ra đường phố

Không được mặc quần loe.

Để tóc dài, thậm chí

Cấm cả đi dép lê.


Thanh niên, nam và nữ,

Cấm không được yêu nhau.

Cấm viên chức nhà nước

Không lấy bà bán rau


Cấm không in tác phẩm

Của một ông văn chương

Vì có chuyện luyến ái

Với một bà tiểu thương…


Đã từng như thế đấy.

Hệt như Bắc Triều Tiên.

Đố ai hiểu cộng sản.

Hiểu được, tôi chết liền.


Nguồn fb Thái Bá Tân

30-4: Cuộc Vượt Biển Vĩ Đại – Hành Trình Máu Và Nước Mắt Của Dân Tộc Bị Bức Tử


Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước Việt Nam bước vào một chương bi kịch mới – không phải của đoàn tụ, hòa hợp, hay hòa bình, mà là bản án tử hình tập thể. Những trại “học tập cải tạo” ngập mùi chết chóc mọc như nấm - hàng triệu thân phận bị đày đọa trong chính quê hương mình. Từ trong tận cùng tuyệt vọng, người dân miền Nam đã lựa chọn một con đường không có lối về: vượt biển, vượt biên – đánh đổi tất cả để tìm lại tự do.

Chưa từng có một quốc gia nào trong thời đại hiện đại chứng kiến hàng triệu công dân liều chết ra đi như thế. Từ năm 1975 đến giữa thập niên 1990, theo các báo cáo của Liên Hiệp Quốc và các tổ chức nhân đạo, có hơn 2 triệu người Việt Nam tìm cách vượt biển. Và trong số đó, ít nhất 250.000 người đã chết – chết vì đói khát, vì bão tố, vì máy tàu chết máy, vì bị hải tặc giết hại, hoặc vì trôi dạt vô vọng giữa đại dương không bến bờ. Họ là những người dân vô tội, là học sinh, sinh viên, là thầy cô, bác sĩ, binh lính, công chức, những con người từng sống giữa phố xá văn minh của Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng… Giờ đây chui rúc dưới khoang tàu đánh cá chật hẹp, hôi hám, rỉ nước, không một bảo đảm, không một cứu hộ, chỉ mang theo một niềm hy vọng mong manh: thoát khỏi bóng tối cộng sản.


Trên những chuyến tàu định mệnh, thảm kịch không chỉ đến từ thiên nhiên mà còn từ lòng người. Hải tặc Thái Lan và Mã Lai đã trở thành ác quỷ đội lốt người. Nhiều tàu người Việt bị chúng đuổi theo, giết đàn ông, bắt cóc hoặc hãm hiếp phụ nữ ngay trước mắt cha mẹ, chồng con. Có em bé mới 12 tuổi bị cưỡng hiếp đến chết. Có bà mẹ bị đánh gãy tay khi van xin tha mạng cho con gái. Có người phụ nữ sau khi bị làm nhục đã nhảy xuống biển tự vẫn.

Một số câu chuyện vẫn còn khắc sâu vào trí nhớ cộng đồng người Việt hải ngoại. Gia đình anh Lê Văn P. ở Vũng Tàu – gồm 6 người – lên ghe nhỏ vượt biển năm 1979. Khi tàu chết máy giữa biển Đông, không còn lương thực, mẹ anh đã cắt cổ tay mình pha với nước biển cho con uống đỡ khát. Cả 6 người chết vì mất nước, xác dạt vào bờ Mã Lai 12 ngày sau.

Hay chuyến tàu tại Rạch Giá năm 1980, bị hải tặc cướp ba lần. Toàn bộ đàn ông bị ném xuống biển. Những cô gái từ 10 đến 20 tuổi bị hãm hiếp, sau đó bị giết hoặc mất tích. Duy chỉ một cô bé tên My sống sót nhờ trốn được trong hầm máy suốt 5 ngày, đến khi được tàu buôn Đức cứu. Có người lính Biệt Động Quân, sau khi ra tù cải tạo, cùng vợ con vượt biển năm 1982. Ông sống sót nhưng mất vợ và hai con gái khi tàu lật gần đảo Palawan. Mỗi năm, ông vẫn đến bờ biển San Diego đốt nhang cho “nấm mộ vô hình” của người thân.

“Tôi không bao giờ nghĩ là" Nhưng ông không hiểuchính ông và những trò chơi địa chính trị lạnh lùng đã ném hàng triệu người vào địa ngục.

Ngày nay, hàng triệu người Việt tị nạn cộng sản đã xây dựng lại đời mình trên đất mới – từ Mỹ, Úc, Pháp, Canada đến Đức, Na Uy… Họ là bác sĩ, giáo sư, doanh nhân, nghệ sĩ, là thế hệ thứ hai vươn lên từ đau thương. Nhưng vết sẹo trong tâm hồn cha ông họ vẫn còn đó – như nỗi nhức nhối không bao giờ lành. Bia mộ không tên dưới đáy biển Đông. Những đứa trẻ chết đói trong tay mẹ. Người vợ ôm xác chồng giữa mênh mông sóng nước. Những bóng người trong đêm tối bơi qua sông biên giới Campuchia, bị lính cộng sản bắn gục trong im lặng.

Đó là lịch sử – không ai được quyền lãng quên. Cuộc vượt biên vĩ đại sau 1975 không chỉ là một cuộc di cư – đó là bản cáo trạng hùng hồn nhất đối với một chế độ đã khiến hàng triệu người dân phải trốn chạy chính quê hương mình. Và dù những con tàu đã chìm, những xác người đã mục, những tiếng kêu cứu đã tắt – ký ức ấy vẫn sống mãi. Trong lòng biển. Trong trái tim những người còn sống. Và trong lời nguyền lịch sử chưa bao giờ nguôi.

*************

April 30 – The Great Exodus by Sea: A Nation’s Journey Through Blood and Tears.

After April 30, 1975, Vietnam entered a new and harrowing chapter of its history – not one of reunion, reconciliation, or peace, but of mass death sentences, of “reeducation camps” reeking of despair and death, and of millions cast into exile in their own homeland. From the depths of hopelessness, the people of South Vietnam chose a path with no return: fleeing by land and sea-sacrificing everything for one desperate hope: freedom.

Never before in modern history had a nation witnessed millions of its own citizens risking death to escape their country. From 1975 to the mid-1990s, according to reports by the United Nations and humanitarian organizations, over 2 million Vietnamese attempted to flee by sea. At least 250,000 perished – lost to hunger, thirst, storms, engine failure, pirate attacks, or simply vanishing into the vast, indifferent ocean. These were not criminals or deserters – they were students, doctors, teachers, civil servants, soldiers, mothers and fathers – people who once walked the civilized streets of Saigon, Huế, and Đà Nẵng. Now they huddled below deck in leaking fishing boats, suffocating in stench and fear, with no guarantees, no rescues – only the faint glimmer of escaping the communist abyss.

On these ill-fated voyages, the tragedy came not only from nature, but from the cruelty of mankind. Thai and Malaysian pirates became devils in human form. Countless Vietnamese boats were chased, their men slaughtered, their women kidnapped or raped before the helpless eyes of fathers, husbands, and children. A 12-year-old girl was raped to death. A mother had her arms broken begging for mercy for her daughter. One woman, after being brutalized, leapt into the sea to end her torment.

These horrors are carved into the memory of the overseas Vietnamese diaspora. One such story: The Lê Văn P. family from Vũng Tàu – six people – set off in a small boat in 1979. When the engine died and food ran out in the South China Sea, the mother slit her own wrist, mixing blood with seawater to quench her children’s thirst. All six perished. Their bodies washed ashore in Malaysia twelve days later.

In another, a boat from Rạch Giá in 1980 was attacked three times by pirates. All the men were thrown overboard. Girls aged 10 to 20 were raped and then murdered or vanished. Only one survivor – a girl named My – hid in the engine hold for five days before being rescued by a German merchant ship.

Or the Airborne Ranger veteran who, after years in a reeducation camp, escaped by sea with his wife and two daughters in 1982. He survived. They did not. The boat capsized near Palawan. Every year, he burns incense on the shores of San Diego – for the “nameless grave” that is now the sea.

What’s even more heartbreaking: while the victors beat their chests and proclaimed “liberation,” the vanquished were erased from the land of their birth. No household registration. No jobs. No education. Only surveillance, discrimination, and prison. From the cities to the countryside, the fear of “background checks,” of “blacklists” haunted every former soldier and public servant. Fleeing became the final scream of a people cornered into silence.

Even Henry Kissinger – the architect of the 1973 Paris Accords – coldly admitted: “I never thought the Vietnamese would want to leave their country so badly.” But he didn’t understand – it was he, and the cold-hearted games of geopolitics, who condemned millions to hell.

Today, those who survived the communist exodus have rebuilt their lives across the globe – from America, Australia, France, and Canada to Germany and Norway. They are now doctors, professors, entrepreneurs, artists. A second generation rises from the ashes. But the wounds in the souls of their parents remain – raw and unhealed. Tombstones without names lie at the bottom of the South China Sea. Starving infants died in the arms of their mothers. Wives clutched the bodies of their husbands in the endless, silent waves. Shadows of fugitives swam across the Cambodian border at night, only to be gunned down by communist guards with no witness.

This is history – not a tale to be forgotten.

The great exodus after 1975 was not merely a migration. It was a damning indictment of a regime that drove its people to flee the very soil they once called home. And though the boats have sunk, the bodies have rotted, and the screams for help have faded into silence – the memory lives on.

In the ocean’s depths.

In the hearts of the living.

And in the eternal curse of history that will never be silenced.

── ● ──

THUY TRANG Nguyen
27-3-2025

Nguồn: 30-4: Cuộc vượt biển vĩ đại – Hành trình máu và nước mắt của dân tộc bị bức tử. 

Trăng Nhớ Thương Ai - Đỗ Công Luận

Saturday, May 31, 2025

Kompong Trạch: Cuộc Giải Vây Thần Kỳ - Điền Đông Phương

 

Đầu tháng 6/1972, đơn vị tôi đang làm nhiệm vụ ngăn chận đường dây xâm nhập của quân cộng sản Bắc Việt từ Kampuchea qua ngã Hà Tiên đến Thất Sơn,dựng hàng rào kẽm gai dọc theo kinh Tám Ngàn từ Vàm Rầy (ở khoảng giữa đường từ Rạch Giá đi Hà Tiên) thẳng đến Ba Chúc, Tri Tôn thuộc vùng núi Thất Sơn, Châu Đốc.

Hôm đó tôi đi ca nô ra thăm Chi Đội đang bảo vệ căn cứ hỏa lực đóng ở Vàm Rầy, mục đích là để thăm người bạn kết nghĩa cũng là Chi Đoàn Phó của tôi, Nghê Thành Thân.

Tôi xin nói thêm một chút về Nghê Thành Thân, con người của một thời lừng lẫy.


kampong_trach1

Hai chúng tôi cùng tuổi, nhưng vì tôi gia nhập Quân Đội trước Thân nên coi như là niên trưởng! Lời hứa giữa hai chúng tôi là, nếu một trong hai người chết đi, thì người còn sống sẽ đùm bọc gia đình của người đã ra đi!

Thân rất đặc biệt, là con một của ông chủ rạp hát ở Cà Mau, tốt nghiệp Thủ Khoa khóa Sĩ Quan Căn Bản Thiết Giáp. Ngày đáo nhậm đơn vị thì chính ông Bố dẫn con trai đến trình diện Thiết Đoàn Trưởng với lời “gửi gắm” xin cho con mình ra phục vụ đơn vị nào… dữ nhất! Ông Bố chịu chơi này cũng chính là người đã nhiều lần đến quân trường để đứng từ bên ngoài dỡ hàng rào kẽm gai lên cho con mình đang là Sinh Viên Sĩ Quan chui “lỗ chó” để “dù” về Sài gòn, rồi hai cha con đi nhậu trong đêm, sáng trở lại quân trường! Cũng chính ông đã nhiều lần lặn lội, vượt qua nhiều trạm của Việt Cộng để thăm con trong vùng hành quân, lần nào cũng xách theo một giỏ xách đầy...rùa! Vì ông biết chúng tôi khoái nhậu rùa, nhưng không dám chở rùa trên xe vì sợ...xui.

kampong_trach2

Có lẽ Thân cũng là người duy nhất mà khi còn ở cấp bậc Thiếu úy đã có được 4 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, Bronze Star của Hoa Kỳ, chưa kể những Anh Dũng Bội Tinh với sao vàng, sao bạc! Một con người mà ai cũng quý mến, trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, Danh tướng Nguyễn Khoa Nam mỗi khi có dịp họp với các đơn vị thì bất kể có sự hiện diện của các Tư lệnh Sư Đoàn, Trung Đoàn Trưởng… ông luôn kéo Thân lên ngồi bên cạnh ông, dù lúc đó Thân chỉ là Đại úy.

Trở lại hôm đó, khi hai anh em uống gần hết hai hũ Ngũ Gia Bì, điểm đặc biệt khi chúng tôi uống rượu với nhau là không ai nói lời nào ngoài câu “Mình cạn ly này…”, nhưng hôm đó thì ngoại lệ, khi Thân trầm ngâm một lát, rồi nói với tôi:

– Trong vòng nửa tháng nữa, tôi sẽ chết… anh Điền!

Tôi biết Thân đang nói chuyện nghiêm chỉnh, nên hỏi:

– Tại sao anh biết?

Thân đưa tay vào ngực áo, móc ra tượng Phật làm bằng nanh heo rừng:

– Tượng Phật báo!

Tôi thấy lòng mình chùn xuống, không thể uống hết phần còn lại của ly rượu, tôi đứng lên đi xuống ca nô trở về căn cứ. Khi ca nô về gần đến căn cứ thì Thiết Đoàn Trưởng gọi, bảo tôi chuẩn bị 10 phút sau sẽ có trực thăng đến bốc tôi lên Hòn Sóc gặp ông.

Tại Hòn Sóc, tôi nhận lệnh thu xếp tất cả các thứ để ngay chiều hôm đó đưa Chi Đoàn đến Tô Châu, Hà Tiên để trình diện Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Quân Đoàn 4 đang ở đó. Nhiệm vụ của chúng tôi sẽ là đi Kampong Trach để giải tỏa áp lực địch, vào bắt tay với Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh gồm Thiết Đoàn 12 KB và Thiết Đoàn 16 KB cùng 2 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân do Đại tá Biệt Động Quân Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng BĐQ Vùng 4 làm Chiến Đoàn Trưởng. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đang trú đóng tại thị trấn Kompong Trach. Cả Chiến đoàn đang chịu áp lực rất nặng của Công Trường 1 CSBV từ nhiều ngày qua, Lữ đoàn 4 Kỵ Binh đã bị bắn cháy 19 thiết vận xa M113.Thiết đoàn 9 do Trung Tá Phạm Minh Xuân,Thiết Đoàn Trưởng, chỉ huy được tăng phái vừa đến Kompong Trach lúc 11 giờ đêm, bị điều động đến bố trí qua đêm tại khu vườn tiêu cách Thị trấn Kompong Trach 2 cây số về hướng Tây Bắc thì bị tan nát trong vòng nửa tiếng đồng hồ, chỉ còn lại 21 chiếc M113. Thuốc men, thực phẩm, đạn dược... thả dù tiếp tế nếu rơi ra ngoài phòng tuyến khoảng 50 mét là coi như bỏ, không lấy được…


Chẳng lẽ lời báo trước của Nghê Thành Thân sẽ là sự thật?

Vì quá gấp rút, chỉ có 2 chiếc GMC dùng để chở anh em ở hậu cứ lên công tác và hơn 40 lao công đào binh đến để làm hàng rào ngăn chận cùng một số dụng cụ, nên tôi cho lệnh ném bỏ mấy ngàn cọc sắt và khoảng 500 cuộn kẽm gai còn lại xuống lòng kinh Vàm Rầy, nơi rộng và sâu nhất.

Khi đơn vị đang vượt kinh ở cầu Lỳnh Quỳnh, thì tôi đến gặp Nghê Thành Thân:

– Tình hình cũng... không có gì! Tôi đưa Chi Đoàn đến Tô Châu, còn anh thì dẫn anh em hậu cứ với đám lao công đào binh về nghỉ một thời gian, coi sắp xếp lại hậu cứ giùm tôi…

Thân nhìn tôi đăm đăm:

– Nhưng tại sao đi gấp quá vậy? Không có cả thời giờ để chở cọc sắt kẽm gai về nữa…

– Thì tới Tô Châu mới nhận lệnh, bây giờ chưa biết…

Thân đưa “cặp mắt Đại Hàn” nhìn thẳng tôi, rồi với cái nhếch mép cười cố hữu:

– Tôi không thể bỏ anh trong trận này được, anh Điền…

Sau đó mặc tôi nói gì thì nói, Thân quyết không về hậu cứ. Chiều hôm đó, tại Tô Châu, tôi đã nói cho Thiết Đoàn Trưởng và bạn cùng khóa Đại Úy Phạm Khắc Phước nghe về điềm báo của Thân để nhờ hai người này thuyết phục Thân về hậu cứ, nhưng vô hiệu.


kampong_trach3

Sau đó tôi đưa đơn vị qua khỏi Thạch Động khoảng 2 cây số và qua đêm ở đó.

Sáng hôm sau, trong khi chờ Biệt Động Quân đến tùng thiết, thì đơn vị tôi và Chi Đoàn 2/2 TK của Đại Úy Ngô Văn Cứ và Chi Đoàn 1/2 TK của Đại Úy Hà Văn Ron nhận tiếp tế nhiên liệu, riêng đạn dược thì chất vào xe đến mức tối đa.

Đến trưa thì Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân Đoàn 4 cùng với Chuẩn Tướng Nguyễn Huy Ánh, Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân đáp trực thăng xuống gặp tôi. Sau khi bắt tay tôi và các Sĩ quan trong Chi đoàn, vị tướng được xếp vào hàng đầu của QLVNCH bỗng ngồi xuống, tay cầm cây viết vẽ xuống đất để nói về tình hình chung cả nước, rồi nói về mặt trận mà chúng tôi sẽ phải đối mặt. Ông cũng cho biết là lực lượng đi giải tỏa Kampong Trach chỉ có chúng tôi là Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh (gồm 3 Chi Đoàn) và tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân mà thôi, rồi ông kết luận:

– Quân Đoàn 1 là mặt trận Quảng Trị, Quân Đoàn 2 là Kontum, Quân Đoàn 3 là An Lộc… Còn Quân Đoàn 4 là trận Kompong Trach này!

Ông nhìn tôi rồi tiếp lời:

– Các anh là lực lượng trừ bị cuối cùng của Quân Đoàn 4, nếu các anh thành công, thì Quân Đoàn 4 yên. Nếu các anh thất bại thì Quân Đoàn 4 sẽ như 3 Quân Đoàn kia.

Nói xong ông đứng lên, tôi cũng đứng lên theo và nhìn thẳng vào khuôn mặt khắc khổ của vị tướng mà tôi hết lòng ngưỡng mộ. Ông nhìn tôi một lúc rồi nói:

– Tôi biết Chi Đoàn của anh “chì” lắm, cố gắng nghe anh Điền! Tôi sẽ sử dụng tối đa hỏa lực phi pháo để yểm trợ cho các anh…

Tôi đáp:

– Trình Trung tướng, tinh thần chiến đấu của anh em cao. Trung tướng yên tâm…

Chiều hôm đó, đoàn xe chở Tiểu Đoàn 58 Biệt Động Quân đến, và người bước xuống xe đầu tiên lại là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Sau khi xuống xe, ông đi thẳng đến một cây thốt nốt rồi đứng đó nhìn đoàn quân ít ỏi chuẩn bị thi hành một nhiệm vụ quá lớn. Sau khi đến nói chuyện với người bạn cũ là Đại úy Măng, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 58 BĐQ, tôi trở lại Chi Đoàn, thì Tướng Trưởng từ cây thốt nốt đi nhanh về phía tôi, khi đến gần tôi ông không chào đáp mà chỉ bắt tay tôi với lời dặn dò “Cố gắng nghe anh Điền”, rồi lại quay về đứng bên cây thốt nốt!

Tối hôm đó, tôi họp các Chi đội trưởng, Nghê Thành Thân đã có một câu mà cho đến giờ phút này, vẫn còn đầy đủ giá trị: 

- Trận này coi bộ khó nuốt... Nhưng có tướng Trưởng đích thân điều động, thì khỏi lo!

Ngày hôm sau, chúng tôi bắt đầu nhập trận, quân đi như gió bão, chiếm từng cụm vườn, từng khu xóm… hướng về Kompong Trach.

Đến trưa thì chạm súng, phải đến chiều hôm đó mới thanh toán xong những ổ kháng cự. Rồi 2 ngày sau đó, chúng tôi bị cầm chân ở khu vực gần ngôi chùa nằm cách Kompong Trach khoảng 5 cây số, vì cộng quân gài chốt ở khắp nơi. Đến ngày thứ 6 thì chúng tôi bám sát được ngôi chùa. Đại Úy Hà Văn Ron, Chi Đoàn Trưởng CĐ 1/2 Thiết Kỵ bên cánh trái, và Đại Úy Ngô Văn Cứ, Chi Đoàn Trưởng CĐ 2/2 Thiết Kỵ phía sau, cứ thế chúng tôi cùng với Biệt Động Quân tùng thiết tiến dần về hướng Bắc.

Hôm đó, trong khi yểm trợ cho BĐQ thanh toán ngôi chùa nằm sát con lộ, tự nhiên tôi linh cảm một cái gì hắc ám từ cánh đồng trống mênh mông bên phải, nhìn về hướng Thất Sơn. Đó là cánh đồng lầy ngút ngàn trông như biển khơi, tôi liền điều động một chi đội cùng với Nghê Thành Thân án ngữ về hướng đó. Khoảng một giờ sau, có lẽ tức quá, vì trong khi anh em đang chạm súng rầm rầm mà tôi lại bố trí Thân và một chi đội hướng ra đồng trống, Thân bỏ xe đi bộ tới gặp tôi:

– Ở đó trống quá có gì đâu Đông Phương?

Tôi giải thích:

– Anh nằm ngoài đó án ngữ rồi quan sát về phía Bắc dùm để trong này được yên tâm, chứ ở đây rậm quá…

Thân quay trở lại xe, khoảng nửa giờ sau thì y như rằng, một tiếng nổ ầm ngay ngoài đồng trống (họ đánh kiểu “đội mồ”) bắn trúng xe của Nghê Thành Thân. Không còn nghe tiếng Thân trên hệ thống truyền tin nữa, tôi lập tức lệnh cho Chi đội của Thiếu úy Hạnh bỏ vị trí, đến tiếp cứu Thân. Chỉ trong khoảnh khắc, ổ B41 đó bị diệt, Thân vô sự, nhưng phải dùng xe của chi đội khinh kỵ vì xe của Thân đã bị tê liệt. Hôm đó chúng tôi lại bị cầm chân.


kampong_trach4

Ngày hôm sau, trận đánh quyết liệt nhất mở màn, khi cộng quân lùa những đàn bò chạy về phía chúng tôi, rồi họ chạy theo sau với mục đích dùng biển người để cướp sống xe, trong khi đạn pháo của họ bắn chận phía sau chúng tôi. Mấy chục khẩu pháo gần Thạch Động được chúng tôi điều chỉnh bắn thật gần, và bắn tối đa. Ngay sau khi chúng tôi trụ lại được trước sức tiến công của địch quân, thì Không quân VNCH được lệnh xuất kích. Tướng Trưởng đã điều động rất hay ở điểm này, vì khi đó địch quân đã lộ diện, việc dội bom sẽ rất chính xác dù hơi nguy hiểm vì phải dội bom quá sát những đơn vị bạn đang tham chiến, có một đợt bom dội vào ngay giữa đơn vị tôi, nhưng chúng tôi vô sự. Những chiếc phản lực cơ đánh thật đẹp, vừa nghe tiếng gầm thét là họ bỗng xuất hiện, bay thật thấp và dội đủ loại bom từ bom Napalm cho đến bom CPU... Chúng tôi không cần phải liên lạc vô tuyến để điều chỉnh, mà chúng tôi chỉ cần thả những trái khói màu tại chỗ để đánh dấu đơn vị bạn, và Không Quân VNCH sẽ dội bom về hướng Bắc của những trái khói màu đó khoảng 300 mét trở lên là được.

kampong_trach5

Ngay sau đợt oanh kích cuối cùng, chúng tôi lập tức tung ra đợt phản công, tràn lên chiếm giữ những nơi vừa bị đánh bom còn đang bốc khói… Dĩ nhiên là Cộng quân phải rút lui chứ bọn chúng cũng không dại gì mà làm những con thiêu thân trước những con chiến mã đang nộ khí xung thiên gầm thét, giáng sấm sét lên đầu bọn VC hung tàn đó.

Anh em bên Biệt Động Quân có vẻ nhụt chí, khiến cho Nghê Thành Thân tức giận nhảy xuống khỏi xe, rồi cùng với một Đại Đội Trưởng của họ là Trung Úy Gia xông thẳng vào phòng tuyến địch để họ phải tiến lên theo… Thật ra Thân không phải rời xe để đánh như Bộ Binh như vậy, nhưng trong cơn cuồng nộ của bom đạn, Thân đã quên mình, quên cả tượng Phật…

Hôm đó Chi Đoàn tôi tịch thu được 6 máy truyền tin, 4 khẩu đại liên, một số B40, B41 và AK. Buồn cười cho ông Thiết Đoàn Trưởng của tôi là Trung tá Nguyễn Hữu An,ông lấy máy chụp ảnh ra bảo Đại úy Trạng chụp ảnh tôi và ông đang đứng trước đống chiến lợi phẩm, sau trận đánh mới biết cái máy ảnh không có phim trong đó.

Trong số những chiến lợi phẩm tịch thu được, có những quyển nhật ký. Qua những quyển nhật ký đó chúng tôi biết được chúng thuộc Công Trường 9 Cộng Sản Bắc Việt, cộng với 2 Trung đoàn 51 và 52 Đặc Công, có một thành phần của Sư đoàn 320 mà chúng tự nhận là “Sư đoàn Thép”. (Vào thời điểm đó, Sư đoàn 320 CSBV đang tham chiến ở mặt trận KomTum ngoài vùng 2), Có những câu nhật ký mà tôi còn nhớ rõ qua cách đọc rất tếu của Thiếu úy Hùng (Là người mang bút hiệu “Ngụy Sài Gòn” đang quậy tùm lum trên các báo chí hải ngoại đấy!): “Đoàn xe bọc thép của quân ngụy sài gòn mang hình đầu ngựa phun lửa, trong 3 ngày đầu đã tỏ ra hung hăng tàn ác… Nhưng những chiến sĩ anh hùng của ta quyết giáng cho chúng những đòn trừng trị đích đáng….”, rồi Hùng kết luận: “Sắt thép gì gặp mình cũng thành chuột lắt hết!”. Cũng vui.

Hôm sau lại chạm súng lớn, chúng tôi bị tổn thất khá nặng. Phải rút về biên giới để tái tiếp tế, tái trang bị.


kampong_trach6

Nhìn những anh em bị thương nằm ngồi la liệt để chờ tản thương, bắt đầu là Đại úy Măng,Tiểu Đoàn Trưởng 58 Biệt Động Quân, rồi Đại úy Ron, Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 1/2 TK. Riêng Chi Đoàn tôi đã bỏ 2 xe, phải đôn khinh kỵ lên làm xạ thủ đại liên, lính Biệt Động Quân thì trở thành khinh kỵ. Cũng được tăng cường thêm một số… “tân binh” đang thụ huấn ở Trung Tâm Huấn Luyện Chi Lăng ra.

Hôm sau lại tiến vào vùng lửa đạn, lại bị cầm chân. Có những cảnh tôi không quên được, như khi hay tin Chuẩn úy Kỳ, một thiếu sinh quân tài hoa vừa bị thương, tôi chạy đến để gặp Kỳ thì nhìn thấy cảnh Kỳ đang nghiến răng dùng lưởi lê tự chặt vào phần xương dưới ống quyển còn dính lại để cho bàn chân rời hẳn đi cho đỡ khó chịu… Lúc đó lại nhận được tin người anh cả, Tướng Ngô Quang Trưởng vừa lên đường ra đảm nhận chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 với mặt trận Quảng Trị… Hôm sau thì Trung tá An, Thiết đoàn trưởng, rời đơn vị và Thiếu tá Nguyễn Văn Việt Tân lên thay thế.


Sau một tuần lễ giao tranh không có kết quả như mong muốn, lại bị tiêu hao từng ngày như thế, tôi nhận định: Quân cộng sản Bắc Việt đã sử dụng tối đa cách gài “chốt” trên trục tiến quân của chúng tôi. Những chốt dày đặc này có hiệu lực ngăn không cho bên trong ra, chận không cho bên ngoài vào, rồi khi có được những yếu tố thuận lợi như địa hình thích hợp thì những chốt đó sẽ kết hợp với lực lượng chủ động để tấn công tiêu diệt đối phương. Và cách đánh đó đã có hiệu quả ngăn chận sức tiến quân của chúng tôi! Rõ ràng là chúng tôi đã bị cầm chân và bị tiêu hao từng ngày.

Như vậy, nếu muốn hoàn thành nhiệm vụ bắt tay với các đơn vị bạn bên trong, giảm thiểu thiệt hại để bảo toàn lực lượng thì chúng tôi phải vô hiệu hóa những chốt đó. Ở nội địa thì tôi đã từng nhiều lần sử dụng những toán “Lôi Hổ” của tôi để đánh đêm, tiêu diệt những cái chốt như thế… Nhưng đó là loại “chốt” lẻ tẻ để vây đồn, còn ở đây là cả một hệ thống chốt.

Trước tình thế đó, tôi thấy rằng, điều tiên quyết để bảo toàn lực lượng là phải bắt tay cho được Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh và Liên Đoàn Biệt Động Quân, rồi cùng nhau đánh trở ra. Vì nếu chúng tôi vào bắt tay được với họ thì tình thế sẽ khác đi: Bắt tay được có nghĩa là lực lượng đang bị bao vây tại Kompong Trach và lực lượng đi giải tỏa là chúng tôi khi đó sẽ hợp thành một lực lượng lớn, thì việc đảo ngược tình thế là dễ dàng… Mà sau hơn một tuần giao tranh, tôi tin chắc là chúng tôi sẽ vào được, nếu quyết tâm!

Đây chính là một cuộc Đọ SỨC VỀ TINH THẦN. Nếu nói về cuộc đọ sức về Kỷ Thuật, về Chiến Thuật thì dễ thôi: Cứ tận dụng khả năng di động cao, hỏa lực mạnh của Thiết Giáp làm lợi thế chính, càn lướt qua các tuyến “chốt” của chúng mà đi, chứ nếu cứ dừng lại để thanh toán từng mục tiêu như mấy ngày qua, thì biết đến bao giờ mới bắt tay được, mà còn bị tiêu hao từng ngày…

kampong_trach7

Nghĩ sao làm vậy! Tối hôm đó tôi họp các Chi Đội Trưởng để nói về ý định của mình, rồi căn dặn:

– Chỉ còn 4 cây số nữa thôi là bắt tay được với Lữ Đoàn, phải cán lên đầu nó mà tràn vào, không cần dừng lại đánh đấm gì cả, xe nào bị bắn hư thì cứ bỏ, không cần kéo theo. Ngày mai chúng ta phải vô tới Kampong Trach!

Sau khi các Chi Đội Trưởng đi khỏi, tôi gọi 3 đệ tử ruột của tôi là Mảnh, Được và Ba đến: 

– Nếu anh có chết, thì tụi em cố đem xác anh về cho chị Ba! 

Những người em đã từng yêu cầu tôi đặt tên cho họ là toán “Lôi Hổ” đó đã nhìn tôi buồn bã...

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi dàn hàng ngang tiến vào những cụm vườn phía trước, không có tiếng súng bắn trả. Chúng tôi tiến sâu hơn, vừa tiến vừa tác xạ và Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn ở phía sau cũng tiến theo, Chi Đoàn của Đại Úy Cứ đi song song bên cánh phải. Vì những hố bom B52 dày đặc nên việc di chuyển hơi khó khăn, đến một ngôi chùa kế tiếp buộc chúng tôi phải thu hẹp đội hình để tránh những hố bom, thì từ trên sát nóc của ngôi chùa, một loạt đạn đại liên bắn thẳng xuống xe tôi, trúng vào phía sau lưng ghế tôi ngồi. Bằng động tác phản xạ, tôi phóng qua bên kia pháo tháp rồi nhảy xuống đất vừa núp vào thân xe vừa khoát tay bảo tài xế cứ tiếp tục chạy tới và tôi chạy theo bên hông, ngay sau đó Chi Đội của Thiếu úy Hùng từ phía sau lập tức diệt ngay ổ súng. Trở lên xe thì chiếc ghế tôi ngồi vẫn còn đang bốc khói, đó là chiếc ghế của phi công trực thăng mà từ lâu chúng tôi lấy từ một chiếc trực thăng bị bắn rơi, đạn không xuyên qua được, nhưng người ngồi ngay sau ghế tôi là Thiếu úy Quyền, Tiền Sát Viên Pháo Binh thì bị bứt luôn hai chân! Sở dĩ họ chỉ nhắm bắn vào xe tôi là vì trong khi những xe khác chỉ có một ăng ten thì xe tôi có đến 5, họ biết ngay đó là xe chỉ huy…


Qua khỏi ngôi chùa khoảng 300 mét thì nhiều loạt đạn từ phía sau bắn rượt theo, có lẽ họ vừa hoàn hồn vì không ngờ chúng tôi lại cán lên đầu họ mà tiến. Còn hơn 2 cây số nữa là đến Kampong Trach, Chi Đoàn của Đại Úy Cứ bên cánh phải vừa bị bắn cháy 1 xe và anh đang dàn hàng ngang chuẩn bị thanh toán mục tiêu. Quyền Thiết Đoàn Trưởng bảo tôi án ngữ chờ Đại Úy Cứ. Không thể dừng lại ở đó trong tình thế như vậy, vì như thế có khác nào đứng bất động làm bia cho địch nhắm bắn từ bốn phía, tôi lập tức nêu lên luận cứ của mình:

– Sắp vào đến nơi rồi mà ở đó lo thanh toán nó là sẽ bị nó cầm chân. Đó là chưa nói đến chuyện ở phía sau mình tụi nó vẫn còn nằm nguyên đó, mình chỉ cán qua đầu nó mà đi thôi, chứ chưa dứt điểm nó… Có nghĩa là mình coi như bị lọt giữa vòng vây, nằm lại đây chỉ làm bia cho nó bắn! Tôi đề nghị bỏ mấy con chuột lắt đó đi, cứ tiếp tục cán qua đầu nó mà tiến. Bắt tay được rồi, tôi bảo đảm khi trở ra, mấy con chuột đó mà ló đuôi con nào là tôi sẽ chặt đuôi vạt mõm con nấy… Mấy ngày nay cho thấy tụi nó chỉ là chuột lắt thôi, chứ không phải “Sư Đoàn Thép”, Trung Đoàn Đặc Công con khỉ gì đâu.

Quyền Thiết Đoàn Trưởng Nguyễn Văn Việt Tân đồng ý, thế là chúng tôi tiếp tục tràn lên. Từ những phòng tuyến, cộng quân đã bắn trả theo kiểu chỉa súng lên trời mà bắn chứ không dám ngóc đầu lên để nhắm bắn vì lưới lửa của chúng tôi dày đặc. Tràn qua hết phòng tuyến này đến phòng tuyến khác, còn 1 cây số nữa là sẽ bắt tay đơn vị đầu tiên ở bên trong. Chúng tôi yêu cầu họ trú ẩn để tránh đạn cho đến khi chúng tôi vượt qua khỏi họ, vì chúng tôi vừa tiến vừa tác xạ, chứ không thể ngưng bắn được. Quả thật đối phương đã bất ngờ, chúng không làm gì được ngoài việc bắn vét đuôi chúng tôi với những loạt đạn vu vơ nghe như những tiếng thét vô vọng… Trong niềm vui đang dâng tràn tôi đã đứng lên chộp lấy một trái xoài chín khi xe tôi đang tiến dưới bóng một cây xoài rồi quay nhìn về phía sau, nơi xuất phát những loạt đạn vớt vát đó, tôi nghĩ đó có thể là những cái chốt đã ngăn chận các đơn vị bị vây bên trong.

kampong_trach8

Và cuối cùng, mấy chiếc M113 của đơn vị bạn hiện ra lù lù phía trước. Chiếc xe đầu tiên mà tôi gặp là xe của Đứa, người bạn thân khi 2 chúng tôi còn là Chi Đội Trưởng. Sau khi bố trí đơn vị, tôi cặp sát vào xe của Đứa. Đứa đang đứng dưới đất chờ tôi, hai anh em tay bắt mặt mừng bất kể những trái đạn pháo của chúng đang nổ chụp ngay trên đầu.

Khoảng nửa giờ sau, khi tôi và Đứa vẫn còn đang đứng đấu hót, thì 1 chiếc C130 từ hướng Kampong Trach rà sát ngọn cây bay về hướng Hà Tiên sau khi thả đồ tiếp tế xuống cho các đơn vị trong Kompong Trach, thì cả một vùng chung quanh tôi rộ lên những tiếng súng nhỏ, súng đại liên bắn lên chiếc máy bay. Với số lượng tiếng súng nổ như thế, ít lắm cũng phải có cả ngàn tay súng. Nhìn chiếc máy bay khổng lồ bay sát ngọn cây trong rừng đạn bắn lên như thế, ta mới thấy được sự hy sinh của những người phi công như thế nào. Tôi chợt nhớ lại hình ảnh mấy chiếc trực thăng bị bắn rơi mà tôi vừa đi ngang qua lúc nãy…


Có một chuyện buồn cười là chiều hôm đó, bọn VC nhảy vào hệ thống truyền tin nội bộ của Chi Đoàn tôi, rồi điều động như thể chúng đang tiến sát để… diệt gọn chúng tôi vậy. Thế là mấy Chi Đội Trưởng Nguyên, Hạnh, Diện, Hùng, Lộc được dịp đấu khẩu tiếu lâm cho đến khi chúng im, và chúng tôi phải thay đổi tần số truyền tin. Tôi vẫn tưởng đêm đó sẽ là đêm không ngủ, vì chắc chắn chúng sẽ “dàn chào” chúng tôi. Nhưng không hiểu sao chúng đã im lặng, có lẽ vì tổn thất của chúng đã quá lớn. Ngày hôm sau, chúng tôi án ngữ hai bên trục lộ để yểm trợ cho các đơn vị bên trong triệt thoái về Hà Tiên, tôi cũng đã gửi những thương binh, tử sĩ của đơn vị tôi theo họ về trước, vì chúng tôi còn phải ở lại.

Cuộc triệt thoái đã diễn ra êm thắm vì cộng quân đã rút đi trong đêm đó. Sau đó đơn vị tôi cũng trở về nội địa, giữ Quốc lộ 4 từ Trung Lương đến Bắc Mỹ Thuận, cũng là để nghỉ dưỡng quân. Trong một tối nhậu ở quán của Mỹ Tiên tại Trung Lương, Thân đã ra vườn mận phía sau quán cởi bỏ cái tượng Phật, không đeo nó nữa. Mỹ Tiên đã phải cầm đèn đi ra tìm, nhưng không gặp.

Nhưng có điều là sau đó một tháng thì Thân bị thương, ở Kompong Trabek, một mảnh đạn ghim vô ngực, phải về nằm bệnh viện, bỏ lỡ dịp đi giải tỏa quận Kiên Lương và nhà máy xi măng Hà Tiên ngay sau đó. Khi đơn vị tôi đánh bật địch ra khỏi quận Kiên Lương, chiếm lại nhà máy xi măng thì Thân mới trở ra đơn vị…

kampong_trach9

Để cho tâm hồn được thanh thản, cũng là để thực hiện lời hứa với một người bạn đã chết, và trên hết vì nỗi khổ đau của những người vợ, những đứa con, những người thân của bao nhiêu chiến sĩ đã tử trận ở Kompong Trach trong mùa Hè 1972 đó, tôi xin nói lên một sự kiện đau lòng sau đây để nhắc nhớ quý vị niên trưởng của chúng tôi, những cấp chỉ huy, trong Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn trú đóng tại Kompong Trach: Là quý vị đã bỏ rơi Tiểu Đoàn 94 BĐQ. Tiểu Đoàn BĐQ nầy nằm giữ phía Bắc Kompong Trach không hề hay biết về cuộc triệt thoái. Khi quý vị đã an toàn về đến VN thì Tiểu Đoàn 94 BĐQ bị quân CSBV xâm lược cường tập dứt điểm. Đại úy Lâm, Tiểu Đoàn Phó tử trận cùng bao nhiêu chiến sĩ BĐQ. Mãi đến hôm sau Thiếu Tá Ngọc, Tiểu Đoàn Trưởng cùng khoảng 10 chiến sĩ sống sót thất thểu ra đến xe tôi. Hình ảnh Thiếu Tá Ngọc đến bên xe tôi, không nói một lời, nặng nề cởi nón sắt và buông rơi xuống đất. Rồi ngồi bệt xuống đất gục đầu trong khổ đau bi hận đã khiến cho anh em chúng tôi cảm thấy mình bị phản bội bởi những cấp chỉ huy mà chúng tôi vừa vào sinh ra tử để cứu họ.

Ít ra quý vị cũng phải báo cho chúng tôi biết còn một Tiểu Đoàn 94 BĐQ tại Bắc Kampong Trach để chúng tôi khỏi bắn lầm vào họ khi họ xuất hiện từ xa. Chúng tôi đã bắn vào họ như thế đấy. Chúng tôi không thể hiểu tại sao Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn lại phải hy sinh nguyên một Tiểu Đoàn BĐQ khi mà chiến trường đã được giải tỏa. Chúng tôi thấy không cần thiết phải hy sinh một Tiểu Đoàn như thế.

Xin đừng bao giờ nhắc đến những chiến công của quý vị nữa, mà hãy đếm xem có bao nhiêu con người đã phải chết tức tưởi vì quý vị. Bên cạnh những cái chết oan khiên đó là bao nỗi khổ đau vô vàn của những người vợ góa, con côi, những cha mẹ, anh chị em ruột thịt, cùng những người thân yêu của họ còn ở lại… Dẫu biết rằng chiến tranh là có chết chóc, có thương đau, là chia ly vĩnh biệt nhưng sao nghe nghẹn ngào cay đắng quá!!!


Điền Đông Phương