Monday, March 26, 2018

Ca Dao Tục Ngữ - Những Câu Bảy Chữ


1.- Biết sự trời mười đời chẳng khó.
2.- Ở có nhân mươi phần chẳng khốn.
3.- Chẳng được ăn cũng lăn lấy vốn.
4.- Hay đi chợ để nợ cho con.
5.- Thấy người sang bắt quàng làm họ.
6.- Của vào quan như than vào lò.
7.- Bọ nẹt chuối đã trào mào ngô.
8.- Vỏ quýt dầy đã móng tay nhọn.
9.- Ăn đã vậy múa gậy làm sao.
10.- Phúc-đức nào cầu ao không bắt.
11.- Bói ra ma quét nhà ra rác.
12.- Gánh vào chợ đội cũng vào chợ.
13.- Con có cha như nhà có nóc.
14.- Gái có chồng như rồng có vỉ.
15.- Diều không cánh mà diều hay bay.
16.- Tiền không chân xa gần đi khắp.
17.- Miệng kẻ sang có gang có thép.
18.- Con nhà tông giống lông giống cánh.
19.- Thuốc chữa bệnh không chữa được mệnh.
20.- Phấn dồi mặt chẳng ai dồi chân.
21.- Việc nhà nước lo trước nghĩ sau.
22.- Miệng nhà giầu nói đâu ra đấy.
23.- Gió chiều nào che mình chiều ấy.
24.- Mưa bao giờ mát mặt bấy giờ.
25.- Cơm mua heo dầu chùa cũng chín.
26.- Miệng đói đầu gối cũng phải bò.
27.- Bò ăn mạ có dạ bò hay.
28.- Lợn trong chuồng thả ra mà đuổi.
29.- Quan thì xa bản nha thì gần.
30.- Chợ chưa họp kẻ cắp đã đến.
31.- Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén.
32.- Kim bọc rẻ lâu ngày cũng ra.
33.- Bồ-lông dài mỏ khó kiếm ăn.
34.- Thờn-bơn méo miệng ăn sôi vò.
35.- Chó chưa cắn đã thìa con ra.
36.- Không có trâu bắt bò đi làm.
37.- Mảnh chồng quan hơn đàn chồng dân.
38.- Một mặt người bằng mười mặt của.
39.- Chê của gì lấy gì làm bữa.
40.- Con chú bác chẳng khác gì nhau.
41.- Trăm cái dui nhằm một cái nóc.
42.- Trăm nhát cuốc giật cả vào mình.
43.- Trống làng nào thời làng ấy thùng.
44.- Đèn nhà ai thời nhà ấy rạng.
45.- Chúa vắng nhà thời gà mọc đuôi.
46.- Bụt trên toà sao gà mổ mắt.
47.- Khôn-ngoan đến cửa quan mới biết.
48.- Giầu có đến ngày Tết mới hay.
49.- Hay chơi dao đến ngày đứt tay.
50.- Ai đội khăn lệch người đó xấu.
51.- Con chẳng khóc mẹ chẳng cho bú.
52.- Cháu bà nội làm tội bà ngoại.
53.- Đường chẳng đi thời đường còn lại.
54.- Mối chẳng rối nói dối cho mua.
55.- Một con cháu bằng sáu người dưng.
56.- Một mẹ già bằng ba con ở.
57.- Giặc đến nhà đàn-bà phải đánh.
58.- Làng được mùa sãi chùa ăn no.
59.- Lắm sãi không ai đóng cửa chùa.
60.- Ăn cơm không biết trở đầu đũa.
61.- Bạc như dân bất-nhân như lính.
62.- Giai ở trại gái ở hàng cơm.
63.- Lon-son nghe con mắng láng-giềng.
64.- Léo-nhéo như mõ réo quan viên.
65.- Được tiếng khen ho hen chẳng còn.
66.- Làm giai cứ nước hai mà nói.
67.- Lôi-thôi như thày bói tìm gậy.
68.- Lúng-túng như thợ vụng mất kim.
69.- Lừ-đừ như ông từ vào đền.
70.- Lôi-thôi như cá chôi lòi ruột.
71.- Nằm chăn mới biết chăn có rận.
72.- Tắt đèn nhà ngói như nhà tranh.
73.- Quan xứ Nghệ lính lệ xứ Thanh.
74.- Cống làng Tô trâu bò làng Hệ.
75.- Chị em gái như trái nhân-sâm.
76.- Gái một con trông mòn con mắt.
77.- Đất vua chùa làng phong cảnh bụt.
78.- Của đời người thế nước non tiên.

Lê Hoàng Ân biên soạn

Xin bổ túc thêm một số câu do Phan Tây Lộc biên soạn
Ăn cơm nhà đi vác ngà voi
Áo mặc sao cho qua khỏi đầu
Bắp Hội An khoai lang Tam kỳ
Bôn ba không qua thời vận
Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm
Chưa đào ao đã lo lấp giếng
Con hơn cha là nhà có phúc
Con không cha như nhà không nóc
Con lên ba mẹ sa xương sườn
Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Đi cới bụt mặc áo cà sa
Đồng tiền đi trước đồng tiền khôn
Gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu
Ghét của nào trời trao của nấy
Khéo bánh tày vụng vầy bánh ít
Không có lửa làm sao có khói
Làm khi lành để dành khi đau
Lù đù vác cái lu mà chạy
Lửa thử vàng gian nan thử sức
Mất lòng trước được lòng sau
Mất trâu rồi mới lo làm chuồng
Miệng nam mô, bụng bồ dao găm
Ngày tháng mười chưa cười đã tối
Nói thì hay bắt tay thì dở
Quen sợ dạ, lạ sợ áo quần

Phan Tây Lộc

No comments:

Post a Comment