Hỏi mãi, hỏi mãi, hắn mới tìm thấy nhà ông giáo già. Ngôi nhà
mái ngói nhỏ nằm nép trong con ngõ nhỏ ngoằn ngoèo, qua cả chục lần rẽ phải rồi
rẽ trái. Đứng trước hai cánh cổng sắt khép hờ, đôi tay gân guốc đầy những hình
xăm vằn vện dường như không đủ sức để đưa ra bấm chuông.
Ông giáo già tiếp vị khách không
mời với thái độ ngạc nhiên không giấu giếm. Không phải vì hắn là người lạ, mà
vì trong số khách khứa vẫn lui tới nhà ông, không ai có bộ dạng thế này. Nhìn hắn
thật lạc lõng với khung cảnh giản dị, hiền lành và lương thiện của cả căn nhà…
Khi hắn xưng tên, nói mối liên hệ
và mục đích chuyến viếng thăm đường đột này bằng giọng điệu khó nhọc như thể
công việc này thật quá sức đối với hắn, ông giáo sững sờ đến mức chiếc ấm pha
trà đang cầm trên tay rơi xuống mặt bàn. Câu chuyện hơn ba năm trước trở về
trong trí nhớ, kéo theo biết bao đau đớn…
Ngày ấy, khi biết bà giáo - vợ
mình bệnh nặng, ông rơi vào trạng thái “không trọng lượng” hàng tháng trời. Những
lời bác sĩ trao đổi như tiếng sét giữa trời quang. Bà bị ung thư phổi giai đoạn
cuối. Sau cơn choáng ban đầu, ông giáo gắng gượng lấy lại bình tĩnh. Hai vợ chồng
già không con nương vào nhau mà sống, giờ bà mắc trọng bệnh, không biết sẽ ra
đi lúc nào, thực sự ông thấy mình hết sức lực và hết cả nghị lực sống. Thế
nhưng, trong những đêm trắng ngồi cạnh giường bệnh, nhìn vợ vật vã thiếp đi
trong cơn đau, ông tự nhủ ngay lúc này đây mình phải cố gắng trấn tĩnh lại để
làm chỗ dựa cho bà trong những ngày tháng cuối cùng này. Những ngày tháng ấy,
ông luôn bên cạnh bà, không rời bà quá mười phút. Mọi chuyện nâng giấc, chăm
sóc bà chỉ một tay ông…
Tính đến ngày bà lâm trọng bệnh,
họ đã có tròn bốn mươi năm bên nhau. Bốn mươi năm ấy, chưa một lần bà nói ông nặng
lời, chưa một lần ông giận dữ với bà. Bốn mươi năm, căn nhà nhỏ chỉ có ông và
bà. Không một lần có tiếng khóc trẻ con. Chưa một lần bà làm mẹ. Khi biết mình
không có khả năng sinh con, ông đã thức trắng hai đêm trước khi đưa ra đề nghị
chia tay để bà đi tìm hạnh phúc mới. Nhưng bà khóc nấc lên nói hạnh phúc của bà
là ông. Chỗ của bà trong cuộc đời này là ở cạnh ông, trong căn nhà này. Sống trọn
vẹn một đời bên ông, bà chịu thiệt thòi nhiều quá. Ngay cái ngày bà về với ông
cũng thật gian truân. Chiến tranh, không có một đám cưới đúng nghĩa, chỉ có cơi
trầu bố mẹ ông mang sang nhà bà để xin dâu. Lúc đó, ông cũng không có nhà. Bom
đạn mù trời, ông không về kịp ngày xin dâu đã định. Cưới một tuần rồi bà mới được
gặp ông. Cũng vội vã được có ba ngày, rồi ông lại phải đi…
Bà vẫn nói vui với ông rằng, bà về
làm dâu mà không lễ gia tiên cùng chú rể, không áo cô dâu cũng không nhẫn cưới
như bọn trẻ ngày nay. Ông bảo trọn đời ông vẫn nợ bà một đám cưới đúng nghĩa.
Bà lại gạt đi, nói miễn ông bà sống với nhau trọn vẹn và hạnh phúc. Thế nhưng
những ngày cuối cùng của bà, nhìn bà vật vã trên giường bệnh, nắm bàn tay khô gầy
của bà, ông đã có một quyết định thật bất ngờ.
Gom hết tiền tiết kiệm của hai vợ
chồng, ông tạm biệt bà một buổi sáng để đi thành phố. Số tiền này lẽ ra là tiền
dưỡng già của hai vợ chồng, nhưng giờ bà sắp từ biệt ông để về thế giới khác,
tiền bạc với ông chẳng còn nghĩa lý gì. Ông muốn mua tặng bà một chiếc nhẫn cưới
thật đẹp. Một chiếc nhẫn kim cương, đẹp và vĩnh cửu như tình yêu của hai vợ chồng
già. Cô bé trông coi cửa hàng gọi ông chủ tiệm kim hoàn. “Hôm nay bà chủ đi vắng
ông ạ”, cô bé giải thích.
Ông chủ tiệm kim hoàn có bộ râu
quai nón và ánh nhìn dữ tợn. Khi ấy, vì vội về với bà ở nhà, ông đã không băn
khoăn nhiều trước vẻ ngoài bặm trợn của chủ tiệm kim hoàn, cũng không băn khoăn
gì về chiếc nhẫn lấp lánh đang cầm trên tay. Ông đã thật thà một cách đau xót kể
về mục đích mua chiếc nhẫn kim cương của mình khi được hỏi ông mua quà cưới để
tặng con hay cháu. Ông mua nó để tặng cho bà. Tặng cho người vợ chưa khi nào được
đeo nhẫn cưới. Tặng cho một người sắp từ giã cõi đời này.
…Hắn cúi gằm mặt trước mái đầu bạc
trắng của ông giáo già. Trong cả cuộc đời giang hồ ngang dọc, chưa khi nào hắn
sợ hãi thế này. Tiệm kim hoàn chỉ là thứ để hắn che mắt thế gian. Thông thường,
không làm mà vẫn có ăn thì chỉ là quân ăn cướp và ăn cắp, qua mắt làm sao được
những kẻ xung quanh. Thế nên hắn phải tạo cho mình một vỏ bọc có vẻ làm ăn
lương thiện. Vợ hắn, ngoài việc kinh doanh vàng bạc, còn có tủ hàng tạp hóa bán
đủ thứ trên đời, từ gói mì tôm cho đến cái kim băng. Có cả những đồ trang sức
giả vàng giả bạc để bán cho những cô gái quê lên thành phố, muốn có đồ trang sức
như vàng bạc mà lại chẳng có nhiều tiền. Công nhận là công nghệ chế tác đồ
trang sức giả vàng, bạc thật tinh vi. Giả sử có đặt đồ thật bên cạnh đồ giả, bảo
hắn phân biệt hắn cũng chẳng biết đâu mà lần.
Cái hôm ông giáo già lập cập đòi
mua nhẫn kim cương, nhìn vẻ hiền lành đến ú ớ của ông, máu lưu manh trong hắn rần
rật chảy. Nhất là khi ông tâm sự muốn mua nhẫn cưới kim cương để tặng cho người
vợ già sắp chết. Hắn nói với ông chờ một lát rồi lẹ làng chạy sang gian bên cạnh,
nơi có tủ hàng tạp hóa của vợ. Hắn lựa một chiếc nhẫn nhìn đẹp nhất, mặt kim
cương giả lóng lánh nhất mang sang. Hắn bảo đó là bạch kim đính kim cương nhân
tạo…
Và chiếc nhẫn kim cương giả kia
đã theo bà giáo.
Nhưng mọi chuyện lại bắt đầu từ mụ
vợ lắm điều của hắn. Con bé bán hàng bép xép với vợ hắn về chuyện ông già đi
mua nhẫn cưới kim cương và hắn bán hàng. Hắn đắc chí chỉ cho vợ xem xấp tiền của
ông giáo và kể về chiếc nhẫn giả trong tủ tạp hóa của thị, kể về câu chuyện chiếc
nhẫn cưới cho bà vợ sắp lìa đời của ông giáo. Nào ngờ mụ vợ ngồi lặng đi, nước
mắt giàn giụa và một hai đòi hắn mang tiền đến trả cho ông giáo. Lần đầu, hắn
tát vợ hai cái. Lần thứ hai, hắn chỉ tát một cái. Lần thứ ba, hắn gườm gườm
nhìn vợ như nhìn quái vật. Lần thứ tư, thứ năm thì hắn gầm lên: Tao biết ông ấy
ở đâu mà trả!
Sau vụ chiếc nhẫn kim cương ấy, vợ
hắn như lên cơn điên. Trước đây mụ sợ hắn một phép thì tự dưng giở chứng cãi lại
chồng. Mụ còn dám nói về luật nhân quả, về việc sống đừng làm nhiều điều thất đức
mà di hại đến mấy đời sau…
Người mong chết là vợ hắn thì
không sao cả, nhưng thằng con trai mười hai tuổi của hắn tự dưng không ốm không
đau gì lại không bao giờ tỉnh lại nữa sau một đêm ngủ. Sáng ra, không thấy con
dậy đi học như mọi ngày, hắn vào giường phát vào mông nó, gọi dậy. Nào ngờ con
chết cứng tự lúc nào. Thằng con trai duy nhất của hắn. Thằng cháu trai duy nhất
của bố hắn. Vợ hắn chết đi sống lại. Hắn cũng chết đi sống lại bao lần. Gượng dậy
sau đám tang con, vợ hắn ném vào mặt hắn một câu: Trời quả báo ông đấy! Rồi mụ
ôm quần áo lên chùa nương náu, không một lần ngoảnh lại.
Những giấc mơ hãi hùng cứ hành hạ
hắn hàng đêm. Thằng con hắn, mụ vợ hắn cứ lần lượt sỉ vả, trách cứ hắn. Rồi bố
hắn, mẹ hắn, hai người đã qua đời từ lâu, cũng thường xuyên trở về trong những
giấc mơ để hỏi hắn về chuyện chiếc nhẫn kim cương. Hễ nhắm mắt vào là hắn gặp
những con người ấy. Sau một thời gian dài phờ phạc vì mất ngủ và sợ hãi, hắn nhận
ra một điều: mình đã làm một việc thực sự thất đức, bất nhân, như lời vợ hắn
nói. Và cuối cùng, hắn quyết tâm đi tìm ông giáo. Trong lần hắn bán nhẫn giả
cho ông, ông đã kể rất rành mạch về mình…
Ông giáo già chết lặng trước những
lời thú nhận của hắn, trước chiếc nhẫn kim cương thật đặt ở trên bàn đang lấp
lánh, lấp lánh. Nỗi đau không thể bật thành lời. Chỉ có tiếng đồng hồ tích tắc
nhẫn nại vang lên. Cuối cùng, ông là người lên tiếng trước. Ông nhìn sâu vào
đôi mắt đang bạc đi của hắn, rồi chậm rãi bảo: “Chuyện đã qua rồi… Anh biết lỗi,
biết quay đầu lại, vậy là tốt rồi. Kim cương thì quý thật, nhưng có thứ còn quý
hơn nhiều, đó là sự tử tế của con người. Anh biết trở thành một con người tử tế,
thì một chiếc nhẫn kim cương chứ một ngàn chiếc nhẫn kim cương cũng không sánh
được. Tôi tin dưới suối vàng, bà ấy cũng sẽ tha lỗi cho anh…”
Hắn òa lên khóc như một đứa trẻ!
Nguyễn Thị Việt Nga
No comments:
Post a Comment