Nhà Trâm ở cuối con đường Phan
Đình Phùng Đà Lạt, ngôi nhà bé nhỏ cổ kính có hai cây anh đào trước cổng. Những
cây anh đào thường trổ hoa hồng thắm mỗi độ đông về và cho đến khi xuân ngập ngừng
trước ngõ hoa vẫn thắp sáng một góc phố làm người qua lại ai cũng tấm tắc ngợi
khen.
Một mùa đông buồn khi đất nước
rơi vào cơn biến động, ngôi nhà ngói cũ đơn lẻ ở dãy phố rộn rịp người qua lại
cô đơn hơn bao giờ cả. Các anh lớn nhỏ vào các trại tù, người ra Bắc kẻ trong
Nam. Các chị người có chồng về Sàigòn, người vượt biên kẹt trong trại tỵ nạn,
chỉ còn Trâm là gái út trong nhà với chị Hai và vài đứa cháu nhỏ mà các chị dâu
đã gởi lại nhà để bôn ba vào cuộc bán mua may rủi trong xã hội mới hòng kiếm tiền
thăm nuôi chồng và nuôi con thơ dại.
Chị Hai là chị đầu chưa bao giờ lấy
chồng, từ khi cha mẹ mất chị hy sinh ở vậy nuôi các em. Ai cũng tưởng chị Hai
là mẹ Trâm vì chị cả và em út cách nhau hơn hai mươi năm. Chị Hai được xem như
là mẹ của tất cả anh chị em Trâm, chị hiền từ đôn hậu lo lắng cho các em chu tất
trong ngoài, chị có cửa hàng tạp hóa ngoài chợ nên đời sống gia đình Trâm cũng
đạm bạc qua ngày trong thời buổi gạo châu củi quế.
Trâm bỏ học lúc vừa hai mươi tuổi
khi đất nước bị người ta giải phóng, ngôi trường Đại Học Đà Lạt nên thơ cũng
không còn giữ được chân người thiếu nữ ưa mơ mộng mang trong người dòng máu
hoàng tộc xa xưa. Cô xếp lại những chiếc áo dài hoa, những bộ cánh tây phương
khoát vào người chiếc quần đen, cái áo len màu u tối để tiếp nhận đời sống mới
mà cô không có cơ hội từ chối. Họ hả hê khi thấy những người như cô không còn
hơn được họ, bởi họ đã mù lòa, bị bần cùng hóa qua nhiều năm tháng trong bức tường
sắt mà vẫn giả vờ xem đó là một điều đáng hãnh diện, đáng được ca tụng như một
mẫu mực cho mọi người phải noi theo. Cô theo bạn bè vào tổ hợp thêu đan để họ bóc
lột sức lao động tận xương tủy nhưng vẫn còn hơn là không làm gì để bị lôi đầu
ra đấu tố trong những buổi họp dân phố ban đêm như một thứ tàn dư của Mỹ Ngụy.
Chị Hai không lấy chồng nhưng
luôn luôn khuyên Trâm không được ở vậy, sống vật vờ theo ngày tháng buồn nản thực
sự Trâm cũng không quen biết ai chứ đừng nói đến chuyện chồng con. Bạn của các
anh giờ ở trong tù chẳng hẹn ngày ra, bạn bè thuở đi học tứ tán khắp nơi hay bỏ
thây trên biển cả vì những cuộc vượt biên hãi hùng sóng gió.
Đà Lạt thơ mộng đã thay đổi, đã
điêu tàn quá rồi. Giọng ca tài tử trữ tình của Tôn Thất Niệm với Chiều Vàng một
thời đã đi vào quên lãng. Hội chợ mùa Đông trên đồi Domaine de Maria đã trở
thành kỷ niệm và y phục mùa đông màu rêu của những sinh viên trường Võ Bị Quốc
Gia trong ngày chủ nhật cũng biến mất trên quảng trường Hòa Bình như một thuở
huy hoàng không còn tìm thấy nữa. Đà Lạt bây giờ thất thểu những con người mặt
mày hốc hác như những bóng ma trong cuộc chạy đua theo cơm gạo. Những khu rừng thông
hình như chẳng còn ai rảnh rỗi đi dạo ngoài vài ba kẻ nặng trĩu búa riều lén
lút chặt cây đem về chụm để luộc chín nồi khoai, hay nồi bo bo mà ở các nước
khác họ dùng để nuôi gia súc.
Xã hội mới nó như thế đấy khi Trâm vửa tròn hai
mươi tuổi.
Tuy nhiên những cây anh đào trước
nhà Trâm thì vẫn thản nhiên xanh tươi hay trổ hoa kết trái với bốn mùa xuân hạ
thu đông trong thành phố nhỏ bé dễ thương này. Hoa không tủi nhục, đau buồn vì
hoa là loài thực vật vô tư, hoa không biết đói, không phải nghe hay thấy điều
chướng tai gai mắt. Có nhiều lần Trâm ước ao mình hóa thân thành cây hoa anh
đào thì hạnh phúc biết bao!
Một buổi sáng còn nằm trong chăn Trâm
nghe chị Hai gọi lớn:
- Trâm ơi, ra mà coi cây mai đã
trổ hoa rồi!
Trâm vội tung chăn chạy ra cửa sổ
và reo vui khi thấy những cành cây gầy thân thể mùa đông đã lác đác nụ hoa hồng
thắm. Niềm vui ùa ập đến, Trâm say mê ngắm không chán mắt cây anh đào và hai
tay ôm chéo đôi vai để cảm thấy cái lạnh nhè nhẹ của Đà Lạt tràn vào cơ thể.
Chị Hai bỗng than thở:
- Mùa đông đến rồi tội nghiệp cho
mấy đứa nằm trong trại tù ngoài Bắc.
Và chị nhắc Trâm:
- Nhớ mặc áo ấm kẻo đau không có
tiền mua thuốc đâu nghe Trâm.
Trâm nghe nghèn nghẹn trong lòng.
Những cây anh đào nở rộ hoa những
ngày sao đó níu chân người qua đường dừng lại phút giây. Những người Đà Lạt bây
giờ lam lũ, nghèo đói tay xách gô cơm co ro ngược xuôi cũng ráng ngước mắt nhìn
hoa cho quên đi đôi phút đọa đầy nơi trần thế. Hoa mang màu hồng vui tươi hy vọng
cho thành phố, hoa khoe sắc với loài dã quỳ vàng rực rỡ thắp sáng những cánh đồi
hoang. Đó là chân dung tuyệt vời của Đà Lạt xứ ngàn hoa dập dìu tài tử giai
nhân của bao ngày xưa cũ, ngày vui đã qua biết bao giờ trở lại.
Người khách lạ dừng chân nhìn lên
những cây anh đào, từ xa phía xa trở về Trâm thấy anh ta thơ thẩn qua lại trước
cổng nhà mình, khi trông thấy cô anh chàng giật mình trố mắt nhìn trân trối.
Trâm dừng bước dưới bậc tam cấp gạch dẫn lên sân nhà hỏi:
- Thưa ông cần tìm ai đó ạ!
Người khách cuống quýt trả lời:
- Ồ không, tôi chỉ là người từ xa
đến thấy cây hoa anh đào đẹp quá nên đứng nhìn mà thôi. Xin lỗi có phải cô là
chủ nhà này không?
Trâm cười:
- Tôi ở đây nhưng không phải là
chủ nhà, đây là nhà của cha mẹ tôi.
- À ra vậy.
Một thoáng im lặng vì hai người
chẳng biết nói gì với nhau. Khách bèn lập lại rằng:
- Hoa anh đào nhà cô đẹp quá!
Trâm cũng nghe có nhiều người
khen như vậy, anh chị em nhà Trâm luôn luôn tự hào về những cây mai cha mẹ trồng
trước nhà mình từ ngày xa xưa nào đó.
Trâm bước lên tam cấp để vào nhà
thì người khách vội nói theo:
- Tôi chưa biết tên cô.
Trâm hơi ngạc nhiên:
- Để làm chi?
- Để biết vậy mà, hoa đẹp có tên
mà người đẹp chưa biết tên thì thật là một điều thiếu sót lắm.
- Ông cứ đặt cho tôi một cái tên
gì cũng được, hơn nữa tôi nghĩ là mình không đẹp đâu.
- Cô khiêm nhượng quá, tôi gọi cô
là Anh Đào vì cô xứng đáng để mang tên này.
Trâm cười xòa và thấy vui vui.
Ngày sau khách lại đứng thơ thẩn
trước cổng nhà dưới cội hoa. Thật lạ lùng thay trong thời buổi nhiễu nhương đói
kém này mà cũng còn người đàn ông lãng mạn như vậy hay sao?
Sau đôi ba ngày thì chị Hai hỏi:
- Cậu đó là ai mà cứ thơ thẩn trước
nhà mình hoài vậy Trâm?
- Nghe đâu là dân du lịch từ Sàigon
lên chơi thấy cây hoa anh đào nhà mình đẹp nên ngắm vậy mà.
Chị Hai nói:
- Sao không mời người ta vào nhà
mà cứ đứng ngoài đường trò chuyện như vậy?
- Biết là ai mà mời vào nhà hả chị?
- Mặt mày như vậy chắc không đến
nổi nào đâu!
Vậy là Trâm quen Quốc Duy. Duy là
người có học và khá đứng đắn, chàng lớn hơn Trâm khoảng bốn năm tuổi và gia
đình giốngTrâm vì có các anh đang đi tù cải tạo. Duy hay nói chàng không thể
thích nghi được với cái xã hội này. Điều đó làm Trâm thấy gần gũi Duy hơn, hai
người rất thông cảm hoàn cảnh của nhau và rất tương đắc trong những câu chuyện
trao đổi dù thời gian quen biết rất ngắn ngủi trong chuyến thăm Đà Lạt của
chàng. Duy cho biết có thể sẽ đi rất xa và cô biết là anh muốn nói gì (thời buổi
này ai cũng ước mong làm một cuộc viễn du không hẹn ngày trở lại).
Trâm thoáng
buồn nhưng cô hiểu rằng giữa Duy và cô chưa có gì sâu đậm lắm, chưa hứa hẹn với
nhau lâu dài thì sự gặp gỡ tình cờ giữa hai người cũng như nước trôi qua cầu mà
thôi.
Rồi Duy trở về Sàigon,Trâm lại tiếp
tục với ngày tháng lặng lờ trong ngôi nhà nhỏ với chị Hai, đôi khi cô thấy nhớ
Duy và mơ mộng một cuộc tình nào đó nhưng Trâm vội gạt bỏ tất cả vì thấy
mình quá lãng mạn, mơ mộng vu vơ mà quên
đi thực tế khó khăn trước mặt. Thật là:
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không
Hai câu thơ Kiều đã diễn đạt rất đúng về sự gặp
gỡ giữa Trâm và Quốc Duy trong mùa đông năm ấy.
Vài tháng sau có một người bạn của
Duy ghé Đà Lạt thăm gia đình cô với lá thư ngắn ngủi của Duy cho hay chàng đi
vượt biên, sống chết không biết thế nào và hứa rằng nếu còn sống sẽ có ngày tìm
về thăm Trâm. Trâm khóc thầm những đêm buồn thao thức, Duy như viên sỏi nhỏ được
ném xuống mặt hồ làm xao động những ngày tháng lặng lẽ của người con gái bé nhỏ
trong thành phố hiền hòa này, lời hứa hẹn mơ hồ của Duy không tạo cho Trâm một
hy vọng nào cả dù cô rất muốn hy vọng cho đời sống mình đỡ trống vắng hơn. Chị
Hai hay thỉnh thoảng nhìn Trâm rồi thở dài ái ngại.
Cây anh đào trước nhà bao lần trổ
hoa rồi tàn héo. Mỗi khi mùa đông về, hoa bắt đầu lác đác tô điểm những cành
mai gầy guộc Trâm lại thấy nhớ Duy da diết nhưng tin tức chàng vẫn mù mịt bóng
chim tăm cá. Các anh Trâm đã có người trở về từ nhà tù nhỏ nhưng đời sống ngày
càng cơ cực thêm trong nhà tù lớn, gian hàng cùng sự buôn bán của chị Hai cũng
không phát đạt được chút nào cả. Duy đã trở thành một kỷ niệm đẹp và buồn trong
cuộc đời Trâm.
Mấy năm sau Trâm lấy chồng đi về
một quận lỵ còn buồn và nhỏ hơn Đà Lạt vì gia đình chồng có đất đai, vườn tược ở
đó. Chồng Trâm lớn hơn cô nhiều tuổi anh hiền lành, chăm chỉ làm ăn, gia đình
chồng khá giả. Cô hay nghĩ nếu không lấy được người mình yêu thì cũng nên kiếm
một tấm chồng giàu để có thể bảo bọc cho mình, để khỏi báo đời chị Hai vì chị
đã khổ quá rồi hết lo cho các em lại đến các cháu. Trâm đặt tên cho con gái đầu
lòng là Anh Đào và yên phận với đời sống êm đềm nơi đèo heo hút gió.
Một ngày mùa đông người khách
ngày xưa trở về chốn cũ nhìn lại cây anh đào trổ hoa hồng thắm trước nhà thì
hay tin người cũ đã đi theo chồng. Duy thẫn thờ nhìn hoa và nhớ lại bài thơ nổi
tiếng của Thôi Hộ:
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện
đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất
tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu
tiếu đông phong
(Tạm dịch
thoát ý của tác giả)
Năm xưa
ngày ấy chốn này đây
Bên hoa khoe
sắc má ai hồng
Má hồng giờ
biết phương nào nhỉ
Hoa vẫn cợt
cười đón gió đông
Mấy chục năm sau vào một mùa xuân trên đất Mỹ
nhân dịp đi dự buổi văn nghệ cộng đồng cùng vợ Quốc Duy bỗng giật mình khi bắt
gặp một người phụ nữ khá trẻ được giới thiệu lên sân khấu để hát giúp vui trong
chương trình văn nghệ cây nhà lá vườn. Duy giật mình bởi vì người đó chính là
Trâm. Trâm bây giờ mang tên là Anh Đào và cô hát lại bài Tạ Từ của Tô Vũ mà
ngày xưa đã có lần Duy đã được hân hạnh thưởng thức:
- Rồi đây khi mùa dứt chiến chinh gió dâng khúc
đàn thanh bình, ta đi tìm thơ muôn phương gót in núi rừng thâm u và lướt trên
muôn trùng sóng. Lời em thầm ước khi nao, dưới trăng giữa mùa hoa đào, trong em
dư âm còn vang tiếng đồng, lầu chiều còn nhuốm ánh hồng, lầu xây trong không sóng
gió rót chia ly .. Tình ta như thông đầu non vời cao trông mây buồn đứng muôn
kiếp cô liêu ngàn năm còn reo.
Vẫn là giọng ca cao vút thánh
thót ngày nào, vẫn là mái tóc dài ôm khuôn mặt trái soan trên thân hình thanh
thoát của Trâm xưa. Duy như chết lịm trong cái quá khứ êm ái ngày nào, một nỗi
đau thấm thía dày xéo trong tâm hồn và khi bài hát chấm dứt người ca sĩ cúi đầu
chào trong tiếng vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt của khán giả chàng vẫn còn sững sờ
như người nửa say, nửa tỉnh.
Người đàn bà trẻ trở lại chiếc
bàn gần chỗ của vợ chồng Duy ngồi, một người đàn ông khoảng hơn ba mươi tuổi nắm
lấy bàn tay cô hình như để nói một lời khen tặng nào đó. Duy vẫn nhìn người thiếu
phụ trân trối và có một động lực vô hình xui khiến chàng muốn đứng dậy tiến về
phía Trâm, về phía người con gái của Đà Lạt thuở nào đã gieo vào lòng Duy quá
nhiều kỷ niệm và những kỷ niệm ấy thỉnh thoảng vẫn trở về hành hạ chàng dù bao
nhiêu năm tháng đã trôi qua, bao nhiêu nước chảy qua cầu và mái tóc người đàn
ông giờ đã điểm bạc, thân thể đã hao gầy vì nợ áo cơm của kiếp phù sinh. Trước
mặt Duy bây giờ chỉ còn hình ảnh của Trâm với vô vàn nhung nhớ, một bóng hình
lãng đãng khói sương mà tầm tay chàng hình như không bao giờ vói tới dù Trâm chỉ
là một người con gái rất dung dị, dễ thương trong ngôi nhà nhỏ của thành phố
năm xưa.
Vợ Duy bỗng kéo chàng về thực tế:
- Anh sao vậy?
Rồi nàng nhìn về phía người phụ nữ
tên Anh Đào hỏi:
- Một người quen chăng?
Duy ngơ ngác hỏi lại:
- Người quen nào?
- Thì cô Anh Đào vừa hát bài Tạ Từ
của Tô Vũ mà anh rất ưa thích đó!
Duy như thoát ra từ một giấc mơ:
- Cô ấy trông rất quen em ạ!
Vợ Duy cười giòn và nói đùa thêm:
- Em lại nghĩ cô ta còn rất trẻ
mà sao mà anh quen được cơ chứ, anh quen mẹ cô ta thì đúng hơn.
Duy nhìn vợ trân trối rồi hai tay
ôm mặt lắc đầu:
- Em nói đúng, anh thật là lẩn thẩn
cô ta chỉ đáng tuổi con cái mình.
Rồi Duy lại ngồi thừ ra đầu óc miên
man nghĩ về người đàn bà trẻ đó. Phải rồi, cô ta có thể là con gái của Trâm vì
cô mang tên Anh Đào một cái tên nghe rất Đà Lạt. Cô ta lại hát bài Tạ Từ của Tô
Vũ, một bài hát Duy đã nghe Trâm hát ngày xưa hơn nữa đâu có người nào mà giống
nhau như hai giọt nước trừ trường hợp có họ hàng thân thích với nhau mà thôi!
Duy xin phép vợ vài phút đến bàn
cô gái để hỏi chuyện. Ban đầu cô hơi ngạc nhiên một chút nhưng sau đó vui vẻ
trò chuyện cùng chàng, Duy khen cô hát hay và hỏi có phải đã từng ở Đà Lạt
không vì cô mang tên Anh Đào. Cô trả lời:
- Gia đình mẹ cháu ở Đà Lạt nhưng
cháu lớn lên ở trị trấn Trại Mát vì cha cháu có đất đai, vườn tược ở đó.
- Cháu qua đây năm nào và đi theo
diện nào vậy?
- Dạ cháu qua được bảy tám năm rồi
theo diện hôn nhân.
Cô chỉ người đàn ông trẻ ngồi kế
bên giới thiệu:
- Thưa đây là anh Khiêm ông xã
cháu.
Duy bắt tay Khiêm rồi thu hết can
đảm để hỏi câu mà chàng muốn biết:
- Chú thấy cháu rất giống một người
quen xưa ở Đà lạt. Còn cha mẹ cháu ra sao?
- Người quen chú là ai vậy?
Thấy Duy im lặng Anh Đào nói tiếp:
- Cháu đã bảo lãnh cho cha mẹ qua
đây gần ba năm nay nhưng cha cháu đã qua đời năm ngoái rồi chú ạ!
Giọng Duy run run:
- Còn mẹ thì sao?
- Mẹ ở nhà trông cháu nhỏ vì hai
vợ chồng cháu đều đi làm, mẹ sáu mươi tuổi rồi lại qua Mỹ hơi trễ nải nên cũng
khó có việc làm. Hơn nữa mẹ cũng già rồi nên tụi cháu cũng không thích mẹ phải bon
chen với đời làm chi.
Duy lặng thinh và Anh Đào tiếp tục
kể lể:
- Mẹ vẫn tiếc là phải chi qua Mỹ
sớm hơn một chút nhưng tại số mẹ cháu như thế chú ạ!
Duy nghe lòng mình tê tái và tự hỏi
có đúng người đàn bà ấy là Trâm không. Chàng không dám hỏi thẳng Anh Đào vì có
điều gì đó ngăn cản Duy lại và khi tiếp chuyện với Anh Đào, Duy có thể khẳng định
đó là hiện thân của người con gái năm xưa. Cũng những câu nói chậm rãi với giọng
điệu nhỏ nhẹ, dịu dàng, cũng những cử chỉ khiêm cung và đôi môi luôn điểm nụ cười,
nhất là đôi mắt đen lay láy với lối nhìn thật dễ thương, chân thật.
Trong khi Duy đang ở trong trạng
thái vô cùng bối rối chẳng biết nói gì thêm thì có một người nào đó đi ngang
qua vỗ vai Duy nói thật to:
- Sao ngồi đây mà không lên hát
giúp vui hả ông Quốc Duy?
Duy lắc đầu:
- Hôm nay mình ho tiếng khàn lắm
hát sao được.
Không ngờ sau câu nói vô tình của
người đó bỗng làm Anh Đào tròn xoe mắt nhìn Duy một cách lạ lùng pha đôi chút
ngạc nhiên:
- Chú tên là Duy à? Chú có phải
là Phạm Quốc Duy hồi xưa ở Saìgon không?
Duy giật mình:
- Phải, sao cháu biết họ chú?
Anh Đào la lên:
- Cháu hay nghe mẹ nhắc tên chú,
mẹ cháu là Trâm ở đường Phan Đình Phùng Đà Lạt, nhà có hai cây anh đào đó. Thôi
cháu hiểu ra rồi hèn chi chú nói là cháu giống người quen xưa, chú còn nhớ mẹ
cháu phải không, trái đất quá tròn chú
nhỉ?
Duy gượng gạo cười bởi những câu
hỏi tới tấp của Anh Đào.
- Nhớ chứ, chú luôn luôn nhớ
Trâm. Không ngờ gặp cháu ở đây, vừa nhìn thấy cháu chú đã ngờ ngợ sao đó. Cháu
giống mẹ như khuôn đúc từ khuôn mặt đến dáng vóc và ngay giọng nói nữa.
Anh Đào trầm giọng:
- Ai cũng nói cháu giống mẹ nhưng đời sống hai
người lại không giống nhau chút nào cả. Số mẹ khổ lắm chú ạ! Có lẽ chú đã biết
mẹ mồ côi sống với dì Hai, mẹ là một thiếu nữ có học vừa lớn lên đất nước thay
đổi phải bỏ trường bỏ lớp, đang ở phố thị Đà Lạt khi lấy chồng phải về một thị
trấn buồn thiu để trông nom vườn tược với cha. Mẹ muốn đi Mỹ từ khi còn trẻ mà
đâu có được, mẹ luôn luôn mong muốn trở lại trường cho việc học dở dang ngày
trước. Khi lấy chồng thì cha rất tốt nhưng bà nội khó khăn quá, cha lại là con
một nên bao lần được anh chị bảo lãnh đi Mỹ mà cha mẹ đâu thể nào dứt áo ra đi.
Âu cũng là số phận.
Những lời nói của Anh Đào càng
làm cho Duy thấy xót xa làm sao. Duy cảm thấy mình có một phần lỗi nào trong đời
sống nhọc nhằn, cơ cực của Trâm, nhất là khi Anh Đào cho biết Khiêm chồng cô là
người yêu khi họ còn ở Việt Nam. Khiêm được gia đình bảo lãnh qua Mỹ trước và
anh ta đã ráng học hành, kiếm được việc làm để mấy năm sau về cưới Anh Đào đem
qua đây. Duy vẫn biết rằng thời gian chàng đi cách nay hơn ba mươi năm có nhiều
khó khăn hơn bây giờ trong vấn đề thư từ qua lại, chàng lại ra đi một mình lưu
lạc xứ người, phải tự lực cánh sinh chứ đâu có gia đình giúp đỡ. Xa mặt cách
lòng đâu phải là một điều xa lạ. Ngày nay qua email người ta có thể biết tin
nhau từng giờ từng phút còn thời của Duy viết một lá cả tháng trời mới đến đó
là chưa nói đến việc bị thất lạc vì nhiều lý do nào đó. Nhưng nói gì thì nói tự
trong thâm tâm chàng vẫn thấy mình thua Khiêm chồng của Anh Đào nhiều lắm.
Duy muốn nói với Anh Đào thật nhiều
về những khó khăn của mình thuở nọ, chàng vẫn chưa lập gia đình khi về thăm
Trâm lần sau đó, nhìn cây anh đào trổ hoa hồng thắm mà người xưa đã ra đi lòng
Duy đã tan nát ra sao. Duy thật sự không dám trách Trâm vì chính chàng đã không
hứa hẹn gì nhiều để Trâm có thể vin vào đó mà chờ đợi, hai người như hai con sông
gặp nhau phút giây rồi chia cách. Tuy nhiên là một người đàn ông Duy tự thấy
mình yếu đuối không dám tự quyết định cuộc đời mình với một người thiếu nữ làm
trái tim mình rung động một thời còn trai trẻ.
Duy tin rằng Anh Đào đã biết nhiều
về tâm sự của mẹ cho nên đã nhận ngay ra chàng qua sự gọi tên vô tình của một
người nào đó. Anh Đào nhìn Duy một cách tò mò rồi hỏi:
- Còn chú thì sao?
Duy chỉ tay về phía vợ:
- Vợ chú ngồi đàng kia kìa.
- Cô đẹp quá, thảo nào...
Anh Đào bỏ lửng câu nói. Duy vội
vàng tiếp lời:
- Không phải vậy đâu. Chú lập gia
đình sau lần trở về thăm chị Hai, lúc ấy mẹ đã lấy chồng đi xa Đà Lạt rồi.
Anh Đào cười nhẹ:
- Tại chú không hứa hẹn gì, không
thư từ qua lại làm sao mẹ có thể chờ đợi được nhưng cháu nghĩ cũng do số phận
mà thôi chú Duy ạ! Cha cháu là một người đàn ông tốt đó là điều may mắn của mẹ
nhưng ông qua đời rồi.
Thấy nói chuyện đã hơi lâu Duy đứng
lên từ giã:
- Cháu cho chú gởi lời thăm mẹ, nếu
có dịp sẽ gặp nhau. À, mà cháu ở trong thành phố này hay sao?
Anh Đào lắc đầu:
- Không, cháu ở một quận nhỏ bên
Mississippi cách đây khoảng năm mươi dặm.
Duy hỏi đùa:
- Nhà có hoa anh đào không?
Anh Đào nói:
- Dạ có, mùa này hoa anh đào nở rộ
rất đẹp nên mẹ thích lắm. Mẹ cháu có tâm hồn nghệ sĩ mà chú tuy già rồi mà vẫn
mơ mộng như xưa.
Duy nói vói con gái Trâm thật dịu
dàng:
- Chú hiểu, dù sao chú cũng vui mừng
gặp lại cháu Anh Đào ạ và nhất là biết mẹ cháu đã qua Mỹ rồi dù muộn màng vẫn
còn hơn là không bao giờ phải không cháu.
Giọng Duy chợt nhỏ xuống và chàng
cảm thấy cay cay trong mắt:
- Cho chú gởi lời xin lỗi mẹ nhé!
- Dạ, mà cháu nghĩ chú đâu có lỗi
gì?
Duy quay lưng di, chàng biết Anh
Đào đang nhìn theo thắc mắc nhưng cô làm sao hiểu được giông bão đang trỗi dậy
trong lòng người đàn ông luống tuổi này. Cô làm sao hiểu được những nỗi đoạn
trường, hệ lụy của thế hệ mẹ cô và chàng
đã đi qua. Duy nghĩ không bao giờ nên tìm gặp Trâm lần nào nữa, hãy để nàng yên
với cuộc sống trong những ngày tháng êm đềm trước mặt và hãy để Trâm- người thiếu
nữ năm xưa - mơ mộng bên những cây anh đào trên xứ Mỹ. Dù sao tất cả cũng dở
dang rồi, hoa anh đào Đà Lạt chỉ còn là một kỷ niệm buồn, một chuyện tình buồn của
một thời đất nước tang thương./
MIMOSA PHƯƠNG VINH
Xin gởi một bài viết mới của Mimosa Phương Vinh. Xin chúc bạn và độc giả blog nguoiphuongnam một mùa Giáng Sinh Hạnh Phúc và một năm mới 2016 van sự Như Ý.
ReplyDeleteThân mến.
Mimosa Phương Vinh
Một chuyện tình đẹp, nên thơ nhưng ngắn ngủi mong manh như hoa đào trong gió. Người đến rồi đi để lại ngâm ngùi lưu luyến suốt cả một đời.
ReplyDeleteCám ơn chị Mimosa Phương Vinh.
Kính chúc chị những gì tốt đẹp và may mắn nhứt trong mùa Giáng Sinh và năm mới 2016.
Thân mến.
NPN
Phải là người Dalat mới có tâm tình và giọng văn này. Tôi lớn lên ởDalat nên tôi thuộc làu từng con đường thuỡ đó rất nên thơ chứ không như bây giờ. Xin phép lấy ngẫu hứng từ câu chuyện này cảm tác một bài thơ, sẽ gởi choNPN khi viết xong
ReplyDeleteDVT