Năm 2015, Milana đã ba mươi tuổi, đang làm việc trong một công
ty Network ở California. Mẹ nàng tỏ ra lo lắng tại sao tuổi này mà không chịu
lấy chồng, mà cũng ít thấy có bạn trai; bà e rằng phụ nữ sau ba mươi lăm tuổi
khó sanh nở. Nhưng nàng có lý do riêng không nói được với ai.
Vào tối ngày 25 tháng 4 năm 2015, khi
xem truyền hình tin tức về trận động đất 8.Mw đang xảy ra tại thị trấn
Gorka cách tám mươi cây số về phía Bắc thủ đô Kathmandu của Nepal, nàng rùng
mình kinh sợ, nước mắt chảy ròng-ròng nhìn cảnh nhà cửa sụp đổ, người chết vùi
thây trong đống gạch đá lổn-nhổn, trẻ em tán lạc mẹ cha, loi-ngoi bò lê-lết
trên đường phố. Mặc dù trung tâm động đất ở xa nhưng thủ đô cũng bị chấn động;
đền đài, dinh thự, chùa tháp ngả nghiêng. Những lời kêu gọi cứu trợ từ khắp nơi
trên thế giới khiến nàng quyết định xin nghỉ việc một thời gian, tình nguyện
ghi tên vào Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế.
Mặc dù mẹ nàng lo sợ, cản không muốn
nàng đi, nhưng bà biết “cái con bé ương ngạnh,
càng cấm cản nó càng làm tới, năm nay ba mươi tuổi đầu chẳng chịu lo lập
gia đình, bạn trai nào mon-men đến tính chuyện đều bị nó cho là
không hợp với nó”.
Bà biết cái con bé hồi trung học giỏi
toán lý, luôn luôn điểm A+, không bạn trai nào bằng nó được, nó kiêu ngạo lắm,
đến độ những bạn gái cũng ghét nó. Vào độ tuổi mười bảy mười tám, đứa học sinh
Mỹ nào chả cặp bồ, thậm chí phải có kinh nghiệm tình dục mới được cho là bình
thường. Còn cái con Milana này nó như tượng đá. Mặc dù bà còn cái thành kiến
Việt Nam “chữ trinh đáng giá ngàn vàng,
món quà trong trắng dâng chàng tân hôn”, nhưng bà vẫn e ngại nó bị
bệnh thời đại, bệnh lãnh cảm đối với người khác giới tính. Bà cảm thấy sợ hãi
nếu một ngày nào nó cặp bồ với một cô nào! Xã hội sẽ cho nó nhãn hiệu L.
Milana biết hết những ý nghĩ của mẹ cũng
như những xi-xào của họ hàng, bạn bè. Nhưng nàng tự biết, mình là một
thiếu nữ đẹp nhiều chàng mê, vẫn có những đòi hỏi tình dục nam nữ bình
thường, nhưng nàng cảm thấy “ghê-ghê” nếu
một chàng trai không hợp ý nàng đụng đến thân thể mình.
Người đàn ông đầu tiên mà nàng thấy không hợp
với nàng, chính là ông anh cả của nàng, Tòng, hơn nàng hai tuổi. Tòng tốt
nghiệp đại học ngành kinh doanh, mở văn phòng địa ốc kiếm nhiều tiền, lúc
nào cũng diện kẻng, vênh váo; về Việt Nam lấy cô vợ trẻ mới đậu tú tài, tên
Trang kém nàng hai tuổi. Tòng tỏ ra mãn nguyện với đời sống, nhưng anh ta đâu
biết Trang đã tâm sự với nàng : “Mình kém
tuổi Milana, nhưng vì là chị dâu, nên phải xưng là chị với cô. Nhà mình không
khá nên mong đi Mỹ học ngành gì kiếm ra tiền gởi về giúp gia đình; nào ngờ hai
năm sinh hai cháu, tối tăm mặt mũi suốt ngày, tiền anh Tòng đưa chỉ đủ trang
trải tối thiểu vật chất hàng tháng, lấy đâu dư giả cho chính bản thân huống hồ
cho cha mẹ; nhiều khi muốn mua riêng một vài thứ mà không đủ tiền;mình
buồn lắm, nhiều đêm khóc thầm”.
Cơn giận trong Milana bùng lên ; “Chị yên tâm, em sẽ cho anh ấy một trận, đồ ích
kỷ”.Trang chưa kịp ngăn cản thì Milana đã bấm phone gọi Tòng ; “Em không cần anh phân bua, anh là một người ích
kỷ, chỉ nghĩ đến hưởng thụ bản thân, anh nghĩ anh lấy vợ để làm gì ? để làm
ô-sin cho anh hả ? Chị Trang cần được đi học, từ tháng sau, anh phải mướn người
về chăm sóc hai đứa trẻ; em sẽ đich thân dẫn chị Trang đi học”.
Nói là làm, Milana lo ngay hồ sơ học đại
học cộng đồng cho Trang. Mẹ nói thằng Tòng nó sợ con Milana lắm, không dám hó
hé. Milana dằn mặt Tòng :
“Anh mà
đối xử không tốt với chị Trang, em sẽ giúp chị ấy làm đơn ly dị anh luôn, chị
ấy dư sức lấy một người khá hơn anh”.
Sau năm năm Trang đậu bằng kỹ sư
điện toán, làm việc trong công ty của Milana. Trang nói : “ Chị hàm ơn Milana không biết lấy gì trả; anh
Tòng cũng biết điều nhiều lắm, có lần còn nói với chị là bây giờ anh ấy mới
biết mình xử sự sai với chị “.
Người đàn ông thứ hai mà Milana cũng
không hợp ý, là một chuyên viên kỹ thuật số, tên Bennett, da trắng gốc Anh.
Bennett có cái kiêu ngạo ngầm của một kẻ học giỏi, lương bổng cao. Khi Milana
học ban cao học vật lý, thường cùng Bennett đàm luận nhiều vấn đề. Bennett tự
hào về gia tộc Anh mấy trăm năm, con giòng cháu giống, về nền văn minh kỹ thuật
siêu đẳng của người da trắng . Đối với hắn, kỹ thuật cao chính là văn
minh đích thực của loài người. Có lần hắn quả quyết với nàng, dân tộc nào có kỹ
thuật cao sẽ bách chiến bách thắng. Mặc dù hắn giỏi trong ngành của hắn nhưng
những lãnh vực khác của đời sống, hắn ngơ-ngơ nhiều khi ngờ-nghệch. Nàng
cho là hắn bất bình thường, tâm lý bất quân bình.
Còn một anh chàng tên Darius, học ngành
sử, nàng gặp trong thư viện, cũng hay tìm cơ hội gặp nàng, tỏ ra thích nàng.
Darius, Mỹ da trắng gốc Đức, tính tình trầm lặng điềm đạm có kiến thức
rộng về sử. Có lần hắn hỏi nàng “Bạn là người
Việt Nam, bạn có biết nhiều về lịch sử nước bạn không ?”. Nàng bối
rối, cảm thấy hơi đỏ mặt, quả thật nàng gần như mù tịt, đành phải thú thật : “Bố mẹ tôi là người Việt , nhưng tôi sanh ra ở Mỹ, theo học ngành toán lý nên
ít để ý đến khoa học nhân văn”.
Từ đó nàng để nhiều thì giờ đọc sử Việt,
tự nhủ một ngày nào đó sẽ tranh luận với Darius. Nhờ vậy nàng dần dần
hiểu rõ hơn về nguyên nhân khiến bố mẹ mình phải vượt biển tìm cái sống trong
cái chết. So sánh đối chiếu, nàng thấy suy nghĩ của anh chàng Bennett sai lệch
nhiều; nếu kỹ thuật cao là bách chiến bách thắng thì sao nước Mỹ lại thua trận,
rút lui trong rối loạn ? Nàng nghĩ sẽ hỏi Darius xem anh ta
nghĩ sao về vấn đề này.
Darius miệt mài trong thư viện vì
đang viết một tiểu luận gì đó. Nàng tìm gặp và mời anh ta vào quán nước nói
chuyện. Nàng nói : “Tôi đã bỏ nửa năm để đọc
lại lịch sử nước tôi nói riêng và lịch sử thế giới nói chung. Tất nhiên
sao có kiến thức bằng bạn được, nhưng tôi muốn biết bạn nghĩ sao về vấn
đề này”.
Sau này nàng nhớ lại buổi nói chuyện hôm
đó, nàng thấy Darius có vẻ lúng túng, kết án những thành phần phản chiến hồi
những năm 1960 tiếp tay cho phe cộng sản thắng thế. Nàng nghĩ, ngay thành phần
trí thức Mỹ cũng mù mờ chối quanh thì nói chi quần chúng Mỹ. Từ đó nàng cũng
không tìm Darius nữa.
Không chỉ Darius hỏi nàng về lịch sử
Việt. Có những bạn người Nhật, Đại Hàn cũng có lần hỏi nàng : “Tôi là người Đại Hàn, bạn là người Việt Nam, hai
dân tộc chúng ta có nhiều điểm giống nhau ở chỗ trong lịch sử thường bị Hán tộc
Trung Hoa xâm lăng đô hộ,nhưng bạn còn có những phụ nữ giỏi giang như Hai Bà
Trưng, Bà Triệu lãnh đạo chống Tàu; lúc nào bạn tiện thì kể cho chúng tôi
nghe chuyện các Bà nhá”. Milana đã từng cảm thấy mắc cỡ vì nàng say mê
môn toán lý ít để ý đến sử học. Nàng thấy rõ người bạn Đại Hàn hãnh diện về
lịch sử dân tộc, còn nàng hầu như không có gốc rễ gì, sinh ra ở Mỹ, học toàn
tiếng Mỹ, nhưng chẳng phải người Mỹ.
Hồi nhỏ đôi khi nghe mẹ kể về quê ngoại
Vĩnh Long nằm giữa giòng Tiền Giang và Hậu Giang của sông Cửu Long,
về cù lao An Bình êm đềm thơ mộng, nơi bà sinh ra đời; nàng nghe qua rồi
quên luôn vì bài vở học hành tràn ngập. Khi đã đi làm thảnh thơi, nhớ lại lời
mẹ kể về quê ngoại, tự nhiên nàng ao ước về thăm cù lao An Bình.
Lại một chàng trai khác hình như theo
đuổi nàng. Hắn ta tên Liệt, du học sinh Việt Nam ban toán. Hắn có vẻ săn đón
nàng. Có lần sau giờ học, hắn mời nàng đi ăn trưa trong một tiệm Mỹ sang trọng.
Hắn nói : “Để cho tiện, xin mời bạnlên xe của
tôi”. Xe của hắn hiệu BMW mới toanh; nàng nghĩ xe mình hiệu Toyota cà-
cộ, đang đi học lấy tiền đâu tậu xe xịn; anh chàng du học sinh này hẳn là con
nhà giàu bên Việt Nam. Khi trả biên lai, thay vì thẻ tín dụng, hắn lôi một xấp
tiền mặt giấy một trăm mới tinh, gọi cô phục vụ một cách thiếu lịch sự. Sau buổi ăn trưa hôm ấy, nàng thấy rõ
hắn muốn khoe của. Tự nhiên nàng cảm thấy chán, không
muốn gặp lại hắn nữa; nàng nghĩ chắc xưa kia nhà hắn nghèo khổ, bây
giờ làm ăn phất lên được muốn đè bẹp cái mặc cảm thấp kém bằng cách khoe của ?
Hắn muốn tán tỉnh nàng bằng cái cách khiếm nhã ấy
à? Nàng điên tiết, nghĩ sẽ cho hắn một bài học. Hắn đâu biết ông bà ngoại nàng
trước 75 từng là nhà bán vật liệu kiến trúc nổi tiếng ở Sài Gòn, nhà lầu ba
tầng chứa đồ không hết. Hơn nữa, hình như hắn không có những tư tưởng của riêng
mình; về bất cứ đề tài nào, hắn suy nghĩ nói năng theo một khuôn sáo có sẵn,
nghe phát chán.
Một lần sau bữa cơm chiều, mẹ nàng nói :
“Con đã xong đại học, có việc làm rồi, cũng
nên tìm bạn trai tính chuyện hôn nhân đi chứ”. Nàng cười thầm, bà cụ lại dò
hỏi xem mình có mang nhãn hiệu L không? “
Mẹ yên tâm, con nhiều bạn trai lắm, Mỹ cũng có, Việt cũng có , vì con
chưa muốn đấy thôi”. Mắt mẹ nàng như sáng lên : “Có
bạn trai Việt hả, hôm nào dẫn anh ấy lại chơi”. Nàng biết tỏng, bà cụ
khoái rể Việt hơn. Vừa nghĩ đến Liệt là nàng lại muốn nổi nóng, nhưng
nhân thấy mẹ vui , nàng nói : “ Anh ta là
du học sinh Viêt Nam, đây anh ta có đưa danh thiếp tiệm buôn của nhà anh
ta ở Sài Gòn”.
Nàng lục trong ví tấm danh thiếp của Liệt đưa
cho mẹ. Bà cầm đọc, bỗng nàng thấy tay bà run lên, mặt bà tái đi, bà buông tấm
danh thiếp rơi xuống, hai tay ôm ngực như nghẹt thở. Milana hoảng sợ vuốt lưng mẹ : “Ô
mẹ sao thế, để con gọi 911 ngay”, Bà
xua tay : “ Không sao con à, mẹ chí xúc
động một tí thôi, cho mẹ ly nước ấm”.
Bà nói, trước đây mẹ mới chỉ kể cho con
biết ông bà ngoại ngày xưa lao động cần cù, làm ăn buôn bán lương thiện, không
cướp giật của ai mà trở nên giàu có, xây căn nhà ba tầng; nhưng chưa kể cho con
năm 1975 người cộng sản không lao động gì mà lại vu cáo ông bà bóc lột của
người khác, họ cướp nhà, đuổi ông bà xuống góc vườn, chờ xúc đi vùng kinh tế
mới ở bờ rừng chân núi không tiện nghi gì. Ông bà uất ức hai năm sau theo nhau
qua đời. May là bà ngoại có kinh nghiệm năm 1954, dành giụm một số vàng, giục mẹ
tìm đường vượt biển, tìm xứ tự do văn minh mà sống.
Qua Mỹ, mẹ vẫn theo dõi tin nhà; căn nhà
đó bây giờ có chủ mới là một cán bộ cao cấp; vừa nhìn địa chỉ trên tấm thiếp là
mẹ xây xẩm mặt mày; chính là nhà khi xưa của ông bà ngoại đó. May mà con
cho mẹ biết, nếu không thì....
Milana sững-sờ, may mà hắn ta xử sự một
cách thô lậu, chứ nếu hắn ta lịch sự tế nhị thì nàng mắc lừa rồi.
Bao năm nay nàng hiểu sai về mẹ, bây giờ
mới vỡ lẽ. Hóa ra trong tâm khảm bà u-uẩn một nỗi uất-ức; căn nhà của ông bà
ngoại trị giá ít nhất cũng hai triệu đô-la, chưa kể bao nhiêu vật liệu mới
tinh, đáng lẽ thuộc về bà. Mấy lượng vàng bà ngoại cho đã chi vào ghe
thuyền hết; qua Mỹ gần như tay trắng, mua được căn “townhouse” này cũng
may-mắn lắm rồi. Hơn nữa, bà đang học ngành dược khoa thì nửa đường
đứt gánh, qua Mỹ phải kiếm sống bằng nghề may vá.
Từ những năm bảy, tám tuổi nàng đã quan sát
liên hệ giữa bố mẹ. Nàng luôn nghe mẹ than thở, trách móc, oán hờn
đối với bố; một lỗi nhỏ của bố cũng làm mẹ nổi giận, tuồng như bố trách nhiệm
về mọi đau khổ đời mẹ. Sau mỗi lần đi dự tiệc hội ái hữu này nọ, mẹ lại than
thở “Nhà con X, con Y, con Z gần biển to đẹp,
còn nhà mình như cái hộp diêm”.
Nàng thấy thương bố vô cùng; ông chỉ im
lặng nhẫn nhịn. Bố và mẹ học chung thời trung học; khi thi xong tú tài, mẹ học
dược, bố nhập ngũ sau biến cố Mậu Thân, 75 đeo lon đại úy, phải đi tù cải tạo
cộng sản; khoảng 1980 hai người tình cờ gặp nhau tại Mỹ và đi đến hôn
nhân, Ông làm hai “job”, quần quật suốt ngày, chưa kể phải đưa đón hai con đi
học. Năm nàng mười tuổi, ông muốn cho hai con đi học võ; ông nói học võ
để phòng thân thôi, không phải để đánh người ta là phạm pháp; vào trung
học dễ bị bắt nạt, các con phải biết tự vệ.
Anh Tòng nhất định không học võ, chỉ thích
học nhảy đầm. Còn nàng thì hăng hái học nhu đạo, vài năm lên được đẳng
cấp cao, không bạn nào biết. Mẹ nói, con Milana tính như đàn ông. Bố chăm sóc
nàng cẩn thận, chở đi học võ ban đêm không hề than thở. Khi ông mất vì bệnh
tim, Milana suy sụp tinh thần, ngày đêm thổn thức nhớ bố. Trong cơn đau khổ,
nàng nghĩ ông chết sớm vì nỗi buồn không kiếm được nhiều tiền để mua nhà lớn
làm hài lòng mẹ. Nàng âm thầm trách mẹ, nghĩ mẹ là nguyên nhân khiến ông buồn
chết sớm. Dần dần nàng xa lánh mẹ, xin đi học xa, thuê phòng tự túc. Nàng nhờ
chị Trang chăm sóc mẹ, bà không thể nào hiểu được tâm tình con trẻ.
Những đêm thao thức trong phòng trọ một
mình, nàng tự hỏi nguyên nhân gì khiến nàng ngại lập gia đình. Có lẽ mẹ nàng và
chị dâu là nguyên nhân trực tiếp. Nếu nàng không can thiệp thì Trang sẽ mãi mãi
là một thứ ô-sin cho Tòng. Còn mẹ nàng dằn vặt bố nàng khiến ông nhẫn nhịn quá
sức không chịu nổi. Nàng nghĩ nếu lấy chồng, mình sẽ có rơi vào vết xe của mẹ
không? Nàng tự thấy tính cách mình không thể như chị Trang, không thể như mẹ.
Nhưng sau này, khi biết chuyện ông bà ngoại uất ức mà chết vì bị cướp mất nhà
thì nàng hiểu và phân tích rõ tâm lý của mẹ.
Vì nỗi uất ức trong tâm khảm của
bà không giải tỏa được nên bố nàng là nạn nhân, một thứ thùng rác cho bà trút
cơn hận.
Có gì bí mật trong đời sống vợ chồng
khiến nhiều cặp tan vỡ nhanh chóng. Có lẽ hai bên mong đợi nhau quá nhiều so
với thực tế nên dễ thất vọng. Thường thì một cô gái, nếu trong ấu thời coi bố
là thần tượng, khi lấy chồng sẽ phóng chiếu một cách vô thức hình ảnh bố vào
người chồng; nếu anh chồng không đáp ứng đủ những tiêu chuẩn, người vợ dễ sinh
lòng bất mãn, làm tan biến tình yêu ban đầu; cái tình yêu mà theo nàng nên gọi
là tình mê thì đúng hơn; mê thì mau tàn.
Nàng không muốn dính vào những bi kịch
nhỏ-nhặt vô ích ấy. Không lệ thuộc vào ai thì đời sống nhẹ-nhàng, thong-dong.
Có lần, nhớ bố quá, buồn rũ rượi, thì có
đám bạn trung học cũ cả trai lẫn gái rủ đi hộp đêm ; nàng
không tự chế, uống nhiều; bỗng có một đám thanh niên khác say ngất- ngưởng tự
nhiên đến gây chuyện; nhà hàng ra can thiệp không được, họ còn có thái độ sàm
sỡ với phái nữ. Men rượu đang bừng-bừng, nàng tung nhu đạo quật ngã từng
thằng, cũng may cảnh sát đến kịp. Nhà hàng làm chứng, nên bọn nàng thong thả ra
về. Từ đó nàng vang danh với biệt danh “Milana
judo”. Có cô bạn nói : “Lão nào mà còn
dám lấy con Milana”.
Nàng quyết định âm thầm nộp đơn thi làm
phi công, mong hưởng những giờ phút gay cấn trên bầu trời bao la. Nàng luyện
nhu đạo hàng ngày giữ cho thể lực ổn định. Cám ơn bố đã cho con học võ để có
lòng tự tin trước những nghịch cảnh.
Khám tổng quát tâm lực và thể lực đều
tốt, nhưng một sự cố xảy ra. Bác sĩ cho biết Test về đường hô hấp ở một cao độ
có vấn đề, dường như nàng thở khó khi lên cao.
Nàng về leo dốc cao dần, quyết tâm luyện tập tự chữa bệnh. Nàng nghĩ ta sẽ qua Nepal gần Hy Mã Lạp Sơn, sống ở độ cao mấy ngàn mét để tập luyện cho buồng phổi quen với không khí trên cao. Nhân vụ động đất đang diễn ra tại đây, nàng quyết định kết hợp hai việc. Khoảng đầu tháng sáu năm 2015 nàng đã theo đoàn HTT bay qua thủ đô Kathmandu. Nàng được phân công làm trong ban lập bản đồ cứu trợ bằng kỹ thuật số gọi là “crisis mapping”, nhưng tùy nhu cầu hiện trường, phải đi phát quần áo, thuốc men, thực phẩm, coi sóc trẻ em lạc cha mẹ...
***
Nàng tỉnh giấc, đảo mắt nhìn chung quanh, trời có lẽ gần trưa;
không phải một căn phòng hay một căn nhà, mà là một kiểu nhà tiền chế tạm dựng
lên; có chừng ba chục giường đơn xếp thành ba hàng; mỗi giường có một người
nằm. A ! hoá ra là một bệnh xá dã chiến. Nàng ngóc đầu tính ngồi dậy; bỗng có
bàn tay đỡ lấy vai nàng, một giọng nữ với tiếng Anh khá trôi chảy : “Xin cô vui lòng từ từ ngồi dậy”.
Một phụ nữ gầy-guộc, gương mặt xạm đen,
một tay ôm vai nàng, tay kia đỡ sống lưng nâng nàng ngồi trên giường.
Nàng ngạc nhiên hỏi : “ Có phải tôi bị
thương không” ? “ Không phải, cô đang trong đoàn đi cứu trợ nạn nhân động đất,
thì bỗng té ngất xỉu, sốt cao mê man ba ngày rồi, may quá cô đã tỉnh, để em hâm
chén cháo nóng cho cô nhé”.
Người phụ nữ chắc khoảng ba mươi, trạc
tuổi nàng, mặc đồng phục y tá, đi xuống cuối căn nhà nơi để máy microwave và
chén bát. Những bệnh nhân khác, người thì ho, người thì rên. Nàng mắc cỡ, tự
trách cái thói kiêu ngạo của mình, dương dương tự đắc đi giúp người ta,
mà bây giờ hóa ra người ta lại phải giúp mình.
Nàng nhớ lại khi theo đoàn cứu trợ nạn
nhân trên một sườn núi vừa bị một trận tuyết lở cuốn phăng nhà cửa, nàng quên
bẵng mình bị bệnh khó thở trên độ cao, thành ra ngất xỉu bất ngờ. Đã thất bại
trong ý định làm phi công, bây giờ lại thất bại trong việc đi cứu trợ, không
xấu hổ với chính mình sao được ?
Cô y tá người Nepal bưng chén cháo lại,
cầm muỗng tính múc cháo cho nàng. Cử chỉ của cô ta dịu dàng làm sao, nàng xúc
động đỡ lấy chén cháo, nói : “Cô tên gì? Cám ơn
cô đã chăm sóc tôi mấy ngày nay, đây là bệnh xá khẩn cấp phải không? “Em tên
Trisha. Phải, bệnh xá cũ bị sụp đổ trong kỳ động đất đầu tiên, bao nhiêu dụng
cụ y tế bể nát hết, giường bệnh cũng hư hại” “Chính phủ lập ra bệnh xá dã chiến
này phải không?” “Không phải chính phủ, mà một ông Mỹ giàu bỏ tiền giúp dựng
nên, may là cũng tạm cho mấy chục bệnh nhân, nhưng còn nhiều nạn nhân
khác lắm cô ạ. Em nghe nói ông Mỹ sẽ giúp chính phủ xây lại bệnh xá này”.
Nàng nghĩ, người Mỹ hào phóng. Nàng lại
cảm thấy mình bất lực, bao nhiêu kiến thức khoa học lý thuyết của nàng chẳng
giúp gì được trong việc này. Tiền, phải có tiền mới mua thêm thuốc, thêm
giường, xây lại bệnh xá, tuyển thêm y tá... Trisha nói : “Em
không phải y tá, chỉ là y công thôi, những y tá giỏi phải đi các bệnh
viện lớn có bệnh nhân nặng. Người ta cho em ở đây chăm sóc bệnh nhẹ, nhưng ngay
cả bệnh thông thường cũng thiếu thuốc. Cô bị sốt mấy hôm mà cũng không có đủ
liều Tylenol cho cô đấy; ông Mỹ phải bay sang New Delhi mua sắp về tới”.
Nàng thấy lòng bồi-hồi xao-xuyến thầm
nghĩ sao có người tận tụy như thế. Ăn chén cháo nóng, nàng cảm thấy khỏe ra,
thể lực nàng vốn sung mãn mà. Nàng nói : “Cám
ơn em, tôi không sao, khỏe lại rồi, chắc mai đi làm lại”. Trisha rối
rít xua tay : “Không được, không được, hôm qua
bác sĩ ghé thăm nói cô phải uống ba ngày thuốc nữa, không phải chỉ thuốc sốt mà
thuốc về phổi. Chờ mai ông Mỹ mang thuốc về đã”.
“Xin lỗi, em có gia
đình chưa?” “Cha mẹ em chết vì bệnh mấy năm nay, chồng em mới chết trên núi
trong kỳ động đất đầu tiên, bây giờ chỉ còn hai mẹ con, con gái em mới có mười
tuổi”. Nàng bỗng nghẹn ngào,
hai giọt nước mắt lăn trên gò má : “Trisha
tội nghiệp quá, cho tôi gặp cháu bé được không, mà tên cháu là gì” “Dạ ,
Kanchan, cháu sắp đi học về tới”.
Một bé gái từ ngoài cửa bước vào chào
bằng tiếng Nepal, Trisha nói: ‘ Đây là con
gái của em, Kanchan, con chào cô đi”. Bé gái ốm tỏng ốm teo, mặt trái
soan đẹp nhưng da xanh mét, hai mắt tròn như mắt bồ câu nhưng quầng mắt thâm,
hẳn là cháu thiếu ăn. Mịlana bỗng cảm thấy trong đáy sâu hồn mình một bản năng
mẫu tử nhú lên; nàng đã ba mươi tuổi mà chưa lập gia đình trong khi bạn bè cùng
lớp đứa nào cũng tay bế tay bồng. Nàng xúc động bất giác đưa hai tay : “ Cho cô bế cháu nhá”. Trisha
đẩy nhẹ Kanchan lại gần, Milana ôm lấy bé tuồng như ôm con đẻ của mình.
Trisha kể dòng tộc cô thuộc tầng lớp
Dalits là tầng đáy cùng xã hội Nepal, bao nhiêu đời ông cố, ông nội, bố cô chỉ
làm nghề gánh phân quét cầu tiêu , đói rách, khổ cực , nhục nhã. Mấy chục
năm nay, tuy chính phủ có luật bãi bỏ đẳng cấp xã hội, nhưng luật pháp là môt
chuyện, còn truyền thống xã hội vẫn mạnh mẽ; tầng lớp Dalits cũng đuọc đi học
nhưng chỉ học được đến một cấp nào thôi, không thể học để làm lớn trong xã hội
được. Khi Trisha học đến lớp 9 thì cha mẹ cô chết vì nghèo đói bệnh tật,
cô phải xin vào bệnh xá làm chân lao công quét dọn cầu tiêu, giặt giũ
quần áo bệnh nhân, tấm ra trải giường... được cho ở dưới chân cầu thang. Mỗi
tháng cô được trả lương tính ra khoảng một trăm đôla.
Cô thích học lắm, nên dù không đến trường, cô
vẫn tự học nên tiếng Anh cũng khá, kín đáo học hỏi nghề y tá, các cách lấy
nhiệt độ, đo huyêt áp, cân sức nặng, tên thuốc...Trong bệnh xá, không ai ngờ
con bé thông minh, chiụ khó . Một hôm bỗng có phái đoàn y tế Liên Hiệp
Quốc đến thăm bệnh xá quận để xét viện trợ, đi thăm mấy bệnh nhân; con bé
mười bảy tuổi nhanh nhẩu thông dịch . Từ ngày đó, Trisha được ưu đãi hơn, lương
tăng lên hai trăm đô la một tháng, không phải quét cầu tiêu, mà phụ cho các y
tá.
Milana nói : “Tôi
thích bé Kanchan lắm, nếu tôi nhận cháu làm con nuôi thì em có bằng lòng
không?”. Qua một giây sửng -sốt, Trisha quỳ xuống ôm lấy chân nàng : “Xin cảm ơn cô, nếu cô đỡ đầu cho cháu thì em đội
ơn cô suốt đời”
“ Vậy khi tôi khỏi
bệnh, chúng ta sẽ ra luật sư làm giấy tờ nhá”.
Sáng hôm sau, Trisha báo ông Mỹ bảo trợ
sẽ từ New Delhi về vào buổi chiều. Milana cảm thấy xốn-xang trong lòng, ông ta
sẽ mang thuốc phổi về cho ta theo toa bác sĩ. Ôi con người hào phóng và tận tụy
biết bao.
Buổi chiều, Milana thấy bác sĩ giám đốc
đi cùng một thanh niên trạc bốn mươi có Trisha theo sau đến từng giường
bệnh thăm hỏi. Thanh niên này không phải là người da trắng, có vẻ như người Á
châu; không lẽ anh ta là người sẽ xây tặng chính phủ Nepal một bệnh xá mới
?
Khi ba người đến chỗ nàng, người thanh
niên reo lên vui mừng bằng giọng Mỹ chuẩn : “Hay
quá, cô Milana đã tỉnh táo rồi, tôi đã mang thuốcsưng phổi từ New Delhi về;
theo bác sĩ cho biết, phổi của cô có chút khiếm khuyết bẩm sinh đễ bị mất hơi
thở khi lên độ cao; vừa rồi cô lên sườn núi cao, lạnh quá nên sưng phổi
khiến lên cơn sốt, uống thuốc vài ngày sẽ hết”.
Nàng lúng túng nói lời cám ơn; Trísha
nói : “Thưa cô Milana, đây là ông Alex từ Mỹ
qua hứa sẽ xây tặng bệnh xá mới cho dân Nepal đấy”.
Thiệt tình, mấy bữa nay nàng cứ tưởng ông Mỹ hào phóng là một ông già da trắng với khuôn mặt hiền hậu, hóa ra lại là một thanh niên trẻ măng gốc Á. Trisha cứ thấy ai từ Mỹ qua thì gọi là ông Mỹ!
***
Sau khi bình phục, Milana dẫn mẹ con Trisha lên thủ đô Kathmandu
gặp luật sư làm giấy tờ nhận con nuôi, mua sắm thực phẩm, quần áo sách vở cho
bé Kanchan, vào trường học gặp ông hiệu trưởng và cô giáo cho biết cô là mẹ
nuôi của bé. Nàng biết xã hội Nepal từ ngàn xưa phân chia bốn đẳng cấp tùy theo
dòng tộc chứ không theo tài năng đức độ. Hai giai cấp Ba-La-Môn và
Sát-Đế-Lị nắm những chức vụ cao cấp thống trị; giai cấp Vệ-Xá làm nghề nông,
buôn bán; giai cấp Thủ-Đà-La làm đầy tớ hầu hạ ba hạng trên; hạng cuối
cùng bị coi như ngoài xã hội gọi là hạng Dalits, chỉ được làm những việc hạ
tiện như gánh phân, quét cầu tiêu.
Mặc dù từ năm 2008 nước Cộng Hòa Dân Chủ
Liên Bang Nepal đã phế bỏ chế độ quân chủ, ban hành hiến pháp bãi bỏ sự
phân chia giai cấp, nhưng trên thực tế, người thuộc dòng tộc hạ tiện bao đời
vẫn bị giai cấp trên theo huyết thống khinh rẻ. Milana cố ý vào trường để nâng
cao giá trị của hai mẹ con Trisha trước mặt ban giảng huấn và cả lớp học trò,
hy vọng bé Kanchan đỡ bị khinh rẻ.
Tuy bận rộn cả tháng trời vừa lo cho hai
mẹ con, vừa làm công tác cứu trợ, nhưng trong tâm nàng cứ vơ vẩn hình
bóng chàng trai Alex. Nàng cảm thấy Alex có nhân cách khác với những anh chàng
mà nàng quen từ xưa.
Việc cứu trợ càng ngày càng khó khăn và
phức tạp vì số người chết lên tới cả chục ngàn, bị thương cả hơn hai chục ngàn,
thêm những cơn hậu chấn nữa thật vô cùng đáng thương cho dân chúng , nhất là
đám con nít mất cha mất mẹ. Bé Kanchan mặc dù bố chết, được may mắn có
nàng cưu mang cho ăn uống bồi bổ. Một tháng trôi qua, nàng tới bệnh xá thì
Trisha hớn hở dắt Kanchan ra chào; ôi, trông nó đã có da có thịt đẹp đẽ trong
bộ quần áo mới, bé nhảy vào lòng nàng ôm chặt lưng nàng gọi mẹ; nàng cảm động
rơm-rớm nước mắt, tự nhiên nhớ mẹ mình đang cô đơn lủi thủi trong nhà
vắng bố. Nàng đã hết giận bà rồi sau khi hiểu tâm lý mẹ. Nàng nhủ thầm, tối nay
phải gọi về cho mẹ.
Hóa ra nàng đã ở Nepal gần ba tháng rồi.
Nàng dọ hỏi Trisha : “Em có tin tức gì về ông
Mỹ bảo trợ không? “Dạ có, ông vửa báo cho bác sĩ giám đốc là đã chuẩn bị
tiền bạc mang qua tiến hành xây bệnh xá mới, em mừng quá cô ạ; mấy tuần nay số
bệnh nhân tăng nhiều quá mà không đủ chỗ chứa, thât khổ”
Trí óc nàng xoay chuyển nhạy bén, nàng
nghĩ ngay, mình phải giúp chàng một tay xây dựng bệnh xá cho lẹ kịp đáp ứng nhu
cầu. Nàng bảo Trisha khi nào ông Mỹ đến thì báo cho nàng ngay.
Quả nhiên, đúng như nàng nghĩ, Alex mừng
rỡ chấp nhận ngay đề nghị hỗ trợ của nàng : “Chính
tôi đang cần một người thay mặt tôi điều hành việc xây cất, vì công việc của
tôi ở Mỹ quá bận; tôi tin tưởng cô lắm ngay từ khi biết cô ở bệnh xá, là
thiện nguyện viên của Hồng Thập Tự. Cô sẽ thay tôi quản lý tiền bạc trả
lương nhà thầu, kiểm soát đôn đốc công nhân; bản vẽ tôi đã trình ông giám đốc
theo phác họa của ông. Ngày mai tôi sẽ làm giấy tờ rõ ràng ủy quyền cho cô làm
trưởng công trình”
Chàng nói một hơi giống như một ông
tướng phác họa chiến dịch hành quân. Nàng hồi hộp tự nghĩ không hiểu sao chàng
lại tin tưởng nàng đến thế dù chưa bao giờ nàng làm công việc này. Nhưng nàng
tự nhủ, cưỡi lưng cọp rồi, phải ráng tự học hỏi mọi cái mới, mình thừa sức hoàn
thành việc chàng giao phó.
Trưa hôm sau Alex mời ban giám đốc, hai
mẹ con Trisha cùng Milana dự bữa ăn trưa tại thủ đô trong một nhà hàng sang
trọng. Chàng giới thiệu Milana, từng tốt nghiệp cao học vật lý học, đang
làm việc trong một công ty Network Mỹ, nghỉ việc qua Nepal giúp cứu
trợ nạn nhân động đất; nàng sẽ thay mặt chàng làm trưởng công trình xây
cất bệnh xá. Ban giám đốc đều biết nàng vừa ra khỏi bệnh xá vì ngã bệnh trên
sườn núi. Họ vỗ tay chúc mừng nàng, hứa sẽ cộng tác trong việc xây cất cho mau
hoàn thành.
Alex mời riêng nàng đến một quán nước,
giở bản vẽ bệnh xá chỉ dẫn tổng quát; chàng sẽ trông coi giai đoạn đầu trước
khi về Mỹ. Tất nhiên nàng sẽ lãnh lương theo tiêu chuẩn Mỹ.
Milana hỏi : “Anh
làm nhà thầu xây cất ở bên Mỹ sao?” “Hơn mười năm nay tôi làm trong một
công ty mua bán cơ sở dưỡng lão và dưỡng trí viện. Tôi quen vơi việc sửa chữa
nhà cũ, tân trang và bán lại. Hiện công ty của tôi đang quản lý năm cơ sở trong
năm tiểu bang, với khoảng chừng năm trăm nhân viên. Tuần nào cũng bay
đi bay lại năm tiểu bang điều hành công việc; mỗi cơ sở có chừng trăm giường
cho trăm bệnh nhân, với hàng chục y tá, nhân viên linh tinh nên công việc khá
phức tạp. Mặc dù tôi đang ở đây nhưng vẫn làm việc với ban quản lý của năm cơ
sở để kịp thời giải quyết những sự cố bất ngờ”
“Công việc vất vả thế
anh phải có phụ tá chứ? Chàng cười dòn “ Cô rất
thông minh, tôi đang tìm phụ tá, là cô đấy”.
Nàng dè dặt nói : “Tôi
xin lỗi tò mò, vì thắc mắc lâu nay rồi, có phải anh là người Việt không? “Vậy
chắc tôi trông giống Đại Hàn rồi. Tôi sinh năm 1980 tại Mỹ, bố mẹ tôi vượt biển
năm 1978 từ Sài gòn, không hiểu sao nhiều người cứ tưởng tôi Nhật hay Đại Hàn,
chắc là mắt sắc lắm, nhưng nhìn cô tôi biết ngay là người Việt”.
Bất ngờ, nàng nói tiếng Việt, thấy giọng
mình như có vẻ trách móc : “Anh biết vậy, sao
không nói tiếng Việt với em, em kém anh đến năm tuổi”.
Hai người cười vui, tưởng như quen nhau
từ lâu lắm. Alex đưa nàng đến nhà băng làm thủ tục chung trương mục để nàng chi
tiền dễ dàng. Nàng kinh ngạc thấy số tiền mấy trăm ngàn đô-la. Chàng nói bằng
tiếng Việt khá rõ : “Anh có ba căn nhà
cho thuê, vừa về Mỹ bán đi một căn lấy tiền xây bệnh xá” “Anh chưa biết em
nhiều mà để em quản lý nhiều tiền thế, không sợ em tiêu hết sao?” “Anh có mắt thần, nhìn người rõ lắm, em sẽ là phụ tá
tốt của anh”
Tự nhiên chàng kể về gia đình mình. Mẹ chàng
vốn là cô giáo dạy môn văn chương Việt Nam thường kể cho chàng nghe nhiều
chuyện cổ tích; bố chàng lại thiên về môn sử, hay kể truyện Tàu như Đông Châu
Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng, Tam Quốc Chí, Anh Hùng Lương Sơn Bạc... Khi vào
thương trường cạnh tranh,giao dịch đối phó với nhiều hạng người, trải qua bao
lần vỡ nợ, ngã bệnh vì làm việc quá sức, vì áp lực mạnh của công việc...mới
thấy những bài học mà bố chàng kể qua những câu chuyên lịch sử thật là quí giá giúp
chàng vươn lên từ những thất bại.
Hấp dẫn nhất là chuyện thực về cụ cố của
chàng; cụ sinh năm1890 ở một làng quê Bắc Việt, nhà nghèo, học được ít chữ Nho,
không biết chữ Quôc ngữ, lớn lên bị anh em cùng họ khinh bỉ, chịu nhiều sỉ
nhục; khi cha mẹ lần lượt qua đời khoảng 1910, cụ bỏ làng đi làm lính trong
chiến khu Yên Thế của cụ Hoàng Hoa Thám chống Pháp. Năm 1913 cụ Đề Thám bị Pháp
giết, chiến khu tan rã, lính của cụ Đề tản mát mỗi người một phương. Cụ cố lưu
lạc về tỉnh Thái Bình, tứ cố vô thân, xin tạm trú trong môt làng ven tỉnh.
Dân làng này có thói quen khinh bỉ người
lạ, gọi họ là dân ngụ cư, tức là
dân thất cơ lỡ vận đi ở đợ đây đó. Cụ cố phải dựng một túp lều bên ngoài lũy
tre làng, gần nghĩa địa. Có vài ba dân làng thuộc loại cùng đinh trong làng tỏ
ra thương hại người cùng cảnh ngộ, giúp cụ cố những vật dụng lặt- vặt. Cụ cố
sinh sống bằng nghề buôn tạp hóa; hàng tuần gánh đôi bồ bằng đòn gánh lên chợ
huyện mua đồ kim chỉ về bán trong chợ làng. Đường lên huyện phải qua một
khúc sông mà cái dốc từ bến thuyền lên mặt đê cao lắm; những hôm trời mưa trơn
trượt rất vất vả gánh đôi bồ lên. Cụ cố người lùn nhỏ mà rất khỏe, gánh đôi bồ
nặng mà leo được; có lẽ nhờ lao động quen và được huấn luyện võ nghệ
trong chiến khu.
Cụ buôn bán nhỏ, ba cây kim sợi chỉ, chả
ai thèm để ý; nhưng thực ra cụ kiếm lời nhiều lắm; dành giụm nhiều năm để dành
đươc một số vốn; tung tiền lấy cảm tình của dân làng; trong vòng mười năm mua
được môt khoanh đất trong làng.
Cụ giúp đỡ mọi người thiếu ăn thiếu mặc,
trả ơn những dân làng trước kia đã giúp cụ; những dịp giỗ Tết trong làng cụ đều
hào phóng đóng góp nhiều tiền. Hai mươi năm qua đi, cụ đã thành một ông địa chủ
có tiếng phúc đức, không hề bóc lột của ai để trở nên giàu có. Năm đói Ất Dậu
1945, cụ cầm cố cho những nhà nghèo với giá rất rẻ cho những đồ thờ cúng, tủ
bàn, trâu bò.. Khi nạn đói qua đi cụ trả lại hết; dân làng đều hàm ơn cụ. Đến
những năm 1953-54, khi xảy ra những cuộc đấu tố địa chủ, chính những thành phần
cùng đinh trong làng đã báo cho cụ biết trước để cụ kịp thời trốn lên tỉnh lánh
nạn, bỏ lại hết nhà rộng, vườn ruộng di cư vào Nam, cuối đời lại tay trắng.
Alex nói : “Bố
anh kể lại cụ cố giỏi võ lắm, hàng đêm đều dùng đòn gánh làm đao kiếm tập
luyện, nhưng cụ giấu tông tich, trong mấy chục năm không ai biết là lính của cụ
Đề. Cụ cố đã đi từ tay trắng làm nên sự nghiệp do cần cù tiết kiệm khéo léo
không ai ghen ghét. Anh coi cụ cố như thần tượng trong đời, đã về Việt
Nam thăm ngôi làng nơi cụ sinh trưởng từ thế kỷ trước. Bản thân anh cũng đi từ
tay trắng vì cha mẹ anh đến Mỹ có tiền bạc gì đâu”.
Milana tỏ vẻ kinh ngạc : “Anh đã về Việt Nam à? Em thì muốn về thăm quê ngoại
ở cù lao An Bình tỉnh Vĩnh Long, nhưng nghe mẹ em kể ngôi nhà ba tầng của ông
bà ngoại ở Sài Gòn bị chính quyền cộng sản vu cáo là tư sản bóc lột, cưỡng
chiếm mất rồi, còn nhà đâu mà về?.
“Khi nào xong việc, anh sẽ đưa em về thăm quê ngoại nhá”
***
Milana gọi về thăm mẹ. Bà nói : “Nửa
năm rồi con không về thăm mẹ, mẹ nhớ con lắm; chị Trang đã kể hết chuyện con
rồi; mẹ có lỗi với bố con nhiều, con đừng giận mẹ nữa”. Milana nghĩ
đến bé Kanchan; ô, chỉ là con nuôi mà mình còn thương, huống hồ mẹ đẻ, tình mẹ
sâu thẳm làm sao đo lường được. Người mình thường nói “nuôi
con mới biết lòng cha mẹ”.
Nàng nghẹn ngào trả lời : “Nhiều đêm suy nghĩ về số phận ông bà ngoại, con đã
hiểu và hết giận mẹ lâu rồi, nhưng con đang bận
ở Nepal trông coi xây dựng lại một bệnh xá bị tàn phá trong động đất nên chưa
về Mỹ được. Khi nào gần xong con sẽ về thăm mẹ, sẽ dành cho mẹ một ngạc nhiên”.
Nàng cũng nhận được email của ba bạn
trai, Bennett, Darius, Liệt. Cả ba đều có ý mong gặp nàng vì
lâu không thấy nàng liên lạc. Bennett khoe vừa được nhận vào làm tại NASA;
Darius báo sắp trình tiểu luận cao học mời nàng tham dự, sẽ bàn tiếp với nàng
về đề tài trước kia sau khi nghiên cứu kỹ hơn; còn Liệt xin lỗi nàng về thái độ
khiếm nhã.
Nàng trả lời chúc mừng Bennett, hứa với
Darius sẽ tham dự, cám ơn Liệt nhưng không hứa gặp lại.
Cho tới lúc này nàng mới nhìn rõ tâm
mình kể từ khi nàng gặp Alex.
Quả thật, nàng “lạnh” với
ba bạn kia, tuồng như nàng là một người nam như họ; nhưng với Alex, nàng cảm
nhận mình là một người nữ.
Trong ba tuần lễ đầu khởi công, chàng và nàng gần như suốt ngày bên nhau; chàng chỉ dẫn cặn kẽ từng việc theo dõi nhà thầu và công nhân. Khi ra phi trường tiễn chàng về Mỹ, hai người từ biệt, ôm nhau theo lối Mỹ give me a hug, nhưng lần đầu tiên trong đời, nàng cảm thấy muốn được chàng ôm siết, ôm mãi.
***
Sau lễ khánh thành bệnh xá mới, Trisha được ban giám đốc chính
thức đề cử đi học khóa y tá, cũng một phần do Alex đề nghị. Milana bay về thăm
mẹ.
Bà nói : “Con
nói sẽ dành cho mẹ một ngạc nhiên, là gì vậy?” “Con đã có đứa con gái”.Thấy
mẹ biến sắc mặt, lộ vẻ kinh hoàng : “Cái
gì? Có con với ai”? “Dạ, với Ông Trời, mới sinh ra đã lớn phồng thành trẻ mười
một tuổi, như Phù Đổng Thiên Vương”. Nàng cười ròn-rã, đưa mẹ
coi tấm hình nàng chụp với Trisha và bé Kanchan. Nàng kể lại đầu đuôi sự
việc. Bà tươi tỉnh, mừng rỡ nói : “ Vậy
con bảo lãnh nó qua Mỹ đi cho mẹ có cháu ngoại vui nhà”.
“Bé phải ở với mẹ nó cho
hết bậc trung học rồi con mới bảo lãnh cho nó qua học đại học, nhưng hè sang
năm con sẽ cho nó qua du lịch thăm bà ngoại”
Điện thọai reo, tiếng Alex vang lên ; “Chào Milana, em đã về Mỹ rồi hả? Một tháng nữa anh
sẽ về Việt Nam làm việc cho công ty; nếu em muốn, anh sẽ dẫn em về thăm quê
ngoại Vĩnh Long của em, về cù lao An Bình đó. Cho anh gởi lời hỏi thăm sức khỏe
của bác gái”
Nàng mừng rỡ : “Nếu
có anh dẫn đi thì em yên tâm, em sẽ sửa soạn hành lý”.
Mẹ ngạc nhiên hỏi Alex là ai mà lại
biết cù lao An Bình. Nàng chậm rãi kể cho mẹ nghe mọi chuyện ở Nepal trong năm
vừa qua. Nét mặt bà rạng rỡ tươi vui : “Mẹ
nhớ thời thơ ấu nơi quê xưa, con về thăm quê thay mẹ thì mẹ cũng được an ủi
rồi....Thế...con và anh ấy đến đâu rồi ? ”
Nàng cười thầm, nghĩ “Bà
cụ cứ lo mình ế chồng...nhưng vội vàng mà gặp phải anh chàngkhông hợp
ý thì hỏng một đời, thà ở vậy còn hơn”.
***
Milana về quê được ba tuần thì bà nhận được một bì thư Fedex
chứa một xấp hình chụp Milana và Alex ở cù lao An Bình và nhiều nơi khác. Một
bức thư viết tay của Milana : “Anh Alex đã dẫn
con về quê ngoại Vĩnh Long, đã thăm viếng cù lao An Bình suốt ngày, thuê riêng
một chiếc thuyền đi vòng quanh cù lao, con thích lắm. Khi về Mỹ, chúng con sẽ
trình mẹ là chúng con đã quyết định đi đến hôn nhân, sang năm sẽ tổ chức đám
cưới; anh nói con sẽ là phụ tá suốt đời của anh”.
Bà áp bức thư lên ngực, hai dòng nước
mắt hạnh phúc lăn trên gò má nhăn-nheo.
Đào Ngọc Phong
California ngày 27 tháng 5 năm
2024
No comments:
Post a Comment