Pages
- Trang Chủ
- About Me
- Truyện Ngắn
- Sưu Tầm
- Sưu Tầm from 2020
- Góp Nhặt Bên Đường
- Nhạc Chọn Lọc
- Sưu Tầm Sức Khỏe
- NPN's Recipes
- Trang Người Phương Nam
- Cười Ý Nhị
- PPS + YouTube Chọn Lọc
- Những Hình Ảnh Ý Nghĩa
- Thơ
- Thơ From 2020
- Bùi Phương Lưu Niệm
- Trang Anh Ngữ
- Truyện Dài : Về Phương Trời Cũ
- Truyện Dài : Ngày Tháng Buồn Hiu
Saturday, November 1, 2025
Friday, October 31, 2025
Lời Tự Tình Của Một Người Sống Dưới Chế Độ Việt Cộng (Song Ngữ)
Hồi nhỏ tôi đã tin rằng...
1.
Hồi nhỏ tôi đã tin rằng bác hồ chí minh đã ra đi tìm đường cứu nước.
Nhưng lớn lên mới biết rằng bác hồ chí minh đi xuất khẩu lao động và
đã mang CS về với chúng ta hôm nay.
2. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng Bắc Việt đã chống Mỹ cứu nước và giải phóng dân tộc. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng họ đã xâm chiếm một quốc gia độc lập có chủ quyền.
4. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng cuộc nội chiến là Chống Mỹ Cứu Nước. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng chúng ta đã hy sinh cho Liên Xô, cho Tàu và khối CS.
5. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng dân Miền Nam rất ghét chính quyền Cộng Hòa. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng ai cũng yêu mến chính quyền Sài Gòn và sợ mất đi một chính phủ tuy không hoàn hảo nhưng tử tế nhất trong lịch sử dân tộc.
6. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng Lê Văn Tám là một cậu bé dũng cảm. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng thằng bé đó không tồn tại.
7.
Hồi nhỏ tôi đã tin rằng chúng ta đã đánh bại Mỹ và Quân ngụy. Nhưng lớn lên tôi
mới biết rằng Đảng Dân Chủ đã rút viện trợ và vì thế Miền Nam sụp đổ.
8. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng CNXH là ưu việt vì nó đem lại sự công bằng. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng nó chỉ chia đều sự nghèo đói.
9. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng người giàu, giàu vì cướp từ người nghèo. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng họ dành dụm mấy đời và làm ăn cực khổ mới có được.
10. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng cách để đem lại công bằng là lấy từ người giàu để chia cho người nghèo. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng làm vậy thì tất cả sẽ cùng nghèo.
11. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng các quan chức đang phục vụ nhân dân. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng họ đang cai trị và trở nên giàu có trong khi dân ngày càng nghèo.
12. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng các cô chú của tôi đã sống ở nước ngoài từ lâu. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng họ đã đi vượt biên để trốn chạy CS.
13. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng đất nước tôi là một cường quốc và giàu có. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng nó là một đất nước nghèo nàn.
14. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng người Việt cần cù, siêng năng và chịu khó. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng họ ăn nhậu tràn lề đường.
15. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng thực dân Pháp đã cai trị và bóc lột Việt Nam và người dân Việt Nam. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng họ đã xây dựng và giải phóng Việt Nam khỏi nghèo nàn và lạc hậu.
16. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng Việt Minh chiến đấu để giành độc lập. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng các nước xung quanh đã được trả độc lập mà không mất một mạng sống nào.
17. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng Mỹ là một đế quốc. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng Mỹ là một món quà Chúa ban tặng cho nhân loại để bảo vệ tự do.
18. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng người Việt Nam được bạn bè quốc tế yêu mến và ngưỡng mộ. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng người Việt đi đâu cũng bị khinh bỉ và ghét.
19. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng người Việt Nam rất thật thà. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng người Việt hiện tại rất dối trá.
20. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng người Việt Nam xấu xí vì bản chất đã vậy. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng vì chế độ và sự nghèo đói nên họ mới vậy.
21. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng chúng ta tự hào vì nghèo mà học hỏi. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng chúng ta học giỏi mà vẫn nghèo.
22. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng yêu nước là phải yêu Tổ Chức. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng hai thứ đó chẳng liên quan gì đến nhau.
23. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng chính phủ yêu dân nên mới xây đường và cầu. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng họ đã vay tiền, đội vốn rồi chia chác nhau - nên chất lượng công trình thì như cục phân.
24. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng báo chí nói sự thật và liêm chính. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng họ là công cụ tuyên truyền và chuyên viết láo.
25. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng kinh tế Việt Nam rất phát triển. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng nó là một vùng trũng được xây trên sự giả tạo.
26. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng lạm phát là do doanh nghiệp tham lam tăng giá. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng là vì nhà nước in quá nhiều tiền.
27.
Hồi nhỏ tôi đã tin rằng chính phủ quy hoạch để xây công trình. Nhưng lớn lên
tôi mới biết rằng đó là cướp đất.
Hồi nhỏ tôi đã tin rằng Việt Nam là nước giàu gạo lúa. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng dân Việt đang chết đói.
28. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng nhiệm vụ của CA là bảo vệ dân. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng họ chỉ bảo kê và vòi tiền.
29. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng dân Bắc 54 cũng như bao dân khác. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng họ đã bỏ quê trốn CS để vào Nam.
30. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng chuyện gì ngoài xã hội thì kệ nó, chẳng liên quan gì tới mình. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng rồi sẽ có một ngày mình bị như vậy.
31. Hồi nhỏ tôi đã tin rằng tôi chỉ cần học giỏi thì sẽ thành tài. Nhưng lớn lên tôi mới biết rằng phải có quan hệ, phải là COCC và phải có tiền.
CONFIDENTIAL WORDS OF A PERSON
LIVED UNDER THE VIETNAMESE COMMUNIST REGIME!
When I was a child, I believed that…
- When I was a child, I believed that Uncle Ho Chi Minh had gone to find a way to save the country. But when I grew up, I learned that Uncle Ho Chi Minh went to work abroad and brought communism to us today.
- When I was a child, I believed that North Vietnam fought against the Americans to save the country and liberate the nation. But when I grew up, I learned that they had invaded an independent and sovereign nation.
- When I was a child, I believed that the civil war was to fight against the Americans to save the country. But when I grew up, I learned that we sacrificed for the Soviet Union, China, and the communist bloc
- When I was a child, I believed that the people of the South hated the Republic government. But when I grew up, I learned that everyone loved the Saigon government and feared losing a government that, although not perfect, was the kindest in the history of the nation.
- When I was young, I believed that Le Van Tam was a brave boy. But when I grew up, I learned that he did not exist.
- When I was young, I believed that we had defeated the Americans and the puppet army. But when I grew up, I learned that the Democratic Party withdrew aid and so the South collapsed.
- When I was young, I believed that socialism was superior because it brought about equality. But when I grew up, I learned that it only divided poverty equally.
- When I was young, I believed that the rich were rich because they robbed from the poor. But when I grew up, I learned that they had saved for generations and worked hard to get there.
- When I was young, I believed that the way to bring about equality was to take from the rich and give to the poor. But when I grew up, I learned that doing so would make everyone poor.
- When I was young, I believed that officials were serving the people. But when I grew up, I learned that they were ruling and becoming rich while the people were getting poorer.
- When I was young, I believed that my aunts and uncles had been living abroad for a long time. But when I grew up, I learned that they had crossed the border to escape the communists.
- When I was young, I believed that my country was a powerful and rich country. But when I grew up, I learned that it was a poor country.
- When I was young, I believed that the Vietnamese were hard-working, diligent, and industrious. But when I grew up, I learned that they drank and drank all over the streets.
- When I was young, I believed that the French colonialists ruled and exploited Vietnam and the Vietnamese people. But when I grew up, I learned that they built and liberated Vietnam from poverty and backwardness.
- When I was young, I believed that the Viet Minh fought for independence. But when I grew up, I learned that the surrounding countries were granted independence without losing a single life.
- When I was young, I believed that America was an empire. But when I grew up, I learned that America was a gift from God to humanity to protect freedom.
- When I was young, I believed that Vietnamese people were loved and admired by international friends. But when I grew up, I learned that Vietnamese people were despised and hated wherever they went.
- When I was young, I believed that Vietnamese people were very honest. But when I grew up, I learned that Vietnamese people today are very deceitful.
- When I was young, I believed that Vietnamese people were ugly because of their nature. But when I grew up, I learned that they were like that because of the regime and poverty.
- When I was young, I believed that we were proud of being poor and learned. But when I grew up, I learned that we studied well but were still poor.
- When I was young, I believed that to love the country was to love the Organization. But when I grew up, I learned that the two things had nothing to do with each other.
- When I was young, I believed that the government loved the people so it built roads and bridges. But when I grew up, I learned that they borrowed money, increased the capital, and divided it among themselves – so the quality of the construction was like shit.
- When I was young, I believed that the press told the truth and was honest. But when I grew up, I learned that they were propaganda tools and specialized in writing lies.
- When I was young, I believed that Vietnam’s economy was very developed. But when I grew up, I learned that it was a depression built on lies.
- When I was young, I believed that inflation was caused by greedy businesses raising prices. But when I grew up, I learned that it was because the government printed too much money.
- When I was young, I believed that the government planned to build projects. But when I grew up, I learned that it was land grabbing.
When I was young, I believed that Vietnam was a country rich in rice. But when I grew up, I learned that the Vietnamese people were starving.
- When I was young, I believed that the police’s duty was to protect the people. But when I grew up, I learned that they only protected and extorted money.
- When I was young, I believed that the people of the 1954 North were like everyone else. But when I grew up, I learned that they had fled their homeland to escape the communists and come to the South.
- When I was young, I believed that whatever happened in society was none of my business. But when I grew up, I learned that one day I would be like that.
- When I was young, I believed that I only needed to study well to be successful. But when I grew up, I realized that I needed connections, had to be a COCC, and had money.
- When I was young, I believed that Vietnamese society was always fair. But when I grew up, I realized that we are living in a society full of injustice.
Những Câu Thành Ngữ Tiếu Lâm
6. Không phải người đàn bà nào cũng đẹp và không phải người đẹp nào cũng là đàn
bà.
7. Xăng có thể cạn, lốp có thể mòn, nhưng số máy, số khung sẽ không bao giờ thay đổi.
8. Bạn có thể là anh hùng, nếu bạn tên là Hùng và có một đứa em.
9. Bạn có thể là bác sĩ, nếu bạn tên Sĩ và có một đứa cháu.
10. Yêu nhau không phải là nhìn nhau mà phải cùng nhau nhìn về… chiếc xe-máy
dựng gốc cây kẻo kẻ gian chôm mất.
11. Khi bạn ở bên một người mà thời gian trôi qua thật nhanh, còn khi xa người
đó thì thời gian trôi qua thật chậm.
14. Chớ nên bán đứng bạn bè khi chưa được giá
15. Tôi có thể cưỡng lại tất cả mọi thứ… chỉ trừ sự cám dỗ.
16. Sống là phải biết cho đi.
Con Ma "Pê Đê" - Nguyễn Thạch Giang
Thằng Tý học đến lớp 12 thì nghỉ học, con nhà nghèo học được tới đó là quý lắm rồi, tiền đâu mà học lên đại học. Nó theo bạn bè xin đi làm phụ hồ cho chú Hai, là chủ thầu xây dựng nổi tiếng ở thành phố này ai cũng biết. Bước đầu nó chỉ là “thợ vịn”, ai biểu gì làm đó, từ từ học nghề kiếm tiền phụ giúp cha mẹ.
Anh Bông chủ tiệm tạp hoá Bông Lúa, vừa mua lại căn nhà cũ của một người bà con xuất cảnh đi định cư ở nước ngoài. Căn nhà này rất cũ nhiều năm không tu sửa, anh muốn đập bỏ xây mới toàn bộ. Anh mướn chú Hai lo việc xây nhà cho anh.
Trong khi chờ xin giấy phép và chuẩn bị vật liệu xây dựng, căn nhà hiện để trống không ai ở, chú Hai biểu thằng Tý và thằng Tèo đến ngủ canh chừng sợ có người lẻn vô quấy phá. Thằng Tèo cũng trạc tuổi thằng Tý, cũng là thợ vịn như nó, vừa mới theo chú Hai học nghề kiếm miếng ăn.
Căn nhà này nằm ở vùng ngoại ô, sân trước vườn sau rất rộng, xung quanh nhà cửa thưa thớt vắng vẻ, nhà lại không có điện tối âm u, ngoài trời thì mưa rỉ rả buồn thúi ruột.
Buổi tối hai đứa pha cà phê ngồi uống nói chuyện tầm phào rồi đi giăng mùng ngủ. Nằm được chút xíu là thằng Tý ngáy khò khò, thằng này dễ ngủ, nằm đâu cũng ngủ. Thằng Tèo thì trái lại, lạ nhà lạ chỗ nó cứ trằn trọc hoài không ngủ được, lại thêm có tật sợ ma. Chừng chợp mắt thiu thiu ngủ, nó nghe mơ hồ như có ai gọi nó, hình như có người nào vén mùng nó chun vô, nó giật mình ngồi dậy tưởng ăn trộm. Nó đi vòng quanh nhà xem xét, cửa đóng then gài không có gì khả nghi nó chun vô mùng ngủ tiếp.
Buổi sáng thức dậy nó hỏi thằng Tý:
- Ê Tý, bộ mày là pê đê hả? hồi đêm chun vô mùng tao mò mẫm.
Thằng Tý trợn mắt la:
- Mày nghĩ sao mà nói tao pê đê, tao chưa hỏi tội mầy là may, chớ hổng phải hồi tối này mày giở mùng tao chun vô.
Thằng Tèo ngạc nhiên hỏi lại thằng Tý:
- Ừa, nó chun vô mùng tao, nằm ôm tao, tao buồn ngủ quá mơ mơ màng màng cứ tưởng là mày.
Thằng Tèo bóp trán suy nghĩ, thấy rõ ràng cái này lạ thiệt, nó nói với thằng Tý:
- Hồi hôm tao cứ thức giấc hoài đâu có ngủ nghê gì được, tao đi vòng quanh nhà xem xét, đâu thấy gì khả nghi, không lẽ thằng này là ma, con ma pê đê.
- Khùng vừa vừa thôi ông nội.
Hai thằng ôm nhau cười.
Thằng Tèo viện cớ lạ chỗ nó không ngủ được, nó không chịu tới
căn nhà đó ngủ với thằng Tý, thật ra nó sợ ma. Nó nghe đồn căn nhà đó có ma lâu
rồi, người trong xóm ai cũng nói. Nhiều người nói đêm khuya thanh vắng, đi
ngang nhà đó thường thấy một cậu thanh niên trẻ mặc đồ trắng ngồi trước nhà vẻ
mặt buồn bã.
Thằng Tý thì không sợ ma, nó nói ma có gì đâu mà sợ, ma sợ nó thì có, nó nói thầm trong bụng “mày mà còn dám chun vô mùng tao, tao đập mầy một trận cho mày tởn.”
Quả nhiên tối hôm đó con ma mò tới tìm nó. Vào lúc nửa đêm, thằng Tý thấy một bóng người lẻn vào phòng, đến bên giường nó đứng nhìn một hồi rồi từ từ nhẹ nhàng vén mùng chun vô. Thằng Tý giả bộ ngủ mê thử coi cái thằng “con ma” này định giở trò gì đây. Con ma nằm xuống kề bên nó, vòng tay ôm nó rồi rúc đầu vào ngực nó tìm hơi ấm. Thằng Tý không phản ứng vội, nó nằm im thử coi thằng này là ma hay là người. Nằm được một lúc khá lâu, con ma vẫn còn nằm im ôm nó, nó nghĩ chắc là cái thằng pê đê nào ở đâu lẻn vào đây giở trò. Nó ngồi dậy đập thằng đó một cái thiệt mạnh, rồi tiện chân đạp thằng đó té nhào xuống đất kêu một cái rầm.
Thằng Tý đứng dậy cầm đèn pin rọi coi ai, nó bước đến bàn đốt đèn cầy nhìn cho rõ.
Thằng “pê đê” nhìn nó lấm lét ôm mặt khóc:
- Anh ơi đừng đánh em, đừng đối xử với em như vậy.
- Mày ở đâu dám lẻn vô đây giở trò, không mau mà đi ra, biến!
- Nhà này trước đây là nhà của ba má em, em ở đây, ở ngoài sau vườn.
- Căn nhà này đã đổi qua ba bốn đời chủ, ba má mày đã bán căn nhà này lâu rồi, mày còn lẩn quẩn ở đây làm gì.
- Lúc tình hình lộn xộn, mọi người nhốn nháo tìm đường di tản, có thằng ăn trộm lẻn vô nhà. Lúc đó chỉ có mình em ở nhà, em thấy nó bèn la lớn mong có người chạy đến giúp, nó chạy đến bóp họng em, nó bóp mạnh tay quá làm em ngất xỉu rồi tắt thở. Nó hoảng sợ đem xác em thảy xuống cái giếng cạn ở cuối vườn, chuyện này không ai biết. Ba má em tìm hoài không biết em đi lạc nơi nào, sau đó cả nhà theo đoàn người di tản ra nước ngoài sống lâu rồi.
Thằng Tý nghe con ma pê đê kể chuyện đời của nó thấy tội nghiệp, tìm lời an ủi.
-Thôi chuyện cũng qua đã lâu rồi, chú em cũng nên quên đi mà đi
đầu thai làm kiếp khác, đừng có lảng vãng ở đây phá phách hết người này tới người
khác.
- Dạ em đâu dám phá phách gì ai, em bị chết oan nên hồn ma cứ còn dật dờ trên dương thế. Em mò vô mùng anh, ôm anh tìm hơi ấm, có hơi ấm của người em sẽ hiện nguyên hình như nãy giờ anh thấy đó. Từ lâu rồi em cầu mong có người giúp đỡ, đem xác em an táng, cầu siêu cho linh hồn em được an nghỉ mà đi đầu thai. Nhưng ai gặp em cũng bỏ chạy, hôm nay có duyên lành gặp anh, anh làm ơn cứu giúp em.
Thằng Tý nghe vậy thấy tội nghiệp, nói với con ma:
- Nếu quả đúng như lời chú em nói, anh mầy cũng ráng giúp cho chú em đi đầu thai, để không còn dật dờ dật dưỡng chỗ này.
- Em cảm ơn anh nhiều lắm, em sẽ đền ơn anh, để em chỉ cho anh cách làm bò viên ngon lắm, sau này anh có nghề sống nhàn hạ không còn cực khổ như bây giờ.
Thằng Tý nghe vậy bật cười ồ. “Trời đất! Anh mày làm thợ hồ, có biết nấu nướng cái con khỉ gì đâu mà chú em chỉ cách làm bò viên.”
- Ba má em có món bò viên gia truyền ngon nổi tiếng khắp vùng, anh học làm mai mốt mở quán có đồng vô đồng ra sống nhàn hạ. Quán hủ tiếu bò viên của ba má em rất đông khách, ổng bả kiếm được tiền khá lắm.
Lúc bỏ đi trốn, ba em không kịp lấy hủ vàng chôn dưới nền nhà, để em chỉ chỗ anh đào lên lấy đó làm vốn.
Nói chuyện tới đó thì có tiếng gà gáy xa xa , trời hừng sáng, thằng“con
ma” tan biến trở về cõi âm của nó.
Nghe thằng “con ma” nói có hủ vàng của ba nó chôn dưới nền nhà, thằng Tý nôn nóng về nhà mang cuốc xẻng tới để đêm nay hai đứa sẽ đào tìm. Nửa đêm hôm đó, thằng “con ma” đúng hẹn chui vào mùng của nó, ôm nó tìm hơi ấm chừng một tiếng thì hiện nguyên hình.
Hai đứa đốt đèn cho thiệt sáng để dễ làm việc, căn nhà này thay đổi chủ nhiều lần, họ sửa chữa thay đổi lung tung nên thằng “con ma” cũng khá lâu mới tìm ra chỗ ba nó chôn hủ vàng. Hai đứa hì hục đào bới, bỗng đâu có tiếng đập cửa rầm rầm, thằng Tý hoảng hồn chạy ra coi chuyện gì, thì ra chú Hai, chú có việc đi ngang qua đây, ghé vô coi thử thằng Tý có ở đây ngủ coi chừng nhà hay là trốn đi chơi.
- Mày làm gì giờ này còn thức, tao nghe có tiếng nói chuyện rù rì, ai vậy?
- Dạ đâu có ai.
Chú Hai nhìn quanh không thấy ai, chú ra về biểu nó đi ngủ đừng bày đặt thức khuya. Cũng may chú không thấy chỗ nó đào bới, hú hồn hú vía. Chờ cho chú đi khỏi thiệt lâu, hai đứa tiếp tục công việc dở dang, đào thêm được mấy xẻng thì đụng hủ vàng.
Trời cũng vừa hừng sáng, thằng “con ma” trở về cõi âm của nó, thằng
Tý thì mừng húm ba giò bốn cẳng ôm hủ vàng chạy một mạch về nhà.
Cả nhà thằng Tý đóng cửa cẩn thận sợ lỡ có ai dòm thấy, rồi cùng nhau xúm lại đếm vàng. Năm chục lượng. Ba thằng Tý đếm vàng mà tay run run, hồi nào tới giờ nghèo rớt mồng tơi cả đời chưa mua được một chỉ vàng.
Thằng Tý đi tìm thằng Tèo kể rõ đầu đuôi câu chuyện cho nó nghe,
nhưng nó dấu nhẹm chuyện hủ vàng. Nó nhờ thằng Tèo phụ cha con nó đi bốc mộ cho
thằng “con ma pê đê”, xong việc nó sẽ trả công một lượng vàng, căn dặn nó không
nói cho ai biết chuyện này. Thằng Tèo nghe chuyện thấy tội nghiệp thằng “con
ma” nên đồng ý đi giúp, chớ nó không mong gì chuyện tiền bạc, thằng Tý cũng
nghèo như nó làm gì có được một lượng vàng.
Ngày hôm đó cha con thằng Tý và thằng Tèo âm thầm ra chỗ cái giếng cạn đào tìm xương cốt của thằng “con ma” như lời nó chỉ dẫn. Đào bới đâu độ một tiếng đồng hồ thì gặp. Ba thằng Tý lượm bộ xương khô bỏ vô cái hủ sành rồi cùng nhau ra về. Ba má thằng Tý rước thầy về nhà tụng kinh làm lễ cầu siêu cho thằng “con ma” xong rồi đem xương cốt nó đi hỏa táng.
Thằng Tý đem tro cốt của thằng “con ma” để an vị trong chùa “Phước Huệ”. Hủ tro cốt của ai cũng có tên tuổi, ngày sanh và ngày mất. Hủ tro cốt của thằng “con ma” thì trống trơn không tên không tuổi, thằng Tý sơ ý quên không hỏi tên của nó. Thằng Tý ứa nước mắt tội nghiệp cho thằng “con ma” sống vất vưởng không nhà, chết không tên không tuổi. Nó khấn vái nói lầm thầm:
“Thôi chú em hãy yên nghỉ nơi đây nghe kinh kệ hầu kiếp sau không gặp điều oan nghiệt”.
Từ đó không ai còn thấy “con ma pê đê” Thằng Tý không còn đi làm
phụ hồ giúp chú Hai, nó cất nhà lầu mở quán bán hủ tiếu bò viên. Không ai biết
làm sao nó có tiền, chỉ đồn đoán là nó trúng số. Trong một buổi nhậu, nó vui miệng
khoe với mọi người, nó biết làm bò viên là nhờ một con ma chỉ nó làm, mà con ma
này là một “con ma pê đê”. Mọi người cười ồ nói thằng này xạo dốc tổ, bày đặt bắt
chước “chú Ba Phi”. Riêng chỉ có thằng Tèo là tin thằng Tý nói thiệt. Chuyện
này là chuyện có thiệt. Chắc là thằng “con ma” cho nó số đánh đề, chớ làm sao
mà nó có nhiều tiền dữ vậy.
Nguyễn Thạch Giang
Thursday, October 30, 2025
Vành Khăn Tang Cho Một Anh Hùng - Phạm Tín An Ninh
Nghĩa Trang Melrose
Abby Memorial Park nằm ở thành phố Anaheim, ngay phía dưới Xa Lộ 5. Đến nhà
nguyện trước 9 giờ sáng, tôi đã thấy đông đảo đồng hương và chiến hữu trong màu
áo của đủ quân binh chủng: Bộ Binh, Thiết Giáp, Nhảy Dù, Nha Kỷ Thuật, Hải Quân,
Không Quân và đặc biệt là SVSQ Thủ Đức. Một số đang chuẩn bị cho Lễ Phủ Kỳ.
Toán phủ kỳ được chỉ huy bởi một cựu Lôi Hổ trẻ, oai phong với cây kiếm bạc bên
hông, cùng với 2 cựu TQLC bồng súng chào và 8 chiến hữu thay mặt các Quân Binh
Chủng trịnh trọng nâng lá Quốc Kỳ VNCH để phủ lên quan tài của một vị niên
trưởng mà danh tiếng của Ông đã được mọi người biết đến: Mãnh Sư Đại Tá Nguyễn
Mạnh Tường.
Đại Tá Tường, vẫn còn
đủ nét cương nghị trên khuôn mặt, trong quân phục Nhảy Dù, chiếc nón đỏ trên
ngực, nằm bất động trong chiếc quan tài, như một “thiên thần” chỉ đang say ngủ.
Từng người lần lượt
đến cung kính chào Ông lần cuối. Vài người ôm quan tài khóc sướt mướt. Các nhà
sư, trong đó có một vị sư người Mỹ, niệm kinh hành lễ. Niên Trưởng Vũ Trọng
Mục, người bạn có nặng tấm lòng, đứng ra tổ chức tang lễ cho người đồng môn cùng
Khóa Vì Dân Thủ Đức (khóa 5), đã thưa với tất cả mọi người là Ông rất hãnh diện
và sung sướng để được làm việc này cho một người Bạn đức độ, anh hùng. Ông cám
ơn những bạn bè chiến hữu ở Bắc Cali đã dành cho Ông cái vinh dự lớn lao và cảm
động này.
Một số đông bà con,
chiến hữu đại diện cho Hội Đồng Hương và Tiểu Khu Bình Định, một số đã từng làm
việc bên cạnh Đại Tá Tường, đứng thành hai hàng dài trước quan tài, sụt sùi nói
lời ngưỡng mộ, biết ơn và từ biệt Ông, con Mãnh Sư bao phen đã làm kẻ thù khiếp
sợ, cứu nguy và an cư cho dân, quân Bình Định trong suốt một thời khói lửa,
điêu linh...
Không khí thật nghiêm trang, cảm động. Điều đặc biệt đáng buồn là không tìm thấy những vành tang trắng. Vợ con Ông không có mặt. Chẳng lẽ họ đã thực sự cạn tình, cạn nghĩa, quên mất thế nào là Nghĩa Tử Nghĩa Tận, hay là vì một lý do nào khác. Người đàn ông quỳ lạy, dâng hương và đội sớ trước bàn thờ hôm nay, xin được nhận Ông như nghĩa phụ là con rể của cựu Đại Tá Trần Đình Vỵ, vị tiểu khu trưởng, người bạn chiến đấu một thời với Ông ở Bình Định. Nơi Ông đã lập nhiều chiến tích vẻ vang, mà dư âm sẽ còn vang dội mãi trong lòng người và sử sách.
Trong nhà nguyện hôm
nay, ngoài những cựu chiến binh, bạn hữu, còn có rất nhiều người, mà hầu hết
chưa từng quen biết Đại Tá Tường. Họ đến đây với lòng ngưỡng mộ và kính yêu
Ông. Họ đến để nhìn mặt Ông lần đầu cũng là lần cuối, khóc chào tiễn biệt một
vị anh hùng. Ông ra đi nhưng không bao giờ chết. Ông sẽ sống mãi trong lòng mọi
người. Và hôm nay, dù vợ con Ông không đến, trước quan tài thiếu mấy vành tang
trắng. Nhưng có biết bao chiến hữu, đồng hương có mặt, cũng như đang ở khắp mọi
nơi trên quả địa cầu này, đã dành cho Ông một vành tang rất trang trọng trong
lòng.
Ai dám nói trong đoàn
quân chiến bại không có những anh hùng? QLVNCH có rất nhiều vị anh hùng, và
Mãnh Sư Nguyễn Mạnh Tường rất xứng đáng để được gọi là một anh hùng. Ông ra đi
nhưng sẽ không bao giờ chết và không bao giờ cô đơn, dù trên chính quê nhà hay
ở chốn tha hương.
Phạm Tín An Ninh
(cựu lính SĐ23BB)
Theo Người Việt Boston
Tại Sao Có Thể Ăn Thịt Bò Tái, Nhưng Không Nên Ăn Thịt Gà Tái? Lý Do Ít Người Biết
Nguồn: Fb
Ba Ông Wang Cùng Một Làng
Wednesday, October 29, 2025
Cầu Nguyện Để Tìm Sự Hướng Dẫn Của Chúa - Rev. Ron Rolheiser, OMI
Lời người đăng
Dù không là tín đồ của một tôn giáo nào nhưng khi bế tắc, một lời cầu nguyện với đấng thiêng liêng cũng giúp ta phần nào nhẹ nhõm bình yên trong tâm hồn. Phương chi đời có câu "Cánh cửa này đóng thì sẽ có cánh cửa khác mở ra"...
NPN
*********
Trong quyển tự truyện Nỗi cô đơn triền miên (The Long Loneliness), Dorothy Day kể một giai đoạn khó khăn trong đời bà. Lúc đó bà vừa trở lại đạo Ki-tô sau một thời gian dài sống vô thần, rồi bà sinh đứa con gái. Trong thời gian sống vô thần, bà yêu một người đàn ông, là cha của đứa con gái; bà và người đàn ông này – hai người vô thần đã bị vỡ mộng với xã hội chính thống – đã thỏa thuận với nhau sẽ không bao giờ làm đám cưới, như một lời tuyên bố chống lại những quy ước truyền thống của xã hội.
Nhưng việc bà trở lại đạo đã làm cho cuộc sống của bà bị đảo lộn.
Người cha của đứa con ra tối hậu thư; nếu bà rửa tội cho con thì ông chấm dứt mối
quan hệ với bà. Dorothy chọn làm lễ rửa tội cho con, nhưng đã trả giá rất
đắt. Bà yêu sâu đậm người đàn ông này và hết sức đau đớn khi chia
tay. Hơn nữa, vì chuyện trở lại đạo, bà bị cắt đứt khỏi tất cả người quen
biết cũ trước đây, làm cho bà đau còn hơn mất bạn tâm giao. Nó làm cho bà
mất việc, không nguồn hỗ trợ nuôi con, và không còn mục đích trước đây trong đời.
Bà cảm thấy cô đơn và lạc lối một cách đau đớn.
Việc này làm cho bà phải quỳ gối xuống, theo đúng nghĩa đen. Một
ngày nọ, bà đi tàu lửa từ New York đến thủ đô Washington và dành cả ngày hôm đó
cầu nguyện ở Thánh Đường Quốc Gia Đức Mẹ Vô Nhiễm. Và, như bà chia sẻ
trong quyển tự truyện, lời cầu nguyện của bà hôm đó trực tiếp không e ngại,
khiêm tốn và rõ ràng. Thiết yếu, bà lặp đi lặp lại với Chúa, rằng bà lạc
lối, bà cần một hướng đi rõ ràng cho cuộc đời, bà cần sự hướng dẫn đó ngay bây
giờ, không phải ở một tương lai nào xa xôi cả. Và, như Chúa Giê-su trong
Vườn Giếtsêmani, bà lặp đi lặp lại lời cầu nguyện nhiều lần.
Tối hôm đó, bà đi tàu về nhà, khi bước lên căn hộ của mình, bà thấy ông
Peter Maurin đang ngồi đợi trên bậc cấp . Ông mời bà khởi công làm việc cho
Catholic Worker. Phần còn lại của câu chuyện đã đi vào lịch sử.
Những lời cầu nguyện của chúng ta không phải bao giờ cũng được đáp lại
nhanh chóng và trực tiếp như vậy, nhưng luôn luôn được đáp lại, như Chúa Giê-su
đã đoan chắc với chúng ta, bởi vì Chúa không từ chối Thần Khí cho những ai xin
nhận. Nếu chúng ta cầu nguyện xin hướng dẫn và hỗ trợ, chúng ta sẽ nhận
được sự hướng dẫn và hỗ trợ.
Trong Thánh Kinh, chúng ta thấy nhiều ví dụ nổi bật về những người, như
Dorothy Day, tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa trong cầu nguyện, đặc biệt khi họ
cô độc và sợ hãi lúc đứng trước chấn động lớn nào đó hay sắp phải chịu đau khổ
trong đời. Ví dụ, chúng ta thấy nơi các nhà Tiên tri, khi lạc lối trong
sa mạc và đứng trước cuộc nổi loạn do chính dân của mình, họ đã lên núi Horeb để
xin lời khuyên của Chúa. Và chúng ta thấy điều đó khi Chúa Giê-su cũng
lên núi Horeb để cầu nguyện, và cầu nguyện suốt đêm trong nhiều đêm, gắng gỗ để
tìm được cả sự hướng dẫn lẫn lòng can đảm mà Người cần để thực hiện sứ mạng của
mình.
Nhìn vào lời cầu nguyện của các nhà Tiên tri, Chúa Giê-su, Dorothy Day
và vô số những người khác đã cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn, chúng ta thấy lời cầu
nguyện của họ, đặc biệt khi họ cảm thấy cô độc và tuyệt vọng nhất, có ba đặc điểm:
chân thật, trực tiếp và khiêm nhường. Họ nâng trái tim và trí óc của mình
lên Chúa, không phải là trái tim hay trí óc của ai khác. Không hề có chuyện
làm ra vẻ, biện minh, hay giấu diếm điểm yếu. Họ để tuôn trào nỗi sợ hãi,
sự bất tương xứng, nỗi thèm muốn, rối loạn của họ, như những đứa trẻ con vẫn
làm khi cầu xin bàn tay của ai đó giúp đỡ.
Có một điều tương đương thú vị trong một số câu chuyện thần tiên kinh điển
của chúng ta, trong đó nhân vật Chúa thường xuất hiện dưới dạng thiên thần,
nàng tiên, con cáo hay con ngựa. Và luôn luôn những ai tiếp cận nhân-vật-Chúa
đó với lòng tự tin thái quá, kiêu căng, hay giả tạo, thì họ không nhận được lời
khuyên hay phép lạ nào. Ngược lại, ai tiếp cận những nhân-vật-Chúa đó với
lòng khiêm nhường và công nhận họ lạc đường trong khi đi tìm kiếm thì họ sẽ được
cho lời khuyên và phép lạ. Có một bài học cầu nguyện quan trọng trong đó.
Tất cả chúng ta, vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời, đều có
lúc cảm thấy cô đơn, lạc lối, rối loạn, và bị quyến dụ hướng về con đường chết.
Những lúc đó, chúng ta cần tới bên Chúa với lời cầu nguyện chân thật không e ngại,
trực tiếp và khiêm tốn. Giống như Dorothy Day, chúng ta cần tỏ bày ra và
dâng nỗi sợ hãi và bất an có thực của chúng ta lên Chúa, cầu nguyện, lặp đi lặp
lại nhiều lần: “Con sợ! Con cảm thấy quá cô đơn và cô lập trong chuyện
này! Con không muốn làm điều này! Con hoàn toàn không thích hợp!
Con không còn sức lực nào cả! Lòng con tràn đầy giận dữ! Con cay đắng
về bao nhiêu là chuyện! Con căm ghét một số chỗ mà luân lý Ki-tô của con
đã đưa con tới! Con bị quyến dụ theo những cách mà con quá hổ thẹn không
dám nói ra! Con cần được hỗ trợ nhiều hơn mức Người vẫn hỗ trợ cho
con! Xin gửi đến cho con một ai đó hay gửi cho con điều gì đó! Nếu
Người muốn con tiếp tục con đường này thì Người phải giúp con nhiều hơn nữa!
Con cần điều đó ngay bây giờ!”
Và rồi chúng ta cần phải chờ đợi, một cách kiên nhẫn, hướng vọng về.
Có lẽ chẳng ông Peter Maurin nào sẽ xuất hiện trước bậc cửa nhà chúng ta vào
đêm đó, nhưng, khi sự bất-lực-hoang-mạc đã phát huy tác dụng thì một thiên thần
sẽ đến truyền sức mạnh cho chúng ta.
Rev. Ron Rolheiser, OMI
Nỗi Đau Hạnh Phúc - Brian Hoàng
tranh đinhtrườngchinh
Lâu lắm tôi mới gặp lại anh chắc
khoảng hơn 30 năm. Lần sau cùng là lần tôi giúp anh thông dịch giấy tờ khai
sanh của ba cô con gái để làm thủ tục mua bảo hiểm trong sở làm.
Đến khi được Cao Ủy tị nạn cứu ,đưa vào trại thì chị tuy sống nhưng như là một cái xác
không hồn. Khoảng tháng sau thì chị cứ ói mửa và khi vào bệnh viện thì oan trái
quá khi biết chị đã có thai. Chắc chắn giọt máu trong bụng kia là giọt máu của
bọn thú vật hải tặc Thái Lan ,vì cả mấy tháng trời anh chị đâu có dịp mà gần
gũi chuyện gối chăn.
Ai cũng khuyên chị nên bỏ cái
thai vì để nó sẽ trở thành nỗi khó xử cho cả gia đình chị về sau này. Cả anh và
chị không đắn đo, đều tự nguyện nếu bề trên đã định cho chị phải mang giọt máu
kia thì anh chị sẽ gánh. Dù gì bào thai chẳng có tội tình gì và cũng có mang
dòng máu của chị. Cháu gái ra đời ở trại tị nạn và vài tháng sau gia đình anh
chị đi định cư ở Mỹ.
Anh chị chọn một tiểu bang ở miền
Đông Nam, xa lạ ít người Việt để làm lại cuộc đời và tránh giao thiệp với những
người quen biết cũ. Chị vì không thể quên cơn nạn tai trên biển, dần mắc bệnh
trầm cảm, u uất được vài năm rồi phát bệnh xong mất đi trong giấc ngủ.
Anh đưa ba cháu gái về California
tránh lạnh và đến vùng tôi ở. Ngay từ lúc đầu, tôi đã thấy lạ vì thấy rõ ràng
anh thương con bé út lắm. Anh hay chép miệng nói tội con bé nó mồ côi. Hai cô
chị cũng tưng tiu cô em út như báu vật. Sau này thân rồi, anh mới vừa khóc vừa
kể cho tôi nghe câu chuyện thương tâm của gia đình anh và lúc đó tôi mới hiểu.
Cứ tưởng tượng cảnh gà trống nuôi
con, mà con lại là ba cô con gái thì biết khó khăn đến chừng nào cho một người
đàn ông. Phải thấy anh hỏi các bà chung quanh cách tập thắt bím, cài nơ, kẹp
tóc cho con gái hay lúc mấy cô đã đến tuổi dậy thì mới biết là anh khổ nhọc lắm.
Bao nhiêu công việc làm lương cao, anh phải đành từ chối vì muốn dành hết tình
thương và thời gian cho ba đứa con thơ. Anh nhất định vì các cháu nên không bước
đi bước nữa dù nhiều người mai mối và anh còn rất trẻ.
Nhiều lúc tâm sự, vì quá thân
tình, tôi hỏi anh có một lúc nào đó, nhìn cháu gái út có làm cho anh khó chịu
hay anh bị gợi nhớ đến kỷ niệm hãi hùng của chuyến vượt biên không? Tôi còn nhớ
ánh mắt và lời nói của anh đẵm đầy tình người và tình cha con: Cháu là con của
hai vợ chồng tôi và là em của hai đứa chị nó, chắc đã đủ rồi phải không anh?
Tôi còn nhớ, bắt tay anh thật chặt rồi nói: Đúng vậy. Thế là quá đủ rồi.
Bẵng đi một thời gian tôi không gặp
anh, vì nghe nói hai cháu lớn đã vào chung một trường đại học ở tiểu bang khác.
Vì không muốn xa các cháu, anh đã di chuyển hẳn tới đó để gần gũi và lo lắng
cho các cháu. Thôi thế cũng mừng vì ít ra anh cũng được niềm hạnh phúc khi thấy
các cháu đã có một định hướng rõ ràng cho tương lai.
Gặp lại anh hôm nay, anh rủ tôi
ngồi lại kể cho tôi nghe thêm những gì đã xảy ra cho gia đình anh trong thời
gian qua. Hai cháu lớn được học bổng tại những trường Ivy League nổi tiếng ở nước
Mỹ. Cô lớn tốt nghiệp MBA và hiện nay là Director của
một bệnh viện lớn tại California. Cô kế ra trường bác sĩ MD, cô út học xong dược
sĩ, bị hai cô chị ép phải nghỉ làm, hai chị nuôi cô em trở lại trường học bác
sĩ và hiện nay đang hành nghề tại Los Angeles.
Hai cô chị đã lập gia đình và hiện
nay anh sống với cô út tại một khu nhà giàu nhất nhì nước Mỹ gần vùng tôi ở.
Nhưng hình như nỗi đoạn trường chưa chịu buông tha gia đình anh. Vài năm trước
cô chị mắc bạo bệnh ung thư máu Leukemia mà
tất cả phương pháp hóa trị tân tiến nhất đã bắt đầu chịu thua. Anh kể là anh bị
khủng hoảng đến cực độ khi nhìn thấy hai đứa cháu ngoại còn nhỏ mà bản án tử
hình thì như đã ban ra cho cô con gái đầu. Cô em thứ nhì là Oncologist cũng gục đầu bất lực trước số trời
ngoại trừ bone marrow transplant. Cả nhà đều
thử coi có thể hiến tủy cứu cháu hay không… Nhưng đúng là trời thương… cô em út
lại là người có tủy hợp nhất với cô chị và cuộc ghép tủy đâ thành công. Cô chị
lành bệnh chính nhờ cô em út của mình. Anh chắp tay nhìn lên trời và xúc động
nói: anh nghĩ coi, đó có phải là trời sắp xếp mọi sự cho gia đình tôi không
anh. Ngày có con bé, tôi chỉ nghĩ đó là việc phải làm và cần làm. Tôi chỉ nghĩ
đơn giản, tôi thương vợ tôi và đây là máu huyết của vợ tôi, tôi phải lo, phải
gánh vác thôi. Gia đình tôi may mắn lắm anh à. Tôi được Ơn Trên soi sáng nên đã
làm đúng theo lương tâm của mình. Thế mới biết Trời xanh thật là có mắt.
Đời tôi gặp nhiều loại đàn ông
không ra gì, nhưng giờ mới biết trên đời này đàn ông đúng nghĩa đàn ông cũng
còn nhiều lắm.
Câu chuyện trên càng làm tôi tin
tưởng thêm rằng: bề trên đã an bài cho mỗi người một số phận và luật nhân quả rất
công bằng. Gieo giống ngọt thì mới mong có trái ngọt.
Mong anh và các cháu hạnh phúc và
gặp những điều an lành nhất.
Brian Hoàng
* Tên thật nhân vật đã được thay đổi và câu chuyện này được kể lại với sự đồng ý của nhân vật.









